Tải bản đầy đủ (.doc) (142 trang)

nghiên cứu sử dụng hợp lý phân hữu cơ kết hợp phân khoáng đối với cây lúa trên đất bạc màu bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 142 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 ht t

p :

/ /

ww w .

l r c

-

tnu .

e du .

v n
LỜI CAM
ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất
kỳ công trình nghiên cứu nào khác từ trước tới nay.
Các thông tin, tài liệu tham khảo sử dụng trong luân văn này đều đã
được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác
giả
TrÇn ThÞ Thu
Tra
n
g
S húa bi Trung tõm Hc liu i hc Thỏi Nguyờn 2 ht t



p :

/ /

ww w .

l r c

-

tnu .

e du .

v n
Li cm
n
Để hoàn thành bản luận văn này, tôi đã nhận đợc rất nhiều sự
giúp đỡ của các thầy hớng dẫn, của cơ quan chủ quản, các cá nhân
trong và ngoài nớc. Tôi xin chân thành cảm ơn:
Phó Giáo s Tiến sỹ Nguyễn Ngọc Nông, Trởng khoa Tài
nguyên Môi trờng - trờng Đại học Nông Lâm Thái Nguyên; Thạc sỹ
Trần Minh Tiến, phòng Phân tích Trung tâm - Viện Thổ nhỡng
Nông hoá, là những ngời thầy đã tận tâm hớng dẫn tôi trong suốt
thời gian tôi thực hiện đề tài.
Ban Giám đốc và tập thể cán bộ Trung tâm Nghiên cứu Đất và
Phân bón vùng Trung du đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Khoa đào

tạo Sau đại học, Khoa Nông học trờng Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên, những ngời đã truyền thụ cho tôi những kiến thức và phơng
pháp nghiên cứu quý báu trong suốt thời gian tôi học tập tại trờng.
Và cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới gia đình,
bạn bè và đồng nghiệp, những ngời luôn quan tâm giúp đỡ trong suốt
thời gian tôi học tập và nghiên cứu vừa qua.
Xin chân thành cảm ơn!
MC
LC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 ht t

p :

/ /

ww w .

l r c

-

tnu .

e du .

v n
Trang phụ bìa Trang
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục………………………………………………………………

Danh mục, các ký hiệu, chữ viết tắt…………………………………
Danh mục các bảng…………………………………………………
Danh mục các đồ thị…………………………………………………
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG
1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Cơ sở khoa học………………………………………………… 4
1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thâm canh lúa………… 5
1.3. Tổng quan về đất bạc màu…………………………………… 8
1.3. Những nghiên cứu về phân bón cho lúa ………………………… 10
1.3.1. Những nghiên cứu về phân bón cho lúa trên thế giới………… 10
1.3.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam…………………………… 16
CHƢƠNG
2: ĐỐI
TƢỢNG,
NỘI DUNG VÀ
PHƢƠNG
PHÁP 28
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………… 28
2.2. Địa điểm và thời gian thực hiện………………………………… 29
2.3. Nội dung nghiên cứu…………………………………………… 29
2.4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………… 30
2.5. Phạm vi nghiên cứu 36
CHƢƠNG
3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUÂN 38
3.1. Điều kiện tự nhiên – Khí hậu thời tiết tỉnh Bắc Giang………… 38
3.2. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp……………………………. 41
3.3. Kết quả điều tra tình hình sử dụng phân bón và năng suất lúa …… 42
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 ht t


p :

/ /

ww w .

l r c

-

tnu .

e du .

v n
3.4. Kết quả sử dụng phối hợp phân hữu cơ và phân khoáng ……… 44
3.4.1. Ảnh hưởng của bón phối hợp phân hữu cơ và phân khoáng đến 44
sinh trưởng, phát triển ………………………………………….
3.4.2. Ảnh hưởng của bón phối hợp phân hữu cơ và phân khoáng đến 53
các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất ……………………….
3.4.3. Hiệu suất sử dụng phân chuồng đối với cây lúa…………. 65
3.4.4. Hiệu quả nông học của việc bón phối hợp …………………… 68
3.4.5. Ảnh hưởng của bón kết hợp phân khoáng và phân hữu cơ đến 73
một số tính chất đất sau thí nghiệm………………………
3.4.5. Ảnh hưởng của bón kết hợp phân khoáng và phân hữu cơ đến 76
cân bằng dinh dưỡng ………………
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
79
4.1. Kết luận 79

4.2. Đề nghị 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO
82
PHỤ LỤC
89
Danh môc c¸c ký hiÖu, c¸c ch÷ viÕt
t¾t
1 Chiều c.cây Chiều cao cây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 ht t

p :

/ /

ww w .

l r c

-

tnu .

e du .

v n
2 §/C
Đối chứng
3 ha HÐcta
4 K
2

O Kali tæng sè
5 Kg Kil«gam
6 N §¹m tæng sè
7 NS h¹t N¨ng suÊt h¹t
8 NSLT N¨ng suÊt lý thuyÕt
9 NSTL Năng suất thân lá
10
NSSVH N¨ng suÊt sinh vËt häc
11
P c.khô Trọng lượng chất khô
13 P1000 h¹t Träng l•îng trªn ngh×n h¹t
14 P
2
O
5
L©n tæng sè
15 P/C Ph©n chuång
16 Lsd
05
Sai khác có ý nghĩ nhỏ nhất khi so sánh ở mức 5%
DANH SÁCH CÁC BẢNG VÀ ĐỒ THỊ
DANH SÁCH CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Một số tính chất lý, hoá học đất trước thí nghiệm 28
Bảng 2.2: Hàm lượng N, P
2
O
5
và K
2

