Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Nguyên lý của chủ nghĩa mac lenin vấn đề gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.56 KB, 36 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Tiểu luận thuyệt trình môn:
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mac-LêNin ( Học Phần 2)
Đề tài:
Nguyên lý của chủ nghĩa Mac-LêNin về
vấn đề gia đình
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Khánh Vân
Nhóm thực hiện : Nhóm 5
TP. Hồ Chí Minh 2014

Danh sách phân công nhiệm vụ
STT Họ và tên MSSV Phân công nhiệm vụ Chữ ký
1 Lê Hải Đăng 33131025824 Làm + phản biện 2.1
2 Phạm Nguyễn Viễn Đông 33131026245 Làm + phản biện 2.2.1
3 Nguyễn Thành Dương 33131025337
Làm power point + phản
biện phần I

4 Trần Thụy Thiều Dương 33131025593 Làm + phản biện 2.1
5 Trần Sắc Duy 33131026232 Thuyết trình 2.1, 2.2
6 Nguyễn Thị Hằng 33131025298
Lời mở đầu + phản biện
phần I

7 Nguyễn Minh Hoàng 33131025544 Làm + phản biện 2.2.2
8 Trần Minh Hoàng 33131025572 Làm + phản biện 1.2.1
9 Lê Tuấn Khiêm 33131026331 Làm + phản biện 1.1.4
10 Trương Hoàng Khoa 33131025266 Làm + phản biện 2.3.1


11 Phạm Thị Kim Ngân 33131025933
Làm power point + phản
biện phần II

12 Nguyễn Trung Phước 33131025284 Làm + phản biện 2.2.3
13 Nguyễn Kim Sơn 33131026080 Làm + phản biện 1.1.3
14 Nguyễn Văn Tâm 33131026299 Làm + phản biện 2.3.2
15 Võ Thị Minh Tâm 33131026153
Thuyết trình + phản biện
phần I

16 Nguyễn Duy Thắng 33131025348
Phân phối nhiệm vụ +
tổng hợp

17 Trần Nhật Tín 33131025317
Thuyết trình + phản biện
phần 2.3

18 Nguyễn Văn Tín 33131026298 Làm + phản biện 1.2.2
19 Nguyễn Minh Đức 33131025278
Làm kết luận + phản biện
phần II.

20 Nguyễn Văn Đắng 33131026070
Làm + phản biện 1.1.1,
1.1.2

Danh sách điểm danh nộp Dàn ý
STT Họ và tên MSSV

Đề tài Chữ ký
1 2 3 4 5 6
1 Lê Hải Đăng 33131025824 x x x
2 Phạm Nguyễn Viễn Đông 33131026245 x x x
3 Nguyễn Thành Dương 33131025337
4 Trần Thụy Thiều Dương 33131025593 x x x
5 Trần Sắc Duy 33131026232 x x x
6 Nguyễn Thị Hằng 33131025298 x x x
7 Nguyễn Minh Hoàng 33131025544
8 Trần Minh Hoàng 33131025572 x x x
9 Lê Tuấn Khiêm 33131026331 x x x
10 Trương Hoàng Khoa 33131025266 x x x
11 Phạm Thị Kim Ngân 33131025933 x x x
12 Nguyễn Trung Phước 33131025284
13 Nguyễn Kim Sơn 33131026080
14 Nguyễn Văn Tâm 33131026299 x x x
15 Võ Thị Minh Tâm 33131026153 x x x
16 Nguyễn Duy Thắng 33131025348
17 Trần Nhật Tín 33131025317
18 Nguyễn Văn Tín 33131026298 x x x
19 Nguyễn Minh Đức 33131025278
20 Nguyễn Văn Đắng 33131026070
Nhận xét của giảng viên
Nhận xét Điểm
…………………………………………
…………………………………………
…………………………………………
………………………………………….
…………………………………………
…………………………………………

…………………………………………
…………………………………………
…………………………………………
…………………………………………
…………………………………………
…………………………………………
…………………………………………
…………………………………………
……………
……………
……………
……………
……………
……………
……………
……………
……………
……………
………………
………………
………………
………………
Mục lục
Lời mở đầu
Gia đình là hình thức xã hội thu nhỏ và là hình thức tổ chức đặc biệt chỉ có ở
loài người. Gia đình được hình thành, duy trì và củng cố chủ yếu trên cơ sở hôn
nhân và huyết thống. Yếu tố căn bản không chỉ mang yếu tố là tình cảm , huyết
thông mà gia đình chính là một bộ phận kinh tế thu nhỏ với việc tiêu dùng hay sản
xuất…Mac lê nin đã là người góp phần giúp chúng ta nhìn nhận một cách sâu sắc
hơn bản chất, vai trò của gia đình đối với xã hội cũng như sự phát triển của nền

