Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Đề tài những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của việt nam sang thị trường asean từ nay đến 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 96 trang )



TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƢƠNG
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
***




KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:

NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM ĐẨY MẠNH
XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM
SANG THỊ TRƢỜNG ASEAN TỪ NAY ĐẾN 2010


Sinh viên thực hiện : Chu Thị Tâm
Lớp : A6
Khóa : 41B - KTNT
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Đào Thị Thu Giang








Hà Nội, tháng 11/2006


Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
thị trường ASEAN từ nay đến 2010



Chu Thị Tâm- A6K41B –KTNT- FTU
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài:
Trong quá trình thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu của Việt Nam thì
vấn đề mở rộng thị trường luôn là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu.
Thị trường ASEAN là một thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng của các doanh
nghiệp Việt Nam, nhất là khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN
vào ngày 28/7/1995 và tham gia Hiệp định cắt giảm thuế quan ưu đãi có hiệu lực
chung CEPT.
Tuy nhiên khi đã chính thức bước vào sân chơi của ASEAN thì thuận lợi
cũng nhiều và khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và nền kinh tế
nói chung không ít. Liệu Việt Nam có khắc phục được những bất lợi và phát huy
được tối đa các thuận lợi hay không? Khi tham gia vào thị trường ASEAN thì hàng
xuất khẩu của Việt Nam phải làm thế nào để cạnh tranh được và gia tăng kim ngạch
vào thị trường ASEAN. Các doanh nghiệp Việt Nam phải làm sao để khai thác
được các lợi thế khi đã trở thành thành viên của ASEAN và bước vào khu vực mậu
dịch tự do ASEAN (AFTA ). Đó là những vấn đề cần phải được nghiên cứu một
cách hệ thống và khoa học. Việc Việt Nam tham gia vào thị trường ASEAN một
cách có hiệu quả nhất, đặc biệt là khi thời điểm Việt Nam thực hiện đầy đủ cam kết
theo AFTA đang đặt ra những yêu cầu cấp bách không chỉ cho các nhà hoạch định
chính sách, các nhà kinh tế mà cả cho các nhà nghiên cứu phải nhanh chóng tìm ra
những đối sách thích hợp trước các tác động của quá trình hội nhập ASEAN đối với
nền kinh tế quốc dân.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đó, em đã chọn đề tài: “ Những giải pháp

chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trƣờng
ASEAN từ nay đến 2010” làm khoá luận tốt nghiệp của mình
2. Mục đích nghiên cứu:
 Giới thiệu về hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN), đặc điểm về
thị trường ASEAN
Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
thị trường ASEAN từ nay đến 2010



Chu Thị Tâm- A6K41B –KTNT- FTU
2
 Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường
ASEAN từ năm 1996 đến nay.
 Một số giải pháp để thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị
trường ASEAN từ nay đến 2010.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường
ASEAN từ năm 1996 đến nay từ đó có cái nhìn tổng quát về xuất khẩu hàng hoá
của Việt Nam sang thị trường ASEAN và đưa ra một số giải pháp đẩy mạnh xuất
khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường ASEAN từ nay đến 2010.
4. Phƣơng Pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn – thu thập thông tin, số liệu
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo, tạp chí , Internet, và các
phương pháp duy vật biện chứng, phân tích kinh tế, suy luận logic, tổng hợp thống
kê, so sánh, đánh giá, phương pháp suy luận quy nạp, diễn dịch… để phục vụ mục
đích nghiên cứu.
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài mục lục, lời mở đầu, lời kết và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận
bao gồm 3 chương:

Chương I: Giới thiệu khái quát về thị trường ASEAN
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường
ASEAN từ năm 1996 đến nay.
Chương III: Những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của
Việt Nam sang thị trường ASEAN từ nay đến 2010
Do điều kiện về thời gian, nguồn tài liệu và trình độ còn nhiều hạn chế nên
khoá luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Do vậy, em rất mong nhận được sự
chỉ bảo và đóng góp ý kiến của các thầy cô để em có thể hoàn thiện khả năng
nghiên cứu của mình. Nhân đây, em cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới cô
giáo - Th.s Đào Thu Giang đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp em hoàn thành khoá
luận tốt nghiệp này.
Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
thị trường ASEAN từ nay đến 2010



Chu Thị Tâm- A6K41B –KTNT- FTU
3
Chƣơng I: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƢỜNG ASEAN
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HIỆP HỘI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
(ASEAN)
1. Quá trình hình thành và phát triển:
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam á (ASEAN) ra đời trong bối cảnh có nhiều
biến động đang diễn ra trong khu vực và trên thế giới, bao gồm cả những thay đổi từ
bên ngoài tác động vào khu vực cũng như những vấn đề nảy sinh từ bên trong mỗi
nước. Để đối phó với các thách thức này, xu hướng co cụm lại trong một tổ chức
khu vực với một hình thức nào đó để tăng cường sức mạnh bản thân đã xuất hiện và
phát triển trong các nước thành viên tương lai của ASEAN. Trước ASEAN, ở Đông
Nam á đã có một vài tổ chức khu vực ra đời và tồn tại được một thời gian ngắn hoặc
đã manh nha hình thành. Đó là Hiệp hội Đông Nam á ( The Association of

Southeast Asia- ASA ) được thành lập ngày 31/7/1961 gồm Thái Lan, Philippin và
Liên bang Malaysia và tổ chức MAPHILINDO ra đời tháng 8 năm 1963 bao gồm
Malaysia , Philippin và Indonesia.
Mặc dù vậy, những nỗ lực theo hướng trên vẫn được xúc tiến và ngày
8/8/1967 Bộ trưởng Ngoại giao các nước Indonesia, Thái Lan, Philippin, Singapore
và Phó Thủ tướng Malaysia ký tại Băng-cốc bản Tuyên bố thành lập Hiệp hội các
nước Đông Nam á (ASEAN). Bản Tuyên bố đó được coi như là hiến chương của
ASEAN. Nội dung Tuyên bố thể hiện ba mục tiêu lớn của Hiệp hội mà được xác
định là hợp tác để phát triển toàn diện trên mọi lĩnh vực thuộc mối quan tâm và
quyền lợi chung của tất cả các nước trong khu vực:
a- Hợp tác kinh tế và xã hội giữa các quốc gia thành viên với niềm tin tưởng
rằng sự tăng cường kinh tế là nguồn gốc của tiến bộ xã hội và văn hoá.
b- Hợp tác vì hoà bình và ổn định khu vực bằng việc triệt để tôn trọng công
bằng và ưu tiên luật pháp trong quan hệ giữa các nước trong khu vực và
nghiêm chỉnh tuân theo các nguyên tắc của Hiến chương LHQ.
c- Hợp tác với các tổ chức quốc tế và khu vực khác.
Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
thị trường ASEAN từ nay đến 2010



Chu Thị Tâm- A6K41B –KTNT- FTU
4
Hiện nay tổ chức này có 10 hội viên bao gồm 5 nước hội viên nguyên thuỷ
và 5 hội viên gia nhập sau này là Brunei Darussalam (8-1-1984), Việt Nam (28-7-
1995), Lào và Myanmar (23-7-1997), Campuchia (30-4-1999)
Cùng với sự phát triển cả về quy mô thành viên và chiều sâu hợp tác, tới nay,
ASEAN thực sự là một liên kết khu vực làm tăng sức mạnh của các nước Đông
Nam á. Vị thế của ASEAN đang ngày càng quan trọng trên trường quốc tế và khu
vực, trở thành một đối trọng với các quốc gia lớn ở châu á như Nhật Bản, Trung

