Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

tìm hiểu về lịch sử mỹ thuật ứng dụng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.28 KB, 29 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Tìm hiểu lịch sử mĩ thuật là một việc làm rất cần thiết cho một họa sĩ
một giảng viên mí thuật, nó góp phần làm phong phú những kinh nghiẹm
trong sáng tác vào giảng dạy làm them hiểu tiến trình lịch sử phát triển của
mĩ thuật để từ đó nhận ra được vị trtí của mĩ thuật đương đại, góp phần định
hướng sáng tác và giảng dạy phương pháp sáng tác.
Tìm hiểu về mĩ thuật việt nam lại càng cần thiết qua kinh nghiệm của
ông cha chúng ta càng khẳng định được định hướng sáng tác của mình để
không lạc hướng trong những phong trào sáng tác ồ ạt hiện nay tự chọn cho
mình con đường đúng đắn trong hoạt động sáng tạo. Tìm hiểu được di sản
nghệ thuật tạo hình của quê hương đất nước, ta càng tự hào với truyền thống
tài hoa của những người đi trước, càng vững tin vào phương châm phát triển
nền nghẹ thuật việt nam đậm đà bản sắc dân tộc từ đó tiếp thu chọn lọc tinh
hoa nghệ thuật thế giới. Tiếp tục góp phần của mỗi người chúng ta hiện nay
vào kho tang nghệ thuật tạo hình việt nam.
CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
Hội hoạ là một loại hình nghệ thuật sử dụng đường nét và màu sắc để
khắc hoạ hình ảnh của một sự vật, sự việc hay đôi khi chỉ đơn giản là để tác
giả tự bộc lộ bản thân. Hội hoạ thiên về cảm nhận, đôi khi hơi trừu tượng và
phóng túng.
Kiến trúc đòi hỏi sự chính xác trong từng chi tiết. Một bản thiết kế của
kiến trúc sư trước khi được sử dụng phải trải qua một quá trình tính toán tỉ
mỉ và lao động nghiêm túc.
Điêu khắc cũng là một bộ môn nghệ thuật lý thú. Vật liệu sử dụng
trong điêu khắc thường là đá, đất sét, gỗ Điêu khắc không đòi hỏi sự
chính xác nhiều như kiến trúc nhưng cũng không thể bay bổng như hội hoạ.
"Lột tả được hình dáng chung nhất và giữ được cái hồn của tác phẩm" - đó là
những gì mà một điêu khắc gia phải nhớ.
Đồ hoạ là ngành nghề thu hút sự quan tâm của các bạn trẻ nhiều nhất
hiện nay. Thiết kế đồ hoạ yêu cầu người học phải có hiểu biết về đồ hoạ, sử
dụng đc các chương trình chỉnh sửa và thiết kế. Nó đc ứng dụng trong nhiều


lĩnh vực như quảng cáo, chỉnh sửa ảnh, thiết kế thời trang, trang trí nội thất
MĨ THUẬT ỨNG DỤNG
Như vậy, mỹ thuật là một môn nghệ thuật vừa mang sự lãng mạn của
hội hoạ, vừa có sự chính xác của kiến trúc, vừa đòi hỏi sự tỉ mỉ của điêu
khắc và sự sáng tạo của đồ hoạ. Nó mang cái đẹp đến với thế giới ghệ thuật
không có địa chỉ là nghệ thuật mất gốc. Cái được gọi là “địa chỉ nghệ thuật,
địa chỉ của tác phẩm” chính là cá tính, cái riêng, cái độc đáo mà bản thân
người nghệ sĩ tạo ra trong tác phẩm của chính mình làm cho nó không bị
nhòa lẫn vào trong các tác phẩm của người khác và qua đó bộc lộ cái hồn
cao nhất là tính dân tộc. Tính dân tộc hoàn toàn không phải hình thức, mà nó
là trừu tượng, là cái có thể “cảm thấy” chứ không phải nhìn thấy như những
yếu tố vật lý. Nó tồn tại trong “kẽ hở” của những yếu tố hữu hình. Giờ đây,
chúng ta đang lo lắng vì sợ mất nó trong nền kinh tế thị trường.
Trước đây hơn mười lăm năm, giới mỹ thuật cả nước đã có nhiều
cuộc hội thảo để bàn về tính dân tộc hiện đại và hồi ấy đã có định nghĩa khá
thuyết phục. Đại ý của nó như sau: “… Tính dân tộc có thể được coi là mùi
hương của chất mật ong mà “con ong – nghệ sĩ” đã lặn lội, miệt mài để hút
nhụy của muôn loài hoa, tích lũy để truyền vào trong tác phẩm của chính
mình thứ tinh hoa dường như chất mật ong và mùi hương tuyệt vời ấy…”
Chính tính dân tộc là tinh hoa tuyệt vời mà mỗi nghệ sĩ đều suy tư, miệt mài
tìm kiếm trong kho tàng văn hóa dân tộc, vốn sống và mong muốn thể hiện
được nó bằng ngôn ngữ thị giác trên tác phẩm của mình.
Tuy nhiên, cho dù thời đại nào, nếu một nghệ sĩ là người Việt Nam,
đã và đang thật sự sống như là người Việt Nam, biết yêu thương, cảm xúc,
rung động, suy nghĩ cái suy nghĩ; giận cái giận; thương cái thương của người
Việt Nam và anh ta luôn trăn trở tư duy về nó thì ắt hẳn trong tác phẩm có
khi anh ta không vẽ, tạo những hình thức đơn thuần về những điều nói trên.
MĨ THUẬT ỨNG DỤNG VÀ TÍNH DÂN TỘC TRONG THỜI ĐẠI KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG
Nghệ thuật không có địa chỉ là nghệ thuật mất gốc. Cái được gọi là

“địa chỉ nghệ thuật, địa chỉ của tác phẩm” chính là cá tính, cái riêng, cái độc
đáo mà bản thân người nghệ sĩ tạo ra trong tác phẩm của chính mình làm
cho nó không bị nhòa lẫn vào trong các tác phẩm của người khác và qua đó
bộc lộ cái hồn cao nhất là tính dân tộc. Tính dân tộc hoàn toàn không phải
hình thức, mà nó là trừu tượng, là cái có thể “cảm thấy” chứ không phải nhìn
thấy như những yếu tố vật lý. Nó tồn tại trong “kẽ hở” của những yếu tố hữu
hình. Giờ đây, chúng ta đang lo lắng vì sợ mất nó trong nền kinh tế thị
trường.
Trước đây hơn mười lăm năm, giới mỹ thuật cả nước đã có nhiều
cuộc hội thảo để bàn về tính dân tộc hiện đại và hồi ấy đã có định nghĩa khá
thuyết phục. Đại ý của nó như sau: “… Tính dân tộc có thể được coi là mùi
hương của chất mật ong mà “con ong – nghệ sĩ” đã lặn lội, miệt mài để hút
nhụy của muôn loài hoa, tích lũy để truyền vào trong tác phẩm của chính
mình thứ tinh hoa dường như chất mật ong và mùi hương tuyệt vời ấy…”
Chính tính dân tộc là tinh hoa tuyệt vời mà mỗi nghệ sĩ đều suy tư, miệt mài
tìm kiếm trong kho tàng văn hóa dân tộc, vốn sống và mong muốn thể hiện
được nó bằng ngôn ngữ thị giác trên tác phẩm của mình.
Tuy nhiên, cho dù thời đại nào, nếu một nghệ sĩ là người Việt Nam,
đã và đang thật sự sống như là người Việt Nam, biết yêu thương, cảm xúc,
rung động, suy nghĩ cái suy nghĩ; giận cái giận; thương cái thương của người
Việt Nam và anh ta luôn trăn trở tư duy về nó thì ắt hẳn trong tác phẩm có
khi anh ta không vẽ, tạo những hình thức đơn thuần về những điều nói trên.
Ngày nay, chúng ta đang sống ở ngưỡng cửa thế kỷ 21, trong thời đại
bùng nổ thông tin, thời kỳ hội nhập, trong xu thế toàn cầu hóa và
chúng ta cũng đang có chung nỗi băn khoăn về hiểm họa bị mất gốc,
lai căng trong nhiều lĩnh vực mà trong đó có đạo đức, văn hóa và nghệ
thuật…
Hiện nay chúng ta chẳng những lo rằng liệu tất cả mọi thứ rồi sẽ bị “thương
mại hóa” mà còn phải lo là làm sao để kinh doanh thương mại cho có hiệu
quả. Thoạt nhìn thì “thương mại hóa” có vẻ là phạm trù xấu; nhưng thật ra

