PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc theo Người đã sản sinh ra biết
bao tên tuổi vĩ đại, vừa là anh hùng dân tộc, vừa là nhà tư tưởng lớn nhưng không ai
có được sự nghiệp lẫy lừng như Chủ tịch Hồ Chí Minh, không ai có được tầm vóc
thời đại, được loài người tiến bộ ca ngợi và thừa nhận như Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong những năm tháng hoạt động ở nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan
tâm sát sao đến phong trào công nhân trong nước, Người nói “Đảng ta không những
chỉ tăng cường công tác tuyên truyền trong công nhân mỏ và các ngành kinh tế quan
trọng khác, mà còn chú ý đến những công nhân thất nghiệp, thợ thủ công ở thành thị
và công nhân nông thôn”. Tại Hội nghị Trung ương 8 (5-1941), Bác khẳng định “Lấy
vận động công nhân làm công việc đầu tiên trong công việc tổ chức quần chúng của
Đảng Làm sao cho phong trào thợ thuyền trở nên một lực lượng tiên phong trong
cuộc cách mạng giải phóng Đông Dương”. Với chủ trương đó, hội nghị đã thống
nhất thành lập Mặt trận Việt Minh, trong đó Hội Công nhân cứu quốc là nòng cốt. Sự
ra đời của Hội Công nhân cứu quốc khẳng định sự đánh giá nhất quán, chính xác vị
trí giai cấp công nhân của Hồ Chủ tịch. Qua đây, yếu tố thống nhất dân tộc của giai
cấp vô sản được phát huy một cách triệt để, nó đã lôi kéo được cả dân tộc và trở
thành ngọn cờ duy nhất lãnh đạo dân tộc. Điều đó được minh chứng qua thắng lợi vẻ
vang của cách mạng tháng Tám năm 1945. Thắng lợi này đánh dấu bước nhảy vọt
bằng chính nội lực của giai cấp công nhân Việt Nam, kết thúc chế độ thuộc địa kéo
dài gần 80 năm ở nước ta, mở đầu cho sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa, sự tan rã của
chủ nghĩa thực dân.
Sau thắng lợi vẻ vang của cách mạng tháng Tám, trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ chính quyền non trẻ vừa mới giành được, đòi hỏi toàn dân tộc phải đóng góp
sức lực và trí tuệ của mình để giành lấy thắng lợi cuối cùng. Ngày 29-4-1946, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh quyết định cho công nhân và người lao động cả nước
được nghỉ ngày Quốc tế Lao động nhưng vẫn có lương. Đây là sự khẳng định quyền
tự do dân chủ bằng pháp luật. Từ chỗ xác định rõ quyền lợi của giai cấp công nhân,
Người kêu gọi mỗi công nhân phải trở thành một chiến sĩ đấu tranh trên mặt trận của
mình, phải đoàn kết, hăng hái thi đua, tích cực sản xuất ra nhiều của cải vật chất để
vừa phục vụ kháng chiến, vừa kiến quốc, góp sức cùng cả nước đánh bại thực dân
1
Pháp và đế quốc Mỹ, lật nhào ngụy quân ngụy quyền, tạo tiền đề cho thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay, những người lao động chân tay và trí óc mặc dù chỉ chiếm 11%
dân số cả nước nhưng họ có một vai trò hết sức quan trọng. Thông qua đội tiền
phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam liên minh, tập hợp,
đoàn kết và lãnh đạo tất cả các tầng lớp nhân dân lao động tiến hành thành công công
cuộc đổi mới, từng bước đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, cơ bản trở
thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Với những lý do trên em quyết định
chọn đề tài: “ Tư tương Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân và những vấn đề về
xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên
cứu cho tiểu luận của mình.
2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài với mục đích nghiên cứu nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp công
nhân, nhận thức rõ bản chất của giai cấp công nhân, vai trò của giai cấp công nhân
đối với công cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và những vấn đề
đặt ra trong việc xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp
công nhân, đánh giá thực trạng của giai cấp công nhân và từ đó đề ra những giải pháp
xây dựng giai cấp công nhân trong thời kỳ Công nghiệp hoá - Hiện đại đại hoá đất
nước.
3.Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tiểu luận tập trung nghiên cứu hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh, trong đó
tập trung vào tư tưởng của Người về giai cấp công nhân và nghiên cứu thực trạng của
giai cấp công nhân từ đó đề ra các giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hệ thống quan điểm tư tưởng của Hồ Chí
Minh giai cấp công nhân Việt Nam.
2
4.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Trong bài tôi dựa trên những nguyên lý lý luận của chủ nghĩa Mác-Lenin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và dựa vào các văn bản
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết dựa trên phương pháp luận Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đứng
trên quan điểm, lập trường của Đảng Cộng sản Việt Nam, cụ thể: Phương pháp duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử, phân tích tổng hợp, so sánh…
5.Ý nghĩa của đề tài
Góp phần làm sáng tỏ những quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp
công nhân, thực trạng và đề ra một số giải pháp có tính khả thi nhằm xây dựng giai cấp
công nhân đáp ứng được yêu cầu mới trong giai đoạn hiện nay.
6.Kết cấu của đề tài
Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì kết cấu
của đề tài gồm 3 phần chính: Chương 1 là hệ thống khái niệm và các phạm trù cơ
bản; chương 2 là quan điểm của Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân; chương 3 là
thực trạng và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân giai đoạn hiện nay.
NỘI DUNG
3
Chương 1. HỆ THỐNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN VÀ CÁC PHẠM TRÙ
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh và giai cấp công nhân
1.1.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết
tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
và giai phóng con người.
1.1.2. Giai cấp công nhân
- Giai cấp công nhân quốc tế:
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với
sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của của lực lượng
sản xuất có tính xã hội hóa ngày càng cao, là lực lượng sản xuất cơ bản, tiên phong,
trực tiếp hoạc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật
chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công
nhân là những người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất phải làm
thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giái trị thặng dư; ở các nước xã
hội chủ nghĩa, họ là người đã cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất
và cùng nhau hợp tác lao đông vì lợi ích chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích
chính đáng của bản thân họ.
- Giai cấp công nhân Việt Nam:
Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển,
bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các
loại hình sản xuất kinh dơanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và
dịch vụ có tính chất công nghiệp.
Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo
cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện
cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
4
nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; lực
lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân:
Xuất phát từ lòng yêu nước và ước muốn giải phóng cho đồng bào mình khỏi áp bức,
bất công, Hồ Chí Minh đã ra đi tìm con đường cứu nước. Trên hành trình vĩ đại ấy,
Người đã tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin, nhận rõ vai trò, sứ mệnh của giai cấp công
nhân thế giới nói chung và công nhân Việt Nam nói riêng.
Khởi đầu hành trình đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sống cuộc đời
người thợ: làm phụ bếp dưới tàu buôn Đô đốc Latusơ Tơ-rê-vin, làm vườn ở Xanhtơ
A-đơ-Rexơ, nước Pháp; quét tuyết cho một trường học, đốt lò và phục vụ khách sạn
ở Luân đôn, nước Anh. Người tích cực tham dự những buổi diễn thuyết của nhiều
nhà chính trị và các triết gia, tham gia "Hội những người lao động hải ngoại". Tại
Mỹ, Hồ Chí Minh đã đến New-York làm thuê ở Bruc-Clin, dự mít tinh cùng những
người da đen ở thành phố Haclem.