Quốc, và ấn Độ. Với các chương trình lớn về hợp tác kinh tế, tự do hoá thương mại
hàng hoá, dịch vụ và đầu tư, khả năng bổ sung và thay thế các nguồn lực sản xuất
giữa các nước trong khu vực đang được tăng lên sẽ dẫn tới hiệu quả cao trong sản
xuất và tiêu dùng của thị trường từng nước thành viên, thúc đẩy thương mại và đầu
tư nội bộ khu vực cũng như giữa khu vực với phần còn lại của nền kinh tế thế
giới, từ đó phát triển kinh tế các thành viên.
2. Cơ cấu tổ chức:
Cơ cấu tổ chức hiện nay của ASEAN là kết quả của một quá trình hoàn thiện
từng bước, song song với việc phát triển của tổ chức ASEAN trong gần 30 năm qua.
Khi mới thành lập vào năm 1967, bộ máy ASEAN còn rất giản đơn, bao gồm bốn
đầu mối hay bốn cơ chế chủ yếu: Hội nghị hàng năm của các Bộ trưởng Ngoại giao
ASEAN (AMM), một Uỷ ban thường trực ASEAN (ASC) để điều phối các công
việc thường nhật của ASEAN giữa các Hội nghị AMM. Các Uỷ ban chuyên trách
và các Uỷ ban thường trực gồm các chuyên gia và quan chức trên các lĩnh vực cụ
thể và Ban thư ký Quốc gia ở mỗi nước thành viên để thay mặt nước mình thực hiện
các công việc cuả Hiệp hội và phục vụ các cuộc họp của ASEAN.
Sau một quá trình hoàn thiện, với mốc quan trọng nhất là các quyết định của
4 Hội nghị Cấp cao ASEAN các năm 1976, 1977, 1987 và đặc biệt là vào 1992, cơ
cấu tổ chức chung của ASEAN cũng như chức năng của từng bộ phận đã từng bước
được hình thành và củng cố. Cơ cấu tổ chức của ASEAN hiện nay như sau:


Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
thị trường ASEAN từ nay đến 2010



Chu Thị Tâm- A6K41B –KTNT- FTU
5











2.1 Hội nghị những ngƣời đứng đầu Nhà nƣớc/chính phủ ASEAN (ASEAN
Summit)
Hội nghị những người đứng đầu Nhà nước/chính phủ ASEAN hay còn gọi
là Hội nghị Cấp cao ASEAN và đó là cơ quan quyền lực cao nhất của ASEAN. Hội
nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 4 họp tại Singapore năm 1992 quyết định những
Người đứng đầu chính phủ ASEAN họp chính thức 3 năm một lần và họp không
chính thức ít nhất 1 lần trong khoảng thời gian 3 năm đó để đề ra phương hướng và
chính sách chung cho hoạt động của ASEAN và đưa ra quyết định về các vấn đề
lớn. Từ sau Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 5, giữa các cuộc họp Cấp cao chính
thức 3 năm một lần, hàng năm đều họp Cấp cao không chính thức.
2.2. Hội nghị Bộ trƣởng ASEAN (ASEAN Ministerial Meeting-AMM)
Theo Tuyên bố Băng cốc năm 1967, AMM là hội nghị hàng năm của các Bộ
trưởng Ngoại giao ASEAN có trách nhiệm đề ra và quyết định chính sách cụ thể
của ASEAN trên cơ sở các phương hướng và chính sách chung của Hội Nghị
Thượng đỉnh ASEAN, trong đó tập trung chủ yếu vào sự hợp tác trên các
lĩnh vực chính trị, an ninh, ngoại giao, văn hoá và xã hội. AMM được tổ chức
ít nhất mỗi năm một lần và có các hội nghị ngoại trưởng không chính thức
Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
thị trường ASEAN từ nay đến 2010




Chu Thị Tâm- A6K41B –KTNT- FTU
6
khi cần thiết. AMM cũng là cơ quan có trách nhiệm hàng đầu trong việc điều
hành các quan hệ của Hiệp Hội với bên ngoài.
AMM và AEM có trách nhiệm báo cáo chung lên những Người đứng đầu
chính phủ ASEAN tại Hội nghị Cấp cao ASEAN .
2.3. Hội nghị Bộ trƣởng kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Ministers-AEM)
Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN là cơ cấu điều hành và hoạch định hợp
tác cao nhất trên lĩnh vực kinh tế của ASEAN. Cũng như AMM, AEM họp chính
thức hàng năm. Ngoài ra AEM có thể họp không chính thức khi cần thiết nhằm chỉ
đạo các mặt hợp tác kinh tế trong ASEAN . AEM có trách nhiệm phải báo cáo công
việc lên cho những Người đứng đầu Chính phủ ASEAN tại các Hội nghị Cấp cao.
Được sự phân công của chính phủ, Bộ trưởng Thương Mại Việt Nam tham gia các
AEM.
Trong AEM có Hội đồng AFTA (Khu vực mậu dịch tự do ASEAN) được
thành lập theo quyết định của Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 4 năm 1992 tại
Singapore để theo dõi, phối hợp và báo cáo việc thực hiện chương trình ưu đãi quan
thuế có hiệu lực chung (CEPT) của AFTA.
2.4. Hội nghị Bộ trƣởng các ngành:
Trong những thập kỷ đầu, Hội nghị Bộ trưởng của một ngành trong hợp tác
kinh tế ASEAN sẽ được tổ chức khi cần thiết để thảo luận sự hợp tác trong ngành
cụ thể đó. Đến nay, ASEAN đã chính thức có cơ chế Hội nghị Bộ trưởng tài chính
(AFMM) và Hội nghị Bộ trưởng Giao thông vận tải (ATM) và các hội nghị Bộ
trưởng năng lượng, Khoa học công nghệ và môi trường, Lao động, Nông nghiệp và
phát triển nông thôn, Lâm nghiệp, v.v
2.5. Các hội nghị cấp Bộ trƣởng hoặc tƣơng đƣơng
Trên một số lĩnh vực hợp tác ASEAN khác như y tế, phúc lợi xã hội, giáo
dục, luật pháp, đầu tư, du lịch có thể tiến hành các Hội nghị cấp Bộ trưởng hoặc
người đứng đầu của các ngành khi cần thiết để điều hành các chương trình hợp tác

trong các lĩnh vực này.
Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
thị trường ASEAN từ nay đến 2010



Chu Thị Tâm- A6K41B –KTNT- FTU
7

2.6. Hội nghị liên tịch các Bộ trƣởng (Join ministerial meeting-JMM)
Hội nghị liên tịch các Bộ trưởng được tổ chức khi cần thiết để thúc đẩy sự
hợp tác giữa các ngành và trao đổi ý kiến về hoạt động của ASEAN . JMM bao gồm
các Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng kinh tế ASEAN , dưới sự đồng chủ tịch của
Chủ tịch AMM và Chủ tịch AEM. JMM có thể được triệu tập theo yêu cầu của Bộ
trưởng Ngoại giao hoặc của Bộ trưởng kinh tế. JMM được triệu tập lần đầu tiên tại
Ku-ching (Malaysia) 2/1991 để trao đổi ý kiến về vai trò của ASEAN trong APEC.
Trong thời gian gần đây, còn có thêm hình thức JMM giữa các Bộ trưởng
Ngoại giao, kinh tế và Tài chính.
2.7. Tổng thƣ ký ASEAN
Được những Người đứng đầu Chính phủ ASEAN bổ nhiệm theo khuyến
nghị của Hội nghị AMM với nhiệm kỳ là 5 năm và có thể gia hạn thêm, nhưng
không quá một nhiệm kỳ nữa.
Tổng thư ký ASEAN có hàm Bộ trưởng với quyền hạn lớn hơn theo
quyết định của Hội nghị Cấp cao ASEAN 1992: khởi xướng, khuyến nghị và phối
hợp các hoạt động của ASEAN , nhằm giúp nâng cao hiệu quả các hoạt động và
hợp tác của ASEAN. Tổng thư ký ASEAN chịu trách nhiệm trước Hội nghị Cấp
cao ASEAN; Các Hội nghị Bộ trưởng ASEAN khi đang họp và trước Chủ tịch Uỷ
ban thường trực ASEAN giữa các kỳ họp. Tổng thư ký ASEAN , cũng chủ toạ các
cuộc họp của ASC thay cho Chủ tịch ASC trừ phiên họp đầu tiên và cuối cùng.
Bên cạnh đó, Tổng thư ký được tham dự các cuộc họp Tư vấn chung (Joint