“thương mại hóa” không phải là điều xấu mà nó là sự định giá chính xác các
giá trị xã hội bằng mọi giải pháp khoa học và vật chất hóa nó bằng ngôn ngữ
tiền tệ trong thời đại kinh tế thị trường để giúp cho cộng đồng thế giới đối
với những cái có thể hoán đổi được. Nó chỉ xấu nếu con người để nhân tâm,
điều thiện bị đồng tiền che khuất, bị đồng tiền chế ngự và làm hại cho xã
hội, văn hóa, đạo đức, danh dự và quyền lợi của tổ quốc, của dân tộc. Giờ
đây thương mại
Nguyễn Thị Việt Hà. Sức sống. Gốm. Giải nhất cuộc thi thiết kế Quà
tặng Du lịch 2004 không những đã trở thành một lĩnh vực khoa học của
nhân loại mà nó còn là một nghệ thuật tổng hợp độc đáo, là môn học thời đại
của loài người.
Trong thực tế, chúng ta có nền văn hóa hay nhưng chúng ta sẽ không
thể nào phát huy nó trong tình trạng kinh tế vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu vì
không biết vận dụng khoa học và thương mại. Đó là yêu cầu phải tồn tại và
phát triển của các dân tộc đang vận hành theo xu hướng kinh tế thị trường.
Trong khi đó, ngày nay các nghệ sĩ của lĩnh vực tạo hình và mỹ thuật
ứng dụng, đặc biệt là nghệ sĩ của lĩnh vực mỹ thuật ứng dụng, là những
người có khả năng làm được điều này và trong chiều hướng đó họ cũng có
những suy tư, trách nhiệm là bằng mọi cách phải vừa phục vụ có hiệu quả
cho việc phát triển nền thương mại nước nhà mà vừa giữ gìn được tinh hoa,
tinh thần văn hóa dân tộc trong ngôn ngữ nghệ thuật ứng dụng.
Chúng ta ai cũng biêt rằng trong lãnh vực nghệ thuật thị giác, lãnh vực
mỹ thuật (Fine Arts) bao gồm hai lãnh vực lớn là: Nghệ thuật tạo hình
(Plastic Art) và Mỹ thuật ứng dụng (Applied Art), mà trong lãnh vực Mỹ
thuật ứng dụng lại bao gồm ba lãnh vực chuyên sâu: Nghệ thuật Trang trí
(Decorative Art), Nghệ thuật Thủ công (Craft Art) và Nghệ thuật Thiết kế
(Design Art).
Trong hai lĩnh vực nói trên, mỗi lãnh vực mà trong đặc điểm riêng của
mình và trong lao động sáng tác đã gợi nên những đức tính, khả năng tâm lý
nghề nghiệp, tư duy sáng tạo khác nhau. Chính từ khác biệt này dẫn đến

mức độ, điều kiện, bộc lộ cái riêng, cá tính hay tính dân tộc trong tác phẩm
cũng khác nhau.
Phải thực sự mà nói rằng, nghệ thuật tạo hình và Thủ công Mỹ nghệ là
hai mảnh đất dễ làm bật dậy cái riêng, cá tính của nghệ sĩ. Từ đó có thể hàm
chứa được tính dân tộc rõ nét hơn trong nghệ thuật trang trí và nghệ thuật
thiết kế.
Khi sáng tác loại hình này, ngoài băn khoăn về nội dung tư tưởng, khả
năng hình tượng hóa thì người nghệ sĩ có được sự tự do gần như tuyệt đối.
Anh ta không phải lo lắng là tác phẩm của mình được ai mua, ai sử dụng và
nó được treo, đặt nơi đâu môi trường nơi đó ra sao? Người sáng tác chỉ
quan tâm bộc lộ thật trọn vẹn tấm lòng, tài năng, sự rung cảm chân thành,
nét độc đáo của mình trong tác phẩm và làm cho nó trở thành độc bản, có
khả năng đánh động đến tình cảm, trái tim, lương tri của người thưởng
ngoạn.
Chính điều này đã làm cho tâm lý sáng tạo của nghệ sĩ tạo hình được
thanh thản hơn. Họ có thể bay bổng trong sáng tạo, từ đó dễ thể hiện cái
riêng, cá tính, cái hồn riêng của dân tộc mình.
Và khi người nghệ sĩ đem hết tâm huyết, tấm lòng để sáng tác và thực
sự thấy hạnh phúc trong sáng tạo thì chắc chắn trong tác phẩm sẽ phảng phất
hình dáng của anh ta, qua đó tạo điều kiện bộc lộ cái hồn dân tộc.
Trong lĩnh vực mỹ thuật thì Thủ công Mỹ nghệ vốn là hình thái nghệ thuật
thị giác luôn luôn gắn liền với nghệ thuật truyền thống, nghệ thuật thủ công
mỹ nghệ (Handicraft) của một quốc gia, vùng, khu vực, dân tộc, sắc tộc,
chủng tộc, tôn giáo cụ thể của từng địa phương.
Người nghệ sĩ của nghệ thuật thủ công mỹ nghệ vốn xuất thân là nghệ
nhân hay thợ thủ công (Craftman), chuyên sử dụng ngôn ngữ, chất liệu cùng
với thị hiếu, văn hóa bản địa của dân tộc mình, đồng thời sử dụng những tài
năng, vốn sống, kinh nghiệm cha truyền con nối để sáng tác làm đẹp cho xã
hội, qua đó làm sống dậy cái hồn riêng của cha ông mình. Chính điều này đã
làm cho nghệ thuật thủ công vừa mang hình thức độc đáo riêng của từng địa