O tổng số trong phân chuồng 28
Bảng 3.1: Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp năm 2006 và dự kiến 42
đến năm 2010 của tỉnh Bắc Giang
Bảng 3.2: Kết quả điều tra lượng phân bón và năng suất lúa xuân 43
năm 2007 tại huyện Tân Yên và Hiệp Hoà, Bắc Giang.
Bảng 3.3: Kết quả điều tra lượng phân bón và năng suất lúa mùa năm 43
2007 tại huyện Tân Yên và Hiệp Hoà, Bắc Giang.
Bảng 3.4: Ảnh hưởng của các công thức phân bón đến chiều cao cây lúa 46
Khang dân 18 trên đất bạc màu Bắc Giang
Bảng 3.5: Ảnh hưởng của các công thức phân bón đến khả năng đẻ 50
nhánh của cây lúa Khang dân 18 trên đất bạc màu Bắc Giang
Bảng 3.6: Ảnh hưởng của các công thức phân bón đến trọng lượng 51
chất khô của cây lúa Khang dân 18 trên đất bạc màu Bắc Giang
Bảng 3.7: Ảnh hưởng của các công thức phân bón đến yếu tố cấu thành 55
năng suất lúa khang dân 18 trên đất bạc màu Bắc Giang.
Bảng 3.8: Ảnh hưởng của các công thức phân bón đến năng suất hạt và 59
năng suất thân lá lúa khang dân 18 trên đất bạc màu Bắc Giang vụ
xuân năm 2008.
Bảng 3.9: Ảnh hưởng của các công thức phân bón đến năng suất hạt và 61
năng suất thân lá lúa khang dân 18 trên đất bạc màu Bắc Giang vụ mùa
2008.
Bảng 3.10: Ảnh hưởng của bón phối hợp phân hữu cơ và phân 64
khoáng với các liều lượng khác nhau đến năng suất lúa.
Bảng 3.11: Bội thu do bón thêm phân chuồng trên các nền phân 66
khoáng
Bảng 3.12: Hiệu suất của bón phân chuồng cho lúa khang dân 18 trên 67
đất bạc màu Bắc Giang
3.12.a: Hiệu suất của bón phân chuồng trên nền bón 100%NPK 67
3.12.b: Hiệu suất của bón phân chuồng trên nền không bón phân 67
3.13: Hiệu quả kinh tế của các mức đầu tư phân bón cho cây lúa 69

khang dân 18 trên đất bạc màu Bắc Giang vụ xuân 2008
3.13.a: Hiệu quả kinh tế trên nền không bón phân khoáng và bón đơn 69
phân chuồng
3.13.b: Hiệu quả kinh tế trên nền NPK và NPK phối hợp với phân 70
chuồng.
Bảng 3.14: Ảnh hưởng của công thức phân bón đến một số tính chất 74
hoá học đất.
Bảng 3.15: Vai trò của phân hữu cơ trong cân bằng dinh dưỡng 77
DANH SÁCH CÁC ĐỒ THỊ
Trang
Đồ thị 3.1: Diễn biến một số yếu tố khí hậu thời tiết tỉnh Bắc Giang 39
(trung bình từ năm 2006 - 2008)
Đồ thị 3.2: Diễn biến một số yếu tố khí hậu thời tiết huyện Hiệp Hoà 40
năm 2008.
Đồ thị 3.3: Bội thu do bón thêm phân chuồng kết hợp phân khoáng 63
so với công thức không bón phân (đối chứng 1).
Đồ thị 3.4: Hiệu quả kinh tế tăng so với công thức không bón phân. 71
Đồ thị 3.5: Ảnh hưởng của các công thức đến độ xốp đất sau thí 75
nghiệm (% so với đất trước thí nghiệm).
1. Đặt vấn đề
Më ®Çu
Cây lúa (Oryza Sativa L) có vai trò quan trọng trong đời sống con người
và là cây lương thực chính cho 1/2 dân số trên thế giới. Có nguồn gốc từ
Đông Nam Á, hiện nay cây lúa đã lan truyền ra nhiều nơi.
Ở Việt Nam, sản xuất lúa gắn liền với sự phát triển nông nghiệp. Kinh
nghiệm sản xuất lúa đã hình thành, tích luỹ và phát triển cùng với sự hình
thành và phát triển của dân tộc. Những tiến bộ của khoa học, kỹ thuật trong
nước và thế giới trên lĩnh vực nghiên cứu sản xuất lúa đã thúc đẩy mạnh
ngành trồng lúa nước ta vươn lên bắt kịp trình độ tiên tiến của thế giới. Đến
nay nghề trồng lúa ở Việt Nam vẫn không ngừng phát triển và có một vị trí

hết sức quan trọng trong nền kinh tế Quốc dân. Đặc biệt từ sau Nghị quyết 10
của TW Đảng ra đời (1988) đến nay, sản xuất lúa ở nước ta đã có những bước
phát triển vượt bậc. Từ một nước thiếu ăn phải nhập khẩu lương thực, hiện
nay nước ta không những sản xuất đủ nhu cầu lương thực trong nước mà đã
trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới sau Thái Lan.
Tuy nhiên, theo định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
diện tích đất dành cho sản xuất lúa sẽ ngày càng giảm. Như vậy để đảm bảo
an ninh lương thực và giữ mức xuất khẩu gạo như hiện nay thì sản lượng lúa
cả nước cần được nâng cao. Song đến nay, mục tiêu tăng sản lượng bằng con
đường mở rộng diện tích canh tác, tăng số vụ/năm không còn tiềm năng khai
thác, giải pháp quan trọng nhất là nâng cao năng suất lúa. Để giải quyết vấn đề
này cần sự đầu tư có chiều sâu vào nghiên cứu, đẩy nhanh công tác triển khai
và ứng dụng khoa hoc kỹ thuật tiên tiến vào thực tế sản xuất. Việc đưa ra các
qui trình kỹ thuật thâm canh đạt hiệu quả cao cả về kinh tế và môi trường theo
hướng sử dụng tối ưu nguyên, nhiên liệu, tài nguyên và tiết kiệm chi phí sản
xuất là rất cần thiết để tiến tới xây dựng nền sản xuất nông nghiệp bền vững.
Tỉnh Bắc Giang có diện tích đất tự nhiên 382.250 ha, nhưng đất dành cho
sản xuất nông nghiệp chỉ có 99.300ha trong đó 38.369 ha là đất bạc màu được
hình thành trên trầm tích phù sa cổ, sản phẩm của lũ tích và quá trình phong
hoá đá cát và đá mắc ma axít [26]. Đặc điểm của loại đất này là có thành phần
cơ giới từ cát pha đến thịt nhẹ ở tầng mặt và chuyển sang thành phần cơ giới
nặng ở tầng sâu. Đất có phản ứng chua, hàm lượng mùn và thành phần dinh
dưỡng nghèo, khả năng giữ nước và dinh dưỡng kém. Chính vì vậy, ổn định
và cải tạo độ phì nhiêu đất là một vấn đề cần được quan tâm. Việc đầu tư
phân bón là một trong những biện pháp quan trọng để giải quyết vấn đề này.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của khoa học trong nước và
thế giới, người nông dân chủ yếu sử dụng phân hoá học với liều lượng cao mà
quên đi vai trò của phân hữu cơ trong sản xuất nông nghiệp. Tính tiện lợi và
hiệu lực nhanh chóng đối với cây trồng của phân khoáng đã làm lu mờ dần
vai trò của phân hữu cơ trên đồng ruộng dẫn đến hàm lượng mùn trong đất