Consultative Meeting-JCM) với các quan chức cao cấp ASEAN và các Tổng
giám đốc ASEAN; và thông báo kết quả các kỳ họp liên Hội nghị AMM và
AEM.
2.8. Uỷ ban thƣờng trực ASEAN ( ASEAN Standing committee-ASC)
ASC bao gồm chủ tịch là Bộ trưởng ngoại giao của nước đăng cai Hội nghị
AMM sắp tới, Tổng thư ký ASEAN và tổng Giám đốc của các Ban thư ký ASEAN
Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
thị trường ASEAN từ nay đến 2010



Chu Thị Tâm- A6K41B –KTNT- FTU
8
quốc gia. ASC thực hiện công việc của AMM trong thời gian giữa 2 kỳ họp và báo
cáo trực tiếp cho AMM.
2.9. Cuộc họp các quan chức cao cấp ( Senior Officials Meeting-SOM)
SOM được chính thức coi là một bộ phận của cơ cấu trong ASEAN tại Hội
nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 3 tại Ma-ni-la 1987. SOM chịu trách nhiệm về hợp
tác chính trị ASEAN và họp khi cần thiết; báo cáo trực tiếp cho AMM.
2.10. Cuộc họp các quan chức kinh tế cao cấp (Senior Economic Officials
Meeting-SEOM)
SEOM cũng đã được thể chế hoá chính thức thành một bộ phận của cơ cấu
ASEAN tại Hội nghị Cấp cao Ma-ni-la 1987. Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN 4 năm
1992, 5 uỷ ban kinh tế ASEAN đã bị giải tán và SEOM được giao nhiệm vụ theo
dõi tất cả các hoạt động trong hợp tác kinh tế ASEAN . SEOM họp thường kỳ và
báo cáo trực tiếp cho AEM.
2.11. Cuộc họp các quan chức cao cấp khác
Ngoài ra có các cuộc họp các quan chức cao cấp về tài chính, giao thông vận
tải, môi trường, ma tuý cũng như của các uỷ ban chuyên ngành ASEAN như phát
triển xã hội, khoa học và công nghệ, các vấn đề công chức, văn hoá và thông tin.

Các cuộc họp này báo cáo cho ASC và Hội nghị các Bộ trưởng liên quan.
2.12. Cuộc họp tƣ vấn chung (Joint Consultative Meeting-JCM)
Cơ chế họp JCM được lập ra theo quyết định của Hội nghị Cấp cao ASEAN
năm 1987 tại Manila. JCM bao gồm Tổng thư ký ASEAN , SOM, SEOM, các Tổng
giám đốc ASEAN. JCM được triệu tập khi cần thiết dưới sự chủ toạ của Tổng thư
ký ASEAN để thúc đẩy sự phối hợp giữa các quan chức liên ngành. Tổng thư ký
ASEAN sau đó thông báo kết quả trực tiếp cho AMM và AEM.
2.13. Ban thƣ ký ASEAN quốc gia
Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
thị trường ASEAN từ nay đến 2010



Chu Thị Tâm- A6K41B –KTNT- FTU
9
Mỗi nước thành viên ASEAN đều có Ban thư ký quốc gia đặt trong bộ máy
của Bộ Ngoại giao để tổ chức, thực hiện và theo dõi các hoạt động liên quan đến
ASEAN của nước mình. Ban thư ký quốc gia do một Tổng Vụ trưởng phụ trách.
2.14. Ban thƣ ký ASEAN
Ban thư ký ASEAN được thành lập theo Hiệp định ký tại Hội nghị Cấp cao
lần thứ hai Ba-li, 1976 để tăng cường phối hợp thực hiện các chính sách, chương
trình và các hoạt động giữa các bộ phận khác nhau trong ASEAN. Hội nghị Cấp cao
lần thứ tư tại Singapore năm 1992 đã thoả thuận tăng cường Ban thư ký ASEAN để
nó có thể thực hiện hữu hiệu hơn các hoạt động của ASEAN . Theo thoả thuận, Ban
thư ký ASEAN sẽ có một cơ cấu mới và chức năng, trách nhiệm rộng lớn hơn trong
việc đề xuất, khuyến nghị, phối hợp và thực hiện các hoạt động của ASEAN
3. Nguyên tắc hoạt động:
Sau gần ba thập kỷ tồn tại và phát triển, các Quốc gia thành viên ASEAN đã
dần cùng nhau xây dựng và khẳng định các nguyên tắc chính làm cơ sở cho quan hệ
trong nội bộ và Quốc gia thành viên của Hiệp hội và giữa các nước này với các

nước khác trong và ngoài khu vực. Những nguyên tắc đó đã được phản ánh trong
nhiều văn kiện được ASEAN thông qua. Nổi lên là:
3.1- Các nguyên tắc làm nền tảng cho quan hệ giữa các Quốc gia thành viên và
với bên ngoài:
Trong quan hệ với nhau, các nước ASEAN luôn tuân theo 5 nguyên tắc
chính đã được nêu trong Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam á ( Hiệp ước
Ba-li ), ký tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ I tại Ba-li năm 1976, là :
a/ Cùng tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản
sắc dân tộc của tất cả các dân tộc;
b/ Quyền của mọi quốc gia được lãnh đạo hoạt động của dân tộc mình,
không có sự can thiệp, lật đổ hoặc cưỡng ép của bên ngoài;
c/ Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;
Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
thị trường ASEAN từ nay đến 2010



Chu Thị Tâm- A6K41B –KTNT- FTU
10
d/ Giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, thân thiện;
e/ Không đe doạ hoặc sử dụng vũ lực;
f/ Hợp tác với nhau một cách có hiệu quả;
3.2- Các nguyên tắc điều phối hoạt động của Hiệp hội:
 Nguyên tắc nhất trí (consensus): nghĩa là mọi quyết định về các vấn đề
quan trọng chỉ được coi là của ASEAN khi tất cả các nước thành viên
nhất trí thông qua. Nguyên tắc này theo như quyết định của cuộc họp
ngoại trưởng ASEAN ngày 25/9/1995 được áp dụng ở những mức độ
khác nhau, có những vấn đề sẽ đựơc nhất trí toàn bộ, có những vấn đề
thông qua theo nhất trí đa số, nhất trí tương đối và nhất trí tuyệt đối.
 Nguyên tắc bình đẳng (equality): thể hiện trên 2 mặt, thứ nhất là các nước