phương, từng dân tộc, chủng tộc, sắc tộc mà trong đó ẩn tàng tính dân tộc
sâu sắc nhất.
Sẽ là rất thuận tiện để phát huy, cái hồn truyền thống độc đáo này
trong những tác phẩm nghệ thuật khi mà bản thân người, nghệ nhân, nghệ sĩ
bản địa thích dùng ngôn ngữ, chất liệu truyền thống để chuyển tải những đề
tài, ý tưởng mới mà anh ta thích cùng với sự sử dụng các kỹ thuật thể hiện
hiện đại.
Do vậy việc giữ gìn, bảo vệ, phát huy những bản sắc văn hóa dân tộc
phong phú độc đáo thì trước tiên phải làm sống dậy các loại hình này, đồng
thời tìm cách nâng cao thêm ý thức thẩm mỹ cho nghệ nhân trong các loại
hình nghệ thuật truyền thống của tất cả dân tộc, sắc tộc.
VAI TRÒ CỦA MỸ THUẬT ỨNG DỤNG
1.NGHỆ THUẬT LÀM LÂY CAN XÚC CẢM
Con người từ lúc lọt lòng đến khi khôn lớn, già cỗi đều trải qua một
tiến trình tăng trưởng của sự rung động trong tâm tư. Chính sự rung động
này đã làm nẩy sinh nghệ thuật bằng cách thôi thúc sáng tạo, ham thích
thưởng thức trong mỗi người.
Với người nghệ sỹ, cảm xúc là một cấu tạo tâm lý xuất hiện thường
xuyên trong cuộc sống họ. Có thể nói rằng, khi tiếp nhận thế giới hiện thực,
song song với quá trình nhận thức (tri giác) thì cảm xúc của người nghệ sỹ
cũng được trải nghiệm. Chính vì có sự trải nghiệm này mà người nghệ sỹ
luôn luôn có sự đam mê, có những khát vọng cháy bỏng tạo nên động lực
bên trong, thôi thúc họ thể hiện vào trong tác phẩm của mình.
Nghệ thuật làm lây lan sang con người nhiều cảm xúc và nghệ thuật
được xây dựng trên cơ sở sự lây lan này. Tônxtôi nói: "Sự hoạt động của
nghệ thuật chính là dựa trên cái khả năng những người này bị lây cảm xúc
của những người khác Những cảm xúc hết sức đa dạng, rất mạnh mẽ và
yếu ớt, rất có ý nghĩa và rất nhỏ nhặt, rất xấu xa và rất tốt đẹp, chỉ cần
chúng lây lan sang được độc giả, khán giả, thính giả sẽ làm nên đối tượng
của nghệ thuật" (Tônxtôi L.N., Thư gửi N.N. Xtrakhốp ngày 23 tháng 4,

1876, Toàn tập tác phẩm, t62, M 1953).
Có thể nói, lây lan là quá trình chuyển toả trạng thái cảm xúc từ cá thể
này sang cá thể khác ở cấp độ tâm sinh lý, xảy ra một cách nhanh chóng,
mạnh mẽ, nằm ngoài những tác động qua lại ở cấp ý thức – tư tưởng. Khi
con người rung động, họ trải qua nhiều cung bậc của cảm xúc. Các cung bậc
cảm xúc ấy lại dễ lây lan từ người này sang người khác.Chính vì có sự lây
lan cảm xúc thông qua nghệ thuật mà con người cảm thấy gần gũi nhau hơn.
Điều đó được thể hiện rõ qua việc thưởng thức âm nhạc. Âm nhạc có thể
đem đến cho mọi người những phản ứng tình cảm dễ chịu, thoải mái và bình
tĩnh, hay kích thích sự sáng tạo và hứng khởi. Sức mạnh của âm nhạc còn
giúp ta loại bớt cảm giác tiêu cực từ những việc đã qua, có thể lọc ra những
thông điệp lành mạnh và tích cực nhất. Vì thế, âm nhạc là một trong những
nhu cầu không thể thiếu trong đời sống mỗi người. Có âm nhạc, con người
cảm thấy yêu đời hơn, gần gũi nhau thêm và mang lại sự cân bằng về tâm -
sinh lý.
2. Nghệ thuật giúp trút xả tinh thần.
Trong nghệ thuật, một mặt nào đó của tâm hồn chúng ta được trút xả, thể
hiện kể cả những góc khuất, sâu kín.Vì lẽ đó, con người có thể bộc lộ cảm
xúc, khống chế và giảm căng thẳng thông qua các hình thức nghệ thuật.
Âm nhạc có thể gây ảnh hưởng mạnh tới tâm trạng của chúng ta, giúp
bồi dưỡng những trạng thái tích cực như sự hăng hái, phấn khởi và lạc quan
yêu đời. Đồng thời âm nhạc cũng giúp con người giảm những trạng thái tiêu
cực như lo âu, buồn rầu, chán nản, căng thẳng, tức giận…
Sự căng thẳng là nguyên nhân phá hoại hệ thống miễn dịch của chúng
ta. Âm nhạc có thể hạn chế hoặc ngăn ngừa những âm thanh và cảm xúc gây
căng thẳng. Nhạc nhẹ là thể loại êm dịu giúp chúng ta có cảm giác an toàn,
tin tưởng và tạo sự hưng phấn cao.
Nghệ thuật giúp thư giãn tâm hồn và các cơ bắp ở người đang có căng
thẳng, lo âu. Âm nhạc, hội họa giúp tâm hồn ta cởi mở và giải thoát những
cảm xúc tiêu cực. Khi bị bệnh, bệnh nhân thường rơi vào tình trạng lo âu, sợ

hãi, cảm thấy đau đớn, buồn rầu, đôi khi kém tự tin. Âm nhạc, hội họa có thể
giúp họ khuây khỏa, giảm thiểu các cảm xúc tiêu cực, khiến họ vui hơn, tự
tin hơn, có nhiều phấn khởi hơn trong đời sống.
Đối với con người thế kỷ XVII, hình ảnh núi non hùng vĩ gợi cho họ
nhiều điều khó chịu, mệt mỏi. Nhưng những con người thời đại văn minh,
núi non lại gợi cho họ khả năng xả hơi, thoát khỏi những cảnh hè nóng nực,
bàn giấy cứng nhắc… Đó chính là sức mạnh của nghệ thuật mang lại
3. Nghệ thuật giải quyết và cải biến nhu cầu của con người.
Nghệ thuật tạo ra nhu cầu rất lớn, thôi thúc con người hành động. Nó
mở đường và dọn đường cho những sức mạnh sâu lắng nhất của chúng ta.
Nó tác động chẳng khác nào một cuộc động đất, làm lộ ra những vỉa đất
mới. Vì thế, theo Biukher, “Âm nhạc có cội nguồn xuất phát từ công việc tay
chân nặng nề, và chúng có nhiệm vụ giải quyết sự căng thẳng nặng nề của
lao động”:
+ Theo gót tiến trình lao động, chúng ra hiệu để cho mọi người cùng một lúc
dồn hết sức vào làm việc.
+ Chúng cố gắng kích thích mọi người vào làm việc.
+ Chúng tổ chức lao động tập thể và đưa lại cách tháo thoát cho sự căng
thẳng của cơ thể.
Dường như chính tự nhiên đã tặng âm nhạc cho chúng ta để gánh vác
lao động được nhẹ nhàng hơn. Ví dụ: bài hát kích thích người chèo thuyền
hăng say đưa nhịp mái chèo. Nó có ích không chỉ trong những công việc đòi
hỏi sự hợp lực của nhiều người mà cả sự mệt nhọc của một người cũng được
giảm bớt nhờ bài hát thô sơ.
Trong âm nhạc, nhịp điệu hàm chứa kích thích lớn. Nhịp điệu làm nảy
sinh trong con người ham thích ghê gớm muốn bắt chước, hòa nhịp với nó
không chỉ bằng bước chân, mà cả tâm hồn cũng đi theo nhịp… Thật vậy,
một cung đàn không thể cứ đánh liên miên đều đều bất phân nhịp mạnh nhịp
yếu mà khỏi nhàm tai. Một họa phẩm cũng vậy, các đường nét phải đặt sao
cho có tổ chức không hỗn loạn, mầu sắc phải ăn nhập hài hòa, mới không