Trải qua những tháng ngày lao động cùng quần chúng nhân dân nhiều nước
trên thế giới, Hồ Chí Minh đã thấy rõ cảnh bất công của xã hội tư bản, Người cảm
thông với cảnh lao động cực nhọc và đời sống khó khăn vất vả của công nhân và
nhân dân lao động các nước không kể da trắng, da vàng hay da đen, Người rút ra kết
luận: ở đâu chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác vô nhân đạo, ở đâu giai cấp công nhân và
nhân dân lao động cũng bị áp bức bóc lột dã man, ở đâu người dân mất nước cũng
khổ nhục như nhau. Hồ Chí Minh còn nhận rõ rằng giai cấp công nhân và nhân dân
lao động các nước đều là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù. Người nhận xét:
dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và
giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu
ái vô sản.
Từ một thanh niên trí thức yêu nước, Hồ Chí Minh đã trở thành người công
nhân. Người hiểu rõ rằng giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp là bạn còn
bọn thực dân, đế quốc Pháp mới là kẻ thù của nhân dân Việt Nam. Người cũng nhận
rõ: giai cấp công nhân các nước kể cả thuộc địa và chính quốc phải đoàn kết để
chống kẻ thù chung là chủ nghĩa tư bản.
5
Cuối năm 1917, khi chiến tranh thế giới thứ nhất đang diễn ra ác liệt, tình hình
Đông Dương cũng có những biến động, Hồ Chí Minh từ Anh trở lại Pháp để có điều
kiện trực tiếp hoạt động trong phong trào Việt kiều và phong trào công nhân Pháp. ở
đây, Người vừa hoạt động chính trị vừa làm thuê, khi thì rửa ảnh, khi thì vẽ thuê cho
cho xưởng đồ cổ mỹ nghệ, Hồ Chí Minh tiếp tục cuộc sống của những người lao
động và tham gia hoạt động Công đoàn tại xí nghiệp kim khí, quận 17 Paris, tham gia
hoạt động trong đảng xã hội Pháp, những nhận thức của Hồ Chí Minh về giai cấp
công nhân ngày càng được khẳng định và sáng tỏ.
1.2. Những đặc điểm chủ yếu của giai cấp công nhân Việt Nam
Là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp,
lớp công nhân đầu tiên xuất hiện gắn liền với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất
(1897) và thực sự trở thành giai cấp công nhân Việt nam từ thời kỳ khai thác thuộc
địa của thực dân Pháp lần thứ hai (1924-1929). Cùng với quá trình phảt triển của
cách mạng, giai cấp công nhân Việt Nam sớm trở thành bộ phận của đội ngũ giai cấp
công nhân quốc tế. Ngoài những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế, giai
cấp công nhân Việt Nam còn có đặc điểm riêng:
Thứ nhất: Sinh ra và lớn lên từ một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, có
truyền thống yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc, dù còn non trẻ, nhỏ bé, song giai cấp
công nhân đã sớm trở thành giai cấp duy nhất được lịch sử, dân tộc thừa nhận và giao
phó sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ sau các phong trào cứu nước theo lập
trường Cần Vương, lập trường tư sản và tiểu tư sản thất bại.
Thứ hai: Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn lên, đã tiếp thu chủ
nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, nhanh chóng trở
thành lực lượng chính trị tự giác và thống nhất, được Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo
dục, đã sớm giác ngộ mục tiêu lý tưởng, chân lý của thời đại: độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân Viêt Nam luôn có tinh thần và bản chất cách
mạng triệt để.
Thứ ba: Giai cấp công nhân nước ta xuất thân từ nông dân lao động, bị thực
dân phong kiến bóc lột, bần cùng hóa nên có mối quan hệ máu thịt với giai cấp nông
dân và các tầng lớp lao động khác. Qua thử thách của cách mạng, liên minh giai cấp
đã trở thành động lực và là cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc.
6
Thứ tư: Từ khi trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp công nhân Việt Nam
luôn phát huy bản chất cách mạng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, luôn là lực
lượng đi đầu và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá xây dựng và phát triển nền kinh tế công nghiệp và nền kinh tế tri thức
hiện đại.
Thứ năm: Quá trình “trí thức hoá” giai cấp công nhân diễn ra mạnh mẽ, từng
bước hình thành giai cấp công nhân trí thức Việt Nam.
Việc hình thành giai cấp công nhân trí thức không có nghĩa là sự bổ sung vào
lực lượng giai cấp công nhân những công nhân có trình độ cao mà là giai cấp công
nhân được nâng cao về trình độ và có sự thay đổi về tính chất lao động- lao động
điều khiển những công nghệ tự động hoá của nền kinh tế tri thức.
CHƯƠNG 2. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN
7
2.1. Giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông
qua chính đảng của mình
Theo Hồ Chí Minh, để đấu tranh xoá bỏ Chủ nghĩa tư bản, giải phóng cho các
dân tộc thuộc địa, giải phóng giai cấp công nhan, sự nghiệp ấy cần phải do chính giai
cấp công nhân lãnh đạo: “Trong thời đại hiện nay, giai cấp công nhân là giai cấp độc
nhất và duy nhất, có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng”.
“Để lãnh đạo cách mạng, hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình, giai
cấp công nhân cần phải có đội tiên phong, có lãnh tụ chính trị, có bộ tham mưu chiến
đấu của giai cấp mình, đó là Đảng cộng sản.
Đảng CSVN là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc
Việt Nam. Ngay từ khi ra đời đến nay, Đảng CSVN luôn là người đại diện xứng đáng
cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Tại Đại hội lần
thứ II của Đảng (tháng 2-1951), Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong giai đoạn này,
quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì
Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nên
nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”.
Nhất quán với quan điểm này, khi miền Bắc tiến hành cuộc cách mạng XHCN,
vào năm 1961, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời
cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”. Vận dụng sáng tạo những nguyên tắc
về Đảng kiểu mới của V.I.Lênin vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu
cầu Đảng phải tập hợp được trong hàng ngũ của mình những người trong giai cấp
công nhân, nông dân nghèo, binh lính… miễn là những người đó “tin theo chủ nghĩa
cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng hái đấu tranh và dám hy
sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận
Đảng”.
Khi nói Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc thì điều
đó không có nghĩa là “Đảng toàn dân”, không mang bản chất giai cấp. Ngay khi
tuyên bố thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã xác định rõ bản chất giai cấp công nhân
của Đảng. Ở đây, bản chất giai cấp công nhân của Đảng thể hiện không chỉ ở số
lượng đảng viên xuất thân từ giai cấp công nhân mà điều cơ bản là ở chỗ lập trường
8
của giai cấp công nhân và nền tảng tư tưởng của Đảng chính là chủ nghĩa Mác -
Lênin.