kinh tế.
Bài tiểu luận dưới đây sẽ nêu rõ các quan điểm của Mác – Lenin về vấn đề
gia đình. Bài tiểu luận còn vấn đề gì sai sót, mong cô góp ý để bài tiểu luận có thể
hoàn chỉnh hơn.
Nhóm 5 xin chân thành cảm ơn cô.
7
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mac-LeNin về gia đình
1.1. Gia đình, mối quan hệ gia đình và xã hội.
1.1.1.Khái niệm
Gia đình là một tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế văn
hóa – xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ
hôn nhân, quan hệ huyết thống, qua hệ nuôi dưỡng và giáo dục giữa các thành
viên.
Gia đình là một hình ảnh thu nhỏ cơ bản nhất của xã hội, gia đình hình thành
từ rất sớm và trải qua 1 quá trình phát triển lâu dài.
Lịch sử nhân loại đã trải qua nhiều hình thức gia đình: gia đình huyết tộc, gia
đình đối ngẫu, gia đình một vợ một chồng.
1.1.2.Đặc trưng và các mối quan hệ cơ bản của gia đình.
Quan hệ hôn nhân là một quan hệ cơ bản của sự hình thành, tồn tại và phát
triển gia đình.
Hôn nhân là một hình thức quan hệ tính giao giữa nam và nữ, nhằm thỏa mãn
nhu cầu tâm sinh lý, tình cảm và nhằm duy trì, phát triển nòi giống. Đây là mối
quan hệ cơ bản nhất của sự hình thành, tồn tại và phát triển gia đình. Cùng với sự
phát triển của lịch sử, hôn nhân có sự biến đổi về hình thức và tính chất. Như mọi
quan hệ xã hội khác, hôn nhân luôn chịu sự chi phối của quan hệ kinh tế và bản
chất chế độ xã hội. Vì vậy, trong bất cứ thời đại nào hôn nhân cũng có thể và cần
phải được xã hội thừa nhận. Cơ sở trực tiếp cho hôn nhân là tình yêu
Tình yêu là sự phù hợp về tâm lý, sức khỏe, trạng thái tình cảm và lối sống
của hai người khác giới trước khi đi đến hôn nhân. Tuy nhiên, ở mỗi thời đại, mỗi
giai cấp, mỗi dân tộc… tình yêu cũng có những chuẩn mực và biểu hiện riêng.

Quan hệ huyết thống là quan hệ cơ bản đặc trưng của gia đình
Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa bố mẹ và con cái nhằm xác định vị trí
của mỗi thành viên trong gia đình, trong thân tộc. Đây cũng là quan hệ cơ bản của
gia đình
8
Quan hệ huyết thống cũng có những thay đổi theo tiến trình lịch sử, cũng
chịu sự chi phối của kinh tế, văn hóa của mỗi thời đại
Quan hệ quần tụ trong cùng một không gian sinh tồn
Quan hệ quần tụ là quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, trong một
khoảng không gian nhất định, nhằm tạo điều kiện thuận lợi chăm sóc lẫn nhau để
cùng tồn tại.
Từ sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội nên không gian sinh tồn của con
người có xu hướng mở rộng, song nhu cầu quần tụ của các thành viên trong gia
đình vẫn luôn đặt ra.
Quan hệ nuôi dưỡng giữa các thành viên và thế hệ thành viên trong gia đình
Quan hệ nuôi dưỡng là trách nhiệm chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau giữa các
thành viên trong gia đình nhằm duy trì nòi giống và để cùng tồn tại. Đây là nghĩa
vụ đồng thời còn là quyền lợi thiêng liêng của các thành viên trong gia đình.
Xã hội phát triển có sự quan tâm nhất định đối với các thành viên gia đình
như: Bảo hiểm, chăm sóc y tế, dưỡng lão… nhưng cũng không thể hoàn toàn thay
thế chức năng của các thành viên trong gia đình.
1.1.3.Vai trò, vị trí và quan hệ giữa gia đình và xã hội.
Gia đình là tế bào của xã hội.
Gia đình có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, là nhân tố
tồn tại và phát triển của xã hội, là nhân tố cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Gia đình như một tế bào tự nhiên, là đơn vị nhỏ nhất để tạo nên xã hội. Không có
gia đình để tái tạo ra con người thì xã hội không tồn tại và phát triển được. Chính vì
vật, muốn xã hội tốt thì phải xây dựng gia đình tốt.
Tuy nhiên mức độ tác động của gia đình đối với xã hội còn phụ thuộc vào
bản chất của từng chế độ xã hội. Trong các chế xã hội dựa trên chế độ tư hữu về tư

liệu sx, sự bất bình đẳng trong quan hệ gia đình, quan hệ xã hội đã hạn chế rất lớn
đến sự tác động của gia đình đối với xã hội.
9
Trình độ phát triển của xã hội quy định hình thức tổ chức, quy mô và kết cấu
của gia đình
Quan điểm duy vật lịch sử đã chỉ ra rằng, gia đình là những hình thức phản
ánh đặc thù của trình độ phát triển king tế. Trong tiến trình lịch sử nhân loại, các
phương thức sản xuất lần lượt thay thế nhau, dẫn đến sự biến đổi về hình thức tổ
chức, quy mô và kết cấu gia đình. Từ gia đình tập thể – với hình thức quần hôn,
huyết thông; gia đình cặp đôi với hình thức hôn nhân đối ngẫu; đến gia đình cá thể
với hình thức hôn nhân một vợ một chồng. Từ gd một vợ một chồng bất bình đẳng
sang gia đình một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Tất cả những bước tiến trong
gia đình đều phụ thuộc vào những bước tiến trong sản xuất, trong trình độ phát
triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của mỗi thời đại lịch sử.
Đặc điểm, đạo đức, lối sống trong gia đình cũng bị chi phối bởi những quan
hệ xã hội. Vì vây, trong mỗi chế độ xã hội khác nhau, có quan điểm khác nhau về
tiêu chuẩn đạo đức, lối sống …
Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội
Mỗi cá nhân chỉ có thể sinh ra trong gia đình. Không thể có con người sinh ra
từ bên ngoài gia đình. Gia đình là môi trường đầu tiên có ảnh hưởng rất quan trọng
đến sự hình thành và phát triển tính cách của mỗi cá nhân. Và cũng chính trong gia
đình, mỗi cá nhân sẽ học được cách cư xử với người xung quanh và xã hội.
Gia đình là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc
Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống
của mỗi thành viên, mỗi công dân của xã hội. Chỉ trong gia đình, mới thể hiện mối
quan hệ tình cảm thiêng liêng giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái.
Gia đình là nơi nuôi dưỡng, chăm sóc những công dân tốt cho xã hội. Sự
hạnh phúc gia đình là tiền đề để hình thành nên nhân cách tốt cho những công dân
của xã hội. Vì vậy muốn xây dunwjg xã hội thì phải chú trọng xây dựng gia đình.
Hồ chủ tịch nói: “Gia đình tốt thì xã hội tốt, nhiều gia đình tốt cộng lại thì làm cho