tức mắt.
Đối với loài người mê tín cổ xưa, còn cái gì có ích hơn là nhịp điệu.
Nhờ nó mà mọi chuyện đều có thể làm được: Nó giúp cho công việc một
cách thần kỳ; Nó buộc thần linh phải xuất hiện, phải đến gần và lắng nghe;
Nó có thể uốn nắn được tương lai theo ý muốn của mình, giải thoát tâm hồn
khỏi những điều tai ương và không chỉ riêng tâm hồn mình mà cả tâm hồn
của quỷ sứ độc ác nhất.
Như vậy, toàn bộ hành vi ứng xử của con người là quá trình làm cân
bằng cơ thể với môi trường. Trong quá trình đó, nghệ thuật đã thực sự đưa
lại sự cân đối và trật tự cho những cảm xúc của chúng ta.
4. Giáo dục nghệ thuật hỗ trợ, thúc đẩy sự hình thành và xuất hiện hành
vi sáng tạo.
Việc thưởng thức nghệ thuật đòi hỏi sự sáng tạo, bởi để cảm thụ nghệ
thuật thì đơn thuần việc trải nghiệm thành thật các cảm xúc đã chiếm lĩnh
tác giả vẫn chưa đủ, còn nhất thiết phải khắc phục một cách sáng tạo cảm
xúc của bản thân. Chỉ khi đó tác động của nghệ thuật mới được thể hiện đầy
đủ. Do đó, không phải ngẫu nhiên ngay từ thời cổ xưa nhất, nghệ thuật đã
được nhìn nhận như một bộ phận và một phương tiện giáo dục. Ý nghĩa ứng
dụng của nghệ thuật xét đến cùng đều được quy vào tác động giáo dục của
nó.
Khi một tác phẩm nghệ thuật xuất hiện, con người sẽ đứng dưới nhiều
góc độ khác nhau để đánh giá, phê bình nó. Tuy nhiên, cơ chế phê bình tác
phẩm nghệ thuật - với tư cách như một sức mạnh xã hội mở đường cho nghệ
thuật - đánh giá nó với chức trách cơ bản là chuyên đóng vai như là một bộ
phận truyền lực giữa nghệ thuật và xã hội.
Xét theo quan điểm của tâm lý học, vai trò của phê bình nghệ thuật
được quy vào việc tổ chức các hậu quả của nghệ thuật. Nó vạch ra một
phương hướng giáo dục nhất định cho sự tác động của nghệ thuật. Làm sao
giữ cho được tác động của nghệ thuật như là của nghệ thuật, chứ không để
cho độc giả vung vãi sức mạnh do nghệ thuật dấy lên và đánh tráo các xung

động hùng mạnh của nó bằng những lời răn dạy đạo đức duy lý vô vị như
giáo lý tin lành. Đặc biệt, cần để cho tác động của nghệ thuật được thể hiện,
để cho người ta được xúc động vì nghệ thuật.
Dạy cho người khác hành vi sáng tạo nghệ thuật là điều không thể làm
được, nhưng điều này không có nghĩa là người dạy không thể góp phần hỗ
trợ và thúc đẩy sự hình thành và xuất hiện của hành vi ấy. Điều này được thể
hiện rất rõ trong quan điểm của PGS.TSKH.Phạm Lê Hòa, Hiệu trưởng
Trường Ðại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương khi được phóng viên báo
Nhân Dân cuối tuần phỏng vấn: Con người ngày hôm nay đang chuyển động
rất nhanh, một ngày của hôm nay có thể bằng mấy mươi năm trước, vì thế,
cần phải xem thế hệ hôm nay đang đòi hỏi những gì, để cập nhật những kiến
thức mới, đưa hơi thở của cuộc sống vào chương trình giảng dạy. Chúng ta
phải lắng nghe xem trẻ em hôm nay đang nói như thế nào, học cách nói của
chúng, để có thể đưa những kiến thức cần thiết đến được với tâm hồn các
em. Trẻ em hôm nay đang dùng một "hệ ngôn từ" khác, nếu những người
làm công tác giáo dục nghệ thuật không đi sâu tìm hiểu thế giới ngôn từ đó,
tìm hiểu tâm tư tình cảm của các em, mà cứ tự ngồi vẽ ra chương trình giảng
dạy theo ý mình thì không thể đạt kết quả như mong muốn. Người làm công
tác giáo dục phải xây dựng chương trình giảng dạy phù hợp với lứa tuổi.
Đặc biệt, ta cũng không nên kỳ vọng đào tạo tất cả đều thành thiên tài.
Chúng ta chỉ cung cấp cho trẻ cái nền, còn phát triển lên như thế nào là tùy
vào năng lực của mỗi người.
Nghệ thuật là điểm tập kết quan trọng nhất các quá trình của một cá
nhân trong xã hội. Nó là phương thức để cân bằng con người với thế giới
vào những giây phút nguy kịch và nghiêm trọng của cuộc đời.
Trong kế hoạch của tương lai, rõ ràng không chỉ có việc xây dựng lại toàn
bộ nhân loại theo những nguyên tắc mới, không chỉ có việc làm chủ các quá
trình xã hội và kinh tế, mà còn có cả “việc tôi đúc lại con người”. Trong việc
tôi đúc lại con người, nghệ thuật sẽ nói lên tiếng nói có trọng lượng và có ý
nghĩa quyết định nhất. Giáo dục nghệ thuật có một sứ mệnh đào tạo con