Nghị quyết Đại hội VII của Đảng đã chỉ rõ: “Khẳng định bản chất giai cấp
công nhân của Đảng, chúng ta không tách rời Đảng và giai cấp với các tầng lớp nhân
dân lao động khác, với toàn thể dân tộc. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã mang
trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Chính lập trường
và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc. Đảng tìm thấy
nguồn sức mạnh không chỉ ở giai cấp công nhân mà còn ở các tầng lớp nhân dân lao
động, ở cả dân tộc”.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo
cách mạng và với tư cách đó, giai cấp công nhân bao giờ cũng là đội tiên phong của
cả dân tộc. Vì vậy, khi Người nói Đảng CSVN là Đảng của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, hay “Đảng cách mạng chân chính”, “Đảng
mácxít - Lêninnít”… thì trong tư tưởng của Người, Đảng bao giờ cũng là “đội tiên
phong dũng cảm và bộ tham mưu sáng suốt của giai cấp vô sản, của nhân dân lao
động và của cả dân tộc”. Và bản chất giai cấp của Đảng chỉ là một: Đảng mang bản
chất giai cấp công nhân, được xây dựng theo nguyên tắc về Đảng kiểu mới của V.I
Lênin.
Khi khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng, bao giờ Người cũng
gắn Đảng với vai trò lãnh đạo cách mạng, với vị trí của đội tiên phong trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát
tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng
bào sung sướng”. Rằng cách mạng Việt Nam “phải có đường lối cách mạng đúng, có
Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo đúng. Đường lối ấy chỉ có thể là đường lối của
chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của
dân tộc”.
Khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho
mọi hoạt động của Đảng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà
9
không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.
Bây giờ học thuyết nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt”, điều đó không có nghĩa là vận dụng một
cách máy móc, rập khuôn từng câu, từng chữ của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin
mà phải nắm lấy cái bản chất khoa học, cách mạng và sáng tạo của chủ nghĩa Mác.
Đồng thời phải biết “phân tích cụ thể tình hình cụ thể” của thực tiễn cách mạng Việt
Nam để hoạch định đường lối, chính sách đúng đắn.
Khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho
mọi hoạt động của Đảng, Hồ Chí Minh luôn nhắc Đảng ta khi vận dụng lý luận cách
mạng ấy phải sáng tạo, tránh giáo điều và không được xa rời những nguyên tắc cơ
bản của nó. Đồng thời phải ra sức làm giàu trí tuệ của Đảng bằng cách không ngừng
học tập nâng cao trình độ lý luận, thực tiễn cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ
hội, xét lại…
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có
thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa
đến thành công”.
Thực tiễn đã cho thấy, trong 80 năm tồn tại và phát triển của mình, Đảng Cộng
sản Việt Nam là người duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam và cách mạng Việt
Nam 80 năm qua luôn “cần có sự lãnh đạo của một Đảng cách mạng chân chính của
giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân” để đưa cách mạng giải phóng
dân tộc đến thắng lợi và cách mạng XHCN đến thành công.
2.2. Giai cấp công nhân là lực lượng chủ yếu, là gốc của cách mạng
Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử vô cùng trọng đại, xóa bỏ xã hội cũ, lạc
hậu, xây dựng xã hội mới tiến bộ, giải phóng giai cấp mình đồng thời giải phóng toàn
nhân loại trên phạm vi toàn thế giới. Ngày nay đứng trước tình hình phát triển mới
của đất nước và thế giới, nhân loại bước vào thiên niên kỷ mới, nhiều ý kiến đặt ra
cho việc xây dựng và phát triển giai cấp công nhân. Đảng ta khẳng định giai cấp
10
công nhân Việt Nam vẫn là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa
(CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước.
Do tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nên cơ cấu
kinh tế, cơ cấu xã hội đã có những biến đổi mới làm cho “giai cấp công nhân hiện
đại” khác với “giai cấp công nhân cổ điển” ở thời kỳ thế kỷ XIX, thời kỳ Mác còn
sống, trên một số điểm như là : Tỉ lệ số người làm dịch vụ so với số người sản xuất
trực tiếp tăng lên; trình độ văn hóa chung và tay nghề chuyên môn cao hơn; mức thu
nhập khá hơn trước, làm cho một bộ phận người lao động trở thành “trung lưu hóa”.
Một bộ phận trong giai cấp công nhân đã mua cổ phần và được chia lợi nhuận với
giai cấp tư sản. Tầng lớp quản lý ngày càng có vai trò quan trọng và kiêm nhiều chức
năng phụ của giới chủ. Những biểu hiện trên đây chứng tỏ giai cấp công nhân ngày
càng phát triển, chứ không phải "teo đi" như một số người quan niệm.
Ở thế kỷ XIX giai cấp công nhân chủ yếu là lao động chân tay, điều kiện sản
xuất lúc đó còn hạn chế. Ngày nay trong điều kiện mới, khi lực lượng sản xuất đang
trên đà phát triển mạnh, giai cấp công nhân không chỉ bao gồm những người lao
động chân tay mà còn cả lao động trí óc thông qua các máy điện toán với những
thành tựu của tin học. Giai cấp công nhân có sự phát triển về chất lượng để đảm
đương được nhiệm vụ của mình trong điều kiện mới, hay nói cách khác “công nhân
hóa trí thức” và “trí thức hóa công nhân” là xu thế tất yếu của nền đại công nghiệp,
của quá trình tự động hóa, tin học hóa. Giai cấp công nhân đang lớn lên với đội ngũ
trí thức của mình và giai cấp công nhân luôn luôn là người trực tiếp sản xuất, tham
gia vào quá trình tạo ra những giá trị vật chất, những của cải to lón cho xã hội.
Giai cấp công nhân bao gồm những người lao động trong lĩnh vực công
nghiệp, dịch vụ công nghiệp; những nhà nghiên cứu, sáng chế, áp dụng những thành
tựu của khoa học công nghệ phục vụ cho sản xuất; những kỹ sư, kỹ thuật viên, cán bộ
kỹ thuật thực hiện chức năng của công nhân lành nghề trong sản xuất và tái sản xuất
của cải vật chất. Giai cấp công nhân có mặt trong các ngành kinh tế: Công nghiệp,
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải, trong đó công nhân công
xưởng, nhà máy sản xuất công nghiệp hiện đại, tiên tiến là bộ phận nòng cốt, tiêu
biểu cùng với quá trình phát triển của giai cấp công nhân, bộ phận trí thức gắn trực
11
tiếp với lao động công nghiệp, với quy trình sản xuất công nghiệp tạo ra của cải vật
chất cho xã hội cũng nằm trong nội dung khái niệm giai cấp công nhân.