ASEAN không kể lớn nhỏ hay giàu nghèo đều bình đẳng với nhau trong
nghĩa vụ đóng góp cũng như chia sẻ quyền lợi; thứ hai, hoạt động của tổ
chức ASEAN được duy trì trên cơ sở luân phiên cho các nước thành viên
theo vần A, B, C.
 Nguyên tắc 6 – X: được thoả thuận tháng 2/1992, theo nguyên tắc này,
một dự án hoặc kế hoạch chung của ASEAN nếu từ hai nước trở lên chấp
nhận thực hiện thì cứ tiến hành trước dự án chứ không đợi tất cả các nước
thành viên khác thực hiện mới tiến hành.
 Trong quan hệ giữa các nước ASEAN đang dần dần hình thành một số
các nguyên tắc, tuy không thành văn, không chính thức song mọi người
đều hiểu, tôn trọng và tự giác áp dụng như:
 Nguyên tắc “cho và nhận”, có đi có lại (give and take): Theo
nguyên tắc này, trong quá trình hợp tác giữa các nước ASEAN , nếu nước
A nhân nhượng nước B một vấn đề này thì nước B đến lượt mình, trong
một dịp khác, sẽ đáp lại bằng một nhân nhượng khác cho nước A. Đây có
thể gọi là nguyên tắc quân tử trong quan hệ giữa các nước ASEAN;
Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
thị trường ASEAN từ nay đến 2010



Chu Thị Tâm- A6K41B –KTNT- FTU
11
 Nguyên tắc tế nhị, lịch sự, không gây đối đầu, có thái độ hữu nghị,
thân thiện;
 Nguyên tắc ngoại giao thầm lặng, cá nhân, không tuyên truyền tố
cáo qua báo chí;
 Nguyên tắc giữ gìn đoàn kết ASEAN , giữ bản sắc chung của tổ
chức này.
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƢỜNG ASEAN

1. Thị trƣờng ASEAN là một thị trƣờng rộng lớn và đầy tiềm năng:
ASEAN là một thị trường rộng lớn gồm 10 quốc gia với với dân số
khoảng 604,9 triệu người (năm 2000), GDP khoảng 731 tỷ đô la Mỹ và tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng năm 339,2 tỷ USD

là một thị trường rộng lớn không đòi hỏi
cao về chất lượng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam mở cửa
thị trường hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, hội nhập vào thương mại khu vực và trên
thế giới [13]. Đây cũng là nơi mà các nước ASEAN đang tiến hành thành lập Khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA ). Thị trường ASEAN vừa là thị trường trung
gian vừa là thị trường tiêu thụ trực tiếp nhiều sản phẩm của Việt Nam, là một thị
trường có sức tiêu thụ rất đa dạng cả trong hiện tại và tương lai. Ngoại trừ
Singapore và Brunei là những nước có thu nhập được xếp vào loại cao nhất thế giới,
tám nước còn lại với hơn 99% dân số của ASEAN là những nước đang phát triển,
có những nước thu nhập của người dân được liệt vào mức thấp nhất của thế giới
(Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanma) và có những nước thu nhập của người dân
thuộc loại trung bình của thế giới (Indonesia, Philippin, Malaysia, Thái Lan) nên
nhu cầu người dân rất đa dạng và phong phú. Thị hiếu của người dân cũng thuộc
loại dễ tính, không đòi hỏi quá cao về chất lượng sản phẩm. Nhiều nước trong khu
vực có tỷ lệ dân số sống ở nông thôn còn rất cao, thị trường nông thôn chưa được
khai thác một cách đầy đủ. Với tốc độ đô thị hoá ngày càng tăng, nhu cầu của người
dân cũng tăng nhanh không kém. Đây là mảnh đất màu mỡ đối với các doanh
nghiệp biết khai thác các cơ hội trên thị trường ASEAN.
Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
thị trường ASEAN từ nay đến 2010



Chu Thị Tâm- A6K41B –KTNT- FTU
12

Suốt trong một thời gian dài, ASEAN đã đạt được mức tăng trưởng thuộc
loại cao nhất thế giới: GDP tăng trung bình cả khối là 5-10%/năm. Như vậy, xét
trên bình diện chung nhất, khi kinh tế ASEAN tăng trưởng với mức cao, dung lượng
thị trường do đó cũng được mở rộng [13]. Bởi lẽ, một mặt, để tiếp tục duy trì tốc độ
tăng trưởng cao, ASEAN cần một khối lượng hàng hoá đầu tư ngày càng lớn. Mặt
khác, tăng trưởng kinh tế cao cũng làm cho thu nhập thực tế tính theo đầu người
tăng lên, kéo theo nhu cầu hàng hoá tiêu dùng mở rộng, cơ cấu tiêu dùng có sự thay
đổi đa dạng.
2. Thị trƣờng ASEAN là một thị trƣờng hấp dẫn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài.
Tiềm năng chủ yếu của ASEAN là lao động dồi dào, giá rẻ, tài nguyên thiên
nhiên phong phú nhưng hạn chế vốn và kỹ thuật. Luật đầu tư nước ngoài của các
nước ASEAN rất thoáng nhằm thu hút đầu tư nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào ASEAN ngày càng tăng, từ mức 4% tổng FDI vào các nước đang phát
triển vào năm 1970 đã tăng lên 22,8% vào năm 1995 và lên tới 26,6% vào năm
2000. Tổng vốn FDI toàn cầu đổ vào khu vực ASEAN tăng 48% trong năm 2005
so với 2004, lên tới 38 tỷ USD (31,7 tỷ euro), mức tăng kỷ lục kể từ cuộc khủng
hoảng tài chính châu á 1997 – 1998, trong đó Xingapo dẫn đầu với 20 tỷ USD, tiếp
đến là Indônesia 6 tỷ USD và Thái Lan 4 tỷ USD. Ngoài ra, riêng trong quý I năm
2006, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN đạt 14 tỷ USD, tăng 90% so với
cùng năm trước [16,17].
Bên cạnh đó, ASEAN là thị trường tài chính và công nghệ hoà nhập nhanh
chóng vào các xu thế tự do hoá cũng là một yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư.
Trong giai đoạn hiện nay, người ta cho rằng tất cả các nước ASEAN đều sốt
sắng trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Minh chứng cho điều nhận định
trên là tất cả các nước ASEAN, từ lâu đã ban bố Luật Đầu tư nước ngoài với tinh
thần khuyến khích cao, có sức hút mạnh đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Hơn thế
nữa, các nền kinh tế ASEAN có truyền thống gắn với các trung tâm công nghiệp và
thương mại lớn nhất thế giới: Mỹ, Nhật, EU. Đây cũng là nơi có các công ty xuyên
quốc gia lớn, luôn tìm kiếm cơ hội đầu tư ở các nước đang phát triển.
Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang

thị trường ASEAN từ nay đến 2010



Chu Thị Tâm- A6K41B –KTNT- FTU
13
Việc thành lập AFTA sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có cơ hội chiếm
lĩnh được thị phần đáng kể ở ASEAN và họ sẽ được hưởng các ưu đãi khi sản phẩm
được sản xuất ra có xuất xứ 40% tại ASEAN. Nhờ quy định thấp hơn về nguồn gốc
xuất xứ so với các khối mậu dịch tự do khác, việc đầu tư để sản xuất tại một nước
nằm bên trong AFTA và bán sản phẩm cho một nước thuộc AFTA chắc chắn sẽ
đem lại lợi ích cho các nhà đầu tư.
Thị trường ASEAN tuy lớn về quy mô, hấp dẫn về hiệu quả thương mại- đầu
tư song do tính dễ tổn thương về cơ cấu và thể chế tài chính, người ta chưa coi
ASEAN là thị trường an toàn và ổn định.
3. ASEAN là thị trƣờng đa văn hoá, đa tôn giáo:
Văn hoá và tôn giáo có ảnh hưởng khá lớn đến thị hiếu tiêu dùng của người
dân. Sự đa dạng trong văn hoá và tôn giáo đã tạo nên sự đa dạng và phong phú
trong thị hiếu tiêu dùng.
ASEAN là hiệp hội của 10 quốc gia, mà mỗi quốc gia lại là cộng đồng của
rất nhiều dân tộc thuộc những nền văn hoá khác nhau. Trải qua nhiều năm bị thực
dân phương Tây đô hộ, truyền thống á Đông vẫn được bảo tồn và phát huy. Tuy
nhiên, nền văn minh phương Đông cũng bị ảnh hưởng phần nào của văn minh
phương Tây. Điều đó tạo cho ASEAN một sắc thái văn hoá đa dạng, phong phú,
vừa trung thành với truyền thống, vừa thay đổi để theo kịp với sự phát triển của thời
đại.
ASEAN cũng là một cộng đồng đa tôn giáo: ở Indonesia, Malaysia, Brunei,
tôn giáo chính là đạo Hồi. Tại Việt Nam, Thái Lan, Singapore, Myanma,
Campuchia, Lào thì đa số người dân theo đạo Phật. Còn đạo Thiên chúa giáo là tôn
giáo chính ở Philippin. Ngoài ra, người dân còn theo đạo Tin lành, Đạo Hinđu, ấn

Độ giáo, đạo Lão…Tuy vậy, hầu như ở mỗi nước ASEAN đều có đủ các tôn giáo
chính ở khu vực. Thị trường ASEAN đa dạng, nhu cầu của người dân cũng rất đa
dạng, văn hoá và tôn giáo lại tương đối giống Việt Nam nên đối với các doanh
nghiệp Việt Nam, việc tìm hiểu và nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của người dân
Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
thị trường ASEAN từ nay đến 2010



Chu Thị Tâm- A6K41B –KTNT- FTU
14
ASEAN là khá dễ dàng, từ đó các doanh nghiệp có nhiều điều kiện thuận lợi để
thâm nhập thị trường.
4.Thị trƣờng ASEAN có cơ cấu hàng hoá xuất khẩu tƣơng đối giống nhau:
Trừ Singapore là nước trung chuyển mậu dịch lớn của thế giới, các nước
ASEAN còn lại có các mặt hàng xuất khẩu tương đối giống nhau gồm khoáng sản,
nông phẩm, và các mặt hàng sơ chế, nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị. Chất
lượng và tạo dáng mẫu mã công nghiệp không thua kém nhau bao nhiêu và hơn nữa
trình độ phát triển kinh tế không đồng nhất kiểu EU nên các mặt hàng của ASEAN
mang tính cạnh tranh nhau hơn là bổ sung cho nhau. Các mặt hàng của ASEAN
không những cạnh tranh nhau trên thị trường thế giới mà còn cạnh tranh nhau trên
chính thị trường khu vực. Ví dụ như có rất nhiều mặt hàng cùng sản xuất, có thể
cạnh tranh nhau không chỉ riêng trên thị trường quốc tế mà cả thị trường ASEAN
như các loại nông sản chưa chế biến và đã chế biến, ôtô, xe máy, máy móc gia dụng
(máy giặt, điều hoà, quạt điện), sắt thép, các sản phẩm cơ khí thông dụng, hàng dệt
may, đồ chơi trẻ em, mỹ phẩm. Việc tham gia AFTA tạo điều kiện thuận lợi cho các
nước ASEAN mua được các nguyên vật liệu với giá rẻ của nhau để sản xuất các sản
phẩm có giá thành thấp, đồng thời tạo động lực cho việc phân công lại lao động và
tăng khả năng trao đổi buôn bán, hợp tác đầu tư trong nội bộ khu vực. Song nó cũng
đặt ra thách thức đối với các nước kém phát triển trong khối ASEAN trong đó có

Việt Nam, đặc biệt là khi thời điểm thực hiện ASEAN đang đến rất gần.
5. Thuế và thủ tục hải quan ở thị trƣờng ASEAN
5.1. Nội dung Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (common
effective preferential tariff – CEPT):
Trong tất cả các chương trình hợp tác kinh tế- thương mại của khối ASEAN
thì Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung CEPT đóng vai trò quan trọng
nhất, nhằm biến ASEAN thành khu vực mậu dịch tự do (ASEAN free trade area –
AFTA), nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá ASEAN trên thị trường quốc tế và
tạo ra sức cuốn hút đối với đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy, tại Hội nghị thượng
đỉnh lần thứ tư tại Singapore, ngày 28/1/1992, các nguyên thủ các nước ASEAN đã
Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
thị trường ASEAN từ nay đến 2010



Chu Thị Tâm- A6K41B –KTNT- FTU
15
thống nhất thông qua CEPT và chương trình này bắt đầu có hiệu lực từ ngày
1/1/1993, ban đầu dự định thực hiện trong 15 năm, nhưng trước tình hình thương
mại quốc tế có nhiều biến đổi, Hội nghị Bộ trưởng ASEAN tại Chiêng Mai (Thái
Lan) diễn ra vào 12/1993 đã quyết định rút ngắn thời gian thực hiện CEPT xuống
còn 10 năm tức là đến 2003 và sau Hội nghị thượng đỉnh lần 6 tại Hà Nội, mốc thời
gian này được ấn định là 1/1/2003 cho ASEAN–6 (ASEAN-6 bao gồm Brunei,
Indonesia, Malaysia, Philippin, Singapore và Thái lan).
Hiệp định CEPT thực chất là chương trình cắt giảm thuế quan chung xuống
mức 0 - 5% trong buôn bán trao đổi hàng hoá giữa các nước thành viên ASEAN với
nhau và trong khung hiệp định đó nhấn mạnh cho các mặt hàng công nghiệp chế
biến là đối tượng chủ yếu, bao gồm cả các sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến.
Hiệp định CEPT là công cụ chỉ đạo thực hiện AFTA với nội dung và lộ trình cắt
giảm thuế và loại bỏ hàng rào phi thuế quan của từng danh mục như sau:

a) Danh mục cắt giảm ngay ( IL): Các sản phẩm theo danh mục này được các
nước thành viên nhất trí chia thành 2 lộ trình cắt giảm:
 Kênh giảm thuế nhanh ( Fast Track) ( còn gọi là kế hoạch giảm
thuế tăng tốc): được áp dụng cho 15 nhóm mặt hàng hoá sản phẩm công
nghiệp chế biến của ASEAN là: Xi măng, hoá chất, phân bón, chất dẻo,
hàng điện tử, dầu thực vật, sản phẩm da, sản phẩm cao su, giầy, đồ gốm
và thuỷ tinh, đồ dùng bằng gỗ và song mây, dược phẩm với khoảng 3200
mặt hàng chiếm 34% tổng danh mục giảm thuế của toàn ASEAN. Lịch
trình giảm thuế nhanh của Hiệp định CEPT được phân thành 2 nấc: danh
mục hàng hoá đang chịu thuế suất dưới mức 20% sẽ được cắt giảm xuống
0%- 5% kể từ ngày 1/1/1998, bao gồm 15 nhóm mặt hàng chiếm khoảng
40% thương mại trong khối. Các sản phẩm có thuế suất trên 20% được
giảm xuống dưới 5% kể từ 1/1/2000.
 Kênh giảm thuế bình thƣờng (Normal Track) (còn gọi là
chương trình giảm thuế quan theo lịch trình thông thường): được áp dụng
cho tất cả các sản phẩm công nghiệp chế biến còn lại. Đối với các sản
Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
thị trường ASEAN từ nay đến 2010