người, huy động sức mạnh tồn tại trong cơ thể ta. Không có nghệ thuật thì sẽ
không có con người mới sáng tạo trong học tập, trong lao động, vì “Nghệ
thuật là tiếng nói của tâm hồn”.
Ý NGHỈA CỦA MĨ THUẬT ỨNG DỤNG
Một cây mọc tuyệt đẹp trong thiên nhiên và cũng cây ấy được vẽ tuyệt
đẹp trong tranh sẽ gây ấn tượng thẩm mỹ tương đồng và cũng sẽ phải được
mỹ học đánh giá là như thế: không phải ngẫu nhiên mà cùng một từ được sử
dụng trong cả hai trường hợp để thể hiện sự đánh giá ấy. Nhưng nếu mọi sự
đều chỉ giới hạn bằng tính tương đồng thấy được, nằm trên bề nổi ấy, thì có
thể đặt câu hỏi và quả thật người ta đã từng hỏi: nhân đôi cái đẹp ấy để làm
gì?
Phải chăng chỉ là trò chơi con trẻ lặp lại trên bức tranh cái mà đã có sự
tồn tại tuyệt đẹp trong tự nhiên? Thông thường, người ta trả lời (thí dụ,
Taine trong Triết học nghệ thuật của mình) là nghệ thuật tái tạo không phải
bản thân những vật thể và hiện tượng của thực tại, mà chỉ cái mà người nghệ
sĩ nhìn thấy ở chúng, mà người nghệ sĩ chân chính chỉ nhìn thấy ở chúng
những nét điển hình, tiêu biểu; yếu tố thẩm mỹ của các hiện tượng tự nhiên,
đi qua ý thức và trí tưởng tượng của người nghệ sĩ, được tẩy lọc khỏi mọi sự
ngẫu nhiên vật chất và do đó mà trở nên mạnh mẽ hơn, rực rỡ hơn.
Cái đẹp lan tỏa trong giới tự nhiên, trong các hình thể và sắc mầu của
nó, hiện lên trên bức tranh một cách tập trung, được tô đậm và nhấn mạnh.
Cách kiến giải này không thể làm ta thỏa mãn đến cùng vì một lẽ đơn thuần
là hoàn toàn không thể áp dụng nó vào một loạt ngành nghệ thuật. Những
hiện tượng tự nhiên nào được nhấn mạnh, thí dụ, trong các xônat của
Beethoven? - Xem ra, quan hệ thẩm mỹ giữa nghệ thuật và giới tự nhiên sâu
xa hơn và hệ trọng hơn nhiều. Rõ ràng đây không phải là sự lặp lại, mà là sự
tiếp tục cái sự nghiệp nghệ thuật đã được thiên nhiên khởi thủy - sự thực
hiện nối tiếp và đầy đủ hơn cũng cái nhiệm vụ thẩm mỹ ấy.
Kết quả của tiến trình tự nhiên là con người theo hai nghĩa: thứ nhất,
như là một sinh linh tự nhiên đẹp nhất*, và thứ hai, như một sinh linh tự giác

nhất. Với tư cách thứ hai ấy, con người, từ là kết quả, tự thân trở thành tác
nhân của tiến trình thế giới và vì thế mà đáp ứng hoàn hảo hơn cái mục đích
lý tưởng của tiến trình ấy. Mục đích ấy là sự thẩm thấu lẫn nhau toàn bộ và
sự liên kết tự do của tất cả các nhân tố và yếu tố vật chất và tinh thần, lý
tưởng và thực tại, chủ quan và khách quan của hoàn vũ. Nhưng người ta có
thể hỏi, vì sao toàn bộ tiến trình thế giới, được thiên nhiên khởi thủy và con
người tiếp tục, lại được chúng tôi xem từ giác độ thẩm mỹ, như là sự giải
quyết một nhiệm vụ nghệ thuật nào đó?
Chẳng phải sẽ là đúng hơn, nếu xem mục đích ấy là sự thực hiện cái
chân và cái thiện, sự toàn thắng của trí tuệ và ý chí tối cao? Nếu để trả lời
câu hỏi đó chúng tôi nhắc lại rằng cái đẹp chỉ là sự thể hiện bằng những hình
thức cảm hội được chính cái nội dung lý tưởng mà trước sự thể hiện ấy gọi
là cái thiện và cái chân(1), thì lời nhắc này sẽ khêu gợi những phản bác mới.
Nhà đạo đức học nghiêm nghị sẽ nói: cái thiện và cái chân không cần đến sự
thể hiện thẩm mỹ. Làm điều thiện và nắm vững chân lý - đó là tất cả cái gì
cần thiết.
Phúc đáp lời phản bác ấy, ta hãy giả định rằng cái thiện đã được thực
hiện không chỉ trong cuộc sống riêng của một ai đó, mà trong cuộc sống của
toàn thể xã hội, rằng một chế độ xã hội lý tưởng đã được kiến tạo, sự đoàn
kết hoàn toàn, tình bác ái đại đồng đã thống ngự khắp nơi. Tính không thể
thẩm thấu của chủ nghĩa ích kỷ đã được xóa bỏ; mọi người tìm thấy mình
trong mỗi người, và mỗi người tìm thấy mình trong mọi người.
Nhưng nếu sự liên thẩm đại đồng ấy - mà nó là bản chất của cái thiện
đạo đức - dừng lại trước giới tự nhiên vật chất, nếu yếu tố tinh thần đã chiến
thắng tính không thể thẩm thấu của lòng ích kỷ con người, nhưng lại không
thể khắc phục được tính không thể thẩm thấu của vật chất, hay là chủ nghĩa
ích kỷ của tự nhiên, thì điều đó có nghĩa là sức mạnh của cái thiện hay của
tình yêu không mạnh lắm, và nguyên tắc đạo đức không thể được thực hiện
cho đến cùng và không thể được biện chính hoàn toàn.
Khi ấy sẽ xuất hiện câu hỏi: nếu sức mạnh tăm tối của tồn tại vật chất cuối

cùng vẫn ưu thắng, nếu yếu tố thiện không khắc phục được nó, thì phải
chăng chân lý đích thực của toàn bộ cái hiện hữu là ở nó, còn cái mà ta gọi
là cái thiện, phải chăng chỉ là ảo ảnh chủ quan? Và quả thật, lẽ nào có thể
nói về sự toàn thắng của cái thiện, khi mà một xã hội được tổ chức trên
những nguyên tắc đạo đức lý tưởng nhất cũng có thể tử vong ngay lập tức do
hệ quả một biến cố địa chất hay thiên văn học nào đó? Sự xa lạ tuyệt đối của
yếu tố đạo đức đối với tồn tại vật chất là nguy hại rõ ràng không phải cho cái
tồn tại ấy, mà cho chính yếu tố đạo đức.
Chính sự tồn tại của trật tự đạo đức trong thế giới quy định trước quan
hệ của nó với trật tự vật chất, một kiểu phối hợp nào đó giữa hai trật tự ấy.
Nhưng nếu là thế, thì phải chăng cần tìm kiếm quan hệ ấy bên ngoài mọi thứ
thẩm mỹ, ở sự thống trị trực tiếp những sức mạnh mù quáng của thiên nhiên
bởi trí tuệ con người, ở sự thống ngự tuyệt đối của tinh thần đối với vật chất?
Xem ra một số bước quan trọng đã được thực hiện hướng về mục đích ấy;
khi nó đã đạt, khi mà, như các nhà lạc quan chủ nghĩa hiện nay nghĩ, nhờ
thành tựu của các khoa học ứng dụng chúng ta sẽ chiến thắng không chỉ
không gian và thời gian, mà ngay cả cái chết; khi ấy sự tồn tại của cuộc sống
hữu luân trong thế giới (trên cơ sở sự sống vật chất) sẽ được bảo đảm vĩnh
viễn, song ở ngoài mọi quan hệ gì với lợi ích thẩm mỹ, cho nên ngay khi ấy
vẫn sẽ có hiệu lực tuyên bố rằng cái thiện không cần đến cái đẹp.
Nhưng trong trường hợp ấy bản thân cái thiện có viên mãn hay
không? Bởi lẽ nó không phải là sự toàn thắng của cái này đối với cái khác,
mà là sự kết đoàn của tất cả mọi cái. Thế nhưng có thể loại trừ ra khỏi tất cả
mọi cái ấy những sinh thể và những tác nhân của thế giới tự nhiên? Như vậy
có nghĩa là cũng không thể xem xét chúng chỉ như là những phương tiện hay
công cụ của sinh tồn con người, có nghĩa là cả chúng cũng phải gia nhập,
với tư cách một yếu tố chính diện, cái cấu trúc lý tưởng của cuộc sống chúng
ta.
Nếu trật tự đạo đức, vì sự bền vững của mình, phải dựa vào cái tự
nhiên vật chất như là môi trường và phương tiện tồn tại của mình, thì vì sự

