Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ cho việc hội nhập quốc tế của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.85 KB, 36 trang )

A. THÔNG TIN ĐỀ TÀI
Cấp đề tài: Đề tài cấp Bộ
Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS Trần Ngọc Dũng, Chủ nhiệm Khoa Sau đại học, Trường Đại
học Luật Hà Nội
Cơ quan chủ quản: Bộ Tư pháp
Cơ quan chủ trì: Viện Khoa học pháp lý
Năm bảo vệ: 2006
B. NỘI DUNG TÓM TẮT
Kể từ khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện chính sách đổi mới, việc đào tạo đội ngũ cán bộ
pháp luật đã có những bước phát triển vượt bậc cả về số lượng cũng như chất lượng. Các cơ
sở đào tạo cán bộ pháp luật đã không ngừng nâng cao trình độ của các giảng viên, hoàn thiện
chương trình, đổi mới phương pháp, tăng cường cơ sở vật chất để đào tạo và cung cấp cho
đất nước những cán bộ pháp luật có trình độ cao và có năng lực trong các lĩnh vực lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
Tuy vậy, trong quá trình nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng vào đời sống quốc tế,
nhất là hội nhập về kinh tế, nhiều vấn đề, nhiều yêu cầu mới đang được đặt ra trước mắt
cũng như lâu dài đối với đội ngũ cán bộ pháp luật.
Trong quá trình hoạt động của mình, các cán bộ pháp luật được đào tạo trong thời gian
qua đã đạt được nhiều thành công, nhưng khi đối mặt với những đòi hỏi do quá trình hội
nhập khu vực và quốc tế, thì cán bộ pháp luật này chưa đáp ứng được. Nhiều vấn đề liên
quan đến bảo hộ sở hữu trí tuệ, thương mại quốc tế v.v… hầu như mới lạ đối với những
cán bộ pháp luật đã được đào tạo. Việc các doanh nghiệp Việt Nam bị thua kiện trong các
tranh chấp thương mại quốc tế, bị mất các cơ hội đầu tư, mất đối tác kinh doanh…có một
phần là lỗi của những cán bộ pháp luật. Họ chưa đủ năng lực để đối mặt với các thách thức
mới.
Trong bối cảnh đó, việc đào tạo được một đội ngũ cán bộ pháp luật có trình độ cao, có
năng lực toàn diện và phẩm chất tốt để giải quyết những yêu cầu do công cuộc hội nhập
quốc tế đặt ra là một yêu cầu vô cùng bức xúc.
Cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ hợp tác quốc tế là các chuyên gia am hiểu
sâu sắc những lĩnh vực pháp luật liên quan đến hội nhập quốc tế, có kỹ năng giải quyết
các vấn đề đặt ra từ thực tiễn hội nhập quốc tế, am hiểu văn hoá, lịch sử, tập quán, kinh


tế - xã hội của Việt Nam cũng như của các nước và thông thạo ít nhất một ngoại ngữ phổ
biến trên thế giới.
Nghị quyết số 07/NQ-TW của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế đã nhấn mạnh tầm
quan trọng của đội ngũ cán bộ có trình độ cao, có khả năng cạnh tranh với các đối tác
nước ngoài trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực pháp luật. Sự nghiệp đổi mới toàn
diện, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam
đòi hỏi phải đào tạo một đội ngũ cán bộ pháp luật có trình độ cao (cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ),
có đủ khả năng giải quyết những vấn đề to lớn và trọng đại trong thời gian trước mắt cũng
ĐỀ TÀI
ĐÀO TẠO CÁN BỘ PHÁP LUẬT CÓ TRÌNH ĐỘ CAO PHỤC VỤ CHO VIỆC HỘI
NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
như lâu dài, nhất là trong giai đoạn hội nhập quốc tế mạnh mẽ như hiện nay.
Tuy vậy, việc đào tạo được những cán bộ pháp luật có trình độ cao không đơn giản.
Cần phải tìm hiểu những vấn đề thuộc về đến phẩm chất và năng lực của cán bộ pháp
luật có trình độ cao, xác định các tiêu chí của khái niệm này cũng như cách thức để đạt
được những tiêu chí đó. Việc này đòi hỏi sự nghiên cứu, tìm hiểu cả lý luận và thực tiễn,
nhất là quy trình đào tạo cán bộ pháp luật, tìm ra cách thức khắc phục những khiếm
khuyết của quy trình đó.
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích xác định những tiêu chí của người cán bộ
pháp luật có trình độ cao phục vụ yêu cầu hội nhập quốc tế của Việt Nam; và dựa trên
những tiêu chí đó, đề xuất những giải pháp thiết thực, cụ thể nhằm đào tạo những cán bộ
pháp luật đáp ứng những tiêu chí đó.
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO CÁN BỘ PHÁP LUẬT CÓ TRÌNH ĐỘ CAO PHỤC VỤ
HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
1. Bối cảnh quốc tế, khu vực và chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam
Tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế nói trên, Việt Nam đứng trước
những cơ hội thuận lợi và thách thức. Hội nhập quốc tế tạo điều kiện để tận dụng các
nguồn lực và điều kiện quốc tế thuận lợi, phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
của đất nước để phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy vậy, quá trình hội nhập quốc tế diễn ra cạnh tranh hết sức gay gắt có thể là nguyên

nhân gây ra phá sản đối với những ngành kinh tế và những doanh nghiệp kém hiệu quả
của nước ta, gây ra xáo trộn về công ăn việc làm cho nhiều người lao động. Hệ thống
pháp luật thương mại của nước ta cũng còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với thông lệ
quốc tế.
Trình độ cán bộ thực hiện hội nhập quốc tế chưa cao, công tác đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực cho công tác hội nhập quốc tế chưa được đẩy mạnh. Trình độ cán bộ của
Việt Nam nhìn chung đã được nâng lên đáng kể sau hơn một thập kỷ tiến hành hội nhập
quốc tế, nhưng so với yêu cầu hiện nay và mặt bằng trình độ chung của các nước thì đội
ngũ cán bộ của nước ta cần được nâng cao hơn nữa cả về chuyên môn và ngoại ngữ.
2. Các chủ trương, chính sách về hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã nhận định: "Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách
quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực,
vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh" [17, tr.13]. Để đạt được mục tiêu đó, một trong những
định hướng quan trọng là: "Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực
với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước" [17, tr.26].
Song song với đường lối, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chủ trương trọng tâm về
đối ngoại của Đảng giai đoạn này là: "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo
tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự
chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia,
giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.
Ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 07/NQ-TW về hội nhập kinh tế quốc
tế. Ngày 14/3/2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 37/QĐ-TTg về
Chương trình hành động của Chính phủ chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 07/NQ-TW. Hội
nghị toàn quốc quán triệt và triển khai Nghị quyết số 07/NQ-TW của Bộ Chính trị đã nhất
trí về năm nội dung cơ bản trong công tác hội nhập kinh tế quốc tế như sau:
- Thống nhất về nhận thức tư tưởng về hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp tục tuyên truyền
nâng cao hiểu biết về hội nhập kinh tế quốc tế cho mọi tầng lớp nhân dân;
- Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế;
- Mở cửa thị trường và giảm thuế quan;

- Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý phù hợp với các quy định của quốc tế về kinh tế -
thương mại;
- Đào tạo nguồn nhân lực.
Trong lĩnh vực pháp luật, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2-5-2005 về
Chiến lược cải cách tư pháp, trong đó có nhấn mạnh rằng “tiếp tục đổi mới nội dung,
phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ nguồn của các chức danh tư pháp, bổ
trợ tư pháp; bồi dưỡng cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức
mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn,
có phẩm chất, đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa”[4].
Các cơ sở đào tạo luật cần phải nghiên cứu đề ra định hướng, thực hiện các giải pháp
nhằm đổi mới cơ bản về nội dung chương trình, hình thức và phương pháp đào tạo để
bảo đảm đào tạo và cung cấp cho xã hội những cán bộ pháp lý có trình độ cao, có khả
năng giải quyết được những vấn đề pháp lý quan trọng; bảo vệ quyền lợi của Nhà nước,
cơ quan, tổ chức và công dân Việt Nam trong quan hệ dân sự, thương mại với các nước,
tổ chức quốc tế và cá nhân là người nước ngoài khác.
3. Nhu cầu đội ngũ cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ hội nhập quốc tế của
Việt Nam
Trong tương lai, Việt Nam sẽ trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế quan
trọng, đồng thời sẽ gia nhập một số tổ chức quốc tế lớn, ví dụ như Tổ chức Thương mại
Thế giới. Điều này đòi hỏi nước ta cần phải có một lực lượng lớn những người có trình độ
pháp luật phù hợp với các công việc liên quan tới hội nhập quốc tế. Xuất phát từ thực tế
đội ngũ cán bộ pháp luật làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam còn thiếu và
yếu, trước mắt cũng như lâu dài, việc đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ pháp luật có trình
độ cao để phục vụ hội nhập quốc tế là hết sức rất cấp thiết.
1.3.1. Nhu cầu về đội ngũ cán bộ pháp luật có trình độ cao trong lĩnh vực cố vấn về kinh
tế và thương mại quốc tế;
1.3.2. Nhu cầu về cán bộ pháp luật đàm phán về vấn đề quốc tế;
1.3.3. Nhu cầu đối với cán bộ hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật cho hội nhập
quốc tế;

1.3.4. Nhu cầu đào tạo các chức danh tư pháp trong giai đoạn mới.
Việc xác định chính xác nhu cầu đào tạo các chức danh tư pháp trong thời gian trước mắt
và lâu dài có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và thực hiện chương trình, kế hoạch
đào tạo. Nhu cầu đào tạo được đánh giá qua hai tiêu chí: nhu cầu về số lượng cán bộ và
nhu cầu về chất lượng cán bộ.
1.4. Kinh nghiệm và mô hình đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ việc hội
nhập quốc tế của một số nước.
Qua việc nghiên cứu chương trình đào tạo luật gia tại các nước Nhật Bản, Hàn Quốc,
Cộng hòa Philippines, Cộng hoà Liên bang Đức, Thụy Sĩ, Vương quốc Anh, Ôxtrâylia và
New Zealand, Hoa Kỳ, và Canada, có thể đưa ra ba nhận định sau đây:
Thứ nhất, ở những nước XHCN, nền luật học chưa phát triển. Luật pháp được đồng
nghĩa với cách hiểu của luật công, là những công cụ triển khai chính sách của Nhà nước.
Dạy luật về cơ bản cũng dựa trên các phương pháp của luật công, lấy lý luận Mác-Lênin
về tổ chức bộ máy nhà nước làm công cụ tư tưởng chính, các ngành luật được lựa chọn
tùy theo nhãn quan quản lý nhà nước từng thời điểm khác nhau. Trong hệ đại học, người
ta không rèn luyện các kỹ năng hành nghề cần có của luật sư như kỹ năng thẩm vấn, kỹ
năng đàm phán, kỹ năng tranh tụng, mà chủ yếu diễn giảng tư tưởng và cầu trúc các đạo
luật, cách hiểu và vận dụng chúng theo một đường lối thống nhất bởi Đảng cầm quyền.
Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa gặp khủng hoảng, ảnh hưởng của mô hình này suy
giảm đáng kể. Các quốc gia Đông Âu và các nước thuộc Liên Xô cũ quay trở lại với nền
dân luật truyền thống. ở Trung Quốc và Việt Nam, hệ thống pháp luật của mô hình Nhà
nước toàn trị được thay thế bởi một nền pháp luật tương thích với kinh tế thị trường. Tư
duy lại việc dạy và học luật ở các quốc gia này là một điều tất yếu đang diễn ra.
Thứ hai, ở các quốc gia châu Âu lục địa, kể cả ở Anh và các quốc gia chịu ảnh hưởng của
người Anh, việc dạy luật được bắt đầu ở bậc đại học, học viên phần lớn là những tú tài trẻ
tuổi, chưa có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống. Sau khi có bằng cử nhân luật, họ phải trải
qua những kỳ đào tạo nghiệp vụ mới có thể từng bước hành nghề luật. Quy trình đào tạo luật
được chia thành hai công đoạn: công đoạn hàn lâm, do các khoa luật phụ trách, công đoạn
dạy nghề, do Bộ Tư pháp, Hiệp hội Luật sư hoặc các tổ chức được ủy quyền tiến hành. Các
cấp học thạc sĩ, tiến sĩ luật học là nối dài của quá trình đào tạo hàn lâm, người có bằng tiến sĩ