xã hội tốt hơn”
10
Xây dựng gia đình là một trách nhiệm, một bộ phận cấu thành trong chỉnh thể
các mục tiêu phấn đấu của xã hội, vì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Thế nhưng, các cá nhân không chỉ sống trong quan hệ gia đình mà còn có
những quan hệ xã hội. Mỗi cá nhân không chỉ là thành viên của gia đình mà còn là
thành viên của xã hội. Không thể có con người bên ngoài xã hội. Gia đình đóng vai
trò quan trọng để đáp ứng nhu cầu về quan hệ xã hội của mỗ cá nhân.
Ngược lại, bất cứ xã hội nào cũng thông qua gia đình để tác động đến mỗi cá
nhân. Mặt khác, nhiều hiện tượng của xã hội cũng thông qua gia đình mà có ảnh
hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo
đức, lối sống.
1.1.4.Chức năng cơ bản của gia đình.
Một là, chức năng tái sản xuất ra con người
Tái sản xuất ra chính bản thân con người là một chức năng cơ bản và riêng có
của gia đình. Chức năng này bao gồm các nội dung cơ bản: tái sản xuất, duy trì nòi
giống, nuôi dưỡng nâng cao thể lực, trí lực bảo đảm tái sản xuất nguồn lao động và
sức lao động cho xã hội.
Hoạt động sinh con đẻ cái của con người trước hết xuất phát từ nhu cầu tồn
tại của chính con người, của xã hội. Chức năng này đáp ứng một nhu cầu rất tự
nhiên, chính đáng của con người. Nhưng tốc độ gia tăng dân số, mật độ dân cư
và nhiều yếu tố khác liên quan đến các vấn đề chiến lược và trình độ phát triển kinh
tế, xã hội
Vì vậy sinh đẻ của mỗi gia đình không chỉ là việc riêng của gia đình mà còn
là một nội dung quan trọng của mỗi quốc gia và toàn nhân loại. Chiến lược về dân
số hợp lý sẽ trực tiếp tạo ra một cách có kế hoạch nguồn nhân lực mới phù hợp với
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, là mục tiêu, động lực quan trọng nhất của phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội.
Hai là, chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình
11

Hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống vật chất là một chức năng cơ bản của
gia đình. Hoạt động kinh tế, hiểu theo nghĩa đầy đủ gồm có hoạt động sản xuất kinh
doanh và hoạt động tiêu dùng để thoả mãn các yêu cầu ăn mặc, ở, đi lại của mỗi
thành viên và của gia đình.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiều gia đình có điều kiện (có sở
hữu hoặc tham gia sở hữu tư liệu sản xuất) đều có thể trở thành một đơn vị kinh tế
tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Để có thể phát huy mọi tiềm năng sáng tạo trong
kinh tế, Đảng và nhà nước đề ra và thực hiện các chính sách sao cho mọi gia đình,
mọi cá nhân có thể làm giàu chính đáng bằng hoạt động sản xuất kinh doanh trong
khuôn khổ pháp luật.
Cùng với sản xuất kinh doanh, các gia đình và hộ gia đình công nhân viên
chức, cán bộ hành chính sự nghiệp, giáo viên, nhà khoa học, trí thức văn nghệ sỹ
cũng được khuyến khích trong lao động sáng tạo, tăng thu nhập chính đáng từ lao
động sáng tạo của mình. Các loại gia đình này tuy không trực tiếp thực hiện chức
năng sản xuất kinh doanh, nhưng cũng thực hiện một nội dung quan trọng của hoạt
động kinh tế: bảo đảm hoạt động tiêu dùng đáp ứng các nhu cầu vật chất cơ bản của
con người, qua đó kích thích sự phát triển hoạt động kinh tế của xã hội.
Thực hiện tốt chức năng kinh tế sẽ tạo ra tiền đề và cơ sở vật chất vững chắc
cho tổ chức đời sống của gia đình. Đương nhiên, ngoài cơ sở kinh tế, thì còn nhiều
yếu tố khác mới đảm bảo cho một gia đình trở nên văn minh, hạnh phúc.
Ba là, chức năng giáo dục của gia đình
Nội dung của giáo dục gia đình tương đối toàn diện, cả giáo dục tri thức và
kinh nghiệm, giáo dục đạo đức và lối sống, giáo dục nhân cách, thẩm mỹ, ý thức
cộng đồng.
Phương pháp giáo dục của gia đình cũng rất đa dạng, song chủ yếu là phương
pháp nêu gương, thuyết phục, chịu ảnh hưởng không ít của tư tưởng, lối sống, tâm
lý, gia phong của gia đình truyền thống.
12
Dù giáo dục xã hội đóng vai trò ngày càng quan trọng, có ý nghĩa quyết định,
nhưng có những nội dung và phương pháp giáo dục gia đình mang lại hiệu quả lớn