Trong điều kiện ngày nay, cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại rất đa dạng,
có nhiều trình độ khác nhau và không ngừng biến đổi theo hướng không thuần nhất:
Công nhân kỹ thuật ngày càng tăng công nhân ngày càng được nâng cao về trình độ,
đóng vai trò chính trong quá trình phát triển, công'nhân truyền thống giảm dần. ở các
nước tư bản phát triển “công nhân áo xanh” chỉ chiếm 12 - 15% tổng số công nhân
(l). ở Italia công nhân kỹ thuật cao “công nhân áo trắng” chiếm 53% tổng số công
nhân. ở Nhật 90% công nhân có trình độ đại học. ở Tây Ban Nha công nhân kỹ thuật
chiếm 53%. Công nhân làm việc trong các ngành dịch vụ tăng lên xấp xỉ 50% tổng
số công nhân (2). Mặc dù một số ít trong giai cấp công nhân có cổ phần trong các xí
nghiệp của tư bản, nhưng về cơ bản giai cấp công nhân vẫn bị bóc lột, mâu thuẫn
giữa tư bản và lao động, sự phân biệt giàu nghèo và tình trạng bất công xã hội vẫn
tăng lên, bản chất bóc lột giá trị thặng dư vẫn tồn tại, dù được biểu hiện dưới hình
thức tinh vi hơn. Cả sự bần cùng hóa tuyệt đối lẫn bần cùng hóa tương đối của giai
cấp công nhân vẫn đang tồn tại. Tuy đại bộ phận tầng lớp trí thức và lao động có kỹ
năng đang có việc làm được cải thiện mức sống và gia nhập vào tầng lớp trung lưu,
nhưng vẫn không xóa được sự phân hóa giàu nghèo. Chính những nhà xã hội học tư
sản tiến bộ đã chứng minh ở các nước tư bản hiện nay sự bóc lột còn cao hơn và với
cơ chế càng tinh vi hơn thời Mác. Tỉ lệ m/v thời Mác là 1/1 thì thời nay là 3/1.
Như vậy dù mức sống có cao hơn trước, dù công nhân có được tham gia quản lý
thông qua đại biểu trong hội đồng xí nghiệp theo “chế độ tham dự” và “chế độ ủy
nhiệm”' nhưng họ vẫn là người làm thuê bán sức lao động, ý chí của chủ nghĩa tư bản
vẫn là quyền lực chi phối, tầng lớp “nhà quản lý” vẫn chỉ là kẻ phụ thuộc vào giới
chủ. Giai cấp công nhân vẫn luôn là lực lượng sản xuất cơ bản và trực tiếp, vẫn là
giai cấp tiên phong trong xã hội. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không thể
chuyển vào tay một giai cấp hay tầng lớp xã hội nào khác: Những chỉ dẫn cơ bản về
đặc trưng bản chất của giai cấp công nhân của Mác - ăng Ghen - Lênin đưa ra vẫn là
cơ sở phương pháp luận để xem xét, phân tích giai cấp công nhân hiện đại trong các
quốc gia tư bản chủ nghĩa phát triển hay trong những nước đang tiếp tục con đường
cách mạng xã hội chủ nghĩa, các nước thế giới thứ ba và toàn thế giới nói
chung,trước ây cũng như hiện nay.
12
Giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động ra của cải vật chất
trong lĩnh vực công nghiệp với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng hiện đại.
Sản phẩm thặng dư do họ làm ra là nguồn gốc chủ yếu cho sự giàu có và sự phát triển
của xã hội.
Giai cấp công nhân vừa là người lãnh đạo, đồng thời cùng với nông dân, trí
thức và các giai cấp, tầng lớp lao động khác họp thành lực lượng tổng hợp của quá
trình thực hiện sứ mệnh lịch sử đó.
Giai cấp công nhân Việt Nam đã và đang là lực lượng xã hội đi đầu trong công
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Trong điều kiện hiện nay
chúng ta phải xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam tiên tiến, hiện đại, đáp ứng yêu
cầu CNH, HĐH, mở cửa, hội nhập với bên ngoài nhằm phát huy tốt nhất bản chất và
những đặc điểm của giai cấp công nhân.
3. Tập hợp công nhân vào một tổ chức
Từ khi đi tìm đường cứu nước, Bác Hồ đã nhận ra vai trò lịch sử to lớn của
giai cấp công nhân, đó chính là lực lượng đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến
nhất, là giai cấp tiên phong trong công cuộc cách mạng làm thay đổi chế độ, giành
độc lập và xây dựng đất nước.
Sau khi trở thành người cộng sản, trong nhiều việc lớn chuẩn bị cho dân tộc
trên lộ trình cách mạng lâu dài, thì việc tìm kiếm những hình thức nhằm tập hợp,
đoàn kết giai cấp công nhân Việt Nam hay đặt nền móng xây dựng những cơ sở đầu
tiên cho tổ chức Công đoàn nước ta chiếm một phần không nhỏ trong cuộc đời hoạt
động cách mạng của Người.
Ngay từ năm 1913, khi đang làm đầu bếp tại Luân Đôn (nước Anh), Nguyễn
Tất Thành đã tham gia tổ chức Lao động hải ngoại, một tổ chức nghiệp đoàn của
những người thợ thuyền thuộc địa sống trên đất Anh.Trong cuốn Đường Kách mệnh,
do Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở châu á xuất bản năm 1927, Nguyễn ái Quốc
đã viết những dòng chữ về tổ chức Công hội đỏ mà những dòng chữ ấy có tính chất
kinh điển về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn sau này: “ Tổ chức Công
hội trước đó để cho công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình; hai là để nghiên cứu
với nhau; ba là để sửa sang cách sinh hoạt cho khá hơn bây giờ; bốn là để giữ gìn
quyền lợi cho công nhân; năm là giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới”.
13
Như vậy, từ những năm 1920 Bác Hồ đã rất chú ý đến chức năng bảo vệ quyền
lợi cho người lao động, một chức năng quan trọng nhất của tổ chức Công đoàn. Từ
những cơ sở Công hội đầu tiên trên đất Pháp, những hội tương tế mang nặng tính
chất phường hội thị dân, từ những “đốm lửa” Công hội đỏ đầu tiên của Tôn Đức
Thắng ở Sài Gòn- Chợ Lớn đầu những năm 1920, cùng với sự xâm nhập của tư
tưởng xã hội chủ nghĩa vào nước ta qua Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên; từ
những năm 1926 phong trào công nhân phát triển như gió lốc, đặc biệt theo sáng kiến
của Nguyễn ái Quốc nêu ra ở Quảng Châu, những học trò ưu tú của Người như
Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự đã phát động phong trào vô sản nổi tiếng, làm cho tổ
chức Công hội ở Bắc và Trung Kỳ thực sự lan rộng, phát triển mạnh mẽ như nấm
mọc sau cơn mưa rào. Đó cũng chính là bối cảnh để Đông Dương Cộng sản Đảng
giao trọng trách cho đồng chí Nguyễn Đức Cảnh triệu tập Hội nghị thành lập Tổng
Công hội đỏ Bắc Kỳ vào ngày 28.7.1929, tại số 15 Hàng Nón - Hà Nội, là tiền thân
của tổ chức Công đoàn ngày nay. Đại hội còn quyết định ra Báo Lao động và Tạp chí
Công hội đỏ làm cơ quan ngôn luận của tổ chức mình.
Cao trào cách mạng Việt Nam dâng lên mạnh mẽ từ tháng 5.1930, đúng vào
dịp Quốc tế Công hội đỏ chuẩn bị cho Đại hội lần thứ V dự định nhóm họp vào tháng
8.1930. Được tin, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời gửi thư cho BCH Quốc tế Công hội
đỏ Việt Nam gồm 3 đồng chí: Hoàng Bình, Phạm Văn Đức và Lê Văn Kiệt đi dự Đại
hội. Đoàn đã lặn lội vượt biên giới Mãn Châu tới Liên Xô dự Đại hội an toàn. Bác
cũng đã thông báo cho nhóm học sinh Việt Nam đang học tại trường Phương Đông
biết để giúp đỡ đoàn. Có thể nói, đây là sự kiện rất đáng chú ý của lịch sử tổ chức
Công đoàn Việt Nam. Vì đây là lần đầu tiên giai cấp công nhân Việt Nam có một
đoàn đại biểu chính thức trên diễn đàn quốc tế. Qua sự kiện nêu trên, cho thấy sự
quan tâm chu đáo, cũng như sự tinh tế của Bác đối với tổ chức Công đoàn Việt Nam
ngay từ những bước đi đầu tiên.