luật thường đạt được một số kỹ năng nghiên cứu, mà không được đào tạo về hành nghề
luật. Các khoa dạy luật thường thuộc các trường đại học công lập, giai đoạn dạy nghề luật ở
một số nước còn được xem như đào tạo công chức tập sự với chế độ lương bổng và nghĩa
vụ giống với công chức.
Thứ ba, Hoa Kỳ không phân chia đào tạo luật thành hai công đoạn hàn lâm và dạy
nghề, mà nhập hai giai đoạn này vào chương trình đạo tạo luật cho những người đã có ít
nhất một bằng cử nhân ở các ngành khoa học khác. Dạy luật ở nước này mang tính rèn
luyện kỹ năng rõ rệt, sau khi có bằng luật (J.D.), người học có thể thi vào Hiệp hội Luật sư
các bang để hành nghề. Các cơ sở đào tạo luật không được gọi là khoa luật, mà là các
trường luật độc lập. Các trường danh tiếng phần lớn là trường tư, vận hành với những cơ
chế không khác gì các công ty. Thẩm phán được lựa chọn từ những luật sư có kinh
nghiệm. Giới luật sư có vai trò rất đáng kể trong đời sống kinh tế và chính trị nước Mỹ.
Riêng kinh nghiệm đào tạo cán bộ pháp luật ở Trung Quốc, Đề tài rút ra một số nhận
xét sau:
- Giáo dục pháp lý hiện nay, có rất nhiều vấn đề làm cho những người làm công tác
giáo dục pháp lý cảm thấy thiếu sót và áp lực, điều này chủ yếu biểu hiện ở: chạy đua về
số lượng, giáo dục pháp lý thể hiện giống như bọt xà phòng; Biện pháp dạy học đơn điệu,
mô hình giáo dục đơn nhất; giáo dục pháp lý tách rời nghề nghiệp pháp luật, nội dung dạy
học cũ kỹ, tốc độ đổi mới chậm; đầu tư cho dạy học không đủ, cơ sở vật chất thiếu thốn.
- Đào tạo pháp luật bậc cao chưa có mục tiêu rõ ràng chính xác. Nhiều trường đại học
chưa nêu rõ mục tiêu cụ thể của đào tạo sinh viên chuyên ngành pháp luật trong các văn
bản giới thiệu về trường mình.
- Tầng lớp giáo dục chưa có quy củ. Đào tạo pháp luật ở Trung Quốc có tới 5,6 tầng lớp;
các biện pháp dưới các tầng lớp này lại càng nhiều hơn. Các trường, bất kể lực lượng giáo
viên và điều kiện giảng dạy có đầy đủ hay không, chỉ cần thu hút được sinh viên là mở lớp
với quy mô lớn và tốc độ nhanh.
- Thiếu tư tưởng đào tạo pháp luật. Đào tạo pháp luật luôn luôn tồn tại phụ thuộc vào
chính trị, pháp luật từ lâu được coi là công cụ chính trị, về cơ bản nội dung giáo dục pháp
luật là các văn kiện của Đảng, Nhà nước và lý luận của giai cấp vô sản chuyên chính. Ở
Trung Quốc chưa hình thành được một tư tưởng đào tạo pháp luật độc lập, có hệ thống,

hoàn chỉnh, đồng bộ. Cho nên, sau cải cách mở cửa, là thời kỳ phục hồi và phát triển của
đào tạo luật, nhưng đào tạo pháp luật của Trung Quốc đã tiến một cách mò mẫm trong
hoàn cảnh thiếu tư tưởng đào tạo. Thiếu tư tưởng đào tạo có nghĩa là thiếu sự hướng đạo
và sẽ mất phương hướng trong sự thay đổi của xã hội, nhất là trong thời đại toàn cầu hoá
ngày nay. Thiếu tư tưởng đào tạo pháp luật sẽ trở thành một căn bệnh nan y hạn chế sự
phát triển đào tạo pháp luật tại Trung Quốc.
Kinh nghiệm đào tạo cán bộ pháp luật tại Vương quốc Thụy Điển cho thấy tất cả các
trường Đại học ở Thụy Điển đều là những trường đa ngành. Cơ cấu của trường bao gồm
các khoa khác nhau, giảng dạy các chuyên ngành khác nhau như: y học, luật, thần học,
khoa học xã hội và nhân văn, kỹ thuật. Người đứng đầu trường đại học tổng hợp là Hiệu
trưởng và mỗi khoa có Ban Chủ nhiệm khoa, mà người lãnh đạo là Trưởng khoa. Mỗi
khoa có ngân sách riêng và Chủ nhiệm khoa chịu trách nhiệm về nhân sự và tài chính.
Chủ nhiệm khoa là người đứng đầu một viện và thông thường mỗi khoa có một số viện
nghiên cứu. Có một trường hợp ngoại lệ là Khoa Luật Trường Đại học Tổng hợp Lund:
đó là một Khoa và một Viện, tổ chức có một ban lãnh đạo khoa, một Trưởng khoa và một
Chủ nhiệm khoa.
Chương trình đào tạo tại các trường đại học là đáp ứng nhu cầu đào tạo cán bộ cho
các lĩnh vực hoạt động của Chính phủ. Hầu hết các cơ quan vẫn thường đề nghị tiếp tục
đào tạo cán bộ về các vấn đề có liên quan tới luật công, luật hành chính, luật thuế và luật
của Liên minh châu Âu. Nhưng tình hình đã có sự thay đổi. Nhiều lĩnh vực đã tác động tới
công tác đào tạo tại các trường đại học, làm cho nó hợp lý hơn, năng động hơn trước và
thậm chí công tác nghiên cứu dường như cũng mất đi vai trò mũi nhọn, tiên phong trong
một thế giới phát triển.
II. THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO VÀ THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ PHÁP LUẬT LÀM
CÔNG TÁC HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY TẠI VIỆT NAM
1. Thực trạng đào tạo cán bộ pháp luật ở Việt Nam
1.1. Mô hình hiện tại của việc đào tạo cán bộ pháp luật ở Việt Nam.
Trong 26 năm vừa qua, các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật đã đào tạo được hàng chục
nghìn cử nhân, hàng nghìn thạc sĩ và hàng trăm tiến sĩ luật học. Đội ngũ cán bộ pháp luật
được đào tạo đã hoạt động trong nhiều cơ quan và trong nhiều lĩnh vực khác nhau và

bước đầu đã phát huy được những tác dụng nhất định, góp phần xây dựng Nhà nước
XHCN cũng như nền kinh tế quốc dân ngày càng phát triển.
Tuy vậy, việc đào tạo cán bộ pháp luật phục vụ cho việc hội nhập quốc tế của nước ta còn
có nhiều nhược điểm và bất cập, đó là:
a) Cơ sở vật chất của các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật, nhất là các giảng đường,
phòng học, phòng làm việc, ký túc xá được xây dựng một cách chắp vá, manh mún,
còn thiếu thốn; nhiều cơ sở thiếu thốn trầm trọng. Các trang thiết bị giảng dạy còn nghèo
nàn, thô sơ; thư viện nhìn chung còn lạc hậu, chỉ có sách mà thiếu các tạp chí chuyên
ngành mới nhất; các phương tiện tin học còn quá ít. Số tài liệu đã có chưa được khai thác
một cách tối đa. Có quá ít tài liệu, sách báo của nước ngoài và số tài liệu đã có cũng
chưa được khai thác, sử dụng một cách có hiệu quả.
b) Đội ngũ cán bộ giảng dạy còn nhỏ bé về số lượng, hạn chế về chất lượng và chưa
được nâng cao trình độ ở mức cần thiết, thiếu hiểu biết về chính sách và pháp luật trong
cơ chế thị trường. Việc cập nhật kiến thức và kỹ năng giảng dạy, nghiên cứu theo cơ chế
mới còn có nhiều hạn chế. Số lượng các giảng viên luật tham gia các công tác thực tiễn
còn ít và có tính tự phát. Trình độ ngoại ngữ của các giảng viên còn thấp và chưa đồng
đều.
c) Phần lớn các chương trình đào tạo có cơ cấu kiến thức không phù hợp. Nhìn chung,
chương trình đào tạo của các cơ sở đều nặng nề, chú ý nhiều đến lý thuyết và thiếu kiến
thức thực tiễn, kỹ năng hành nghề. Thời gian dành cho việc tự nghiên cứu của sinh viên,
học viên còn ít và chưa được sử dụng triệt để.
d) Hệ thống giáo trình, giáo án, sách và tài liệu tham khảo còn chưa đầy đủ và có nhiều
bất cập; Nội dung của nhiều giáo trình, tài liệu tham khảo trùng lặp, thiếu tính đa dạng,
không chuyên sâu, ít kiến thức thực tiễn và chưa theo kịp sự phát triển của kinh tế và xã
hội. Công tác biên soạn giáo trình của nhiều cơ sở đào tạo chưa được coi trọng, thiếu tính
thống nhất trong toàn bộ hệ thống. Hội đồng tư vấn xây dựng chương trình khung đào tạo
đại học ngành luật đã xây dựng xong chương trình khung, nhưng vẫn chưa biên soạn được
các bộ giáo trình dùng chung trong các cơ sở đào tạo cán bộ pháp lý vì thiếu kinh phí.
đ) Mối quan hệ giữa các cơ sở đào tạo trong nước cũng như với các cơ sở đào tạo luật
ở nước ngoài vẫn chưa được khai thông ở mức cần thiết.

e) Mục đích học tập của sinh viên, học viên và nghiên cứu sinh đôi khi chưa chính
đáng. Ý thức học tập của các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh còn chưa
đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp hội nhập quốc tế của nước ta.
g) Chưa có sự gắn bó và liên thông giữa các bậc học, giữa các ngành học, giữa các cơ
sở đào tạo cán bộ pháp luật cũng như giữa lý luận và thực tiễn, giữa việc đào tạo và sử
dụng cán bộ pháp luật.
h) Việc sử dụng cán bộ pháp luật đã tốt nghiệp các hệ chưa thật hợp lý, gây ra sự lãng
phí và không phát huy được hết những kiến thức mà các nhà trường đã trang bị cho các
luật gia này.
Tất cả những điều đó cho thấy cần phải khẩn trương xây dựng một mô hình tổng thể
mới về đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ cho việc hội nhập quốc tế của
Việt Nam.
1.2. Các cấp bậc đào tạo cán bộ pháp luật hiện hành.
Các cấp bậc đào tạo cán bộ pháp luật này có một số thành công và ưu điểm như:
- Người học có thể lựa chọn các cấp bậc đào tạo, thường xuyên nâng cao trình độ theo
nhu cầu công tác cũng như điều kiện và khả năng của mình;
- Bên cạnh việc đào tạo bài bản và chính quy một số cấp bậc, còn có việc đào tạo nghề
để các Luật gia sau khi tốt nghiệp có thể làm việc một cách thuần thục ngay;
Tuy vậy, có thể nhận thấy một số nhược điểm, bất cập của hệ thống các cấp bậc đào
tạo cán bộ pháp luật này là:
a) Ở cấp đào tạo đại học luật, các môn phụ trợ như: các môn chính trị, ngoại ngữ, thể
dục, quân sự, tâm lý học…) chiếm một tỷ lệ khá lớn (30%)
b) Đến cấp cao học, tỷ lệ các môn phụ trợ như triết học, ngoại ngữ, phương pháp giảng
dạy đại học, phương pháp nghiên cứu khoa học cũng vẫn chiếm một tỷ lệ khá lớn (25%).
c) Các cấp học không có sự liên kết, gắn bó và bổ sung cho nhau, mà tách biệt nhau.
d) Chưa thực hiện được vệc bồi dưỡng sau đại học để cung cấp những kiến thức
chuyên ngành, cập nhật mới về một lĩnh vực hoặc về một số vấn đề để trang bị cho
người học (có thể là các cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ luật) những kiến thức cần thiết phục vụ
cho công việc hàng ngày của họ, đáp ứng tốt hơn những yêu cầu có tính chất thời sự
cũng như lâu dài về hội nhập quốc tế của Việt Nam.