không thể thay thế.
Giáo dục gia đình còn bao hàm cả tự giáo dục. Do đó, chủ thể giáo dục gia
đình cơ bản và chủ yếu vẫn là thế hệ cha mẹ, ông bà đối với con cháu.
Giáo dục gia đình là một bộ phận và có quan hệ hỗ trợ, bổ sung hoàn thiện
thêm cho giáo dục nhà trường và xã hội. Do đó, dù giáo dục nhà trường
và giáo dục xã hội có phát triển lên trình độ nào, giáo dục gia đình vẫn được coi là
một thành tố của nền giáo dục xã hội nói chung.
Giáo dục gia đình luôn trở thành bộ phận quan trọng, hợp thành giáo dục nói
chung phục vụ các lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị trong bất cứ thời đại nào,
khi xã hội còn giai cấp và phân chia giai cấp.
Bốn là, chức năng thoả mãn các nhu cầu tâm - sinh lý, tình cảm của gia
đình.
Nếu như trình độ sản xuất kinh doanh, hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống
gia đình là điều kiện và tiền đề vật chất của xây dựng gia đình, thì thoả mãn các
nhu cầu tâm sinh lý được coi là một chức năng có tính văn hoá - xã hội của gia
đình. Chức năng này có vị trí đặc biệt quan trọng, cùng với các chức năng khác tạo
ra khả năng thực tế cho xây dựng gia đình hạnh phúc.
Nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến giới tính và giới, tâm lý lứa tuổi và thế
hệ, những căng thẳng mệt mỏi về thể xác và tâm hồn trong lao động và công tác
nhiều khi có thể được giải quyết trong một môi trường gia đình hoà thuận. Sự hiểu
biết, cảm thông, chia sẻ và đáp ứng các nhu cầu tâm sinh lý giữa vợ - chồng, cha
mẹ - con cái làm cho mỗi thành viên có điều kiện sống lạc quan, khoẻ mạnh về
thể chất và tinh thần là những tiền đề cần thiết cho một thái độ, hành vi tích cực
trong cuộc sống gia đình và xã hội.
Gia đình là một thiết chế đa chức năng. Mọi thành viên gia đình, tuỳ thuộc
vào vị thế, lứa tuổi đều có quyền và nghĩa vụ thực hiện các chức năng nói trên.
13
Trong đó, người phụ nữ có vai trò đặc biệt quan trọng, bởi họ là người do đặc thù
tự nhiên - sinh học, đảm nhận và thực hiện một số thiên chức không thể thay thế.
Tuy nhiên, trong quá trình lịch sử, phụ nữ là những người vất vả, cực nhọc và chịu

nhiều thiệt thòi nhất cả trong quan hệ xã hội lẫn trong quan hệ gia đình. Do đó, giải
phóng phụ nữ được coi là một mục tiêu quan trọng của cách mạng xã hội chủ
nghĩa, cần phải được bắt đầu từ gia đình.
Gia đình, thông qua thực hiện các chức năng khách quan vốn có của mình, có
vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển xã hội, nhưng chỉ với tư cách là của cái
bộ phận đối với cái toàn thể. Mọi quan điểm tuyệt đối hoá, đề cao quá mức hay phủ
nhận, hạ thấp vai trò của gia đình đều là sai lầm.
1.2. Những điều kiện và tiền đề xây dựng gia đình trong quá trình xây dựng
CNXH.
1.2.1.Điều kiện, tiền đề về kinh tế - xã hội
Việc thủ tiêu chế độ bóc lột, từng bước xác lập và củng cố hoàn thiện quan hệ
sản xuất mới, thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân là yếu
tố cơ bản và quan trọng nhất để từng bước xoá bỏ những tập quán hôn nhân cũ chịu
ảnh hưởng nặng nề của các giai cấp thống trị trong xã hội cũ, xoá bỏ cơ sở kinh tế
của tình trạng bất bình đẳng về giới, bất bình đẳng giữa các thành viên và các thế
hệ thành viên trong gia đình.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phát triển nền kinh thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, một mặt từng bước hình thành hoàn thiện và phát triển các
cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, mặt khác, tạo ra những điều kiện,
những cơ hội để phát huy mọi tiềm năng của mọi gia đình, mọi thành viên trong xã
hội. Phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa còn là tiền đề để từng bước giải
quyết đúng đắn giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế với thực hiện công bằng xã hội,
xoá đói giảm nghèo. Điều đó cũng tạo ra những cơ sở, điều kiện phát triển gia đình,
từng bước khắc phục những hạn chế, kế thừa và phát huy những giá trị truyền
14
thống, hình thành các yếu tố tích cực trong gia đình, thực hiện bước chuyển từ gia
đình truyền thống sang gia đình mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2.2.Các điều kiện và tiền đề chính trị và văn hóa xã hội
Nhà nước xã hội chủ nghĩa chú ý đến việc xây dựng, hoàn thiện và tổ chức hệ
thống luật pháp, trong đó có Luật hôn nhân và gia đình. Tư tưởng đó được Đảng và

nhà nước ta vận dụng xuyên suốt quá trình xây dựng đất nước tiến lên xã hội chủ
nghĩa, điều đó được thể hiện rõ nét qua sự ra đời, phát triển và dần hoàn thiện của
Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam:
Hiến pháp 1959, điều 24 quy định: “Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội và gia đình. Cùng việc làm như nhau, phụ nữ được hưởng lương ngang với nam
giới. Nhà nước bảo đảm cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên chức được nghỉ
trước và sau khi đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương. Nhà nước bảo hộ quyền lợi của
người mẹ và của trẻ em, bảo đảm phát triển các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ.
Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.”
Luật hôn nhân gia đình 1959 đã cụ thể hóa những tư tưởng tiến bộ của Đảng
và Nhà nước ta về vấn đề gia đình từ rất sớm: “Nhà nước bảo đảm việc thực hiện
đầy đủ chế độ hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng, bảo
vệ quyền lợi của phụ nữ và con cái, nhằm xây dựng những gia đình hạnh phúc, dân
chủ và hoà thuận, trong đó mọi người đoàn kết, thương yêu nhau, giúp đỡ nhau tiến
bộ” (điều 1). Xoá bỏ những tàn tích còn lại của chế độ hôn nhân phong kiến cưỡng
ép, trọng nam khinh nữ, coi rẻ quyền lợi của con cái (điều 2).
Trong những lần bổ sung, sửa đổi sau đó nhà nước ta đã đưa được rất nhiều
điều chỉnh, đổi mới phù hợp với thực tế xã hội, để thực sự đưa luật Hôn nhân gia
đình vào cuộc sống. Đây là điều kiện và tiền đề cơ bản cho quá trình thực hiện hôn
nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, xây dựng gia đình bình đẳng, dân chủ,
đảm bảo cuộc sống gia đình hạnh phúc và bền vững.
15
Đồng thời với việc xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý về vấn đề hôn
nhân gia đình, Đảng và Nước ta chú trọng xây dựng nhiều chính sách văn hóa - xã
hội nhằm nâng cao tri thức, sức khỏe, đời sống vật chất và tinh thần của người dân.
Trong chỉ thị số 49CT/TW ngày 21/2/2005 của Ban Bí thư về xây dựng gia đình
thời kỳ Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa, Đảng ta khẳng định mục tiêu, nhiệm vụ về
công tác xây dựng gia đình như sau:
a) Mục tiêu: "Mục tiêu chủ yếu của công tác gia đình trong thời kỳ công