không được cải thiện. Việc sử dụng phân khoáng cao trong điều kiện mùn
thấp dẫn đến sự mất đạm, rửa trôi lân và kali diễn ra nhiều hơn. Do đó sử
dụng hợp lý giữa phân khoáng và phân hữu cơ để tiết kiệm mức đầu tư phân
bón, không làm ô nhiễm môi trường, đảm bảo năng suất và thu được hiệu
quả kinh tế cao, đồng thời duy trì độ phì nhiêu đất, đảm bảo sức sản xuất lâu
bền, tiến tới một nền nông nghiệp bền vững trên đất bạc màu Bắc Giang
chính là vấn đề cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, nhằm bổ sung để hoàn thiện hơn qui trình
kỹ thuật canh tác cho cây lúa trên đất bạc màu, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài:
“Nghiên cứu sử dụng hợp lý phân hữu cơ kết hợp phân
khoáng
đối với cây lúa trên đất bạc màu Bắc
Giang”.
2. Mục đích của đề tài
- Xác định được ảnh hưởng của việc bón kết hợp giữa phân hữu cơ và
phân khoáng đối với sinh trưởng, phát triển và năng suất lúa trên đất bạc màu
Bắc Giang.
- Nâng cao hiệu lực phân bón, tiết kiệm phân hoá học nhằm giảm ô nhiễm
đối với môi trường và tăng hiệu quả kinh tế của cây trồng.
- Kết hợp sử dụng phân hữu cơ và phân khoáng nhằm nâng cao năng suất
lúa trên đất bạc màu Bắc Giang và đảm bảo môi trường bền vững trong sản
xuất nông nghiệp.
3. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. ý nghĩa về mặt khoa học
- Xác định được ảnh hưởng của việc bón phân hữu cơ kết hợp phân
khoáng đối với sinh trưởng, phát triển và năng suất lúa trên đất bạc màu. Trên
cơ sở khoa học đó xây dựng một chế độ bón phân hữu cơ hợp lý và giảm
thiểu lượng phân khoáng bón cho cây lúa tiến tới một nền sản xuất nông
nghiệp bền vững trên đất bạc màu Bắc Giang.

- Kết quả của đề tài làm luận cứ khoa học để đề xuất nghiên cứu tiếp theo.
3.2. ý nghĩa về mặt thực tiễn
Xây dựng được quy trình kỹ thuật bón phân hợp lý cho cây lúa trên đất
bạc màu Bắc Giang.
Những kết quả nghiên cứu của đề tài đạt được sẽ là những tiến bộ khoa
học mới làm cơ sở trong chỉ đạo và sản xuất lúa của Bắc Giang và các địa
phương khác.
CHƯƠNG
1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ
TÀI
1.1. Cơ sở khoa học
Đất bạc màu là loại đất có thành phần cơ giới từ cát pha đến thịt nhẹ ở
tầng mặt và chuyển sang thành phần cơ giới nặng ở tầng sâu. Đất có phản ứng
chua, hàm lượng mùn và thành phần dinh dưỡng nghèo, khả năng giữ nước và
giữ dinh dưỡng kém. Tuy nhiên, trong thực tế sản xuất nông nghiệp những
năm gần đây, các qui trình kỹ thuật thâm canh đang áp dụng thường tập trung
chủ yếu vào phân khoáng mà ít chú ý đến phân hữu cơ (một yếu tố đặc biệt
cần thiết trên đất bạc màu để nâng cao hàm lượng mùn trong đất và tăng khả
năng hấp thu dinh dưỡng của cây trồng). Lượng phân khoáng sử dụng trong
nhiều năm mà không có chế độ bổ sung lượng phân hữu cơ hợp lý nên đã gây
hậu quả là làm giảm hàm lượng chất hữu cơ của đất, rửa trôi các chất kiềm
dẫn đến đất bị chua nhanh chóng và làm sụt giảm nghiêm trọng chất dinh
dưỡng dẫn đến các yếu tố dinh dưỡng trong đất bị thiếu hụt so với nhu cầu đòi
hỏi của cây trồng. Năng suất cây trồng kém xa so với tiềm năng của chúng. Vì
vậy, để đảm bảo an toàn lương thực và nâng cao năng suất lúa trên đất bạc
màu, yếu tố cơ bản là tạo được cho đất một nền hữu cơ - khoáng để có thể bảo
toàn chất dinh dưỡng có sẵn, tiếp nhận có hiệu quả phân bón đưa vào cũng
như cải thiện năng suất lâu dài. Nghiên cứu chiến lược mới trong việc sử dụng
chất hữu cơ như là phân bón trong sản xuất lúa trên đất bạc màu, tác giả Phạm

Tiến Hoàng [18] đã kết luận:
Dùng chất hữu cơ như nguồn phân bón trong sản xuất lúa trên phạm vi
rộng đối với đất bạc màu là điều rất cần thiết.
Trên đất bạc màu nếu không bón phân hữu cơ (phân chuồng) thì không
thể cho năng suất lúa cao dù bón lượng phân khoáng cao, tăng lượng
phân
chuồng bón cho lúa có thể tiết kiệm được phân khoáng.
Trần Thúc Sơn, Đặng văn Hiến (1995) [29] đã kết luận trên đất bạc màu
sử dụng phối hợp phân chuồng với phân hoá học cho hiệu quả rất cao đối với
cây lúa. Bón cân đối giữa phân khoáng và phân chuồng không những giúp cây
sinh trưởng phát triển tốt mà còn nâng cao năng suất cây trồng, nâng cao hiệu
quả sử dụng dinh dưỡng của cây.
Những công trình nghiên cứu nêu trên đã chỉ ra được vai trò cũng như
mối quan hệ giữa phân hữu cơ và phân khoáng đối với cây lúa. Tuy nhiên
trong thực tế vẫn chưa đưa ra được mức bón hợp lý cho năng suất cũng như
hiệu quả kinh tế cao nhất đối với cây lúa trên đất bạc màu, nhưng đó cũng
chính là những cơ sở khoa học để chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này.
1.2. Những yếu
tố
ảnh
hƣởng đến quá trình thâm canh
lúa
1.2.1. Ảnh hưởng của giống đến quá trình thâm canh
Giống cây trồng là yếu tố đầu tư rất quan trọng và có hiệu quả kinh tế cao
của ngành trồng trọt. Do vậy, công tác chọn tạo giống cây trồng rất được quan
tâm. Những năm gần đây, công tác chọn tạo giống đã thu được nhiều kết quả
góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển nông thôn của nước nhà. Hàng loạt
các giống mới được ra đời theo mục tiêu: Năng suất cao, cải tiến chất lượng
nông sản, chống chịu sâu bệnh và các điều kiện bất thuận, rút ngắn thời gian
sinh trưởng và tạo các đặc tính cần thiết cho sản phẩm. Chính vì vậy trong