1.3. Các hình thức đào tạo cán bộ pháp luật hiện hành
1.3.1. Đào tạo tập trung
Đào tạo tập trung có ưu điểm là quá trình đào tạo (dạy và học) được thực hiện một
cách bài bản, tích cực và được chuẩn hóa. Sinh viên, học viên cũng như nghiên cứu sinh
có điều kiện tập trung mọi khả năng, sức lực và thời gian vào việc học tập, không bị phân
tán vào những công việc khác, hoạt động khác nên có điều kiện đọc sách, báo, tài liệu,
nhớ nhanh và nhớ lâu các kiến thức lý luận và thực tiễn được giảng viên truyền thụ.
Về nội dung chương trình của hình thức đào tạo tập trung có một số nhận xét sau đây:
Những ưu điểm và thành công trong nội dung chương trình đào tạo luật
1. Chương trình đào tạo của các cơ sở đào tạo luật đã được xây dựng một cách thống
nhất trên cơ sở dự kiến chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo, chia thành hai
phần cơ bản: Khối kiến thức giáo dục đại cương và khối kiến thức giáo dục chuyên
nghiệp.
2. Chương trình của các cơ sở đào tạo luật đã thay đổi theo hướng giảm số tiết của các
môn học; bổ sung thêm một số môn học mới phù hợp với xu hướng phát triển chung của
xã hội.
3. Các cơ sở đào tạo luật đã chú ý tăng thời gian thảo luận đối với từng môn học, tạo
điều kiện cải thiện kỹ năng nói của người đọc.
Những nhược điểm và hạn chế trong nội dung chương trình đào tạo luật
1. Chương trình của các cơ sở đào tạo còn khá nặng (200 đơn vị học tâp (ĐVHT).
Chương trình đào tạo cao học ở Nhật Bản, Mỹ, Thái Lan là 130 - 150 ĐVHT.
2. Thời gian giảng lý thuyết nhiều hơn thời gian thảo luận: 4,3 tiết lý thuyết có 1 tiết thảo
luận. Trên thế giới, số giờ thảo luận tương đương với số giờ giảng lý thuyết.
3. Các cơ sở đào tạo luật vẫn chú trọng đến việc cung cấp kiến thức lý luận cho người
học hơn là cung cấp và rèn luyện kỹ năng thực hành cho sinh viên.
4. Trong khối kiến thức chuyên ngành, số học phần, chuyên đề tự chọn còn chưa được
phong phú, chưa tạo cho người học nhiều sự lựa chọn.
Sau khi nghiên cứu, phân tích chương trình đào tạo sau đại học tại một số cơ sở đào tạo
chuyên ngành luật đã nêu ở trên, có thể rút ra nhận xét về những ưu điểm và thành công của
các chương trình này như sau:

- Các cơ sở đào tạo sau đại học đều đã xây dựng chương trình đào tạo thạc sĩ và đào
tạo tiến sĩ cơ bản tuân theo Quy chế Đào tạo sau đại học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành. Các chương trình đào tạo cao học đều được xây dựng bao gồm chương trình cơ
bản, chương trình cơ sở, chương trình chuyên ngành, viết và bảo vệ luận văn thạc sĩ.
Các chương trình đào tạo tiến sĩ đều bao gồm việc học chương trình tương tự như đào
tạo thạc sĩ, học ngoại ngữ chuyên ngành, nghiên cứu sinh phải viết và bảo vệ ba chuyên
đề tiến sĩ, trình bày luận án ở bộ môn, luận án được phản biện độc lập và bảo vệ luận án
tiến sĩ cấp nhà nước.
- Các chương trình đào tạo sau đại học đã được các cơ sở đào tạo sau đại học xây dựng
tương đối khoa học, hợp lý. Thí dụ trong các chương trình có phần lý luận, có phần thực tiễn,
có phần pháp luật trong nước, có phần nghiên cứu lịch sử phát triển của các ngành luật, của
các chế định pháp luật; tìm hiểu và nghiên cứu áp dụng các kinh nghiệm thích hợp của nước
ngoài phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của nước ta.
- Các cơ sở đào tạo đã xây dựng được nhiều chương trình, mở ra nhiều mã số ngành
đào tạo để các học viên cũng như nghiên cứu sinh có điều kiện lựa chọn ngành khoa học
thích hợp với khả năng, trình độ cũng như những lĩnh vực hoạt động của họ.
- Các cơ sở đào tạo đã xây dựng cơ cấu chương trình gồm các môn học bắt buộc và
một số môn học tự chọn nhằm mục đích giảm tải (về số môn học, về số tiết cho mỗi môn)
để phù hợp với ngành nghề, công việc, vị trí công tác… của các học viên và nghiên cứu
sinh.
- Các cơ sở đào tạo sau đại học đã thường xuyên nghiên cứu, tham khảo chương trình
đào tạo sau đại học của các nước khác.
Tuy vậy, các chương trình đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ sau đại học ở các cơ sở
đào tạo luật ở nước ta có một số nhược điểm và bất cập như sau:
- Chương trình đào tạo của các cơ sở chưa thống nhất, không đồng đều, có nơi nặng,
có nơi nhẹ; có nơi rất bài bản, có nơi còn sơ sài, tuỳ tiện.
- Có một số môn học không thích hợp, làm tốn nhiều thời gian, công sức, chi phí tài
chính, hiệu quả thấp.
Nội dung đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ sau đại học có những ưu điểm và thành
công như:

1) Các chuyên đề được giảng dạy đã được cân nhắc và lựa chọn trong số các vấn đề
cơ bản và hiện đại, có tính lý luận và thực tiễn cao. Điều này được thể hiện ở chỗ các cơ
sở đào tạo không giảng dạy tất cả các vấn đề của một môn học mà chỉ dạy một số vấn đề
cơ bản và hiện đại của các môn học đó;
2) Đa số các chuyên đề có tính phổ biến, và tương thích giữa các cơ sở đào tạo luật ở Việt
Nam;
3) Một số chuyên đề, môn học thể hiện sự đặc sắc của cơ sở đào tạo, tạo ra sức hấp
dẫn của cơ sở đào tạo đó;
4) Nội dung các chuyên đề được giảng dạy đã thể hiện được các vấn đề có tính cấp
thiết của đời sống pháp lý;
5) Một số chuyên đề phục vụ có hiệu quả cho việc hội nhập quốc tế của Việt Nam;
6) Các chuyên đề nói chung đã được thường xuyên cải tiến, sửa đổi, bổ sung và cập
nhật những vấn đề mới của khoa học pháp lý và thực tiễn thi hành pháp luật. Hệ thống
các chuyên đề đã có nhiều đổi mới, vừa cơ bản, vừa hiện đại, đồng thời bám sát các vấn
đề có tính thời sự, cấp thiết, liên quan đến sự nghiệp hội nhập và mở cửa của Việt Nam.
Tuy vậy, nội dung đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ sau đại học có những nhược
điểm và bất cập như:
1) Một số môn học, chuyên đề không thích hợp, không cần thiết;
2) Một số chuyên đề được giảng dạy chồng chéo, lặp lại chương trình đại học;
3) Thiếu những chuyên đề liên quan hoặc phục vụ cho hội nhập quốc tế của Việt Nam,
thí dụ như: Luật đầu tư chung của các nước ASEAN, Luật hình sự quốc tế, Luật về Trọng
tài quốc tế, Luật thương mại điện tử, Luật tài chính quốc tế
+ Hình thức đào tạo cán bộ pháp luật ở các cơ sở đào tạo sau đại học
Hình thức đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ sau đại học có những ưu điểm và thành
công như sau:
1) Có nhiều hình thức phong phú đáp ứng yêu cầu của nhiều đối tượng đào tạo, thí dụ có
các hình thức như: tập trung, tại chức; học trong giờ hành chính, học ngoài giờ hành chính,
học vào những ngày cuối tuần
2) Có nhiều cấp bậc đào tạo cán bộ có trình độ cao (như đại học, thạc sĩ, tiến sĩ, bồi dưỡng
sau đại học ). Mỗi cơ sở đào tạo sau đại học đã đào tạo các cấp bậc khác nhau tùy theo khả

năng, điều kiện của cơ sở đó.
3) Hợp tác với các nước khác và tiếp thu được những kinh nghiệm tiên tiến của các nước
này. Các cơ sở đào tạo sau đại học đã thực hiện nhiều quan hệ hợp tác với nhiều nước khác
nhau và đã tiếp thu được nhiều kinh nghiệm tiến tiến của các nước này.
Hình thức đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ sau đại học có những nhược điểm và
bất cập như:
1) Có những hình thức đào tạo không bảo đảm chất lượng đào tạo sau đại học, hiệu
quả không cao. Hình thức vừa làm vừa học (tại chức) hoặc đào tạo ban đêm, cuối tuần là
những hình thức đào tạo đạt hiệu quả không cao. Học viên luôn luôn bị chi phối bởi nhiều
vấn đề cùng phải giải quyết ngay một lúc hoặc sau một ngày, một tuần làm việc căng
thẳng, vất vả, thì học viên và ngay cả giảng viên cũng không còn sức lực và hứng thú
giảng dạy, học tập nữa.
2) Các cơ sở đào tạo sau đại học triển khai quá chậm hình thức bồi dưỡng sau đại học; Mặt
khác, hình thức này chưa phù hợp với nguyện vọng và nhu cầu của người học, không khuyến
khích, động viên được người học.
+ Phương pháp đào tạo cán bộ pháp luật ở các cơ sở đào tạo sau đại học
Phương pháp đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ sau đại học có những ưu điểm và
thành công như sau:
1) Một số giảng viên đã sử dụng các phương pháp đào tạo thích hợp (như thuyết trình,
hướng dẫn thảo luận, gợi ý nghiên cứu, trao đổi giữa thầy và trò );
2) Một số giảng viên đã học tập và sử dụng có hiệu quả các phương pháp giảng dạy
tiên tiến, như chương trình tin học phục vụ cho đào tạo đại học và sau đại học. Công
nghệ Power Point đã làm tăng thêm tính hấp dẫn và nhớ lâu của các học viên, đòi hỏi
người giảng viên phải đầu tư nhiều công sức, có nhiều kỹ năng trong soạn bài, hoàn
thành giáo án.
3) Nhiều giảng viên đã coi học viên và nghiên cứu sinh là trung tâm của quá trình đào
tạo; giảng viên cần làm mọi việc để phục vụ cho họ học tập và nghiên cứu một cách tốt
nhất.
Phương pháp đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ sau đại học có những nhược điểm
và bất cập như sau:

4) Một số giảng viên chưa sử dụng phương pháp đào tạo thích hợp. Các giảng viên này
sử dụng chủ yếu phương pháp thuyết trình (độc thoại); hầu như không sử dụng phương
pháp trao đổi, thảo luận giữa giảng viên và học viên, nên không gợi được sự hăng say,
sáng tạo, chủ động, chịu khó tìm tòi trong học tập và nghiên cứu khoa học của học viên,
nghiên cứu sinh.
5) Một số giảng viên chưa chịu khó học tập và sử dụng các phương pháp giảng dạy tiên
tiến, làm cho các giờ giảng kém sức hấp dẫn, học viên không thể nhớ lâu nội dung bài
giảng của giảng viên và hệ thống các trang thiết bị hiện đại của cơ sở đào tạo không
được sử dụng một cách triệt để, gây ra sự lãng phí to lớn.
6) Một số giảng viên chưa coi học viên và nghiên cứu sinh là trung tâm của quá trình
đào tạo.
+ Thực trạng đào tạo nghề ở Việt Nam
Có thể nhận định về đối tượng đào tạo nguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp như
sau:
1) Các học viên của các lớp đào tạo nguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp đã nắm
được một số kỹ năng nghề nghiệp ban đầu. Học viên được học kỹ năng nghề nghiệp một
cách hệ thống với các mức độ nâng cao cần thiết để đảm bảo khi tốt nghiệp ra trường và
được bổ nhiệm làm thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư, chấp hành viên, công chứng viên
các học viên có thể bắt tay vào công việc ngay.
2) Các kỹ năng có được của học viên khi mới vào trường chủ yếu được hình thành từ
việc học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước, do đó, bên cạnh những kỹ năng nghề
nghiệp tốt còn có nhiều cách làm theo thói quen, không chính quy, chưa phù hợp với quy
định của pháp luật. Điều này gây trở ngại nhất định cho việc tiếp thu những kiến thức
mới.
3) Do nhiều học viên đã tốt nghiệp đại học từ lâu, trong quá trình công tác thực tiễn
không được bồi dưỡng thường xuyên nên nhiều kiến thức mới về pháp luật nội dung và
pháp luật tố tụng không được cập nhật. Kết quả khảo sát cho thấy phần lớn các học viên
thường đề nghị bổ sung các chuyên đề pháp luật chuyên sâu liên quan đến hoạt động
nghề nghiệp của từng chức danh và các chuyên đề thông tin pháp luật trong chương trình
đào tạo.

4) Việc tuyển học viên các lớp thẩm phán, kiểm sát viên, chấp hành viên, công chứng
viên đã kết hợp giữa cử tuyển và thi tuyển; nhưng do việc lựa chọn những người đi học
các lớp này bị giới hạn trong phạm vi biên chế của các cơ quan tư pháp nên chưa lựa
chọn được những người thật sự giỏi về chuyên môn, có tư cách đạo đức tốt để đào tạo
nguồn bổ nhiệm các chức danh này.
5) Đa số học viên luật sư khi mới vào trường còn chưa được tiếp cận với hoạt động tranh
tụng hoặc tư vấn của Luật sư. Chương trình đào tạo nghiệp vụ Luật sư cần trang bị một
cách bài bản, hệ thống về các kỹ năng nghề nghiệp ban đầu để tạo cơ sở cho các học viên
sau khi tốt nghiệp có thể thực hiện được một số hoạt động nghề nghiệp cần thiết trong thời
gian làm luật sư tập sự.
1.3.2. Đào tạo tại chức
Hình thức đào tạo tại chức được áp dụng để đào tạo các cử nhân luật theo một chương
trình riêng nhằm tạo điều kiện cho các học viên tham gia các chương trình đào tạo không
chính quy trong khi vẫn có khả năng tham gia vào các quá trình lao động xã hội. Hình thức
đào tạo tại chức giải quyết được việc nâng cao trình độ cho cán bộ trong các cơ quan, xí
nghiệp, đồng thời cung đảm bảo được quyền lợi của người học.
Tuy nhiên, việc đào tạo theo hình thức tại chức có nhược điểm là trong cùng một
khoảng thời gian, người học phải vừa học, vừa làm, giải quyết nhiều công việc nên không
thể chú tâm vào việc học, chất lượng học tập và nghiên cứu không cao. Các học viên dễ
bị chi phối bởi công việc chuyên môn, nghề nghiệp hàng ngày; các học viên không tuân
theo chương trình một cách chặt chẽ về số môn học; việc tổ chức giảng dạy các lớp
được rải ra trên nhiều địa bàn, rất khó khăn cho công tác quản lý trực tiếp…
1.3.3. Đào tạo từ xa
Hình thức đào tạo từ xa có đặc điểm giống đặc điểm của hình thức đào tạo tại chức, là:
người học vừa công tác, vừa đi học nhằm nâng cao trình độ. Nhưng nó khác với hình thức
học tại chức là ở chỗ: Học viên học tại chức phải tập trung đến lớp để nghe giảng viên
giảng và hướng dẫn thảo luận; nhưng người học từ xa phải tự nghiên cứu các tài liệu học
tập mà cơ sở đào tạo cung cấp là chủ yếu. Khi nào cơ sở đào tạo chuẩn bị thi các môn thì
mới tổ chức việc hệ thống hoá và giải đáp thắc mắc cho sinh viên. Các sinh viên thi tốt
nghiệp là chủ yếu. Chỉ có rất ít sinh viên có kết quả học tập tốt trong các lớp ở các địa

phương có điều kiện đi lại thuận tiện mới được viết và bảo vệ luận văn tốt nghiệp.
1.3.4. Học lý thuyết kết hợp với thực tập trong thực tiễn.
Trong các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật, việc kết hợp giữa học tập lý luận với thực tập
trong thực tiễn đã được thường xuyên chú ý thực hiện. Lý thuyết soi đường cho thực tiễn,
nhưng thực tiễn cũng là môi trường để kiểm nghiệm lý thuyết, thể hiện sinh động những lý
luận đã được giảng dạy. Vì vậy, việc kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo về mặt lý thuyết và tạo
điều kiện cho người học đi thực tập trong thực tiễn trong quá trình đào tạo cán bộ có trình
độ cao phục vụ cho hội nhập quốc tế của Việt Nam, đã được thường xuyên thực hiện một
cách có kế hoạch. Lý thuyết là vấn đề khoa học đã được nghiên cứu và đúc kết lại; còn
thực tiễn có tính năng động, phát triển theo một quy luật riêng của nó và có tác dụng minh
hoạ cho những điều mà lý luận đã nghiên cứu được.
1.3.5. Đi học tập ở nước có nhiều kinh nghiệm về đào tạo cán bộ pháp lý phục vụ cho
việc hội nhập quốc tế.
Trong những năm vừa qua, các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật của Việt Nam đã có
nhiều mối quan hệ với các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật của các nước này. Thí dụ như:
Trường Đại học Luật Hà Nội đã có quan hệ chính thức với 14 cơ sở đào tạo luật và các tổ
chức quốc tế ở Pháp, Thuỵ Điển, Cộng hoà Liên bang Đức, Trung Quốc, Nhật Bản,
Ôxtrâylia, Mỹ v.v… đã và đang thực hiện một số dự án quốc tế về đào tạo và nghiên cứu
luật. Trường đã hợp tác với Trường Đại học tổng hợp Pantheon Assas (Paris II) của nước
Cộng hoà Pháp, hợp tác với Trường Đại học Tổng hợp Lund của Vương quốc Thuỵ Điển.
Cho tới nay, đã có hơn 100 cán bộ, giảng viên của Trường Đại học Luật Hà Nội được đi
học tập, nghiên cứu ở nước ngoài và có hơn 40 giáo sư nước ngoài đến giảng dạy,
hướng dẫn khoa học tại trường. Số sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh là
người nước ngoài đến học tập, nghiên cứu tại Trường ngày càng đông. Trường đã đào
tạo được nhiều cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ là công dân Lào, Campuchia, Yêmen, Trung
Quốc.
Các cơ sở đào tạo luật khác như Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật
thuộc Trường Đại học Cần Thơ, Khoa Luật thuộc Trường Đại học Đà Lạt, Khoa Luật
thuộc Trường Đại học Khoa học Huế…cũng đã không ngừng đẩy mạnh việc hợp tác quốc
tế. Việc hợp tác này đã đem lại nhiều kết quả khả quan, đóng góp phần quan trọng vào

việc hoàn thiện chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo, chất lượng đào tạo, phát
triển năng lực đào tạo của các cán bộ, giảng viên trong các cơ sở đào tạo này.
Tuy vậy, hoạt động hợp tác quốc tế của các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật có nơi, có
lúc vẫn chưa được coi trọng và chưa được xem như một biện pháp hữu hiệu để đổi mới
tư duy, nâng cao chất lượng giảng dạy của giảng viên và việc học tập, nghiên cứu của
sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh. Hiệu quả của hoạt động hợp tác quốc tế
có lúc còn hạn chế và chưa bám sát yêu cầu đào tạo, thiếu sự phối hợp giữa các cơ sở
đào tạo và sự điều phối của các cơ quan hữu quan. Tình trạng mạnh ai nấy làm còn xảy
ra. Một số cơ sở đào tạo luật còn chưa chủ động trong việc mở rộng hợp tác quốc tế và
có tính chủ động chưa cao.
+ Các lĩnh vực đào tạo cán bộ pháp luật sau đại học hiện hành
Trong những năm vừa qua, các chương trình đào tạo của các cơ sở đào tạo cán bộ pháp
luật của Việt Nam đã bước đầu thể hiện được sự đa dạng về các lĩnh vực pháp luật được đào
tạo phục vụ cho sự hội nhập quốc tế của Việt Nam. Thí dụ, trong các chương trình đã có
những môn học hoặc chuyên đề về hoặc liên quan đến hội nhập quốc tế, như: công pháp quốc
tế, tư pháp quốc tế, luật kinh tế quốc tế, luật so sánh, luật thương mại quốc tế, luật về sở hữu trí
tuệ, luật về chuyển giao công nghệ, luật hiến pháp các nước, luật hình sự quốc tế, lịch sử các
học thuyết chính trị…
2. Thực trạng đội ngũ cán bộ pháp luật làm công tác hội nhập quốc tế hiện nay
của Việt Nam.
Nhận định về tình trạng hiện nay của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại, Nghị quyết
số 07/NQ-TW của Bộ Chính trị về Hội nhập quốc tế đã chỉ rõ: “Đội ngũ cán bộ làm công
tác kinh tế đối ngoại còn thiếu và yếu.” Cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại được hiểu
là tất cả những người làm việc liên quan tới hội nhập kinh tế quốc tế ở trong và ngoài hệ
thống bộ máy nhà nước, tất nhiên trong đó bao gồm cả lực lượng cán bộ pháp luật trong
lĩnh vực này. Thực tế, đội ngũ cán bộ pháp lý phục vụ việc hội nhập quốc tế của Việt Nam
thể hiện ở chỗ còn thiếu về số lượng và còn yếu về chất lượng được phản ánh khá rõ
trong kết quả điều tra, khảo sát một số cơ quan của hai thành phố lớn là Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh vừa qua cho thấy: thứ nhất, còn thiếu những người làm công tác pháp
luật trong lĩnh vực hội nhập quốc tế; thứ hai, trình độ chuyên môn của những người làm