nghiệp hoá và hiện đại hoá là ổn định, củng cố và xây dựng gia đình theo tiêu chí ít
con (mỗi cặp vợ chồng chỉ một hoặc hai con), no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc, để mỗi gia đình Việt Nam thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành
mạnh của xã hội"
b) Nhiệm vụ (6 nhiệm vụ)
Một là, cần nhận thức rõ gia đình là một trong những nhân tố quan trọng
quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Coi đầu tư cho gia đình là đầu tư cho phát triển bền
vững. Gia đình có trách nhiệm với các thành viên và với xã hội; Nhà nước và xã
hội có trách nhiệm bảo vệ sự ổn định và phát triển của gia đình. Xây dựng gia đình
phải luôn gắn với sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Cán bộ, đảng viên có trách nhiệm
gương mẫu chăm lo xây dựng chính gia đình mình và vận động nhân dân cùng thực
hiện.
Hai là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác gia đình, coi đây là nhiệm vụ
thường xuyên; chủ động rà soát, đánh giá tình hình gia đình tại địa phương, xây
dựng và triển khai các kế hoạch, đề án cụ thể giải quyết những khó khăn, thách
thức về gia đình và công tác gia đình. Cần đặc biệt quan tâm xoá bỏ các hủ tục, tập
quán lạc hậu trong hôn nhân và gia đình; kiên quyết đấu tranh chống những lối
sống thực dụng, vị kỷ, đồi truỵ; tăng cường công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; có kế hoạch và biện pháp cụ thể phòng, chống tệ nạn
xã hội và bạo hành trong gia đình.
16
Ba là, tăng cường công tác giáo dục đời sống gia đình. Cung cấp tới từng gia
đình các kiến thức, kỹ năng sống, như: Kỹ năng làm cha mẹ, kỹ năng ứng xử giữa
các thành viên với nhau và với cộng đồng. Giáo dục và vận động mọi gia đình tự
nguyện, tự giác, tích cực thực hiện nếp sống văn minh, Vận động các gia đình tích
cực tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước, quy chế dân chủ cơ sở;
Phát triển các hình thức tổ hoà giải, các câu lạc bộ gia đình tại cộng đồng; giữ gìn
và phát huy văn hoá gia đình và truyền thống tốt đẹp của dòng họ; xây dựng tình
làng nghĩa xóm, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, nhắc nhở, động viên nhau thực hiện tốt

chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Trong giáo dục, phải kế
thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam gắn với
xây dựng những giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển.
Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ gia đình; nhân rộng các mô
hình kinh tế hộ tiên tiến; đảm bảo kết quả bền vững của chương trình xoá đói giảm
nghèo và tạo việc làm, nhất là ở các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, quan tâm đặc biệt tới các gia đình có công với cách mạng, gia
đình là nạn nhân của chiến tranh.
Năm là, chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể, cộng đồng và gia đình tham gia
tích cực xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá, khu phố văn hoá, cụm dân cư
văn hoá; xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình điển hình, tiêu biểu, tạo ra
phong trào xây dựng gia đình ít con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, biểu
dương kịp thời và nhân rộng các mô hình gia đình vượt khó vươn lên, gia đình làm
kinh tế giỏi, gia đình hiếu học, gia đình trẻ hạnh phúc, gia đình nhiều thế hệ chung
sống mẫu mực, chăm sóc người cao tuổi, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Sáu là, cần sớm xây dựng và triển khai chiến lược và chương trình mục tiêu
về công tác gia đình, xây dựng các đề án cụ thể giải quyết những thách thức hiện
nay đối với gia đình.
Việc hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu về văn hóa xã hội sẽ nâng cao tri
thức và sức vóc, đời sống vất và tinh thần của toàn xã hội, từ đó mỗi cá nhân sẽ có
17
điều kiện phát triển và phát huy hết khả năng của mình. Đây là điều kiện quan
trọng làm thay đổi về hình thức tổ chức, quy mô và kết cấu gia đình theo hướng
tích cực, phù hợp với thời đại.
II. Vần đề gia đình ở Việt Nam hiện nay
2.1. Sự hình thành gia đình ở Việt Nam
Gia đình là yếu tố cấu thành xã hội, là tế bào của xã hội từ gia đình con người
được sinh ra và trưởng thành cả về thể chất và nhân cách. Gia đình quan hệ hữu cơ
với xã hội. Xã hội phát triển tạo điều kiện cho gia đình phát triển và ngược lại gia
đình lành mạnh thì xã hội mới là lành mạnh và phát triển chất lượng hơn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã
hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã
hội là gia đình".
Đặc biệt, đối với “gia đình” trở thành mối quan tâm chung của mỗi quốc gia
dân tộc và nhân loại. Các nước phát triển và đang phát triển đều nhận thức rõ bảo
vệ, cũng cố và phát triển sự vững chắc của gia đình là nhân tố quan trọng để ổn
định và phát triển xã hội.
Gia đình thời xưa khác thời nay. Trong xã hội hiện đại, sự biến đổi của gia
đình diễn ra một cách sâu sắc, quyết liệt, đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần
quan tâm giải quyết như sự bùng nổ dân số, chênh lệch về giới tính, mâu thuẫn thế
hệ, sự lệch lạc trong lựa chọn đối tượng để tiến hành xây dựng gia đình (kết hôn
cùng giới), những gia đình mô hình mới xuất hiện.
Liên hiệp quốc đã lấy năm 1994 là “năm gia đình”. Ở Việt Nam lấy ngày 28
tháng 06 năm 2006 là “ngày gia đình”. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng ta nhấn
mạnh: “Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc thật sự là tế bào
lành mạnh của xã hội”.
18
Nhiều vấn đề gia đình cũng bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam, nhất là trong bối
cảnh mới của đất nước, đặc biệt là do sự tác động của cơ chế thị trường và hội nhập
quốc tế không ít trường hợp có những thành viên gia đình động cơ, mục đích sống
lệch lạc, nhiều gia đình không thích ứng được hoặc thích ứng không kịp với những
biến đổi nhanh chóng xã hội, rơi vào khủng hoảng, thậm chí đổ vở.
Trong bối cảnh hiện nay, một mặt nhiều giá trị mới được tiếp thu, hình thành
xuất hiện nhưng mặt khác nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam
cũng đang dần dần mai một đi. Tình trạng ly hôn, bạo hành gia đình gia tăng; chủ
nghĩa cá nhân, thực dụng, hưởng thụ có xu hướng tăng lên… Những hạn chế này
đang làm cho nhiều “tế bào” có nguy cơ rơi vào khủng hoảng, làm cho nền tảng xã
hội thiếu vững chắc. Gia đình không chỉ là “tế bào” tự nhiên mà còn là một đơn vị
kinh tế của xã hội. Không có gia đình tái tạo ra con người tốt, khỏe để xây dựng xã
hội thì xã hội cũng không thể tồn tại và phát triển được.