những năm gần đây tổng sản lượng lương thực của nước ta ngày một tăng
nhanh. Từ một nước phải nhập khẩu lương thực hiện nay chúng ta đã là nước
xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới.
Trong nghề trồng lúa, giống thực sự là một trong những yếu tố quan
trọng quyết định hiệu quả của việc thâm canh. Ở nước ta, việc sử dụng các
giống lúa thuần đã được các nhà khoa học của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông
nghiệp Việt Nam tiến hành nghiên cứu ngay từ đầu thập kỷ 80. Hiện nay
trong sản xuất có rất nhiều giống nhập nội và chọn tạo như: Khang dân 18,
Q5 có năng suất cao, chất lượng tốt thích nghi với điều kiện khí hậu, phù
hợp với cơ cấu cây trồng cho vùng Trung du và miền núi phía Bắc, đặc biệt là
trên đất bạc màu Bắc Giang.
1.2.2 Ảnh hưởng của phương thức gieo cấy đến quá trình thâm canh
* Phương thức làm mạ
Theo Nguyễn Thị Lẫm (năm 2003) thì cây lúa có ba phương thức gieo
cấy: Mạ dược cấy sâu tay, mạ dược cấy nông tay và gieo thẳng hốc [21]. Tuy
nhiên trên thực tế hiện nay tuỳ điều kiện sản xuất đã có nhiều vùng làm mạ
khác với 3 phương thức trên như: cấy mạ non, gieo vãi đều trực tiếp trên
ruộng vẫn cho năng suất cao nếu có biện pháp kỹ thuật thâm canh tốt.
* Thời gian cấy
Thời gian cấy là một yếu tố vô cùng quan trọng nó ảnh hưởng trực tiếp
đến năng suất lúa (Nguyễn Thị Lẫm, 2003 [21]). Tuỳ theo vùng, miền, nhiệt
đô, ánh sáng lượng mưa và đất đai mà chúng ta bố trí thời gian gieo cÊy khác
nhau để tận dụng những cơ hội cho lúa đẻ nhánh, phân hoá đòng, trỗ bông và
chín trong điều kiện tối ưu. Ở miền núi phía Bắc và Trung du Bắc Bộ, đồng
bằng sông Hồng nên áp dụng các khung thời vụ như sau:
Vụ lúa xuân sớm (giống dài ngày): Gieo tháng 11, cấy tháng 12, thu
hoạch tháng 5, 6.
Vụ lúa xuân chính vụ (giống trung bình): Gieo tháng 12, cấy tháng 1,
thu hoạch tháng 5, 6.
Vụ lúa xuân muộn (giống ngắn ngày): Gieo tháng 1, cấy tháng 2, 3 thu

hoạch tháng 5, 6.
Vụ lúa mùa sớm (giống ngắn ngày): Gieo tháng 5, 6; cấy tháng 6,7 thu
hoạch tháng 9,10.
Vụ lúa mùa chính vụ (giống dài ngày): Gieo tháng 6, cấy tháng 7, thu
hoạch tháng 11.
* Mật độ cấy
Mật độ cấy là số cây, số khóm được gieo, trồng trên 1 đơn vị diện tích.
Với lúa cấy thì mật độ được đo bằng số khóm/m
2
, còn với lúa gieo thẳng thì
mật độ được đo bằng số hạt mọc/m
2
. Đối với lúa lai cũng như lúa thuần năng
suất được quyết định bởi số bông/m
2
, số hạt chắc/bông và khối lượng của hạt.
Trong đó, khối lượng 1000 hạt được kiểm soát chặt chẽ bởi yếu tố di truyền
của giống khó điều chỉnh, còn số bông/m
2
mặc dù là yếu tố quan trọng nhất,
song nó lại chịu sự ảnh hưởng rất lớn của mật độ cấy. Nếu mật độ càng cao
(cấy dày) thì số bông càng nhiều nhưng số hạt chắc/bông càng ít. khối lượng
1000 hạt thấp, vì thế cấy dày quá sẽ làm cho năng suất giảm nghiêm trọng.
Tuy nhiên, nếu cấy quá thưa đối với giống có thời gian sinh trưởng ngắn
không thể đạt số bông tối ưu. Để chứng minh điều này, kết quả thí nghiệm về
mật độ thực hiện ở giống Bácưu 64 cho thấy: mật độ 35 khóm đạt 320
bông/m
2
và trung bình đạt 130 hạt/bông, khi tăng mật độ lên 70 khóm thì cũng
chỉ đạt được 400 bông/m