Từ năm 1941, khi trở về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng, tại Hội
nghị Trung ương lần 8 (19.5.1941), Người đã có sáng kiến lập ra Mặt trận Việt Minh,
và Hội Công nhân cứu quốc cũng đã ra đời, các tổ chức Công đoàn phát triển mạnh
trong cả nước. Ngày 20.7.1946, Đại hội lần thứ nhất Công đoàn Việt Nam đã thành
lập Tổng LĐLĐ Việt Nam, đến năm 1961 tại Đại hội toàn quốc lần thứ hai Công
đoàn Việt Nam được đổi tên thành Tổng Công đoàn Việt Nam.
14
Trong quá trình phát triển tổ chức Công đoàn Việt Nam, bên cạnh sự quan tâm
về xây dựng, củng cố tổ chức, Bác Hồ cũng luôn luôn nhắc nhở kêu gọi giai cấp công
nhân vận động phong trào Thi đua ái quốc. Từ sáng kiến của Bác, Công đoàn Việt
Nam đã phát động nhiều phong trào thi đua nổi tiếng và đạt được những kết quả vô
cùng to lớn như: Phong trào “Thi đua ái quốc”, “Tăng gia sản xuất vũ khí”, “Tất cả
cho tiền tuyến” , “Mỗi người làm việc bằng hai vìmiền Nam ruột thịt”, “Năng suất -
chất lượng - hiệu quả”, “Lao động giỏi”, “Giỏi việc nước, đảm việc nhà, “Thi đua 2
tốt” đã để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử phong trào công nhân và lịch sử Công
đoàn nước ta.
Khi nói chuyện với công nhân Nhà máy diêm Thống Nhất ngày 16.8.1956 Bác
đã khéo nhắc nhở về mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ chính đáng của người
lao động, Người nói thật giản dị: “Lợi ích của công nhân đi đôi với lợi ích chung của
nhà máy. Nếu đời sống được cải thiện và mọi người khoẻ mạnh, thì sẽ phấn khởi thi
đua sản xuất làm cho nhà máy thu được nhiều kết quả. Nếu nhà máy phát triển thì có
khả năng cải thiện đời sống của công nhân và nhân viên”. Người không quên nhấn
mạnh rằng: “Mục đích của Công đoàn là phải cải thiện đời sống công nhân, nâng cao
đời sống vật chất, văn hoá của giai cấp công nhân nói riêng và nhân dân nói chung”.
Ngày 18.7.1969, không lâu trước lúc đi xa, Bác đã dành một trong những cuộc tiếp
xúc cuối cùng cho đại biểu của Tổng Công đoàn Việt Nam. Người nhắc nhở: “ Làm
tốt công tác vận động, tổ chức giáo dục quần chúng công nhân viên chức làm tròn vai
trò tiên phong cách mạng, để họ hiểu và tự nguyện, tự giác giữ gìn kỷ luật lao động,
giữ gìn của công, thực hành tiết kiệm”. Coi lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là
nguồn sống, nguồn tạo nên hạnh phúc cho mọi người và cho cả thế hệ mai sau.
Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội và đặc biệt là tổ chức công đoàn
có trách nhiệm tạo các điều kiện thuận lợi về vật chất và tinh thần, xây dựng, hoàn
thiện cơ chế, chính sách, tạo động lực khuyến khích công nhân, lao động khắc phục
khó khăn, tự giác rèn luyện tích cực tham gia các chương trình đào tạo, đào tạo lại và
tự đào tạo, từng bước tri thức hóa công nhân và hình thành xã hội học tập.
Hoạt động công đoàn cần phát huy quyền làm chủ của công nhân, viên chức, lao
động trong sản xuất, kinh doanh, trong việc đóng góp ý kiến của mình thông qua đại
hội công nhân viên chức, hội nghị cán bộ, công chức, thông qua việc xây dựng và ký
kết thỏa ước lao động tập thể, tổ chức và đại diện cho người lao động kiểm tra, giám
15
sát việc thực hiện pháp luật ở doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị. Công đoàn phải làm tốt
chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, chủ
động trong việc giải quyết tranh chấp lao động và xây dựng quan hệ lao động hài
hòa, tiến bộ trong doanh nghiệp.
Các cấp công đoàn cần có giải pháp thiết thực đẩy mạnh hơn nữa các phong
trào thi đua yêu nước, phát huy tối đa các nguồn lực trong công nhân, viên chức, lao
động cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kịp thời phát hiện những nhân tố và
điển hình tiên tiến, phổ biến kinh nghiệm và nhân thành phong trào rộng khắp.
Thông qua hoạt động của mình và thông qua các phong trào quần chúng, Công đoàn
vừa đóng góp tích cực vào việc xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, vừa làm tốt
vai trò cầu nối giữa Đảng với quần chúng, thường xuyên giúp Đảng và Nhà nước thu
nhận những thông tin từ đời sống thực tế, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của quần
chúng để đề ra các chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp và tổ chức thực hiện có
hiệu quả các chủ trương, chính sách ấy.
Xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn vững mạnh là trách nhiệm
không chỉ của riêng tổ chức công đoàn mà còn là của Đảng và Nhà nước. Các cấp ủy
đảng, chính quyền cần tạo điều kiện, phối hợp, giúp đỡ để công đoàn hoạt động
thuận lợi, thực hiện tốt chức năng và vai trò của mình theo đúng quy định của pháp
luật. Bản thân tổ chức công đoàn phải nỗ lực vượt bậc, đổi mới, đa dạng hóa phương
thức và nội dung hoạt động sao cho thiết thực và linh hoạt, phù hợp với đặc điểm của
từng vùng, từng ngành, từng loại hình doanh nghiệp và đơn vị, luôn luôn gắn liền với
cơ sở, với công nhân, viên chức và người lao động, khắc phục chủ nghĩa quan liêu,
bệnh hình thức và "hành chính hóa". Cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền
giáo dục để người lao động, đặc biệt là công nhân, lao động trong các doanh nghiệp
tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hiểu rõ về tổ chức công đoàn, tự
nguyện vào công đoàn và tham gia hoạt động công đoàn.
4. Xây dựng giai cấp công nhân xứng đáng là người chủ nước nhà
Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn, là giai cấp lãnh đạo cách
mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho
phương thức sản xuất tiên tiến; tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội và là lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với nông dân và đội
ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Điều đó cho thấy xây dựng giai cấp công
16
nhân nước ta lớn mạnh là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của Đảng, Nhà nước, của cả
hệ thống chính trị và của toàn xã hội mà Công đoàn là tổ chức trực tiếp vừa đại diện,
vừa bảo đảm quyền lợi cho công nhân.