Vì vậy, mà những tiêu chí quan trọng của gia đình văn hóa Việt Nam được đề
cập tại Đại hội VIII của Đảng và được cụ thể hóa thành Chiến lược xây dựng gia
đình văn hóa Việt Nam, đến Đại hội XI, Đảng ta đã có sự phát triển nhận thức mới
về gia đình, đó là: No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc là những điều kiện cơ bản,
quan trọng để gia đình phát triển lành mạnh, bền vững. Muốn có một “tế bào lành
mạnh”, một “nền tảng vững chắc” thì phải xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững. Thế nào là gia đình no ấm, bình đẳng, tiến
bộ, hạnh phúc và bền vững?
1. Gia đình no ấm là gia đình: Đủ ăn, đảm bảo dinh dưỡng hợp lý. Đủ mặc,
phù hợp với điều kiện sinh hoạt và làm việc. Có nhà ở ổn định, vững chắc. Có các
tiện nghi, điều kiện thiết yếu phục vụ sinh hoạt gia đình.
2. Gia đình bình đẳng là gia đình trong đó: Mọi thành viên trong gia đình
chia sẽ bàn bạc, cùng nhau quyết định mọi công việc. Các thành viên trong gia đình
đều được hưởng các quyền lợi như nhau: học tập nghỉ ngơi, chăm sóc sức khỏe,
19
hưởng thụ văn hóa, tham gia các hoạt động ở xã hội và cộng đồng. Các thành viên
gia đình biết kính trên nhường dưới quan tâm, hổ trợ giúp đở lẫn nhau. Không có
bạo hành gia đình. Không phân biệt con trai, con gái.
3. Gia đình tiến bộ là gia đình: Thực hiện tốt yếu tố bình đẳng trong gia
đình. Các thành viên gia đình thực hiện tốt đường lối chủ trương chính sách, Pháp
luật của Đảng và Nhà nước, không vi phạm pháp luật và các tệ nạn xã hội, thực
hiện tốt các quy ước của cộng đồng. Tích cực học tập để nâng cao trình độ về mọi
mặt, thực hiện tốt chăm sóc sức khỏe, kế hoạch hóa gia đình.
4. Gia đình hạnh phúc là gia đình: Mọi thành viên trong gia đình có ý thức
bảo vệ sức khỏe. Hoàn toàn hài lòng, toại nguyện với tổ ấm của mình. Khi một gia
đình đạt cả ba tiêu chí: No ấm, bình đẳng, tiến bộ thì là điều kiện cần để có gia đình
hạnh phúc.
5. Gia đình bền vững là gia đình: Mọi thành viên trong gia đình luôn luôn
sống có trách nhiệm và bổn phận, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ với nhau
trong lúc thuận lợi hay khó khăn; lúc khỏe mạnh cũng như ốm đau, lúc giàu sang

hay nghèo khó không được bỏ nhau, phải bảo bọc cho nhau.
Những năm gần đây, việc thành lập cơ quan quản lý nhà nước về gia đình và
việc lấy ngày 28 - 6 hàng năm là Ngày gia đình Việt Nam đã khẳng định vai trò của
gia đình đối với xã hội và xã hội đối với gia đình trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, công tác gia đình một số nơi hiện nay còn nhiều yếu kém và đang
đối mặt với nhiều rủi ro, thách thức. Việc thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình còn
nhiều thiếu sót và bất cập. Hiện tượng tảo hôn vẫn còn tồn tại. Tình trạng ly hôn, ly
thân, chung sống không kết hôn, quan hệ tình dục và nạo phá thai trước hôn nhân
gia tăng đã để lại những hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt đối với bản thân, gia
đình và xã hội. Những biểu hiện tiêu cực trong hôn nhân với người nước ngoài
đang làm cho xã hội lo lắng, bận tâm.
20
Nhiều giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình như hiếu nghĩa, thuỷ
chung, sống có trách nhiệm, kính trên nhường dưới đang có biểu hiện xuống cấp.
Sự xung đột giữa các thế hệ về lối sống và việc chăm sóc, nuôi dưỡng người cao
tuổi đang đặt ra những thách thức mới. Tệ nạn xã hội như ma tuý, cờ bạc, rượu chè
bê tha, mại dâm và nạn dịch HIV/AIDS đang thâm nhập vào các gia đình.
Bạo hành trong gia đình, tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em, trẻ em bị xâm
hại, trẻ em phải lang thang kiếm sống, trẻ em vi phạm pháp luật có chiều hướng
phát triển. Nhiều gia đình vẫn đang phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của
chiến tranh. Hàng trăm ngàn trẻ em nạn nhân của chất độc da cam đang là nỗi đau
của nhiều gia đình. Hàng ngàn gia đình có thân nhân bị chết, bị tàn tật do bom mìn
còn sót lại sau chiến tranh. Những mất mát, đau thương của hàng triệu gia đình
trong chiến tranh sau gần bốn mươi năm qua vẫn chưa thể bù đắp.
Công tác xoá đói, giảm nghèo ở một số địa phương vẫn còn nhiều khó khăn,
kết quả chưa vững chắc, đặc biệt là ở vùng duyên hải, miền núi, vùng sâu, vùng
xa,biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Việc chuyển hướng ngành
nghề cho những hộ gia đình làm nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá và phát
triển công nghiệp chưa được quan tâm đúng mức.