2
và số hạt giảm xuống chỉ còn 73 hạt/bông. Như vậy
khi tăng mật độ lên 2 lần chỉ tăng được 1,25 số bông còn số hạt trên bông lại
giảm tới 1,78 lần (Nguyễn Văn Hoan, 2000 [20])
Vì vậy, khi các khâu kỹ thuật khác được đảm bảo thì chọn mật độ cấy
thích hợp cho từng loại đất, từng giống để đạt được số bông tối ưu mà vẫn
không làm cho bông nhỏ đi, số hạt chắc và độ chắc không thay đổi là điều rất
cần thiết trong thâm canh lúa.
1 2.3. Ảnh hưởng của phân bón đến quá trình thâm canh lúa
Phải nói rằng từ khi con người biết trồng trọt và chăn nuôi thì cũng đã biết
sử dụng phân bón. Khoảng năm 900 trước công nguyên, người La Mã đã biết
sử dụng phân chuồng để bón cho ruộng nho nhằm đạt một năng suất mong
muốn. Năm 1840, Liebig đã cho ra đời tác phẩm “Hoá học đối với Nông
nghiệp và Sinh lý thực vật” (Trích dẫn theo Vũ Hữu Yêm, 1995) [41]. Với
tác phẩm này ông đã khẳng định, tất cả các cây trồng đều cần được nuôi
dưỡng bằng các nguyên tố ở dạng khoáng (vô cơ), từ kết quả nghiên cứu của
ông mà ngành nông nghiệp đã có một bước tiến kỳ diệu.
Hàng năm, sản lượng cây trồng tăng trên thế giới theo tính toán của
IFPRI (1996) là có 80% nhờ vào việc tăng năng suất, trong đó có phần đóng
góp không nhỏ của phân bón (Trích dẫn theo Nguyễn Văn Bộ. 2003) [2]. Rõ
ràng phân hoá học đã thực sự có vai trò quan trọng trong việc cung cấp cho
cây trồng những chất dinh dưỡng cần thiết mà đất không đủ khả năng đáp
ứng, đồng thời góp phần vào việc duy trì độ phì nhiêu đất trong quá trình canh
tác.
Sự ra đời của các giống lúa mới, cao sản, đặc biệt là các giống lúa lai
có tiềm năng năng suất cao đòi hỏi nhu cầu dinh dưỡng là rất cao, gấp 3 lần
các giống lúa cũ (De Dattail, 1984[46]). Sự bón phân mất cân đối là nguyên
nhân chính dẫn đến không phát huy hết tiềm năng năng suất của giống.
Những giống lúa năng suất cao phổ biến hiện nay với năng suất 5 tấn/ha và
lượng rơm rạ tương đương trên 1ha sẽ lấy đi 110 kg N; 105kg P

2
O
5
; 130kg
K
2
O; 14kg Ca; 12kg Mg; 5kg S; 1kg Fe; 2kg Mn; 0,2kg Zn; 0,15kg Cu;
0,15kg, Bo; 250kg Si và 25kg Cl từ đất (Pillai K.G, 1996[54]).
1.3. Tổng quan về đất bạc màu trên thế giới và ở Việt Nam
Trên thế giới tổng diện tích đất bạc màu khoảng 800 triệu ha (chiếm
gần 8% diện tích đất bề mặt của trái đất) và tập trung phần lớn ở vùng nhiệt
đới như: Đông Nam Á, Tây Phi, Trung Nam Mỹ Điều kiện hình thành do
quá trình phong hoá mạnh nên đây là loại đất nghèo dinh dưỡng, độ bão hoà
bazơ thấp. Đất bề mặt cổ, canh tác lâu đời, thành phần cơ giới nhẹ, độ phì tự
nhiên thấp, dung tích hấp thu thấp, khả năng trao đổi cation kém. Loại đất này
được hình thành trên phù sa cổ nơi địa hình đồi núi không bằng phẳng với khí
hậu nhiệt đới và bán nhiệt đới ẩm, lượng mưa lớn, mưa tập trung dẫn đến sự
rửa trôi mạnh mẽ dẫn đến độ phì nhiêu đất ngày càng giảm. Có thể nói rằng
đất bạc mầu là một loại đất xấu bị tác động thường xuyên của nhiều quá trình,
điển hình là quá trình rửa trôi cho nên việc bảo vệ và cải tạo đất bạc mầu là
yêu cầu cấp thiết có quan hệ đến thu nhập và đời sống của hàng triệu nông
dân vùng này (http:/ www, tháng 2/ 2009 [49]).
Diện tích đất bạc mầu ở nước ta phân bố tập trung ở vùng Trung du
miền Bắc và Đông Nam Bộ với diện tích khoảng 2,348 triệu ha, trong đó ở
miền Bắc Việt Nam có diện tích khoảng 221.360 ha (Trần An Phong, 1995,
[25]) được phân ra thành các loại:
Đất bạc mầu trên phù sa cổ
Đất dốc tụ bạc mầu
Đất feralit do trồng lúa biến đổi thành đất bạc mầu
Số liệu tổng hợp về tính chất đất ở vùng đã canh tác của các tác giả Bùi

Đình Dinh(1995), Phạm Tiến Hoàng (1995) [10,18] cho thấy đây là loại đất
chua, nghèo dinh dưỡng toàn diện, thành phần cơ giới nhẹ, cấp hạt sét không
quá 20%, độ xốp thường ở dưới 40%, độ phì tự nhiên thấp: mùn < 1,0%; N:
0,04- 0,08%; P
2
0
5
: 0,02- 0,06%; K
2
0: 0,02- 0,04 %; P
2
0
5
và K
2
0 dễ tiêu thấp
4-6mg/100g đất và 1-4mg/100g đất, dung tích hấp thu thấp và có chiều hướng
tăng ở tầng tích tụ (60- 70 cm), khả năng trao đổi cation kém. Đây là loại đất
có chủng loại vi sinh vật cũng như số lượng vi sinh vật sống trong đất thấp
hơn nhiều so với các loại đất khác (Thái Phiên, 1998; Mai Văn Quyền, 1990
[24 ;27]). Loại đất này thường tập trung ở các tỉnh Trung du miền núi phía
Bắc có mùa hè nóng ẩm mưa nhiều cho nên thường bị tác động của nhiều quá
trình, điển hình là quá trình rửa trôi do mưa lũ cho nên hàm lượng dinh dưỡng
trong đất sẽ ngày càng nghèo kiệt nếu không có biện pháp bón phân cân đối
và hợp lý.
Tỉnh Bắc Giang có 42.897,84ha đất bạc màu (chiếm 11,22% tổng diện
tích đất tự nhiên) nhưng có tới 38.369ha đất bạc màu nằm trong diện tích đất
nông nghiệp (chiếm 38,9% diện tích đất sản xuất nông nghiệp) và phân bố
chủ yếu ở các huyện Lục Nam, Tân Yên, Lạng Giang, Việt Yên và Hiệp Hoà.
Đây là các huyện Trung du đồi núi thấp, phần lớn là ruộng bậc thang có độ