Giải pháp mang tính chiến lược là xây dựng giai cấp công nhân phải gắn kết
chặt chẽ với phát triển kinh tế - xã hội. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội và chăm lo xây dựng giai cấp công nhân; bảo
đảm hài hòa lợi ích giữa công nhân, người sử dụng lao động và toàn xã hội. Đồng
thời phải đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng
trí thức hóa giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ công nhân trẻ có trình độ học vấn,
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao, ngang tầm khu vực và quốc tế, có lập trường
giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng trở thành bộ phận nòng cốt của giai cấp công
nhân.
Sứ mệnh lịch sử và vai trò tiên phong đòi hỏi giai cấp công nhân Việt Nam
phải tiếp tục phát huy mạnh mẽ hơn bản chất và truyền thống tốt đẹp của mình, tự
khẳng định tầm vóc chính trị của mình bằng việc nâng cao trình độ mọi mặt, về nhận
thức chính trị, tư tưởng, về kiến thức văn hóa và khoa học - công nghệ, về kỹ năng
nghề nghiệp và quản lý Phải nắm bắt và tiếp cận nhanh với tiến bộ khoa học - kỹ
thuật, đưa công nghệ mới vào sản xuất, kinh doanh và đời sống, lao động có năng
suất, chất lượng và hiệu quả cao, đấu tranh tích cực chống quan liêu, lãng phí, tham
nhũng và những hành vi vi phạm pháp luật.
Sức mạnh của giai cấp công nhân là sức mạnh của nội lực giai cấp, đồng thời
cũng bắt nguồn từ sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Giai cấp
công nhân Việt Nam có vai trò tiên phong lãnh đạo nhưng là một bộ phận của dân
tộc, đứng trong lòng dân tộc. Lợi ích của giai cấp công nhân, trước đây, hiện nay
cũng như về sau, luôn luôn thống nhất với lợi ích của dân tộc, hòa quyện trong mục
tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Việc xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức
công đoàn vững mạnh phải đặt trong tổng thể phát huy sức mạnh toàn dân tộc, coi
đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh công nhân-nông dân-trí thức do Đảng
lãnh đạo là động lực chủ yếu để phát triển đất nước.
Là tổ chức chính trị-xã hội rộng lớn nhất của giai cấp công nhân, viên chức và
người lao động, Công đoàn Việt Nam cần nhận rõ trách nhiệm của mình tiếp tục đổi
17
mới tổ chức và hoạt động nhằm tập hợp lực lượng, tuyên truyền giáo dục nâng cao
năng lực và trình độ mọi mặt cho công nhân lao động, trước hết là nâng cao nhận
thức về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Chú trọng bồi dưỡng đội ngũ công nhân đông đảo, nhất là công
nhân trẻ, trong tất cả các loại hình doanh nghiệp-doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - về truyền thống
yêu nước, tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, rèn luyện tác phong công nghiệp,
ý thức tổ chức kỷ luật, hiểu biết và gương mẫu chấp hành luật pháp, làm tròn nghĩa
vụ công dân. Xây dựng cho mỗi người công nhân, mỗi tập thể và toàn thể giai cấp
công nhân ý chí vươn lên thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, quyết tâm làm giàu cho bản
thân, cho gia đình, góp phần làm giàu cho đất nước, xã hội có đời sống văn hóa tinh
thần phong phú, tốt đẹp.
Nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về giai cấp công nhân và hoạt động
công đoàn là công việc hệ trọng. Công đoàn cần làm tốt công việc ấy, xác định rõ
hơn nữa vai trò của giai cấp công nhân và vị trí, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức
công đoàn trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc
tiếp tục đổi mới tổ chức, nôi dung và phương thức hoạt động phù hợp với yêu cầu
của tình hình mới, đưa việc xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn vững
mạnh phát triển lên một tầm cao mới.
Có Đảng lãnh đạo, trưởng thành trong máu lửa thực tiễn cách mạng, vốn cần
cù, lao động, sáng tạo, chúng ta tin tưởng giai cấp công nhân Việt Nam sẽ ngày càng
lớn mạnh, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG
NHÂN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
18
3.1. Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
Qua hơn 20 năm đổi mới, cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về
số lượng, đa đạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng
đông đảo bộ phận công nhân trí thức; đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh
đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên
phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; có nhiều cố gắng
để phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, giai cấp công nhân đã đóng góp trực tiếp to lớn vào quá trình phát triển
của đất nước, cùng với các giai cấp, tầng lớp và thành phần xã hội khác, giai cấp
công nhân nước ta là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng và Nhà nước.
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, việc làm và đời sống của giai
cấp công nhân ngày càng được cải thiện.
Tuy nhiên, sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về
số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm
trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong
công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân,
chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống. Một bộ phận công nhân chậm thích nghi
với cơ chế thị trường. Địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ.
Giai cấp công nhân còn hạn chế về phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều; sự hiểu biết
về chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế. Tỉ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất
thân từ công nhân còn thấp. Một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào
Đảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội. Nhìn tổng quát, lợi
ích một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với những thành tựu của
công cuộc đổi mới và nhưng đóng góp của chính mình; việc làm, đời sống vật chất
và tinh thần của công nhân đang có nhiều khó khăn, bức xúc, đặc biệt là ở bộ phận
19
công nhân lao động giản đơn tại các doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài.
3.1.1. Về cơ cấu thành phần kinh tế
Công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước từ chỗ là đại diện cho toàn bộ
giai cấp công nhân trong thời kỳ trước đổi mới nay chỉ giữ một số lượng và tỷ lệ thấp
hơn (1,83 triệu, chiếm 40,8%) so với công nhân của khu vực ngoài nhà nước (2,68
triệu chiếm 59,2%). Tỷ lệ công nhân nhà nước tỷ lệ nghịch với tốc độ và quy mô đổi
mới doanh nghiệp nhà nước đang diễn ra mạnh mẽ trong mấy năm gần đây dưới sức
ép của nhu cầu nâng cao hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh của kinh tế
quốc tế. Hậu quả tất yếu nhưng không mong muốn của tiến trình này là hiện có hơn
150000 người vốn là công nhân nhà nước, nay thuộc diện dư dôi, thất nghiệp. Cơ cấu
thành phần cuả công nhân hiện nay rất phức tạp, có những người vừa làm cho Nhà
nước vừa làm cho tư nhân hoặc mang danh là công nhân nhưng lại sống bằng nghề
phụ, kinh tế hộ cá thể.
3.1.2. Về cơ cấu ngành nghề
Giai cấp công nhân nước ta thường làm việc trong những ngành công nghiệp truyền
thống: luyện kim, cơ khí, điện. Trong thời kỳ đổi mới, công nhân làm trong các
ngành dịch vụ (giao thông vận tải, bưu điện, viễn thông, ngân hàng ) đã tăng lên
nhanh cùng với tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đáng chú ý là đã xuất
hiện một bộ phận mới dù chiếm tỷ lệ nhỏ đó là công nhân tri thức, những người có tri
thức vàkỹ năng cao, tạo ra những sản phẩm dịch vụ có hàm lượng giá trịtăng cao như
tư vấn, thiết kế, quản lý chất lượng đồng bộ. Số công nhân có trình độ cao đẳng, đại
học ở nước ta chiếm trên 150000 người (khoảng 3,3%).