Nguyên nhân của tình hình nói trên có phần do nhận thức của xã hội về vị trí,
vai trò của gia đình và công tác gia đình, công tác quản lý nhà nước về gia đình
chưa theo kịp sự phát triển của đất nước; những mặt tích cực của gia đình trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá chưa được phát huy. Nhiều vấn đề bức xúc về
gia đình chưa được xử lý kịp thời.
Vì vậy, trước những cấp thiết đó ngày 03 tháng 01 năm 2013 Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 02/2013/NĐ-CP quy định về công tác gia đình và có hiệu
lựcthi hành từ ngày 18 tháng 02 năm 2013. Nội dung cơ bản của Nghị định là đề
cao trách nhiệm cho các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể cần quan tâm đúng
mức việc nghiên cứu, lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức trong việc thực hiện công tác gia
21
đình, tổ chức kỷ niệm ngày gia đình Việt Nam (28/6). Khẳng định công tác gia đình
là hoạt động của các cơ quan, tổ chức nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng,
tiến bộ, hạnh phúc và bền vững nhằm góp phần thực hiện thành công chủ trương
của Đảng trong Chỉ thị 49-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX về
“Xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” ./.
2.2. Thực trạng về gia đình Việt Nam
2.2.1.Tích cực
Gia đình Việt Nam chịu ảnh hưởng của gia đình truyền thống (gia đình
của nhân dân lao động), được hình thành và phát triển trong thời gian dài
dựng nước và giữ nước của dân tộc. Như vậy, gia đình truyền thống Việt
Nam có đặc điểm là nó gắn liền với xã hội nông thôn, với một nền sản xuất
nhỏ nông nghiệp, lấy sinh hoạt kinh tế trồng lúa nước là chính. Nó còn chịu
sự chi phối của tư tưởng Khổng giáo, nó thường gắn bó chặt chẽ với họ
hàng, làng xã mang tính chất phụ quyền gia trưởng. Kiểu gia đình truyền
thống này có những mặt tích cực như:
Thứ nhất, các thành viên rất coi trọng gia đình “tu thân, tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ”. Luôn luôn quan tâm nhấn mạnh đến gia đình, coi gia đình là
cơ cấu xã hội điển hình và là trung tâm của xã hội, “đất có thổ công, sông có
hà bá”, hay “một giọt máu đào hơn ao nước lã”.

Thứ hai, quan hệ trong gia đình, kính trọng và biết ơn người sinh thành
ra mình “công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra,
một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Nề nếp trên,
dưới, thương yêu đùm bọc nhau “anh em như thể chân tay, đói lành đùm bọc,
dở hay đỡ đàn”.
Thứ ba, phụ nữ thủy chung, đảm đang đóng góp cho gia đình, nó thể
hiện ở nhiều phương diện khác nhau trong lao động, chăm lo con cái, công
việc gia đình (Việt Nam người đảm đang nhất là con dâu trưởng).
22
Bên cạnh những mặt tích cực thì cũng có những mặt hạn chế mà gia đình Việt
Nam hiện nay còn tồn tại mà xã hội cần quan tâm hơn nữa
2.2.2.Hạn chế
Thứ nhất , vấn đề trọng nam khinh nữ - bất bình đẳng trong gia đình
Thứ hai, vấn đề bạo lực gia đình
Thứ ba, vấn đề kết hôn rồi ly hôn, trẻ em chết dưới 5 tuổi và 1 tuổi cao,
tình trạng trẻ em , thanh thiếu niên lang thang cơ nhỡ, nghiện mà túy, phạm
pháp còn số lượng lớn.
2.2.3.Nguyên nhân hạn chế
Vấn đề trọng nam khinh nữ - bất bình đẳng trong gia đình: trong gia
đình, việc chú trọng xây dựng quan hệ dân chủ, bình đẳng giữa các thành
viên, nhất là dân chủ, bình đẳng giữa nam - nữ, giữa cha, mẹ - con cái , tạo
nên sự nề nếp, hoà thuận, kỷ cương mới trong gia đình. Sự tiến bộ của gia
đình về mọi mặt dựa trên sự tiến bộ của mỗi thành viên và gắn liền với sự
phát triển về mọi mặt của xã hội chưa được quan tâm đúng mức,mà tình
trạng này dẫn đến những việc như kết hôn do người trên nhất là do bố mẹ
sắp đặt không chú ý đúng mức đến tình yêu của con cái (bố mẹ đặt đâu con
ngồi đấy), về hôn nhân thì “trai năm thể bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có
một chồng”. Trong gia đình phong kiến theo tục tam tòng: tại gia tòng phụ,
xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử
Phụ nữ không được coi trọng, suốt ngày gắn bó với nội trợ, chăm sóc