dốc từ 3 -8
0
, trước đây người dân chủ yếu độc canh cây trồng lại không có
biện pháp sử dụng đất hợp lý nên độ phì nhiêu của đất ngày càng bị suy giảm
[26 ]. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Sức, (1995) [31] về tính chất đất bạc màu
ở vùng Bắc Giang đã cho thấy đây là loại đất chua, nghèo dinh dưỡng, thành
phần cơ giới nhẹ, hàm lượng hữu cơ: 0,93%, N: 0,05% ; P
2
0
5
: 0,031%; K
2
0:
0,15%; P
2
0
5
và K
2
0 dễ tiêu thấp: 7,3mg/100g đất và 3,7mg/100g đất, dung
tích hấp thu thấp (9,1meq/100g). Đây là loại đất có số lượng vi sinh vật sử
dụng N khoáng cao hơn nhiều so với số lượng vi khuẩn sử dụng N hữu cơ từ
8,1-10,1 lần. Vì vậy sử dụng phân hữu cơ bón cho cây trồng trên đất bạc màu
chính là biện pháp tăng cường sinh khối của vi sinh vật đất, góp phần điều
hoà một cách hợp lý việc huy động các chất dinh dưỡng trong đất, nâng cao
và ổn định độ phì nhiêu của đất.
1.4. Những nghiên cứu về phân bón cho lúa trên thế giới và Việt Nam
1.4.1 Những nghiên cứu về phân bón cho lúa trên thế giới
Phân bón đã thực sự có vai trò quan trọng trong việc cung cấp cho cây
trồng những chất dinh dưỡng cần thiết mà đất không đủ khả năng đáp ứng,

đồng thời góp phần vào việc duy trì độ phì nhiêu đất trong quá trình canh tác.
Trong các nhân tố tác động đến năng suất cây trồng, dinh dưỡng khoáng
(phân bón) chiếm một vị trí quan trọng dù trong thành phần của thực vật đạm,
lân, kali và các nguyên tố khoáng chỉ chiếm một phần nhỏ so với sản phẩm
quang hợp nhưng nếu thiếu hoặc không đủ dinh dưỡng thì cây trồng không
tích luỹ được chất hữu cơ. Cây trồng nói chung và cây lúa nói riêng các yếu tố
dinh dưỡng thường được cây lấy từ một số nguồn như: từ phân khoáng và
phân hữu cơ bón vào, từ phế phụ phẩm nông nghiệp vùi lại, từ môi trường, từ
đất, nước tưới…
Một số nguồn cung cấp dinh
d
ƣ
ỡng
cho cây lúa
M«i
tr•êng
PhÕ phô
phÈm
Ph©n chuång
N•íc
t•íi
N:P:K
Ph©n
bãn
§Êt
Dinh dưỡng cho lúa cũng được chia ra làm 3 nhóm chính: đa lượng, trung
lượng và vi lượng. Tuy nhiên lượng dinh dưỡng mà cây lúa sử dụng nhiều và
có vai trò quan trọng nhất là các yếu tố dinh dưỡng đa lượng như: đạm, lân,
kali. Nghiên cứu về ảnh hưởng của các yếu tố dinh dưỡng đa lượng đối với
cây lúa các nhà khoa học trên thế giới đã tổng kết như sau:

1.4.1.1. Những nghiên cứu về đạm đối với cây lúa
Đạm là một trong những yếu tố dinh dưỡng quan trọng hàng đầu của cây
lúa, bón phân đạm ít năng suất thấp, bón quá nhiều chẳng những lãng phí mà
còn tác động xấu tới sinh trưởng, phát triển của cây lúa. Đạm không chỉ là
nguồn nitơ mà còn là chất hoạt động sinh lý, nhu cầu đạm của cây lúa có tính
chất liên tục từ đầu thời kỳ sinh trưởng cho đến lúc thu hoạch.
Theo Yoshida.S, (1976) [59] lượng đạm cây hút ở thời kỳ đẻ nhánh quyết
định tới 74% năng suất. Bón nhiều đạm làm cây lúa đẻ nhánh khoẻ và tập
trung, tăng số bông /m
2
; số hạt/ bông, nhưng trọng lượng nghìn hạt (P
1000
) ít
thay đổi. Tuy nhiên lúa có hệ số sử dụng phân đạm trong sản xuất thường
không quá 40%, ở đất có độ phì trung bình để sản xuất ra được 5 tấn
thóc/ha cần bón ít nhất 160N.
Sinh V.K và Bajpai R.P (1990) [56] đã thí nghiệm với nhóm lúa IR50 bón
từ 0-150kgN/ha; 0 - 80kgP
2
O
5
với các tỷ lệ phối hợp, kết quả cho thấy: bón
100kgN/ha cho năng suất lúa cao nhất (4,39 tấn/ha) so với không bón N là
3,42 tấn/ha. Bón 0 - 40 - 80kgP
2
O
5
cho năng suất tương ứng là: 3,35 tấn –
3,86 tấn - 4,00 tấn/ha.
Ernst W.Mutert. (2003) [47] cho rằng trong nền nông nghiệp dựa vào phân.

Bón, bón phân cân đối phải là nền tảng của tất cả các hoạt động, vì sử dụng
phân bón mất cân đối có thể dẫn tới thoái hoá đất và giảm sức sản xuất của
đất. Theo ông. đạm là yếu tố dinh dưỡng phổ biến nhất, vì vậy bón đạm dẫn
đến tăng năng suất rất lớn. Nhưng bón đạm không đóng góp vào việc tăng
cường độ phì đất. Ngược lại sử dụng đạm không cân đối hiện là yếu tố lớn gây
ra sự cạn kiệt dinh dưỡng trong đất.
Ernst W.Mutert và công tác viên đã nhận thấy một xu hướng nhất quán
năng về suất lúa trong mùa khô ở các trại nghiên cứu của IRRI từ năm 1968

1991 ở mức bón đạm 150kg/ha. Tuy nhiên. khi mức đạm bón tăng đến
190kg/ha năm 1992 và 216kg/ha năm 1993, năng suất cao nhất từ các công
thức này cao hơn mức năng suất đạt được vào năm 1989 – 1991 là 40% [47].
Theo Yoshida. S, (1976) [59] thì cây lúa có hai thời kỳ khủng hoảng
đạm: thời kỳ đẻ nhánh và thời kỳ phân hoá đòng (PI). Nếu thiếu đạm ở thời
kỳ đẻ nhánh sẽ ảnh hưởng số dảnh, số bông/m
2
. Thiếu đạm ở thời kỳ PI ảnh
hưởng đến số hạt/bông. Tuy vậy việc cung cấp đạm cho cây lúa còn phụ thuộc
vào khả năng cung cấp đạm từ đất, từ nguồn nước tưới, khả năng cố định đạm
của vi sinh vật
trong đất, của môi trường và phân chuồng. Mức độ cung cấp đạm lại tuỳ thuộc
vào mùa vụ, vụ xuân nhiệt độ thấp khả năng khoáng hoá kém hơn vụ mùa.
1.4.1.2. Những nghiên cứu về lân cho lúa
Lân là loại phân đa lượng rất cần thiết cho cây trồng nói chung và cây lúa
nói riêng. Lân ở trong đất tồn tại dưới dạng hợp chất hữu cơ và hợp chất
khoáng, lân là một loại phân khó tiêu phải có thời gian mới phân huỷ hết và ít
bị rửa trôi.
Qua nghiên cứu Suichi Yoshida, (1976) [59] cho rằng thiếu lân là
nguyên nhân chủ yếu làm giới hạn đỉnh cao năng suất của các giống lúa mới
hiện nay. Khi các giống lúa mới chưa ra đời, ở nhiều nước trên thế giới thấy