Chu Thị Tâm- A6K41B –KTNT- FTU
16
phẩm có thuế suất trên 20%, việc giảm thuế tiến hành theo hai nấc: giảm
xuống còn 20% kể từ 1/1/1998 và sẽ được tiếp tục giảm xuống 0%-5%
vào ngày 1/1/2003. Còn đối với các sản phẩm đã có thuế suất bằng hoặc
thấp hơn 20% sẽ cắt giảm xuống còn 0%- 5% cho đến 1/1/2002 đối với
ASEAN – 6. Riêng đối với Việt Nam thời hạn này là 1/1/2006, Lào và
Mianma là 1/1/2008 và ngày 1/1/2010 cho Campuchia.
b) Danh mục loại trừ tạm thời chưa giảm thuế (Temporary Exclusion List-

TEL):
Bao gồm những mặt hàng chưa đưa vào giảm thuế quan ngay do các nước
thành viên ASEAN phải dành thêm thời gian để điều chỉnh sản xuất trong nước và
thích nghi với môi trường cạnh tranh quốc tế gia tăng.
Sau 3 năm kể từ khi bắt đầu tham gia chương trình CEPT , các nước ASEAN
phải bắt đầu chuyển dần các mặt hàng từ TEL sang IL, tức là bắt đầu giảm thuế
quan đối với mặt hàng này. Quá trình chuyển rời các mặt hàng từ TEL sang IL được
phép kéo dài trong 5 năm, mỗi năm phải chuyển được 20% số mặt hàng. Điều đó có
nghĩa là hết năm thứ 8 thì IL đã mở rộng ra bao trùm toàn bộ TEL và TEL không
còn tồn tại. Khi đưa mỗi mặt hàng vào IL, các nước đồng thời phải chỉ ra lịch trình
giảm thuế quan của mặt hàng đó cho đến khi hoàn thành chương trình CEPT.
Ví dụ: Khi tham gia chương trình CEPT vào năm 1995, IL của nước A bao
gồm 50 mặt hàng, TEL của nước này có 100 mặt hàng. Từ năm 1998 nước A phải
bắt đầu chuyển TEL sang IL. Nếu mỗi năm chuyển đều 20% thì năm 1998, IL của
nước này có 50 + ( 100 * 20% ) = 70 mặt hàng và TEL giảm còn 100 – ( 100 * 20%
) = 80 mặt hàng. Năm 1999 IL sẽ là 90 và TEL sẽ là 60. Ba năm tiếp theo đó, các
con số tương ứng sẽ là 110/40, 130/20, 150/0. Tức là đến 2002, IL của nước A sẽ
bao gồm cả 150 mặt hàng và TEL không còn mặt hàng nào.
Bộ Tài chính cho biết, đến thời điểm này thực hiện chương trình ưu đãi thuế
quan có hiệu lực chung ASEAN (CEPT/AFTA) VN đã cắt giảm thuế quan cho một
loạt nhóm mặt hàng, trong đó có tới trên 53% nhóm hàng hóa có thuế suất 0%. Còn
6 nước thành viên cũ gồm Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và
Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
thị trường ASEAN từ nay đến 2010



Chu Thị Tâm- A6K41B –KTNT- FTU
17
Thái Lan đã cơ bản hoàn thành thực hiện giảm thuế theo CEPT/AFTA với trên 60%

mặt hàng có thuế suất 0%
Đối với các nước thành viên mới để có một thời gian cần thiết thích ứng.
Hiệp định CEPT cho phép các nước thành viên này được đưa ra một số sản phẩm
tạm thời chưa thực hiện tiến trình giảm thuế theo quy định của CEPT .
b) Danh mục loại trừ hoàn toàn ( General Exception List – GEL):
Là danh mục các sản phẩm hàng hoá không tham gia Hiệp định CEPT do đó
không được đưa vào AFTA vì lý do ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã
hội, cuộc sống sức khoẻ của con người, đến việc bảo tồn các giá trị văn hoá, nghệ
thuật, di tích lịch sử, khảo cổ.
c) Danh mục nhạy cảm và danh mục nhạy cảm cao (Sensitive List: SL):
Danh mục nhạy cảm cao bao gồm những mặt hàng nông sản chưa chế biến mà
việc cắt giảm thuế quan có thể gây tác động lớn đến sản xuất, đời sống trong nước.
Các quy định cụ thể về lịch trình cắt giảm thuế quan cho các sản phẩm nhạy
cảm cho đến nay vẫn đang trong quá trình thoả thuận. Tuy nhiện, đối với các sản
phẩm trong danh mục nhạy cảm, thời điểm bắt đầu thực hiện cắt giảm đã được xác
định là 1/1/2001 và kết thúc vào năm 2010 với mức thuế suất phải đạt 0-5%. Đối
với các sản phẩm trong danh mục nhạy cảm cao, thời hạn kết thúc đã được xác định
là năm 2010, tuy nhiên sẽ có một số linh hoạt nhất định sẽ được áp dụng liên quan
đến mức thuế suất kết thúc, các biện pháp tự vệ phòng ngừa bất trắc…CEPT,
khi hoàn tất vào 2003, về cơ bản sẽ bao gồm 98% dòng thuế của ASEAN vào năm
2003; còn lại chỉ khoảng 1% thuộc diện loại trừ và một số sản phẩm nông nghiệp
nhạy cảm được gia hạn đến 2010.
Ngoài ra, khi áp dụng Hiệp định CEPT cấn lưu ý cơ chế trao đổi nhượng bộ
của Hiệp định CEPT: Những nhượng bộ khi thực hiện CEPT của các quốc gia được
trao đổi trên nguyên tắc có đi có lại. Muốn được hưởng nhượng bộ về thuế quan khi
xuất khẩu hàng hoá trong khối, một sản phẩm cần có các điều kiện sau:
Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
thị trường ASEAN từ nay đến 2010




Chu Thị Tâm- A6K41B –KTNT- FTU
18
 Sản phẩm đó phải nằm trong danh mục cắt giảm thuế quan của nước
xuất khẩu và nước nhập khẩu và phải có mức thuế quan (nhập khẩu)
bằng hoặc thấp hơn 20%;
 Sản phẩm đó phải có chương trình giảm thuế được Hội đồng AFTA
thông qua;
 Sản phẩm đó phải là một sản phẩm của khối ASEAN, tức là phải
thoả mãn yêu cầu hàm lượng xuất xứ từ các nước thành viên
ASEAN (hàm lượng nội địa) ít nhất là 40%
Công thức 40% hàm lượng ASEAN như sau:





Trong đó:
A: Là giá trị đầu vào của nguyên vật liệu, bộ phận hay sản phẩm nhập
khẩu từ các nước ngoài khối ASEAN , tính theo giá CIF ở thời điểm
nhập khẩu.
B: Là giá trị đầu vào của nguyên vật liệu, bộ phận hay sản phẩm không
xác định xuất xứ, tính theo giá xác định trước khi đưa vào chế biến trên
lãnh thổ các nước thành viên ASEAN.
Nếu một sản phẩm đảm bảo được 3 yêu cầu đó chúng sẽ được hưởng ưu
đãi hoàn toàn từ phía các quốc gia nhập khẩu. Để xác định sản phẩm có
đủ điều kiện được hưởng thuế quan ưu đãi theo chương trình CEPT hay
không, mỗi nước thành viên hang năm phải công bố tài liệu trao đổi ưu
đãi CEPT trong đó cần thể hiện được mức thuế quan của các sản phẩm
theo CEPT và các sản phẩm có đủ điều kiện ưu đãi.