công tác pháp luật liên quan tới hội nhập quốc tế còn yếu.
III. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CHO VIỆC ĐÀO TẠO CÁN BỘ PHÁP LUẬT CÓ TRÌNH
ĐỘ CAO PHỤC VỤ CÔNG CUỘC HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
1. Quan điểm về việc đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ công cuộc
hội nhập quốc tế của Việt Nam.
1.1. Quan điểm về cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ hội nhập quốc tế
Cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ hội nhập quốc tế cần phải thoả mãn những
tiêu chí như sau:
1) Là những người được đào tạo chuyên ngành luật học từ trình độ đại học trở lên.
2) So với những cán bộ pháp luật được đào tạo đại trà khác, những cán bộ pháp luật có
xu hướng tham gia các hoạt động hội nhập quốc tế phải có một trình độ cao hơn hẳn về
những kiến thức lý luận và thực tiễn liên quan trực tiếp đến các lĩnh vực hội nhập quốc tế.
3) Thông thạo kiến thức nói chung và từ ngữ chuyên ngành luật của ít nhất một ngoại
ngữ phổ biến trên thế giới.
4) Có kiến thức sâu rộng về kinh tế, xã hội, lịch sử, văn hoá, tập quán của Việt Nam
và của nhiều nước trên thế giới.
Việc này có thể thực hiện được bằng các biện pháp cụ thể và thiết thực như sau:
a) Tổ chức những khoá giảng dạy kiến thức sâu rộng về kinh tế, xã hội, lịch sử, văn hoá, tập
quán của Việt Nam và của nhiều nước trên thế giới cho nhóm cán bộ pháp luật có xu hướng
tham gia hội nhập quốc tế;
b) Tổ chức những chuyến nghiên cứu, khảo sát, tìm hiểu về kinh tế, xã hội, lịch sử, văn
hoá, tập quán của Việt Nam và của nhiều nước trên thế giới cho nhóm cán bộ pháp luật
có xu hướng tham gia hội nhập quốc tế.
c) Nhóm cán bộ pháp luật có xu hướng tham gia hội nhập quốc tế phải có ý chí tự học,
tự tìm tòi, khám phá ở mọi nơi, mọi lúc để nâng cao sự hiểu biết về kinh tế, xã hội, lịch
sử, văn hoá, tập quán của nhiều nước trên thế giới.
1.2. Phân loại cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ cho hội nhập quốc tế.
Cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ cho công tác hội nhập quốc tế có thể được
chia thành những nhóm sau:
1) Cán bộ, chuyên gia nghiên cứu cơ bản công tác tại các viện nghiên cứu;

2) Giảng viên các trường đại học luật, các khoa, bộ môn luật của các học viện, trường
đại học, cao đẳng ở trung ương và địa phương;
3) Chuyên gia công tác ở các cơ quan nhà nước với tư cách là những chuyên gia xây
dựng chính sách, pháp luật, chuyên gia đàm phán, công chức hành chính;
4) Cán bộ ở các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp như thẩm phán, kiểm sát viên, luật
sư, công chứng viên, giám định viên, điều tra viên, cán bộ thi hành án ;
5) Các cán bộ quản lý, chuyên viên pháp lý, chuyên gia đàm phán ở các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế
1.3. Những yêu cầu đối với công tác đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao
phục vụ hội nhập quốc tế.
Công tác đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phải đáp ứng được những yêu cầu
như sau:
Toàn bộ quá trình triển khai công tác đào tạo cán bộ pháp luật phục vụ hội nhập quốc tế
phải đảm bảo quán triệt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về hội nhập quốc
tế. Chiến lược đào tạo cán bộ pháp lý nói chung và đào tạo cán bộ pháp lý phục vụ hội nhập
quốc tế nói riêng phải quán triệt Nghị quyết số 48/NQ-TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020
và Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Công tác đào tạo cán bộ pháp lý phải đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng phục
vụ hội nhập quốc tế.
Cơ cấu đào tạo cán bộ pháp luật phải được thiết kế hoàn chỉnh, đồng bộ đối với từng
bậc, từng hệ, từng loại hình, từng chuyên ngành đào tạo.
Chương trình đào tạo cán bộ pháp luật phải vừa thiết thực, đáp ứng nhu cầu thực tiễn phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, vừa tiếp cận trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới.
Phương pháp và phương tiện đào tạo phải đồng bộ và phù hợp với các loại hình và quy
mô đào tạo cán bộ pháp lý phục vụ công tác hội nhập. Phương pháp đào tạo cán bộ pháp
lý phải được cải tiến mạnh mẽ, có kết hợp hợp lý giữa các phương pháp truyền thống và
phương pháp hiện đại nhằm truyền đạt có hiệu quả chương trình đào tạo mới đã được đề
cập ở trên. Cần đầu tư thích đáng cho việc hoàn thiện và hiện đại hoá các phương tiện
đào tạo.

Đội ngũ cán bộ giảng dạy đa dạng, được huy động từ nhiều nguồn khác nhau, vừa giỏi
năng lực chuyên môn, phương pháp sư phạm, giàu kinh nghiệm thực tiễn và có đạo đức
tác phong chân chính. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng viên chuyên
nghiệp tại các cơ sở đào tạo cần có chính sách khuyến khích và thu hút nhiều nhà quản
lý, nhà khoa học, nhiều cán bộ làm công tác chuyên môn ở các bộ, ngành, các công ty
làm giảng viên kiêm chức phục vụ công tác đào tạo cán bộ hội nhập quốc tế.
Để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chuyên gia pháp luật đáp ứng yêu cầu hội nhập
quốc tế đang đặt ra hiện nay, cần phải xác định rõ các phương hướng đổi mới công tác đào tạo
cán bộ pháp luật.
2. Giải pháp đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ công cuộc hội nhập
quốc tế của Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, những thành công và nhược điểm của mô hình
đào tạo cán bộ pháp luật trong quá khứ cho thấy cần phải tạo cho được một mô hình tổng
thể mới, có những thay đổi về chất và về lượng, về thời gian đào tạo trong việc đào tạo cán
bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ cho việc hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Việc đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ cho hội nhập quốc tế của Việt
Nam bao gồm các giải pháp như sau:
1) Đổi mới chương trình đào tạo cán bộ pháp luật.
2) Hoàn thiện tài liệu học tập, nghiên cứu cho người học.
3) Đổi mới phương pháp giảng dạy.
4) Đổi mới phương pháp học tập của sinh viên, học viên.
5) Phát triển và nâng cao trình độ giảng viên.
6) Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học trong giảng viên, sinh viên, NCS.
7) Đổi mới phương thức tuyển chọn đối tượng đào tạo cán bộ pháp luật.
8) Đổi mới việc sử dụng luật gia của các cơ quan làm công tác hội nhập quốc tế.
9) Đổi mới việc đào tạo, rèn luyện kỹ năng hành nghề của cán bộ pháp lý.
10) Tăng cường bồi dưỡng sau đại học cho các cán bộ pháp lý.
Mô hình tổng thể đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ hội nhập quốc tế của
Việt Nam được thể hiện qua sơ đồ sau:
2.1. Đổi mới chương trình đào tạo cán bộ pháp luật.

a) Chương trình đào tạo thống nhất: Chương trình đào tạo thống nhất thể hiện ở chỗ các
cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật trong cả nước cần ngồi lại với nhau để cùng trao đổi, bàn
bạc, thảo luận một cách thật sự dân chủ và khoa học về việc xây dựng một khung chương
trình đào tạo cán bộ pháp luật phục vụ cho việc hội nhập quốc tế của Việt Nam với nhiều cấp
bậc và hình thức khác nhau. Chương trình này sẽ bao gồm những môn học, chuyên đề thiết
yếu cho việc đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ cho việc hội nhập quốc tế của
Việt Nam và dành một phần thích hợp cho mỗi cơ sở đào tạo thể hiện những đặc sắc riêng
của mình. Có thể tham khảo khung chương trình đào tạo cử nhân luật nói chung mà các cơ
sở đào tạo luật đã hoàn thành dưới sự chủ trì của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
b) Chương trình đào tạo hiện đại: Chương trình đào tạo hiện đại thể hiện ở chỗ các cơ
sở đào tạo cán bộ pháp luật mạnh dạn áp dụng những nội dung, kiến thức mới phục vụ
cho việc hội nhập quốc tế. Những nội dung và kiến thức mới thể hiện ở những kết quả
nghiên cứu mới nhất từ lý luận và thực tiễn hội nhập quốc tế. Chương trình đào tạo cán
bộ pháp luật phải tiếp tục hoàn thiện và phát huy tính tích cực của các kiến thức đã được
cho là cần thiết và đúng trong chương trình đào tạo hiện hành. Ngoài ra, chương trình
phải tham khảo các kinh nghiệm quốc tế, các môn học, các chuyên đề mà các nước khác
đã áp dụng thành công khi đào tạo cán bộ pháp luật phục vụ cho hội nhập quốc tế của
nước họ.
GIẢNG VIÊN
(Tăng cường số lượng,
chất lượng)
Đổi mới phương
pháp giảng dạy
ĐỐI TƯỢNG
ĐÀO TẠO
Phương pháp
học tập
Hoàn thiện
giáo trình,
tài liệu

CHƯƠNG
TRÌNH
ĐÀO
TẠO
Phân công
công tác
Môn thi
đầu vào
Học sinh
phổ thông
Những người
đang làm việc
CÁC CƠ QUAN LIÊN QUAN
TRỰC TIẾP ĐẾN HỘI NHẬP
QUỐC TẾ
Xã hội
KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI
Xét tuyển
Đào tạo nghề
Kinh nghiệm
quốc tế
c) Chương trình đào tạo thiết thực: Chương trình đào tạo cán bộ pháp luật phục vụ cho hội
nhập quốc tế thiết thực được thể hiện ở chỗ cần mạnh dạn giảm bớt đến mức tối đa việc
giảng dạy các môn phụ trợ trong chương trình đào tạo cử nhân cũng như đào tạo thạc sĩ, để
các sinh viên và học viên cao học có thời gian và điều kiện nghiên cứu sâu rộng các vấn đề lý
luận, pháp luật thực định và thực tiễn thi hành pháp luật. Có thể nêu ra một thí dụ về vấn đề
này là: Trong chương trình đào tạo thạc sĩ cũng như tiến sĩ luật của các nước khác, không
thấy có việc giảng dạy môn triết học, ngoại ngữ, xã hội học, tin học Trong khi đó, chương
trình đào tạo cán bộ pháp luật của các nước này lại rất chú trọng đến các môn như: thương
mại quốc tế, luật cộng đồng châu Âu, luật so sánh, luật cạnh tranh