bón lân cho lúa làm tăng năng suất không nhiều.
Nhóm tác giả Lafitan, Lafeve Coyouda, Malyc cho rằng ở đất nhiệt đới
do giầu sắt và nhôm nên khi bón lân vào đất, phần lớn lân chuyển sang dạng
khó tan cây lúa không sử dụng được (dẫn Đỗ Ánh 1996 [1]).
Theo Katyal, (1978) các giống lúa mới như IR36 có năng suất 9,8
tấn/ha lấy đi từ đất 31 kg P/ha trong khi đó đất chỉ đáp ứng được 3-11 kgP/ha.
Đồng thời thì hiệu lực của lân phụ thuộc vào giống, tính chất đất đai, hàm
lượng lân dễ tiêu thời kì đầu, điều kiện mùa vụ. Bón lân cho các giống lúa
mới cho bội thu năng suất cao hơn các giống lúa cũ. hiệu lực của lân đối với
lúa mùa khô cao hơn mùa mưa [51].
Ở Philipine, C. M. Duque Sr; R.B. Cagmat and I. O. Mugot, (1998)
[45] đã nghiên cứu về ảnh hưởng của lân đến năng suất lúa và thu được kết
quả trên đất bạc màu năng suất lúa cao nhất ở công thức bón 70 kg P
2
O
5
/ha,
năng suất dạt 5.016kg/ ha. Với lúa, đa số phân lân có hiệu lực rõ và kéo dài
qua nhiều vụ. Bội thu bình quân 5- 6 kg thóc/kg P
2
0
5
trong vụ đầu trên đất
nghèo lân và 2 - 3 kg thóc trên đất có hàm lượng lân khá, hiệu lực tổng số qua
nhiều vụ đạt khoảng 10 kg thóc/kg P
2
0
5
.
1.4.1.3. Những nghiên cứu về kali cho lúa

Kali là một trong 3 yếu tố dinh dưỡng quan trọng đối với cây trồng, kali
là yếu tố phân bón mà cây hút nhiều nhất và nhu cầu kali của cây lúa kéo dài
cho tới cuối thời gian sinh trưởng.
Theo Suichi Yoshida, 1976) [59] lượng kali cây hút có tương quan thuận
với năng suất. Lượng kali cây hút để tạo ra được 1 tấn thóc ở các vùng khác
nhau trên thế giới dao động từ 35 – 50 kg K
2
O, trung bình là 44kg K
2
O trong
đó chỉ khoảng 20% tổng lượng kali cây hút là được vận chuyển vào hạt, lượng
còn lại được tích luỹ trong các bộ phận khác của cây (trong rơm rạ).
Nghiên cứu của H.M. Trung (1994) [60] cho thấy K làm giảm tính mẫn
cảm và mức độ nhiễm của nhiều loại bệnh ở một số loại cây trồng. Tổng kết
1.549 quan sát bệnh nấm, 144 bệnh vi khuẩn và 186 bệnh virus trên nhiều
loại cây trồng ở các điều kiện khác nhau thấy K làm giảm mức độ nhiễm bệnh
của 70 % số bệnh nấm, 69% số bệnh vi khuẩn và 41% bệnh virus.
1.4.1.4. Những nghiên cứu về vài trò của chất hữu cơ đối với độ phì nhiêu
đất
Phân hữu cơ ngoài khả năng cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng do
trong
thành
phần có chứa các yếu tố dinh dưỡng từ đa đến vi lượng, đồng thời
phân
hữu cơ còn có vai trò điều hoà dinh dưỡng trong đất, khắc phục các yếu
tố
hạn chế trong đất, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thâm canh lúa và duy trì
độ
phì nhiêu đất.
Nghiên cứu của F. J. Stevenson, (1982) [58] cho thấy hàm lượng lân dễ

tiêu của đất tăng khi bón hữu cơ vào đất bởi quá trình "chelat" của cation đa
hoá trị với axit hữu cơ và các sản phẩm thối rữa hữu cơ. Chất hữu cơ có vai
trò trong việc điều hoà dinh dưỡng không chỉ đối với lân mà ngay cả với sắt.
Các hợp chất hữu cơ có đặc tính "chelat" đóng vai trò quan trọng trong việc
cung cấp cho thực vật Fe và các nguyên tố vi lượng khác.
Theo K. W. Smilde, (1983)[57] chất hữu cơ đóng vai trò quan trọng
trong
việc giữ nguồn dinh dưỡng, giảm rửa trôi, phân giải mùn, giải phóng dinh
dưỡng dễ tiêu cho cây trồng, tăng lân dễ tiêu, tăng các hợp chất hữu cơ với N,
P, Fe
Vai trò của chất hữu cơ đất trong việc nâng cao độ phì nhiêu và cung cấp
dinh dưỡng, đặc biệt là việc cung cấp đạm cho cây trồng đã được các nhà
khoa học nghiên cứu và đưa ra các kết luận như sau:
A. Q. Laniza, (1965) [44] đã kết luận có khoảng 95% N và S, 20- 75% P
trên lớp mặt của đất nằm trong chất hữu cơ đất.
Trong điều kiện nóng ẩm, cây cối sinh trưởng tốt tạo ra lượng sinh khối
lớn không những phần trên mặt đất mà cả phần rễ cây, đó là nguồn năng
lượng cho sự tổng hợp axit humic. Đất mất chất hữu cơ trở nên cứng chắc do
đó khả năng giữ nước, nước thấm đều kém (F. J. Stevenson, 1982 [58]).
Nghiên cứu về vai trò của chất hữu cơ đối với khả năng hấp thu dinh
dưỡng của cây lúa Liang B. C, (1996) [52], đã nhận xét: Bón phân hữu cơ tạo
thành phức hệ lân - mùn trong đất làm cho lân ở trạng thái cây có thể dùng
được cho dù đất rất giàu Ca, Fe di động, sản phẩm CO
2
sản sinh trong quá
trình phân giải phân hữu cơ còn có tác dụng hoà tan những chất dinh dưỡng
khó tiêu trong đất, nhất là các phốt phát cho cây trồng sử dụng.
1.4.1.5. Vai trò của chất hữu cơ đối với cây lúa trên đất bạc màu
Việc sử dụng cân đối tỉ lệ dinh dưỡng hữu cơ - vô cơ đối với cây trồng
trong sản xuất nông nghiệp là rất cần thiết trên mọi loại đất, nhất là trên đất