Xu hướng phát triển của bộ phận công nhân tri thức sẽ tăng nhanh cùng với
mức độ phát triển của kinh tế tri thức ở nước ta. Chính sự đa dạng, phức tạp về nguồn
gốc, cơ cấu, sự không đồng nhất về chất lượng và sự phân hoá, phân tầng trong nội
bộ giai cấp, giữa các bộ phận công nhân trong các ngành nghề và thành phần kinh tế,
đã làm suy yếu tính thống nhất, sức mạnh đoàn kết và địa vị xã hội của giai cấp công
nhân hiện nay so với thời kỳ trước đổi mới. Tuy vậy, sự xuất hiện và ngày càng lớn
mạnh về số lượng và chất lượng của bộ phận công nhân tri thức ở nước ta hiện nay là
một trong những yếu tố cơ bản tiếp tục đảm bảo cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân Việt Nam trong giai đoạn phát triển hiện nay. Thu nhập kinh tế, ngoài bộ
20
phận nhỏ công nhân trí thức có thu nhập cao, bộ phận công nhân trong các doanh
nghiệp nhà nước ở một số lĩnh vực có tính độc quyền, có mức thu nhập khá, còn lại
phần lớn công nhân nước ta có mức thu nhập rất thấp.
3.1.3. Về chính trị và uy tín xã hội
Công nhân chưa có địa vị bằng tầng lớp tri thức, tầng lớp công chức, viên
chức. Ngay trong các doanh nghiệp nhà nước, quyền lực và vai trò của công nhân
còn bị hạn chế. Trong các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghệp có vốn đầu tư nước
ngoài, tổ chức Đảng và các tổ chức quần chúng thiếu hụt hoặc bị hạn chế hoạt động ,
công nhân thường bị giới chủ chèn ép, quản lý chặt chẽ; họ có rất ít khả năng đấu
tranh với các ông chủ dù chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Trình độ học vấn và văn hoá của công nhân tuy cao hơn nông dân nhưng lại bị
thiệt thòi hơn so với nhiều tầng lớp khác trong xã hội. Do bộ phận công nhân nhà
nước thường phải làm thêm nghề phụ để tăng thu nhập nên tác phong công nghệp
chưa cao. Công nhân trong khu vực kinh tế tư nhân, khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài có kỷ luật cao hơn song thường phải tăng ca, làm thêm giờ để kiếm sống nên ít
có thời gian và điều kiện để học tập, phát triển bản thân. Ý thức giai cấp, ý thức Đảng
trong bộ phận công nhân này nói chung thấp. Công nhân tri thức cũng có xu hướng
chịu làm thuê đến khi đủ mạnh để tách ra lập tổ chức kinh doanh của mình để trở
thành ông chủ, thầy hay chuyên gia độc lập. Trong khi nhiều trí thức, tiểu tư sản trải
qua sự rèn luyện và công tác mà có bản chất giai cấp công nhân thì nhiều người xuất
thân từ công nhân khi được đề bạt lên lãnh đạo, quản lý lại để mai một bảnchất giai
cấp của mình. Làm công nhân không phải là mơ ước và sự tự lựa chọn không chỉ đối
với những thanh niên trẻ mà còn đối với những người đang trong nghề. Tỷ lệ giai cấp
công nhân trong các cấp uỷ, nhất là cấp cao, cấp Trung ương thường không đạt như
mong muốn và kế hoạch phấn đấu chủ yếu là do chưa đáp ứng được các yêu cầu, tiêu
chuẩn của cán bộ lãnh đạo thời kỳđổi mới của Đảng.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ gây nên sự biến động
thường xuyên, ngày càng đa dạng, phức tạp, không thuần nhấtvề số lượng, chất
lượng của giai cấp công nhân Việt Nam. Điều đó được thể hiện tập trung trên các
phương diện sau:
21
- Sự giảm sút nhanh chóng về số lượng công nhân trong khu vực kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể; sự tăng lên nhanh của đội ngũ công nhân khu vực kinh tế tư
nhân, tư bản nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
- Sự đa dạng, phức tạp, không thuần nhất và phân hoá, phân tầng trong nội bộ
giai cấp, giữa các bộ phận công nhân, đội ngũ trí thức trong các ngành nghề, các tổ
chức xã hội nghề nghiệp và thành phần kinh tế.
- Phản ánh sự đa dạng, đan xen, hỗn hợp của các thành phần kinh tế nhất định
nào đó, mà họ có thể hiện diện ở hai hoặc vài thành phần kinh tế: họ vừa là công
nhân trong khu vực kinh tế nhà nước, vừa làm việc ở khu vực kinh tế tập thể, cá thể,
tư nhân, hộ gia đình, vv Có thể họ vừa là công nhân, vừa không phải là công nhân
khi họ sống bằng nghề phụ (tăng gia, chăn nuôi, thủ công, buôn bán ), hoặc bằng
thu nhập khác là chủ yếu, họ có vốn cổ phần ở một mức độ nào đó trong xí nghiệp,
nhà máy, công ty,
- Sự mất cân đối về cơ cấu đội ngũ công nhân giữa các thành phần, ngành kinh
tế, trên các địa bàn dân cư, giữa số lượng và chất lượng. Nhìn chung, cơ cấu giai cấp
công nhân chưa cân đối và đồng bộ. Các ngành công nghiệp nặng còn chiếm tỷ lệ
thấp, trong khi đó các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm chiếm tới 40%.
Bộ phận công nhân nông nghiệp còn quá ít.
- Sự già hoá, đứt đoạn và giảm đi của đội ngũ công nhân lâu năm, nhiều đời,
công nhân lành nghề, thợ bậc cao, thợ giỏi trong những năm gần đây, nhất là ở bộ
phận công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước; sự trẻ hoá của đội ngũ công nhân ở
khu vực kinh tế tư nhân, có vốn đầu tư nước ngoài.
Tình hình phát triển về số lượng, cơ cấu đa dạng, phức tạp, không thuần nhất,
thường xuyên biến động như trên, đã và đang dẫn đến một thực trạng về chất lượng
giai cấp công nhân: đang có sự yếu kém về nhiều mặt và sự phân hoá, không thuần
nhất giữa các bộ phận của đội ngũ công nhân Việt Nam hiện nay. Thực trạng này
được phản ánh trên các bình diện sau:
- Trình độ văn hoá, tay nghề thấp và không đồng dều, mất cân đối giữa các bộ
phận công nhân. Trình độ kỹ thuật, kiến thức quản lý kinh tế, khả năng nghề nghiệp
của công nhân còn thấp so với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Bộ phận công nhân xuất thân từ nông thôn chiếm đại đa số trong giai cấp
công nhân. Họ mang theo lối suy nghĩ, tầm nhìn của người nông dân, quan hệ xã hội
22
và cả lối sống nông thôn vào trong giai cấp công nhân. Những nhược điểm đó kéo
dài cả thập kỷ, thậm chí có phần phát triển dưới chế độ bao cấp và cơ chế kinh tế kế
hoạch tập trung. Người công nhân Việt Nam chưa được rèn luyện nhiều trong nền
kinh tế công nghiệp và quan hệ cạnh tranh, phát huy tính sáng tạo cá nhân và tập thể
trong môi trường công nghiệp và thị trường còn hạn chế. Điều đó ảnh hưởng rất
nhiều đến tư duy kinh tế, phong cách làm việc, phong cách quản lý của người công
nhân.