d) Chương trình đào tạo có cơ cấu hợp lý: Chương trình đào tạo cán bộ pháp luật phục
vụ cho hội nhập quốc tế có cơ cấu hợp lý thể hiện ở chỗ: Càng ở bậc đào tạo cao hơn thì
tỷ lệ đào tạo về lý luận càng phải nâng cao lên, tỷ lệ nghiên cứu pháp luật thực định cần
giảm xuống. Ngoài ra, ở cấp đào tạo nào cũng nên có thời gian đào tạo nghề cho người
học với một tỷ lệ phù hợp, để các nhà luật gia, dù được đào tạo ở trình độ nào (đại học,
cao học, tiến sĩ), sau khi học xong chương trình đó, đều không bỡ ngỡ khi bắt tay vào các
công việc thực tiễn và cũng đều có thể phát huy được những kiến thức và trình độ của
mình, phục vụ một cách tốt nhất cho việc hội nhập quốc tế của Việt Nam.
2.2. Đổi mới chương trình đào tạo cử nhân luật
Cần tăng thêm thời lượng cho các môn học cung cấp kiến thức pháp lý trực tiếp phục vụ
công tác hội nhập quốc tế và bổ sung thêm một số môn học mới vào chương trình đào tạo.
Những môn luật liên quan trực tiếp đến hội nhập quốc tế sau đây cần được giảng dạy cho tất
cả các sinh viên học luật: cụ thể như:1) Công pháp quốc tế, 2) Tư pháp quốc tế, 3) Luật Hiến
pháp nước ngoài, 4) Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, 5) Luật hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài, 6) Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, 7) Luật về đầu tư của Việt Nam ra
nước ngoài, 8) Luật sở hữu trí tuệ, 9) Luật chuyển giao công nghệ, 10) Luật so sánh, và 11)
Luật biển.
Ngoài ra, còn một số môn học hoặc chuyên đề khác cũng liên quan trực tiếp đến việc hội
nhập quốc tế, nhưng nếu giảng dạy đại trà các môn này cho tất cả các sinh viên luật thì sẽ
không đủ thời gian và không khả thi. Do đó, sau khi đã được cấp bằng cử nhân luật, các cử
nhân có xu hướng tham gia trực tiếp vào hội nhập quốc tế cần học thêm trong thời gian 6
tháng một số môn học hoặc chuyên đề khác liên quan trực tiếp đến hoạt động hội nhập quốc
tế để đạt được trình độ cao hơn, phục vụ có hiệu quả hơn cho việc hội nhập quốc tế của Việt
Nam. Đó là những môn học hoặc chuyên đề sau: 1) Luật về các tổ chức quốc tế, 2) Luật
Thương mại Quốc tế, 3) Luật Môi trường Quốc tế, 4) Luật Cạnh tranh Quốc tế, 5) Luật Trọng
tài Quốc tế, 6) Luật về ngoại hối, 7) Luật Tài chính quốc tế và về các định chế tài chính quốc
tế, 8) Luật về hải quan quốc tế, 9) Luật hàng hải và vận tải, 10) Liên hợp quốc và trật tự thế
giới, và 11) Luật ngoại giao và lãnh sự
Sau khi học xong các môn này, người học sẽ được cấp một chứng chỉ cử nhân có trình độ
cao phục vụ hội nhập quốc tế và sẽ được ưu tiên tuyển dụng vào các cơ quan có hoạt động

thực tiếp hội nhập quốc tế (như ngoại giao, ngoại thương, hải quan, xuất nhập khẩu, các tổ
chức quốc tế, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ).
Có thể trình bày mô hình hai phương thức (I và II) đào tạo cử nhân Luật có trình độ cao
phục vụ hội nhập quốc tế của Việt Nam như sau:
Tỷ lệ các giờ giảng dạy các vấn đề về hoặc liên quan đến việc hội nhập quốc tế của Việt Nam
trong tổng số giờ đào tạo cử nhân cũng như đào tạo thạc sĩ cũng cần phải được nâng cao lên
nhiều hơn (cần phải chiếm từ 40% đến 50% tổng số giờ giảng của mỗi cấp bậc đào tạo) thì
mới đáp ứng được việc đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao phục vụ cho hội nhập quốc tế
của Việt Nam.
Sau một thời gian làm việc với trình độ cử nhân luật, trình độ thạc sĩ luật, thậm chí có
thể với trình độ tiến sĩ luật, luật gia có thể tham gia chương trình bồi dưỡng sau đại học
(chiếm khoảng 10% thời gian đào tạo thạc sĩ) để nắm bắt được những vấn đề lý luận
mới, những vấn đề thiết thực, có tính thời sự cho công việc của các cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ
luật.
Tỷ lệ các đề tài về hoặc liên quan đến việc hội nhập quốc tế của Việt Nam trong tổng số
các đề tài luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ cũng cần phải được nâng cao lên nhiều hơn
(cần phải chiếm từ 40% đến 50% trong tổng số các đề tài luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ)
thì mới đáp ứng được các yêu cầu mà cuộc sống đặt ra, mới phục vụ một cách đắc lực
cho việc hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và có hiệu quả cao hơn của Việt Nam.
ĐÀO TẠO TIẾN SĨ
Lý luận
chuyên sâu
(40%)
Pháp luật (so
sánh, khái
quát) (30%)
Thực tiễn minh
hoạ cho lý luận
(15%)
ĐÀO TẠO CAO HỌC

Lý luận
(mở rộng)
30%
Pháp luật (so
sánh, khái quát)
(40%)
Thực tiễn (so
sánh, đánh giá)
(15%)
Các môn
phụ trợ (5%)
ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC
Lý luận
(cơ bản)
(20%)
Pháp luật
thực định
(50%)
Kiến thức
thực tiễn (đơn
thuần) (10%)
Các môn
phụ trợ (10%)
Bồi dưỡng sau đại
(cập nhật) (15%)
Bồi dưỡng
sau ĐH (cập
nhật) (10%)
Kỹ năng
hành nghề

(10%)
Kiến
thức
gắn bó
bổ
sung
cho
nhau
Kiến
thức
gắn bó
bổ
sung
cho
nhau
Bằng cử nhân
Luật học
I. Đào tạo đại trà.
Chương trình đại
học có cải tiến và
đổi mới (3 năm)
Luận văn cử
nhân liên quan
đến HNQT
Luận văn cử
nhân không liên
quan đến HNQT
Đào tạo chuyên sâu
một số môn liên
quan HNQT (6

tháng)
CỬ NHÂN
LUẬT HỌC CÓ
TRÌNH ĐỘ CAO
PHỤC VỤ HỘI
NHẬP QUỐC TẾ
II. Đào tạo đại
trà. Chương trình
đại học cũ (3
năm)
Hoạt động
liên quan đến
HNQT
(>3 năm)
Làm việc trong lĩnh
vực không liên quan
trực tiếp đến hội nhập
quốc tế
Chứng chỉ cử nhân
có trình độ cao
phục vụ HNQT
Đổi mới nội dung chương trình, hình thức và phương pháp đào tạo đại học ngành luật
là vấn đề có tính cấp bách.
Có thể trình bày mô hình về mối tương quan giữa các cấp bậc đào tạo cán bộ pháp lý
và cơ cấu các mảng chương trình của mô hình đào tạo cán bộ pháp luật có trình độ cao
phục vụ cho sự nghiệp hội nhập quốc tế của Việt Nam như sau:
Đổi mới việc đào tạo cán bộ pháp luật cần phải được thực hiện theo các phương
hướng sau đây:
- Một là, cần thống nhất về quan điểm và hành động theo hướng cải cách mạnh mẽ. Sự
thống nhất tư tưởng và quan điểm sẽ tạo nên những điều kiện tốt về mặt tinh thần cho

quá trình xây dựng và triển khai các chiến lược đào tạo và chiến lược phát triển của nhà
trường. Trong đào tạo cán bộ pháp lý cần có những định hướng chung, rõ ràng và thiết
thực.
- Hai là, cần tổ chức lại hệ thống chuyên ngành giảng dạy và các khoa chuyên môn. Lấy
đơn vị khoa làm đầu mối triển khai các chuyên ngành đào tạo.
- Ba là, cần phải có sự đổi mới đồng bộ, thiết thực. Quá trình đào tạo luật cần được đổi
mới toàn diện, từ khâu xây dựng nội dung, chương trình đến các lĩnh vực khác như
phương pháp đào tạo, xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật phục vụ đào tạo. Cần sử dụng
mạnh mẽ phương pháp chuyên gia và tăng cường dân chủ trong mọi mặt hoạt động để
tận dụng chất xám, khuyến khích tinh thần cống hiến cho khoa học pháp lý của các thành
viên nhà trường.
- Bốn là, cần có sự đầu tư mạnh mẽ của Nhà nước và xã hội trong công tác đào tạo
luật. Cơ sở vật chất tuy đã được từng bước xây dựng, tạo lập, song vẫn còn chưa đáp
ứng được yêu cầu. Việc mua sắm các trang thiết bị dựa trên cơ sở chỉ tiêu phân bổ hàng
năm, khó có thể cùng lúc giải quyết được các nhu cầu về cơ sở vật chất hiện đại. Cơ sơ
vật chất chưa đáp ứng được đòi hỏi của một trường luật hiện đại. Hiện tại, trường còn
thiếu giảng đường, phòng thi, phương tiện giảng dạy… cho đến không gian dành cho các
hoạt động chuyên môn, hoạt động xã hội.
Sau khi nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về đào tạo cán bộ pháp luật, Ban chủ nhiệm
đề tài đề xuất một số ý kiến sau:
Thứ nhất, Đào tạo cử nhân, thạc sĩ luật và dạy hành nghề luật không nên tách rời mà
cần được xây dựng hợp lý trong một tổng thể. Việc đào tạo bậc cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ
tốt nhất nên trao cho các khoa luật thuộc các trường đại học trong hệ thống của Bộ Giáo
dục và Đào tạo hoặc Trường Đại học Luật thuộc Bộ Tư pháp.
Thứ hai, bên cạnh việc đào tạo về lý luận pháp luật, các cơ sở đào tạo luật cũng cần
đào tạo kỹ năng hành nghề cho các luật gia tương lai, không nên để cho Học viện Tư
pháp giữ vị trí độc quyền trong lĩnh vực này. đào tạo ở bậc đại học chủ yếu là truyền tải
kiến thức cơ bản nhưng cũng cần được học kỹ năng. Nên từng bước tập dượt cho sinh
viên làm quen với case study hay diễn án. Trong thời lượng 4 năm đào tạo, nên giảm bớt
số môn và thời gian dạy các môn chính trị, phụ trợ mà tăng thêm thời gian cho việc học

các kiến thức thực tiễn và học về kỹ năng. Tòa án tối cao thực hiện việc bồi dưỡng
thường xuyên cho đội ngũ thẩm phán, thư ký toà án Không nên giao việc đào tạo nguồn
luật sư cho Học viện tư pháp - một cơ sở của Nhà nước - bởi vì một khi luật sư do cơ sở
của Nhà nước đào tạo, chứng chỉ hành nghề cũng do cơ quan nhà nước cấp, thì luật sư
bị phụ thuộc vào cơ quan nhà nước, không thể hành nghề một cách độc lập, khách quan
được. Cần để cho Hiệp hội luật sư tự đào tạo nguồn bổ sung cho họ.
Thứ ba, các viện nghiên cứu không nên tham gia đào tạo cử nhân, thạc sĩ mà chỉ nên
đào tạo tiến sĩ. Lý do là: các viện nghiên cứu không có đủ cơ sở vật chất, kỹ năng, nghiệp
vụ và đội ngũ giảng viên, chuyên viên để đào tạo cử nhân và thạc sĩ.
Thứ tư, cũng nên dành một thời gian thích hợp cho việc dạy môn Hán Văn, Cổ luật,
tiếng Latinh và Luật La Mã. Trong các môn luật, nên bắt đầu bằng luật dân sự ngay từ
năm thứ nhất hoặc năm thứ hai, giảm bớt và tránh dạy các môn luật công ngay từ ban
đầu.
Thứ năm, Không nên chỉ tuyển nguồn thẩm phán từ đội ngũ thư ký tòa án, mà nên tuyển
dụng rộng hơn từ đội ngũ luật gia nói chung, nhất là từ các luật sư đang hành nghề.
Thứ sáu, cần phải bổ sung, thay đổi một số điểm trong chương trình, nội dung đào tạo. Cần
loại bỏ một số môn học không thực sự liên quan đến chương trình đào tạo cử nhân luật, thí
dụ như các môn: toán học, khoa học trái đất, lịch sử phát triển công nghệ
2.3. Đổi mới chương trình đào tạo thạc sĩ.
Do thời lượng giảng dạy các môn cơ sở quá dài, hầu hết các vấn đề đã được học ở
chương trình đại học, nên dẫn đến tình trạng chán nản, lãng phí về kinh tế và mất nhiều
thời gian của cả giảng viên và học viên. Nhiều môn chuyên ngành đã dành nhiều thời
gian để đề cập đến lý thuyết và chỉ dành một lượng thời gian rất hạn hẹp cho việc phân
tích các tình huống cụ thể. Chương trình đào tạo cử nhân đã trang bị cho sinh viên các
kiến thức cơ bản nhất, vậy nên chăng chúng ta lại lặp lại những điều đã nói ở cấp học
cao hơn? Trong khi các thạc sĩ tương lai cần nhiều thời gian hơn thế để phát triển khả
năng lý luận, nâng cao kiến thức đã được học ở bậc đại học, nâng cao kỹ năng xử lý
công việc cũng như năng lực giải quyết các tình huống cụ thể.
Cần phải có những thay đổi nhất định để đáp ứng yêu cầu đào tạo thạc sĩ thực sự trở
thành những người có trình độ khoa học pháp lý và có khả năng lý luận cao. Đặc biệt,