chồng con, gia đình nhà chồng không có điều kiện tham gia vào các công
việc của xã hội. Vai trò của người phụ nữ chỉ được bó hẹp trong gia
đình.Người đàn ông là người lãnh đạo và ra quyết định, người phụ nữ là
người thực hiện các quyết định của người đàn ông. Đàn ông chi phối và kiểm
soát toàn bộ các nguồn lực, lợi ích của gia đình, kiểm soát người phụ nữ và
các hoạt động của họ.Điều đó bắt nguồn từ ảnh hưởng nặng nề của quan
niệm truyền thống : Phụ nữ phải lo việc nhà, đàn ông lo việc lớn và là người
23
chị trách nhiệm chính.
Vấn đề bạo lực gia đình: trước hết ta có thể hiểu bạo lực gia đình là
hành vi tấn công của một người( thường là người đàn ông) đối với người
khác có mối quan hệ với họ như vợ, con,….bằng cách dùng vũ lực hay đe
dọa bằng vũ lực để kiểm soát người khác về tài chính và các mối quan hệ xã
hội.
Với nhiều loại khác nhau như: cưỡng bức về thân thể, cưỡng bức về
tình dục, cưỡng bức về tâm lý tình cảm, cưỡng bức về mặt xã hội tài chính
như các vụ án gần đây mà báo đài đưa tin trên các phương tiện mà chúng ta
không khó tìm thấy. Mà nguốn gốc của vấn đề này đến từ nhiều yếu tố như
suy nghĩ sai lệch của người đàn ông như vấn đề đã nêu trên mà người phụ nữ
cam chịu do sự hiểu biết còn hạn chế, hay sự phụ thuộc trong hôn nhân của
người phụ nữ( ép cưới từ bố mẹ do vấn đề tài chính, từ các mối quan hệ xã
hội ), bên cạnh đó thì hệ thống pháp luật, chính sách về gia đình chưa hoàn
chỉnh cũng là nguyên nhân,chúng ta cần pháp luật hóa và tăng tính thực thi
những điều khoản cụ thể về vấn đề gia đình, đảm bảo cho sự phát triển bền
vững của gia đình Việt Nam. Xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách về gia
đình hiện nay rất cần sự mở rộng hiệu lực của việc chấp hành pháp luật, tăng
cường giáo dục pháp chế, có những đảm bảo về mặt pháp luật để giác ngộ
mỗi thành viên của gia đình tuân thủ pháp luật một cách tự nguyện, trở thành
ý thức cá nhân.Sự quan tâm của cơ quan đoàn thể đúng lúc, kịp thời chưa kịp
thời, sát sao cũng là nguyên nhân khiến tình trạng này còn xảy ra.

Vấn đề kết hôn rồi ly hôn nhanh, trẻ em chết dưới 5 tuổi và 1 tuổi cao,
tình trạng trẻ em , thanh thiếu niên lang thang cơ nhỡ, nghiện mà túy, phạm
pháp còn số lượng lớn.
Thời đại công nghiệp hoá nên mọi người đi nhanh hơn, nói nhanh hơn,
làm việc cũng nhanh hơn. Còn tình yêu và hôn nhân của nhiều thanh niên
cũng không ra khỏi quỹ đạo đó. Nếu hình dung một mối tình từ khi bắt đầu
24
cho đến khi kết thúc gióng như một quyến sách thì tình yêu của các thế hệ
trước đây như cuốn tiểu thuyết dài với nhiều chương hồi còn tình yêu bây
giờ giống như một truyện ngắn. Họ làm quen nhanh hơn, trao nhau nụ hôn
nhanh hơn, quyết định đi đến hôn nhân nhanh hơn và đi đến ly dị cũng nhanh
hơn.Tìm hiểu sơ sài, phụ bạc nhau lúc hàn vi, thương yêu nhau lúc có bổng
lộc, hắt hủi phụ bạc nhau khi đi nước ngoài về giàu sang học đòi lối
sống.Măc khác do tính chất đặc thù của xã hội hiện đại vợ chồng thường ít
có thời gian gần gủi quan tâm tới nhau hơn. Tỷ lệ các cuộc ly hôn không
ngừng tăng trong những năm qua cũng đã ảnh hưởng tới chất lượng gia đình
Việt Nam hiện đại
Tình trạng trẻ em chết cao cũng do suy nghĩ thiếu chín chắn của bộ
quận giới trẻ về việc hôn nhân gia đình,nuôi con khi tuổi đời còn nhỏ, sống
dễ giải để rồi tình trạng nạo phá thai,bỏ con diễn ra nhiều.
Cha mẹ không thông cảm, thường hay mắng mỏ các em trong độ tuổi vị
thành niên. Phần lớn cho rằng trẻ không vâng lời. Cha mẹ quá bận rộn lo kiếm tiền
ít có thời gian chăm sóc tới gia đình, con cái.
Những kỳ thi cũng là thời gian áp lực đối với thanh thiếu niên, nếu không
được điểm cao thì thường được cha mẹ đem ra so sánh với bạn bè, lo mắng gây nên
tâm lý căng thẳng của thế hệ này
Những mâu thuẫn của vợ chồng, bạo hành gia đình đã ảnh hưởng không tốt
tới suy nghĩ và hành động của con trẻ làm chúng có những khái niệm sai lệch về
gia đình.
Bên cạnh đó thì xã hội với cơ cấu giai cấp không thuần nhất và cơ cấu kinh tế

nhiều thành phần nên gia đình cũng có nhiều dạng khác nhau bị chi phối bởi tư
tưởng và tâm lý các giai tầng khác nhau đối với sự phát triển đất nước trong giai
đoạn hiện nay cũng là nguyên nhân dẫn đến các vấn đề trên
2.3. Những định hướng và nội dung xây dưng gia đình mới ở Việt Nam
2.3.1. Định hướng
25

×