đầy đủ và hoàn hảo của mình, nó phải thu nạp vào trong nó cái cơ sở vật
chất của sinh tồn như thể một bộ phận độc lập của hoạt động đạo đức, hoạt
động này giờ đây đã biến thành hoạt động thẩm mỹ, bởi vì tồn tại vật chất
chỉ có thể được đưa vào trật tự đạo đức thông qua sự làm cho bừng sáng,
làm cho chứa chan tinh thần, tức là dưới hình thức của cái đẹp. Như vậy, cái
đẹp cần thiết cho sự thực hiện đầy đủ cái thiện trong thế giới vật chất, bởi lẽ
chỉ nó mới làm sáng và mới chế ngự được bóng tối không lành mạnh của các
loại văn hóa du nhập từ nước ngoài vào.
KẾT LUẬN
Thế giới ngày nay đã và đang diễn ra cuộc cách mạng công nghệ lần
thứ năm lớn nhất trong lịch sử của loài người. Sự phát minh ra hàng loạt
kiểu vi tính ngày càng hoàn thiện hơn, tinh vi hơn và có tốc độ xử lý nhanh.
Những vi tính này được kết nối với nhau thành hệ thống internet đã làm thay
đổi nhanh chóng cuộc sống của người dân. Với sự phát triển của khoa học,
kỹ thuật và công nghệ thông tin, đặc biệt là sự xuất hiện của mạng thông tin
toàn cầu (Internet), thế giới như bị thu nhỏ lại, ranh giới giữa các quốc gia
cũng ngày càng trở nên mỏng manh hơn và chỉ mang tính tương đối. Internet
đã tạo cơ hội để các dân tộc có thể gần gũi và hiểu biết nhau hơn. Mọi dân
tộc có thể học tập, tiếp thu những giá trị, tinh hoa của dân tộc khác để làm
phong phú cho nền văn hoá của chính dân tộc mình. Trong bối cảnh đó,
nghệ thuật có thể được coi là một trong những lĩnh vực năng động trong nền
văn hóa. Tận dụng những lợi ích do giao lưu văn hóa qua internet đem lại,
nền nghệ thuật Việt Nam đang tiếp thu những thành tựu văn hóa – nghệ
thuật của thế giới để làm phong phú cho chính mình; đồng thời cũng có
nhiều cơ hội để phổ biến những thành tựu nghệ thuật của mình ra thế giới.
Công nghệ thông tin mang lại cơ hội cho các nghệ sĩ giao lưu và sáng
tác. Đội ngũ họa sĩ mỹ thuật cũng ngày càng phát triển đa dạng. Trước kia,
họa sĩ chỉ chuyên vẽ tranh tạo hình, nhưng trước sức ép của cơn lốc phát
triển nền kinh tế thị trường và nhu cầu thẩm mỹ của xã hội, họ đã bắt đầu
chuyển sang hoạt động trong lĩnh vực mỹ thuật ứng dụng hoặc những lĩnh

vực khác có liên quan đến mỹ thuật… Sự giao thoa mạnh mẽ giữa các loại
hình nghệ thuật là điều tất yếu trong kỷ nguyên của thông tin – khoa học kỹ
thuật, và cuả xu hướng toàn cầu hoá như hiện nay. Để góp phần xây dựng
Việt Nam với nền kinh tế phát triển và một nền văn hoá mang đậm bản sắc
dân tộc. Lĩnh vực Đồ họa vi tính (Mỹ thuật đa phương tiện) cũng bắt đầu
được xã hội chú ý đặc biệt đối với đội ngũ họa sĩ thiết kế trẻ Việt Nam hiện
nay. Bởi lẽ: ngoài tính chất năng động, thu nhập hấp dẫn, Mỹ thuật đa
phương tiện còn được lựa chọn nhiều vì nó có thể giúp phát huy khả năng
sáng tạo cùng các ý tưởng trẻ trung, táo bạo của họa sĩ trẻ. Đối với xã hội, họ
nhìn nhận Mỹ thuật đa phương tiện dưới một góc nhìn tích cực, thiện chí và
cởi mở hơn: Mỹ thuật đa phương tiện “là 1 trong 5 nghề nóng nhất khi Việt
Nam gia nhập WTO”; Mỹ thuật đa phương tiện là “Công việc mang tính
sáng tạo và thú vị” [Error: Reference source not found]. Tuy nhiên, đội ngũ
họa sĩ Mỹ thuật đa phương tiện ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa đủ để đáp
ứng cho nhu cầu của thị trường nghệ thuật kỹ thuật số vốn trở nên rất năng
động sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
“… Mỹ thuật đa phương tiện là một trong những ngành có sức hút nhất ở
Việt Nam và thế giới nhưng đến tám mươi phần trăm là gia công cho nước
ngoài, do sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao. Năm 2010, Việt Nam
sẽ cần khoảng 1 triệu họa sĩ làm việc trong lĩnh vực quảng cáo trên báo in,
truyền hình, internet cũng như sản xuất games, website, sản xuất phim,
truyền thông ” .
Hiện nay, nhiều khan hiếm về nhân lực cho ngành Mỹ thuật đa
phương tiện là do trước đây ngành giáo dục của Việt Nam đã chưa dự đoán
được nhu cầu phát triển nguồn nhân lực họa sĩ Mỹ thuật đa phương tiện,
thiếu cơ sở đào tạo và chương trình đào tạo cũng như đội ngũ giảng viên
giảng dạy Mỹ thuật đa phương tiện.
Chỉ vài năm trước đây ảnh hưởng Mỹ thuật đa phương tiện trong nghệ
thuật và xã hội vẫn chưa được quan tâm chú ý và đánh giá một cách đúng
mức. Mặc dù đồ họa vi tính đã được áp dụng nhiều trong những lĩnh vực