trong quá trình hội nhập hiện nay, khi mà việc giao lưu không đơn thuần chỉ trên phương
diện kinh tế, mà còn đòi hỏi năng lực pháp lý, sự hiểu biết pháp luật của đối tác, pháp luật
của các quốc gia thành viên
Chương trình đào tạo thạc sĩ luật học nhằm cung cấp cho các học viên khả năng lý luận,
phải nhằm đạt được mục tiêu chung là giúp học viên cao học có kiến thức chuyên môn vững
vàng, có năng lực thực hành và khả năng thích ứng cao trước sự phát triển của khoa học, kỹ
thuật và kinh tế, có khả năng phát hiện và giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành của
mình.
Đối với các thạc sĩ có xu hướng tham gia trực tiếp vào các hoạt động hội nhập quốc
tế, trong thời gian 6 tháng, cần được học thêm một số môn luật liên quan trực tiếp đến hội
nhập quốc tế như sau: 1) Quan hệ quốc tế và Luật về giải quyết xung đột trong quan hệ
quốc tế, 2) Lịch sử tư tưởng pháp luật nước ngoài, 3) Lịch sử các hệ thống pháp luật
nước ngoài, 4) Luật nhân quyền quốc tế, 5) Luật của các nước ASEAN, 6) Luật đầu tư
chung của các nước ASEAN, 7) Các vấn đề trong hội nhập ASEAN, Luật cộng đồng châu
Âu, 8) Luật hình sự quốc tế, 9) Luật thương mại điện tử, 10) Luật về nhượng quyền
thương mại, 11) Luật đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam, và 12) Luật bảo hiểm
quốc tế.
Sau khi học xong các môn này, người học sẽ được cấp một chứng chỉ thạc sĩ có trình
độ cao phục vụ hội nhập quốc tế và sẽ được ưu tiên tuyển dụng vào các cơ quan có hoạt
động thực tiếp hội nhập quốc tế (như ngoại giao, ngoại thương, hải quan, xuất nhập
khẩu, các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài )
Có thể trình bày mô hình hai phương thức (I và II) đào tạo thạc sĩ luật học có trình độ cao phục vụ
hội nhập quốc tế của Việt Nam như sau:
Về kiến thức, chương trình phải bảo đảm bổ sung và nâng cao những kiến thức pháp lý
đã học ở đại học cho học viên, cung cấp những kiến thức lý luận và thực tiễn chuyên sâu
về chuyên ngành luật mà học viên đã lựa chọn.
Bằng Thạc sĩ
Luật học
I. Đào tạo đại trà.
Chương trình cao

học có cải tiến và
đổi mới (3 năm)
Chứng chỉ trình độ
cao phục vụ hội
nhập quốc tế
Luận văn thạc sĩ
liên quan đến
HNQT
Luận văn thạc sĩ
không liên quan
đến HNQT
Đào tạo chuyên sâu
một số môn liên
quan HNQT (6
tháng)
THẠC SĨ
LUẬT HỌC
CÓ TRÌNH
ĐỘ CAO
PHỤC VỤ
HỘI NHẬP
QUỐC TẾ
II. Đào tạo đại trà.
Chương trình cao
học cũ (3 năm)
Hoạt động
liên quan đến
HNQT
(>3 năm)
Làm việc trong lĩnh

vực không liên quan
trực tiếp đến hội nhập
quốc tế
Để thực hiện được việc đổi mới đào tạo cán bộ pháp luật ở các cơ sở đào tạo cao học
theo phương hướng trên, cần tiến hành các công việc cụ thể nhu sau:
1) Bỏ môn triết học khỏi chương trình đào tạo thạc sĩ hoặc nếu có dạy thì chỉ dạy về
triết học pháp quyền.
2) Bỏ việc dạy môn ngoại ngữ chung chung trong chương trình đào tạo thạc sĩ. Các học
viên cần tự học ngoại ngữ chuyên ngành ở các cơ sở phù hợp. Cơ sở đào tạo chỉ tổ
chức thi ngoại ngữ chuyên ngành “đầu ra” cho các học viên. Cần tăng thêm thời lượng
cho các môn học cung cấp kiến thức pháp lý trực tiếp phục vụ công tác hội nhập.
3) Bỏ môn tin học khỏi chương trình đào tạo thạc sĩ vì học viên có thể theo học môn
này ở các Trung tâm đào tạo tin học. Nếu cần thiết, các cơ sở đào tạo sau đại học chỉ cần
kiểm tra “đầu ra” cho các học viên.
4) Bỏ môn phương pháp dạy học đại học trong chương trình đào tạo thạc sĩ, vì chỉ
những ai làm nghề giảng dạy đại học mới cần đến môn học này.
Việc loại các môn triết học, ngoại ngữ, tin học, phương pháp dạy học đại học ra khỏi
chương trình đào tạo thạc sĩ sẽ rút ngắn thời gian đào tạo được một năm và tăng tính chuyên
nghiệp của các thạc sĩ luật.
4) Dạy học theo phương pháp mới, coi học viên là trung tâm. Cung cấp đề cương bài
giảng và danh mục tài liệu tham khảo sớm cho học viên nghiên cứu trước. Tăng cường
sự trao đổi, thảo luận giữa giảng viên và học viên.
5) Nhất thiết không lặp lại những kiến thức cơ bản, các chuyên đề cần được thiết kế
theo các lĩnh vực và cập nhật kịp thời thông tin và gắn với thực tiễn. Tập trung xây dựng
các chuyên đề trong một số lĩnh vực cấp thiết hiện nay như pháp luật cạnh tranh, bán phá
giá
6) Liên kết với các chuyên gia, cán bộ làm công tác thực tiễn để tham gia đào tạo một
số kỹ năng cơ bản cho học viên trong các lĩnh vực như: Đàm phán hợp đồng; giải quyết
tranh chấp dân sự, tranh chấp thương mại; hoà giải các tranh chấp; soạn thảo các văn
bản, hợp đồng, thoả thuận

7) Các cơ sở đào tạo cần có những chương trình bồi dưỡng kiến thức linh hoạt phục vụ
cho đối tượng (cả cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ) chỉ có nhu cầu được bồi dưỡng ngắn hạn theo
các chuyên đề trong từng lĩnh vực cụ thể phục vụ trực tiếp cho công tác hội nhập.
2.4. Đổi mới chương trình đào tạo tiến sĩ.
Chương trình đào tạo phải giúp nghiên cứu sinh có trình độ cao về lý thuyết và thực
hành, có năng lực nghiên cứu độc lập, sáng tạo, giải quyết những vấn đề khoa học và
hướng dẫn hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực pháp luật do nghiên cứu sinh lựa chọn.
Về kiến thức, chương trình đào tạo phải bảo đảm hoàn chỉnh kiến thức pháp lý cơ bản
cho nghiên cứu sinh, cung cấp những kiến thức lý luận và thực tiễn chuyên sâu.
Để khắc phục được những khiếm khuyết, bất cập của quá trình đào tạo tiến sĩ đã nêu ở
trên, các cơ sở đào tạo nghiên cứu sinh luật ở Việt Nam cần thực hiện những phương hướng
và giải pháp cụ thể như sau:
+ Đổi mới việc định hướng, phê duyệt các đề tài luận án tiến sĩ.
- Các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật, đặc biệt là các tiểu ban chuyên môn, sẽ chủ động hơn
trong việc định hướng các đề tài luận án tiến sĩ cho các nghiên cứu sinh lựa chọn.
- Các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật khuyến khích các nghiên cứu sinh chủ động đề
xuất các đề tài luận án đáp ứng các yêu cầu của lý luận và thực tiễn hoặc giải quyết các
vấn đề cấp bách trong thực tiễn.
- Việc tuyển nghiên cứu sinh nên chủ yếu dựa vào trình độ chuyên môn và khả năng
nghiên cứu của các ứng viên (thể hiện qua đề cương luận án); Không nên tổ chức thi
môn chuyên ngành và ngoại ngữ. Các ứng viên chỉ cần trình chứng chỉ ngoại ngữ của
những cơ sở đào tạo có uy tín.
- Việc phê duyệt đề tài luận án cần được các tiểu ban chuyên ngành, khoa sau đại học
và Hiệu trưởng thực hiện một cách nhanh gọn, kịp thời và dựa trên những căn cứ xác
đáng, tránh trùng lặp.
- Các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật khuyến khích, động viên nghiên cứu sinh sử dụng
phương pháp so sánh, đối chiếu pháp luật Việt Nam với pháp luật của các nước khác
hoặc pháp luật quốc tế trong quá trình nghiên cứu đề tài luận án.
- Các tiểu ban chuyên môn thường xuyên cập nhật và đổi mới việc định hướng các đề
tài luận án cho phù hợp với yêu cầu mới của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, xây

dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, mở rộng và làm sâu sắc việc hội
nhập quốc tế của Việt Nam.
- Mở rộng phạm vi các cơ quan tham gia vào việc định hướng danh mục các đề tài luận
án tiến sĩ.
- Công bố rộng rãi kết quả nghiên cứu của các luận án trên website của trường; xuất
bản các cuốn sách, bài báo, bài giới thiệu luận án ở trong nước cũng như ở phạm vi quốc
tế.
- Giảm bớt những môn học không liên quan đến việc nâng cao trình độ chuyên môn của
nghiên cứu sinh;
- Các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật và giảng viên áp dụng rộng rãi công nghệ thông
tin với những phương tiện hiện đại trong việc trang bị kiến thức cũng như thông tin về
khóa học cho nghiên cứu sinh;
+ Đổi mới mối quan hệ giữa người hướng dẫn với nghiên cứu sinh
Mối quan hệ giữa người hướng dẫn khoa học và nghiên cứu sinh cần được đổi mới
theo các giải pháp sau:
a) Giữa người hướng dẫn và nghiên cứu sinh thường xuyên có sự gặp gỡ trao đổi về
học thuật và kỹ năng viết luận án.
Mặc dù hiện nay và trong tương lai, trường vẫn đào tạo nghiên cứu sinh theo hình thức
tại chức, nhưng nghiên cứu sinh cần tăng thời gian làm việc với người hướng dẫn (mỗi
tháng nên gặp nhau ít nhất một lần), tham gia sinh hoạt khoa học tại bộ môn, tham gia
các hội thảo, diễn đàn khoa học tại Trường, tham gia giảng bài hoặc hướng dẫn thảo luận
cho sinh viên đại học để tăng cơ hội trao đổi học thuật, trau dồi thêm kiến thức với
người hướng dẫn.
b) Người hướng dẫn tăng cường quan tâm đến việc hướng dẫn nghiên cứu sinh
Trong bất kỳ trường hợp nào, người hướng dẫn cần nắm được tình hình công tác,
nghiên cứu khoa học của nghiên cứu sinh để thể kịp thời đôn đốc, thúc giục nghiên cứu
sinh thực hiện nghiêm túc kế hoạch nghiên cứu đã được nhà trường quy định.
Khi nghiên cứu sinh trình dự thảo luận án, người hướng dẫn cần khẩn trương đọc và
nhận xét đầy đủ, góp ý chu đáo cho nghiên cứu sinh chỉnh sửa luận án, không để nghiên
cứu sinh phải chờ đợi một thời gian dài, bảo đảm thực hiện đúng kế hoạch nghiên cứu