bạc mầu nơi mà hệ số sử dụng đất rất cao, lượng phân hữu cơ cần rất lớn
trong khi phân hoá học lại có hiệu suất sử dụng thấp. Theo B.R.Naga; (1985)
[53] việc bón phân hữu cơ ngoài tác dụng cung cấp một lượng dinh dưỡng
cho đất nó còn nâng cao hiệu quả phân khoáng (bón kết hợp phân khoáng với
phân chuồng tăng hiệu quả sử dụng phân khoáng trên đất bạc màu lên 27-
33% so với không phân chuồng). Nghiên cứu chiến lược mới trong việc sử
dụng
chất hữu cơ như là phân bón trong sản xuất lúa tác giả B.R.Naga, (1985)
[53] đã nhấn mạnh:
- Dùng chất hữu cơ như nguồn phân bón trong sản xuất lúa trên phạm vi
rộng là điều rất cần thiết.
- Muốn đạt được năng suất lúa tối đa cần kết hợp phân khoáng với phân hữu
cơ.
- Cần tuyên truyền rộng rãi việc sử dụng phân hữu cơ trong sản xuất lúa.
Sử dụng cân đối tỉ lệ dinh dưỡng hữu cơ - vô cơ đối với cây trồng trong
sản xuất nông nghiệp là rất cần thiết trên mọi loại đất, nhất là trên đất bạc mầu
nơi mà hệ số sử dụng đất rất cao, lượng phân hữu cơ cần rất lớn trong khi
phân hoá học lại có hiệu suất sử dụng thấp
1.4.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Đối với sản xuất nông nghiệp Việt Nam, phân bón đóng một vai trò quan
trọng trong việc tăng năng suất. Từ những năm 60 của thế kỷ XX, Việt Nam
đã sử dụng phân bón vô cơ trong nông nghiệp và ngày càng tiến bộ. Đặc biệt
trong những năm gần đây, nhiều giống lúa có tiềm năng năng suất cao, có khả
năng chịu phân rất tốt được đưa vào sản xuất. Hiện nay, Việt Nam là nước sử
dụng phân bón cho lúa tương đối cao so với những năm trước đây do người
dân áp dụng được rất nhiều biện pháp kỹ thuật trong thâm canh.
1.4.2.1. Những nghiên cứu về phân đạm cho lúa.
Cũng như trên thế giới, ở Việt Nam đối với cây lúa, đạm là yếu tố hạn
chế năng suất trên tất cả các loại đất. Trong sản xuất nếu bón đạm ít năng suất
thấp, song bón quá nhiều không những lãng phí mà nó còn ảnh hưởng xấu

đến sinh trưởng, phát triển của cây lúa dẫn đến là giảm năng suất và hiệu quả
kinh tế. Đối với cây lúa đạm có tác dụng trong việc hình thành bộ rễ, thúc đẩy
nhanh quá trình đẻ nhánh và sự phát triển thân lá của lúa dẫn đến làm tăng
năng suất lúa. Do vậy, đạm thúc đẩy cây sinh trưởng nhanh (chiều cao, số
nhánh) và tăng kích thước lá, số hạt, tỷ lệ hạt chắc, hàm lượng protein trong
hạt. Đạm ảnh hưởng đến tất cả các chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển, các yếu tố
cấu thành năng suất và năng suất lúa.
Theo Nguyễn Văn Bộ, 2003 [5], mỗi năm nước ta sử dụng 1.202.140
tấn đạm, 456.000 tấn lân và 402.000 tấn kali, trong đó sản xuất lúa chiếm
62%. Song do điều kiện khí hậu còn gặp nhiều bất lợi cho nên kỹ thuật bón
phân mới chỉ phát huy được 30% hiệu quả đối với đạm và 50% hiệu quả đối
với lân và kali.
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Trọng Thi, Bùi Huy Hiền,
Nguyễn Văn Chiến (2003) [5] cho thấy: trung bình 1 tấn thóc kèm cả rơm rạ
cây lấy đi lượng dinh dưỡng từ đất là: 22,2kg N; 7,1kg P
2
0
5
; 31,6kg K
2
0 và
nhiều yếu tố trung, vi lượng khác.
Thông thường các giống có tiềm năng năng suất cao bao giờ cũng cần
một lượng đạm cao. Theo Bùi Huy Đáp (1980), lượng đạm cần thiết để tạo ra
1 tấn thóc từ 17-25 kg N trung bình cần 20,5 kg [11].
Hiệu suất sử dụng phân đạm ở Việt Nam thường thấp, theo Bùi Huy
Đáp (1985), Vũ Hữu Yêm (1995) đối với lúa hệ số sử dụng phân đạm trong
sản xuất không quá 40% [11] [42]. Ngay trên đất phù sa sông Hồng là loại đất
có độ phì nhiêu cao, điều kiện tưới tiêu thuận lợi, nếu không bón phân năng
suất lúa chỉ có thể đạt được khoảng 3,5 tấn/ha song để đạt được năng suất lúa

5 tấn/ha cần bón 90-120 kg/ha (Theo Trần Thúc Sơn, Đặng Văn Hiến, 1995
[29]). Nghiên cứu của Lê Văn Căn (1968) và Trần Đức Toàn (1988) cũng kết
luận để đạt được năng suất lúa 7 tấn/ha cần bón 180-200 kg N [7], [34].
Đạm cần thiết cho suốt quá trình sinh trưởng, phát triển của cây lúa và
có tính chất liên tục từ khi gieo trồng đến khi chín. Tuy nhiên chúng ta cần
quan tâm nhất 2 thời kỳ đẻ nhánh và làm đòng, đặc biệt là thời kỳ đẻ nhánh rộ
cây lúa hút nhiều đạm nhất. Thông thường lúa hút 70% lượng đạm cần thiết

×