Tuy nhiên, tỷ lệ giảm thuế quan của các quốc gia thành viên không giống
nhau. Chẳng hạn, nếu Singapore đã là một thị trường hoàn toàn tự do thì Thái Lan
A+B
Giá FOB
x 100%

T phải

60%
= T %
Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
thị trường ASEAN từ nay đến 2010



Chu Thị Tâm- A6K41B –KTNT- FTU
19
vẫn là một quốc gia có tỷ lệ thuế bình quân cao nhất. Tình hình còn phức tạp hơn
khi hầu hết các quốc gia ASEAN là thành viên của tổ chức thương mại thế giới nên
một số quốc gia, ví dụ như philippin đã viện dẫn Hiệp định về hàng nông sản của
vòng đàm phán Uruguay để trì hoãn việc tham gia giảm thuế, thậm chí có quốc gia
như Indonesia, đã mặc nhiên tuyên bố rút danh mục hàng nông sản qua chế biến ra
khỏi lịch trình CEPT.
5.2. Nội đung loại bỏ các hàng rào phi thuế quan (Non Tarif Barriers- NTBs) và
các hạn chế định lượng (Quantitative Restriction – QR)
Để tiến tới hoàn thành AFTA, Điều 5 của Hiệp định CEPT còn xác định mục
tiêu loại bỏ các hàng rào phi thuế quan và các hạn chế số lượng, hạn ngạch nhập
khẩu, giấy phép nhập khẩu có tác dụng hạn chế định lượng… trong vòng 5 năm sau
khi một sản phẩm được hưởng ưu đãi thuế quan. Hiệp định CEPT đã quy định:
 Các nước thành viên sẽ xoá bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối với các sản

phẩm trong CEPT trên cơ sở hưởng ưu đãi áp dụng cho sản phẩm đó.
 Các hàng rào phi thuế khác sẽ xoá bỏ dần dần trong 5 năm sau khi sản phẩm
được hưởng ưu đãi;
 Các hạn chế ngoại hối được các nước đang áp dụng sẽ được ưu tiên đặc biệt
đối với các sản phẩm thuộc CEPT.
 Tiến tới thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, công khai chính sách và thừa
nhận các chứng nhận chất lượng của nhau
 Trong trường hợp khẩn cấp (số lượng hàng nhập khẩu gia tăng đột ngột gây
phương hại đến sản xuất trong nước hoặc đe doạ cán cân thanh toán), các
nước có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa để hạn chế hoặc dừng việc
nhập khẩu
 Với mục tiêu được đưa ra Hiệp định, năm 1995 các nước ASEAN đã thành
lập nhóm công tác về vấn đề các hàng rào phi thuế quan để xác định và xây
dựng chương trình huỷ bỏ các hàng rào phi thuế quan ảnh hưởng đến thương
mại khu vực. Dựa trên kết quả làm việc của nhóm công tác, các nứơc đã xác
định nhiều biện pháp ảnh hưởng rộng và chủ yếu đối với thương mại hàng
Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
thị trường ASEAN từ nay đến 2010



Chu Thị Tâm- A6K41B –KTNT- FTU
20
hoá trong khu vực ASEAN là phụ thu hải quan và các hàng rào cản trở
thương mại (TBT). Trên cơ sở đó, tại phiên họp Hội đồng AFTA lần thứ
tám, các nước ASEAN đã thống nhất quyết định thời hạn loại bỏ các hàng
rào cản trở thương mại là hết năm 2003.
5.3. Hợp tác trong lĩnh vực Hải quan:
Hợp tác trong lĩnh vực Hải quan là khâu khá quan trọng trong tiến trình thực
hiện CEPT/AFTA . Nội dung của hợp tác này bao gồm:

Các quốc gia sẽ xây dựng hệ thống hành lang xanh: Hội nghị Hội đồng
AFTA lần thứ CEPT đã thông qua Khuyến nghị của Hội nghị Tổng cục trưởng Hải
quan ASEAN để xây dựng hệ thống Luồng xanh hải quan và thực hiện từ ngày 1
tháng 1 năm 1996
Các quốc gia ASEAN sẽ thống nhất thủ tục Hải quan: Các quốc gia thành
viên ASEAN thoả thuận hai vấn đề cần thiết trong việc thống nhất thủ tục Hải quan
là:
 Mẫu tờ khai hải quan chung cho hàng hoá thuộc phạm vi Hiệp định CEPT :
Tất cả các hàng hoá giao dịch theo Hiệp định CEPT phải có giấy chứng nhận
xuất xứ (C/O) mẫu D để xác định mặt hàng đó có ít nhất 40% hàm lượng
ASEAN. Sau đó, hàng hoá này phải được hoàn thành thủ tục hải quan. Do
các tờ khai hải quan của các quốc gia thành viên tương tự như nhau nên thủ
tục có thể đựơc đơn giản hoá bằng cách gộp ba loại tờ khai trên thành một
mẫu tờ khai chung cho hàng hoá theo Hiệp định CEPT .
 Thủ tục xuất nhập khẩu chung: Để xây dựng thủ tục xuất nhập khẩu chung
trong khối ASEAN, các quốc gia thành viên đang tập trung vào các vấn đề
sau:
 Các thủ tục trước khi nép tờ khai hàng hoá xuất khẩu.
 Các thủ tục trước khi nép tờ khai hàng hoá nhập khẩu
 Các vấn đề giám định hàng hoá.
 Các vấn đề gửi hàng trong đó Giấy chứng nhận xuất xứ được cấp
sau và có hiệu lực hồi tố.
Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
thị trường ASEAN từ nay đến 2010



Chu Thị Tâm- A6K41B –KTNT- FTU
21
 Các vấn đề liên quan đến hoàn trả.

Các quốc gia sẽ thống nhất biểu thuế quan chung: Các quốc gia thành
viên ASEAN sử dụng biểu thuế quan theo Hệ thống điều hoà của Hội đồng Hợp tác
Hải quan (HS) ở các mức độ khác nhau, từ 6 đến 10 chữ số. Hội nghị bộ trưởng
Kinh tế ASEAN lần thứ 26 tháng 9 năm 1995 đã quyết định sẽ thống nhất biểu thuế
quan trong khối ASEAN ở mức 8 chữ số.
Các quốc gia ASEAN sẽ thống nhất hệ thống tính giá Hải quan: Các
quốc gia thành viên ASEAN cam kết thực hiện phương pháp xác định trị giá hải
quan theo GATT-GTV (GATT transactions value) tại Vòng đàm phán Uruguay của
GATT (trừ Việt Nam do Việt Nam chưa trở thành thành viên của GATT/WTO) vào
năm 2000 được nêu trong Hiệp định thực hiện điều khoản VII của Hiệp định chung
về Thuế quan và Thương mại năm 1994 để tính giá hải quan.


Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
thị trường ASEAN từ nay đến 2010



Chu Thị Tâm- A6K41B –KTNT- FTU
22
Chƣơng II. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM
SANG THỊ TRƢỜNG ASEAN TỪ NĂM 1996 ĐẾN NAY:
I. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM SANG
TỪNG NƢỚC THÀNH VIÊN ASEAN TỪ NĂM 1996 ĐẾN NAY
Hiện nay, Việt Nam đã xuất khẩu hàng hoá sang cả 10 nước ASEAN. Tuy
nhiên, kim ngạch và tỷ trọng xuất sang các nước này có sự chênh lệch đáng kể,
trong đó xuất khẩu sang Singapore là lớn nhất. Dưới đây, ta sẽ nghiên cứu xuất
khẩu hàng hoá của Việt Nam sang từng nước ASEAN theo tỷ trọng giảm dần trong
tổng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường ASEAN theo năm 2005.
1. Singapore:

Singapore là bạn hàng buôn bán lớn nhất và là chủ đầu tư quan trọng nhất
của Việt Nam trong các nước ASEAN. Singapore cũng là nước có nền kinh tế phát
triển nhất trong khối: Năm 2005, GNP bình quân đầu người đạt 25.191,2 USD, tốc
độ tăng trưởng kinh tế cao 7-9%/năm [19].
Singapore chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam tháng
08/1973 và hai bên đã ký kết một số Hiệp định để tạo điều kiện cho môi trường hợp
tác kinh tế thuận lợi. Hai bên cũng thành lập Hội đồng hợp tác kinh doanh Việt
Nam – Singapore. Singapore luôn dẫn đầu các nước ASEAN trong buôn bán với
Việt Nam với trên 55% kim ngạch buôn bán của Việt Nam với toàn khối [20].
Singapore cũng là thị trường nhập khẩu nhiều nhất từ Việt Nam trong các nước
ASEAN.
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang Singapore trong thời gian
1996-2005
Đơn vị: Triệu USD
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Kim ngạch
xuất khẩu
380,3
592,8
678,8

889,4
1.157,3
1.451,6
960,7
1.025,0
1.370,0
1749,5
Tốc độ
tăng trưởng
-
55,9%
14,5%
31,0 %
30,1%
25,4%
-33,7%
6,7%
33,8%
27,7%
(Nguån: Bé Th-¬ng M¹i)

Nhng gii phỏp ch yu nhm y mnh xut khu hng hoỏ ca Vit Nam sang
th trng ASEAN t nay n 2010



Chu Th Tõm- A6K41B KTNT- FTU
23
Qua bảng số liệu trên ta thấy rằng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang
Singapore tăng qua các năm. Tuy nhiên mức độ tăng qua các năm không đ-ợc đều

nhau, đặc biệt năm 2002 kim ngạch đã bị giảm sút còn 960,7 triệu USD, lý do của
việc giảm sút này là do cơ cấu nhập khẩu của Singapore chuyển đổi, giảm dần nhập
khẩu các dạng nguyên liệu, sản phẩm thô, sơ chế và gia tăng nhập khẩu mang lại giá
trị gia tăng cao.
Hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam vào Singapore đ-ợc chia làm 3 nhóm
chính:
Nhóm 1: Nhóm sản phẩm không qua chế biến (trong đó có dầu thô)
Nhóm 2: Nhóm sản phẩm sơ chế và nhóm hàng công nghiệp
Nhóm 3: Nhóm hàng công nghiệp
Trong đó, nhóm 1 chiếm tỷ trọng cao nhất và sẽ vẫn tăng tr-ởng trong những
năm tới. D-ới đây là bảng số liệu về 20 mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam
vào Singapore trong quý I năm 2006:
Bảng 2:
10 mặt hàng có kim ngạch XK lớn nhất của Việt Nam sang Singapore
trong quí I/06
STT
Tên hàng
Kim ngạch NK
quíI/06 (SGD)
Tăng so với
cùng kỳ 2005
1
Sản phẩm xăng dầu
926.085.000
38,7%
2
Phụ tùng linh kiện máy văn phòng
74.174.000
68,2%
3

Thiết bị thông tin viễn thông
59.304.000
94,1%
4
Máy xử lý số liệu
57.730.000
37,7%
5
Van điện tử
41.110.000
184,0%
6
Thuốc lá
40.861.000
-22,2%
7
Sản phậm phụ của hóa dầu
34.097.000
98,4%
8
Đồ uống có cồn
28.096.000
91,9%
9
Máy móc dân dụng + phụ tùng
27.020.000
-49,4%
10
Chất polyethylene cơ bản
25.581.000

30,6%
(Nguồn: Bộ Th-ơng Mại)
Tổng kim ngạch của 10 mặt hàng XK trên là 1.314.058.000 SGD, chiếm tới
60,2% tổng kim ngạch hàng XK của Việt Nam sang Singapore trong quí I/06, tăng
36,9% so với cùng kỳ năm 2005. Nu xột v c cu hng xut, nhp khu gia Vit
Nam v Singapore cú th thy cỏc mt hng du thụ chim t trong rt ln, cú tớnh
quyt nh n s tng, gim xut nhp khu gia hai nc. C th, kim ngch XK
Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
thị trường ASEAN từ nay đến 2010



Chu Thị Tâm- A6K41B –KTNT- FTU
24
dầu thô đạt 567.093.000 SGD, chiếm tỷ lệ cao tới 75,66% tổng kim ngạch XK của
Việt Nam - tăng 28,9% so cùng kỳ 2005.
Nhìn chung trừ sản phẩm dầu thô, các mặt hàng XK của Việt Nam sang thị
trường Singapore vẫn chưa ổn định, kim ngạch thấp. Lý do chính là thị trường tiêu
thụ nội địa của Singapore nhỏ bé, đòi hỏi hàng chất lượng cao, giá cạnh tranh, do
vậy đối với các mặt hàng nông sản, thực phẩm và hàng tiêu dùng của Việt Nam nếu
không được nâng cao sức cạnh tranh trên nhiều mặt sẽ rất khó có thể xuất khẩu số
lượng lớn, nhất là để tiêu thụ nội địa tại Singapore, và cũng khó có thể lấy
Singapore làm thị trường trung gian để xuất sang nước khác vì đây là các mặt hàng
có trị giá thấp, hiệu quả kinh tế không cao trong khi đó phí trung gian lớn. Hơn nữa,
xu hướng thương mại ngày nay là người mua và người bán thường tìm đến làm ăn
trực tiếp với nhau, ít phải qua trung gian như những năm trước đây. Tuy nhiên điều
đáng mừng là các sản phẩm hàng công nghiệp có giá trị gia tăng cao đã và đang tìm
được chỗ đứng tại thị trường Singapore, kim ngạch XK hàng nông sản, khoáng
sản…có hàm lượng giá trị gia tăng thấp đang giảm mạnh.
Hiện tại, hàng xuất khẩu của Việt Nam chiếm một tỷ trọng hết sức khiêm tốn

trong tổng kim ngạch nhập khẩu của nước này (Năm 2005, tổng kim ngạch XNK
giữa Việt Nam và Singapore chiếm 1,45% tổng kim ngạch XNK của Singapore với
thế giới, trong đó hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore chiếm 0,91% tổng
kim ngạch nhập khẩu). Trong khi đó nhập khẩu của Singapore từ Châu Á là rất lớn
chiếm trên 60% tổng kim ngạch nhập khẩu [21]. Do vậy, hàng xuất khẩu của Việt
Nam còn nhiều tiềm năng tại thị trường này, nếu ta biết khai thác triệt để những thế
mạnh của hàng xuất khẩu Việt Nam và tận dụng lợi thế Singapore vừa là thị trường
tiêu thụ hàng hóa, vừa là thị trường trung chuyển hàng hóa thị trường thì ta có thể
đẩy mạnh khối lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam trong tương lai. Nếu ta khai
thác tốt thế mạnh của thị trường, ta có thể tạo ra nhiều cơ hội mới cho hàng xuất
khẩu Việt Nam
2. Malaysia

×