quan trọng của khoa học và công nghệ: y học, cơ khí, địa chất, môi trường,
khí tượng thủy văn Tuy nhiên, ảnh hưởng của nó vẫn còn chưa được nhận
thấy trong nghệ thuật. Hiếm ai để ý đến những nghệ sĩ sử dụng máy vi tinh
như là một công cụ thể hiện tác phẩm nghệ thuật. Thậm chí trong giới mỹ
thuật cũng chưa thừa nhận Mỹ thuật đa phương tiện như là một loại hình
nghệ thuật. Một trong những nguyên nhân chính của sự không thừa nhận này
có thể là tác phẩm Mỹ thuật đa phương tiện không đi theo lối truyền thống
mà từ trước đến nay các nghệ sĩ vẫn thường sử dụng để thể hiện tác phẩm
của mình. Hơn nữa, khởi đầu của Mỹ thuật đa phương tiện lại bắt đầu từ
những ứng dụng mang tính chất khoa học, toán học chính xác. Trong giới
phê bình nghệ thuật cũng vậy, nhà phê bình nghệ thuật ở Việt Nam chưa
thực sự tiếp cận với các tác phẩm Mỹ thuật đa phương tiện nhằm định hướng
nghệ thuật, dự báo sự ra đời và bùng nổ của Mỹ thuật đa phương tiện tại
Việt Nam. Sự ảnh hưởng rõ rệt của CNTT trong nghệ thuật thị giác Việt
Nam thể hiện qua những lĩnh vực sau:
Một là, trong lĩnh vực mỹ thuật tạo hình và quan niệm về nghệ thuật.
Nghệ thuật biến đổi và phát triển rất nhanh, theo quy luật của sự vận động.
Khi xã hội phát triển, kinh tế, khoa học kỹ thuật, trình độ học vấn và nhu cầu
hưởng thụ thẩm mỹ của người dân được nâng cao và đa dạng. Mỹ thuật tạo
hình cũng cần phải có sự thay đổi về chất, đa dạng hóa nội dung và chất liệu
biểu đạt. Quan trọng nhất là cần phải có một phương thức nào đó để đưa
nghệ thuật đến với người dân. Tác phẩm tạo hình không thể bị đóng băng và
thụ động trong những gallery hoặc những bảo tàng nhỏ bé chật chội, ít khách
thăm quan và thưởng ngoạn. Tác phẩm do họa sĩ sáng tác ra phải được nhiều
người thưởng thức bởi lẽ nó là món ăn tinh thần của con người và đó cũng
chính là nguồn cổ vũ động viên cho người nghệ sĩ sáng tạo ra chúng. Để giải
quyết được những vấn đề này, một nhánh mới của nghệ thuật được nẩy sinh
với sự trợ giúp của công nghệ thông tin và truyền thông. Đó chính là Mỹ
thuật đa phương tiện. Cũng tương tự như trường hợp của nghệ thuật nhiếp
ảnh trong lịch sử phát triển của nó phải biến đổi thành nghệ thuật làm phim

và truyền hình.
Các phương tiện truyền thông mới ra đời đã sáng tạo ra một thế giới
nữa cho loài người: đó là một thế giới ảo mà con người có thể sống và tương
tác, hành xử như một thế giới thật. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến lối tư
duy, đến sự lựa chọn chủ đề, đến thủ pháp kỹ thuật trong sáng tạo và tiếp
nhận nghệ thuật. Đó chính là một khác biệt lớn khi so nghệ thuật hậu hiện
đại với tất cả những trường phái nghệ thuật trước đó. Thực tiễn nghệ thuật
cũng đã thay đổi và điều đó đòi hỏi phải có một sự thay đổi nhận định về
mặt lý luận sao cho phù hợp với tình hình mới. Mặc dù vậy, hiện nay còn
khá nhiều người trong giới mỹ thuật ở Việt Nam còn bảo thủ với ý niệm về
nghệ thuật truyền thống. Họ say sưa với việc đồng nhất nghệ thuật với tác
phẩm nghệ thuật. Hạn chế của ý niệm này chính là ở chỗ: nó chưa phản ánh
được tính quá trình của sự sáng tạo – truyền tải nghệ thuật, chưa phản ánh
được tính đa nghĩa và đa chức năng của nghệ thuật, chưa phản ánh được đối
tượng thẩm mỹ đa dạng (không chỉ là cái đẹp) của nghệ thuật cũng như chưa
phản ánh được những quan hệ trong cấu trúc tổng thể của nghệ thuật.
Thông qua Mỹ thuật đa phương tiện người họa sĩ thoả mãn sự thể
nghiệm của mình trên nhiều chất liệu: kể từ khi xuất hiện ở Việt Nam với tư
cách là những công cụ hỗ trợ vẽ, thiết kế và thể hiện tác phẩm, những phần
mềm ứng dụng mỹ thuật đã trở thành công cụ đắc lực hỗ trợ cho họa sĩ sáng
tác. Trước kia, họa sĩ phải mất rất nhiều thời gian để làm phác thảo. Từ phác
thảo ý tưởng, phác thảo thô cho đến những bản phác thảo chi tiết, phác thảo
màu… để có hiệu quả rất gần với tác phẩm sẽ hoàn thành. Mỹ thuật đa
phương tiện là giải pháp tốt nhất cho sự thể nghiệm và tìm tòi đó. Về một
mặt nào đó, Mỹ thuật đa phương tiện cũng đã và đang thực sự trở thành một
“trò giải trí tiêu khiển” của họa sĩ. Mỹ thuật đa phương tiện chính là món
“khoái khẩu” của hầu hết sinh viên học ngành Mỹ thuật nói chung và Mỹ
thuật đa phương tiện nói riêng. Bởi lẽ từ lĩnh vực thiết kế mỹ thuật chuyển
sang vẽ tranh là một hình thức giải trí lành mạnh. Mỹ thuật đa phương tiện
đã và đang trở thành người bạn thân thiết, là phương tiện thoả mãn khát

vọng thể nghiệm và sáng tạo của nhiều họa sĩ trẻ Việt Nam hiện nay. Mỹ
thuật đa phương tiện đang khẳng định thế mạnh của nó trong việc mở ra khả
năng vô hạn của chất liệu sáng tác, gần gũi và dễ hòa nhập với công chúng
bởi nó không quá phân định ranh giới giữa khái niệm bác học và bình dân…
do đó cũng rất dễ hoà đồng với xu hướng xã hội hoá mỹ thuật nghệ thuật…
Thông qua quá trình số hoá các tín hiệu thị giác, họa sĩ có thể chuyển được
vào máy vi tính không những ảnh chụp, mà còn cả phim video. Người nghệ
sĩ có thể cắt ra bất kể đoạn nào của phim video ấy và sáng tạo, thêm bớt các
kỹ xảo, hiệu ứng: lồng vào các cảnh phụ, thay âm thanh hoặc lời nói, thay
đổi màu sắc, và rồi xuất ra thành những đoạn phim nghệ thuật rất ấn tượng
Bên cạnh video, ngay cả âm thanh cũng được số hóa nhằm phục vụ cho mục
đích sáng tác. Đường nét, màu sắc kết hợp với âm thanh, được thể hiện sinh
động trong các hình ảnh hai chiều hoặc ba chiều. Các tiện ích Multimedia đã
thực sự trở thành công cụ phụ trợ đắc lực cho họa sĩ trong quá trình sáng
tác. Nhờ đó mà việc ứng dụng Mỹ thuật đa phương tiện cũng đã đem lại
những hiệu quả cao, tác phẩm nghệ thuật trở nên cụ thể sống động hơn nhiều
so với những hình thức nghệ thuật truyền thống sử dụng hình ảnh tĩnh không
có kết hợp âm thanh. Trong lĩnh vực vẽ hoạt hình, cũng đã có những biến
đổi đáng kể. Máy vi tính cũng góp phần giảm nhẹ công việc của các hoạ sĩ
hoạt hình. Họ không cần phải tốn nhiều thời gian để vẽ ra từng khuôn hình
nữa mà chính máy vi tính sẽ làm việc này. Chỉ cần chỉ ra các giai đoạn đầu
và cuối (key frames) của một động tác đơn giản là máy tính sẽ tự tính toán
sắp xếp các vị trí nối xen kẽ và cung cấp nhiều chức năng kiểm soát tốc độ
cũng như các kỹ xảo giúp cho họa sĩ mô phỏng các hiệu ứng hoạt hình, tạo
ra cảm giác chuyển động đối với mắt người xem. Tuy nhiên, sự thuận tiện
trong quá trình sử dụng và thiết kế đồ họa vi tính đã làm cho một bộ phận
không ít những họa sĩ phụ thuộc vào máy tính. Họ không thể vẽ nếu như
không có sự trợ giúp của máy tính. Những thiết kế với đủ những hiệu ứng
phức tạp làm mất đi tính trong sáng của hình khối trong tác phẩm. Thực tế,
những hiệu ứng loè loẹt này không thể che lấp được những bố cục vụng về,