- Vấn đề lớn nhất nổi lên trong các năm qua là, giai cấp công nhân chưa thể
đóng vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội, nhất là trong sản xuất, kinh doanh, phân
phối. Một phần, vì người công nhân chưa có thói quen và năng lực làm chủ, nhiều cơ
quan lãnh đạo, quản lý trong các nhà máy, xí nghiệp và ngoài xã hội chưa tôn trọng
quyền làm chủ của giai cấp công nhân. Thậm chí, có nơi quyền dân chủ của công
nhân còn bị vi phạm nghiêm trọng. Đây là mặt yếu rất đặc trưng của giai cấp công
nhân ở những nước chưa có công nghiệp hiện đại. Tình hình làm việc ngày một căng
thẳng, lương không đủ sống, người công nhân phải vật lộn với cuộc sống hàng ngày,
phải xoay xở bằng mọi cách để tồn tại; khi ngườicông nhân chưa làm chủ được bản
thân mình thì khó có thể làm chủ được nhà máy, xí nghiệp và xã hội. Công nhân
nước ta chưa được tôi luyện bao nhiêu trong môi trường kinh tế, khoa học công nghệ
và cạnh tranh. Vai trò của giai cấp công nhân trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội
còn chưa đạt được mức độ cần có của nó.
- Một bộ phận trong giai cấp chưa có trình độ chính trị, phẩm chất giai cấp
giảm, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp kém.
- Một bộ phận công nhân bị thoái hoá và tha hoá nghiêm trọng về lao động,
phẩm chất giai cấp và lối sống.
Trong những năm tới, sự biến động cơ cấu giai cấp của công nhân Việt Nam sẽ
diễn ra theo những xu hướng: ngày càng đa dạng hoá, phức tạp về cơ cấu và không
thuần nhất. Trong những năm đầu, xu hướng trên diễn ra mạnh mẽ với tốc độ nhanh.
Công nhân có mặt trong tất cả các thành phần kinh tế. Xu hướng tăng lên nhanh của
bộ phận công nhân trong khu vực kinh tế tư nhân, tư bản nhà nước và kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài; bộ phận công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước giảm đi một
cách tương đối. Sự phân hoá về thu nhập, phân hoá giàu nghèo, phân hoá về mức
sống, lối sống, ý thức giai cấp, trình độ chính trị, tư tưởng sẽ diễn ra mạnh mẽ và sâu
23
sắc. Trình độ văn hoá, học vấn, tay nghề, trẻ hoá về tuổi đời, tuổi nghề có xu hướng
ngày càng tăng, ngày càng được trí thức hoá. Xu hướng phi tập trung hoá công nhân
trong các nhà máy, xí nghiệp có quy mô lớn, số lượng công nhân đông; đội ngũ công
nhân - trí thức hoá ngày càng tăng và điều này đã chứng minh hùng hồn và đang
hiện thực hoá cho luận điểm rất đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: trí thức hoá
công nhân. Xu hướng luân chuyển nghề nghiệp nhiều lần và một bộ phận công nhân
lao động ra khỏi dây chuyền sản xuất sẽ diễn ra thường xuyên với tốc độ nhanh. Xu
hướng phát triển đa dạng hoá ngành nghề đi đôi với chuyên môn hoá cao trong công
nhân. Sự phân tầng xã hội, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, mâu thuẫn về lợi
ích ngay trong nội bộ giai cấp công nhân sẽ tăng lên. Quan hệ chủ - thợ trong các cơ
sở sản xuất phức tạp hơn; đình công, bãi công sẽ còn diễn ra với mức độ gay gắt,
quyết liệt hơn. Vì vậy, cần có nhận thức đầy đủ, toàn diện những xu hướng đó để có
những giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
từng bước trưởng thành, phát triển, thể hiện rõ và phát huy vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế nhiều thành phần.
Giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng tiên phong
của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi nói giai cấp công nhân lãnh đạo là nói đến
toàn bộ giai cấp như một chỉnh thể chứ không phải từng nhóm, từng người cá biệt.
Xét về thành phần xuất thân, ở nước ta có nhiều Đảng viên không phải là công nhân.
Nhưng bất cứ đảng viên nào cũng phải đứng trên lập trường giai cấp công nhân thể
hiện ở lý tưởng, ở lý luận Mác - Lênin và đường lối cách mạng, ở tinh thần kiên
quyết cách mạng trong cuộc đấu tranh để thực hiện sứ mệnh của giai cấp công nhân
vì lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và cả dân tộc.
Trong giai đoạn xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đội ngũ công
nhân hình thành một giai cấp công nhân thống nhất đại diện cho sản xuất tiên tiến,
thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam được trang bị bằng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Họ là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, là cơ sở xã hội chủ yếu nhất của Đảng và Nhà nước, là hạt nhân vững chắc
trong liên minh công nhân - nông dân - trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết dân
tộc.
Chúng ta không phủ nhận những nhược điểm của giai cấp công nhân Việt Nam
(như số lượng còn ít, chưa được rèn luyện nhiều trong công nghiệp hiện đại, trình độ
24
văn hoá và tay nghề còn thấp ) mà nguồn gốc sâu xa là ở trình độ phát triển kinh tế
chưa cao ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Nhưng điều đó không thể là lý do để phủ
nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhânViệt Nam. Để khắc phục những nhược
điểm ấy, Nghị quyết hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá VII của
Đảng, gắn trực tiếp vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá với vấn đề xây dựng, phát
triển giai cấp công nhân đã chỉ rõ phương hướng xây dựng giai cấp công nhân nước
ta trong giai đoạn hiện nay là: “ Cùng với quá trình phát triển công nghiệp và công
nghệ theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần xây dựng giai cấp
công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư
tưởng, có trình độ học vấn và tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công
nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên làm tròn sứ
mệnh lịch sử của mình”.
3.1.4. Nguyên nhân của thực trạng
Quá trình đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội đã mở ra một giai đoạn lịch sử
mới trong sự phát triển của giai cấp công nhân; tuy nhiên những hạn chế, yếu kém
trong phát triển kinh tế - xã hội cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc làm, đời sống và
tư tưởng, tình cảm của công nhân. Đảng có chú trọng xây dựng giai cấp công nhân;
nhưng quan tâm chưa đầy đủ, chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của giai cấp công
nhân trong thời kỳ mới. Nhà nước ban hành nhiều chính sách, pháp luật xây dựng
giai cấp công nhân; nhưng những chính sách, pháp luật này vẫn còn nhiều hạn chế,
bất cập. Công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác có nhiều đóng góp tích cực
vào việc xây dựng giai cấp công nhân; nhưng hiệu quả chưa cao, còn nhiều yếu kém.
Bản thân giai cấp công nhân đã có nhiều nỗ lực vươn lên; nhưng chưa đáp ứng được
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các doanh nghiệp và
người sử dụng lao động thuộc các thành phần kinh tế đóng góp tích cực vào tạo việc
làm và thu nhập cho công nhân; nhưng không ít trường hợp còn vi phạm chính sách,
pháp luật đối với người lao động.
3.2. Giải pháp xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay
3.2.1. Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về giai cấp
công nhân trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế
25