mà trường đã đề ra.
c) Người hướng dẫn không áp đặt quan điểm của mình đối với nghiên cứu sinh nhưng
cũng không để nghiên cứu sinh tuỳ tiện thể hiện quan điểm của mình mà không có ý kiến
gì.
Người hướng dẫn chỉ có thể vận động nghiên cứu sinh đi theo các quan điểm của mình
trên cơ sở có lập luận, có dẫn chứng có sức thuyết phục chứ không áp đặt các quan
điểm của mình đối với nghiên cứu sinh. Nếu người hướng dẫn không quan tâm hướng
dẫn nhiệt tình nghiên cứu sinh làm luận án, để nghiên cứu sinh không viết được luận án có
chất lượng, không bảo vệ luận án đúng hạn thì người hướng dẫn cũng phải chịu một
phần trách nhiệm.
d) Tăng cường các yếu tố bảo đảm cho nghiên cứu sinh thực hiện tốt các quyền và
nghĩa vụ của họ.
- Các cán bộ hướng dẫn nghiên cứu sinh cần thường xuyên nâng cao trình độ chuyên
môn, ngoại ngữ, tin học và cập nhật các vấn đề thời sự về lý luận và thực tiễn pháp lý để
hướng dẫn khoa học cho nghiên cứu sinh có chất lượng hơn;
- Đưa thêm một số môn học bắt buộc và tự chọn vào chương trình đào tạo tiến sĩ, thí
dụ như môn phương pháp nghiên cứu khoa học; Giáo dục tính tự giác và có cơ chế thích
hợp để rèn luyện phương thức tự học tập, tự nghiên cứu của nghiên cứu sinh;
- Các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật sẽ tiếp tục tăng cường và hiện đại hoá các cơ sở
vật chất và phương tiện kỹ thuật phục vụ cho việc đào tạo nghiên cứu sinh có chất lượng
(như thư viện, giảng đường, cơ sở dữ liệu, máy tính, máy sao chụp tài liệu, in ấn )
+ Đổi mới, cải tiến việc đánh giá luận án tiến sĩ.
- Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện đúng quy định của Luật Giáo dục về việc
phân cấp cho Hiệu trưởng có quyền ra quyết định công nhận trúng tuyển nghiên cứu sinh,
ra quyết định thành lập Hội đồng Chấm luận án tiến sĩ cấp nhà nước, ra quyết định công
nhận học vị và cấp bằng tiến sĩ cho nghiên cứu sinh đã tốt nghiệp.
- Đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo bỏ thủ tục phản biện độc lập đối với luận án của
nghiên cứu sinh bởi vì việc này không tôn trọng Hội đồng đánh giá luận án ở bộ môn và
làm kéo dài thời gian đánh giá kết quả nghiên cứu của nghiên cứu sinh.
- Thực hiện thường xuyên việc khảo sát, học tập những kinh nghiệm tốt của các trường

khác trong nước và ở nước ngoài phù hợp với điều kiện của cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật
trong việc hướng dẫn khoa học và đánh giá luận án tiến sĩ của nghiên cứu sinh.
Về lâu dài, cũng cần thay thế cơ chế giao chỉ tiêu tuyển sinh từ Bộ Giáo dục và Đào tạo
bằng cơ chế đăng ký và bảo vệ chỉ tiêu của từng cơ sở trước Bộ. Căn cứ vào nhu cầu
thực tế của xã hội về đào tạo tiến sĩ ở từng cơ sở thông qua số thí sinh đăng ký dự thi
(tuyển) năm trước và năng lực đào tạo của mỗi cơ sở đó, các cơ sở tiến hành đăng ký và
bảo vệ kế hoạch đào tạo trước cơ quan quản lý là Bộ Giáo dục và Đào tạo để được chấp
nhận chỉ tiêu đào tạo. Cách làm này tạo sự chủ động về chuẩn bị năng lực đào tạo của
các cơ sở cũng như sự đảm bảo sự công bằng giữa các cơ sở đào tạo, đồng thời phù
hợp với chủ trương đổi mới quản lý theo hướng nâng cao tính tự chủ và trách nhiệm xã
hội, nâng cao năng lực cạnh tranh của từng cơ sở đào tạo sau đại học và toàn hệ thống
giáo dục sau đại học trong cả nước.
+ Đổi mới cơ chế tuyển nghiên cứu sinh
Cần thay đổi cơ chế tuyển sinh đào tạo tiến sĩ theo hướng thay thế chế độ thi tuyển
bằng chế độ xét tuyển, trong đó đặt trọng tâm vào việc xem xét, đánh giá đề cương
nghiên cứu của thí sinh. Khác với đào tạo ở các trình độ khác (cử nhân, thạc sĩ), đào tạo
trình độ tiến sĩ không (hoặc ít) đòi hỏi nghiên cứu sinh phải lên lớp nghe giảng, mà chủ
yếu phải tự lực, độc lập trong nghiên cứu; họ phải có khả năng sáng tạo, kiến giải, khả
năng hình thành các ý tưởng để có thể tạo ra những tri thức mới trong quá trình nghiên
cứu Những khả năng này thể hiện chủ yếu thông qua đề cương nghiên cứu mà nghiên
cứu sinh phải chuẩn bị trước đó và hình thành nên hồ sơ xét tuyển. Thông qua việc xem
xét, đánh giá đề cương nghiên cứu, cơ sở đào tạo sẽ đánh giá được năng lực nghiên
cứu thông qua khả năng tiếp cận vấn đề và giải quyết đề tài, ý nghĩa khoa học, tính khả
thi và triển vọng của đề tài nghiên cứu, khả năng thực hiện cũng như sự chuẩn bị của thí
sinh, một yếu tố quan trọng làm nên sự thành công trong nghiên cứu. Phương thức này
cũng đã được các nước khác trên thế giới áp dụng, ví dụ Thuỵ Điển. Trong Chương trình
hợp tác đào tạo tiến sĩ tới đây giữa Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh và Trường Đại học Tổng hợp Lund - Thuỵ Điển, việc tuyển sinh
nghiên cứu sinh cũng sẽ theo phương thức nêu trên.
Theo quy định hiện hành, thí sinh phải trải qua kỳ thi môn Ngoại ngữ và môn chuyên

ngành. Việc thi môn chuyên ngành với những yêu cầu về kiến thức cơ bản hoặc nâng cao
ở mức độ nhất định không thật sự cần thiết khi thí sinh đang có (hoặc đang làm việc
chuyên môn) ở đúng chuyên ngành đó (ví dụ thí sinh đang là giáo viên giảng dạy bộ môn
Luật kinh tế mà thi môn chuyên ngành là Luật kinh tế trong chuyên ngành Luật kinh tế),
càng không cần thiết và không công bằng nếu thí sinh đang làm việc và có hướng nghiên
cứu ở môn luật khác (ví dụ thí sinh có chuyên môn ở bộ môn Luật đất đai có nguyện vọng
làm đề tài về Luật đất đai nhưng vẫn phải dự thi môn Luật kinh tế bởi Luật đất đai thuộc
chuyên ngành Luật kinh tế). Hơn nữa, một môn thi khó có thể đánh giá được đầy đủ năng
lực nghiên cứu của thí sinh Do vậy, nên loại bỏ việc thi môn chuyên ngành đối với thí
sinh thi tuyển vào hệ nghiên cứu sinh.
Đối với nghiên cứu sinh, với chức năng chủ yếu là nghiên cứu, ngoại ngữ là điều kiện đặc
biệt cần thiết để có thể tham khảo tài liệu tiếng nước ngoài, tham gia hoạt động quốc tế về
chuyên môn để phục vụ nghiên cứu đề tài. Điều này càng quan trọng đối với một tiến sĩ
trong tương lai để có thể tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế. Do vậy việc đòi hỏi một
trình độ ngoại ngữ nhất định đối với thí sinh nghiên cứu sinh là một "điều kiện cần". Tuy
nhiên, không nhất thiết phải tổ chức thi môn ngoại ngữ qua kỳ thi tuyển nghiên cứu sinh,
mà xuất phát từ yếu tố kinh tế, có thể chỉ yêu cầu thí sinh chứng minh trình độ ngoại ngữ
qua một chứng chỉ quốc tế hoặc một hình thức khác, coi đó là một điều kiện để có thể dự
tuyển đào tạo tiến sĩ.
+ Về chuyên ngành đào tạo và đề tài tiến sĩ
Để đáp ứng yêu cầu về hội nhập quốc tế, những cơ sở đào tạo tiến sĩ luật chưa có
chuyên ngành Luật quốc tế cần sớm được bổ sung đào tạo chuyên ngành này, bởi đây là
chuyên ngành có đối tượng và nội dung là các môn luật liên quan trực tiếp đến hội nhập
quốc tế. Ngoài ra, các cơ sở đào tạo luật cần xây dựng danh mục các đề tài tiến sĩ ở từng
chuyên ngành căn cứ vào nhu cầu giải quyết những vấn đề cấp thiết đã và đang đặt ra
trong lĩnh vực khoa học, có các hình thức giới thiệu và khuyến khích việc lựa chọn các đề
tài tiến sĩ liên quan đến hội nhập quốc tế để tăng tỉ lệ các đề tài với nội dung này trên tổng
số các đề tài tiến sĩ. Chẳng hạn, hàng năm tiểu ban các chuyên ngành luật có thể xây
dựng những đề tài dạng này và giới thiệu trên trang Web để định hướng việc lựa chọn
của các thí sinh thi tuyển vào hệ nghiên cứu sinh, khi họ xác định hướng nghiên cứu và

quyết định dự xét tuyển.
+ Về nội dung chương trình, hình thức và quản lý quá trình đào tạo tiến sĩ.
Đây là các vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo tiến sĩ. Sẽ khó có
chất lượng đào tạo tốt nếu chương trình đào tạo không phù hợp và việc quản lý lỏng lẻo,
không đạt yêu cầu.
Đối với mỗi đề tài, người hướng dẫn phải giúp nghiên cứu sinh xác định các chuyên đề tiến
sĩ phù hợp và thiết thực cho quá trình đào tạo và việc thực hiện luận án. Cơ sở đào tạo phải
xây dựng các tiêu chí và nguyên tắc xác định các chuyên đề tiến sĩ để áp dụng thống nhất,
khắc phục tình trạng ngay chính bản thân người hướng dẫn cũng chưa định hướng được việc
xác định vấn đề này.

×