ý tưởng tầm thường, lai căng thậm chí đôi lúc lại phản văn hóa.
Trong kỷ nguyên kỹ thuật số, mạng máy tính toàn cầu cũng đã và
đang phát triển rất nhanh, thậm chí cả công nghệ mạng không dây cũng đã
xuất hiện. Một lần nữa khái niệm không gian truyền thống đã được mở rộng
không chỉ là ba chiều (chiều dài, chiều rộng, chiều sâu) mà đã được khai
thác tối đa, chiều thứ tư - chiều thời gian thông qua hoạt hình (animation),
thậm chí cả chiều thứ năm - chiều tương tác (interactive). Nhằm tác động
mạnh mẽ đến người xem. Lĩnh vực này hoàn toàn mới mẻ so với nghệ thuật
truyền thống. Ở một số nước tiên tiến, việc họa sĩ thể hiện tác phẩm của
mình thông qua Mỹ thuật đa phương tiện đã có từ lâu, trong khi đó ở Việt
Nam thì nó lại là lĩnh vực tương đối mới mẻ và xa lạ. Một số họa sĩ trẻ có
điều kiện tiếp xúc với đồ họa vi tính, có khả năng tiếp cận và làm chủ lĩnh
vực Mỹ thuật đa phương tiện một cách nhanh chóng. Họ trở thành những
người tiên phong trong lĩnh vực Mỹ thuật đa phương tiện ở Việt Nam. Bên
cạnh đó, còn một số những họa sĩ trung niên - cao tuổi, có vốn ngoại ngữ và
đồ họa vi tính hạn chế, họ vẫn trung thành với phương tiện truyền thống
Tuy nhiên bù lại, họ có kinh nghiệm, tay nghề, ý tưởng, phương pháp quản
lý nghệ thuật là những cứu cánh giúp họ khẳng định được giá trị của
mình… Đa số họ trở thành những nhà quản lý dự án và giám đốc ý tưởng
(arts directors).
Hai là, trong lĩnh vực Mỹ thuật ứng dụng. Mỹ thuật đa phương tiện là
sự kết hợp của óc sáng tạo với các công cụ xử lý đồ hoạ vi tính. Mỹ thuật đa
phương tiện tiến vào cuộc sống hiện đại, nó làm thay đổi cách nghĩ, cách
hành động và cách sống của nhiều người dân Việt Nam. Ở Việt Nam, doanh
thu quảng cáo do ứng dụng Mỹ thuật đa phương tiện tăng từ 300 tỷ đồng
năm 1994 lên 7000 tỷ đồng năm 2004 và dự kiến doanh thu sẽ tăng lên
24.000 tỷ đồng vào năm 2020 [Error: Reference source not found]. Các lĩnh
vực như thiết kế website, trò chơi trực tuyến (Games Online), sản xuất
truyền hình, xuất bản truyền thông cũng phát triển một cách chóng mặt Mỹ
thuật đa phương tiện và những ứng dụng của nó đóng vai trò then chốt trong

ngành công nghiệp nội dung kỹ thuật số đang bùng nổ phát triển trong 5
năm qua trên thế giới, và được định hướng phát triển ở Việt Nam từ cuối
năm 2005. Có thể nói tương lai của Mỹ thuật đa phương tiện đang được
chuyển hướng vào nền công nghiệp nội dung, trong đó Mỹ thuật đa phương
tiện đóng một vai trò ngày càng quyết định. Tuy là ngành mới nhưng ở Việt
Nam, tính đến đầu năm 2000, thị trường Mỹ thuật đa phương tiện Việt Nam
đã có hơn 100 doanh nghiệp, cả doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, làm về lĩnh vực này, phân theo các mảng lớn như
thiết kế, quảng cáo và truyền thông, in ấn Và hiện nay, con số này tăng lên
rất nhanh khi Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO. Mỹ thuật đa phương
tiện đã góp phần làm cho thị trường đồ họa trong nước sôi động hơn. Công
nghệ games phát triển và nở rộ. Họa sĩ Mỹ thuật đa phương tiện cũng là
những người tạo nên một thế giới ảo đầy vẻ hấp dẫn và mang tính nghệ thuật
cao.
Trong lĩnh vực mỹ thuật ứng dụng ở Việt Nam cũng vậy, việc ứng
dụng công nghệ tiên tiến trong kỷ nguyên kỹ thuật số đã đem lại nhiều biến
đổi lớn về quan niệm cũng như hình thức sáng tạo. Mỹ thuật ứng dụng tiến
một bước dài nhằm thích nghi với điều kiện sản xuất công nghiệp hiện đại
và đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của xã hội. Từ thực tế
đó, thiết kế Mỹ thuật đa phương tiện ra đời như là một tất yếu trong quá
trình vận động của nghệ thuật. Mỹ thuật đa phương tiện, sử dụng máy vi tính
với tư cách là một công cụ hỗ trợ sáng tác đa chức năng, thể hiện ý tưởng
sáng tạo và quá trình sản xuất sản phẩm thẩm mỹ. Nó đã thực sự trở thành
một cuộc cách mạng trong lĩnh vực mỹ thuật ứng dụng. Việc khai thác triệt
để khả năng đồ họa của máy tính giúp họa sĩ thiết kế có thể xây dựng và
phát triển dễ dàng các hình ảnh hai hoặc ba chiều, tĩnh, động. Giúp họa sĩ
phát huy hết năng lực sáng tạo của mình trong một khoảng thời gian ngắn.
Quá trình “Số hoá” (digitalize) đã và đang đặt ra một vấn đề lớn trong việc
dần thay đổi thói quen thiết kế và sáng tạo của họa sĩ Việt Nam hiện nay.
Việc thiết kế sản phẩm trước kia chủ yếu dựa vào cảm tính của nhà thiết kế,

đường nét, màu sắc khi ứng dụng trên sản phẩm có độ chính xác không cao
khi chúng được đem vào sản xuất công nghiệp. Trái lại, quá trình thiết kế đồ
hoạ công nghiệp hiện đại chủ yếu chú trọng đến yếu tố sản xuất hàng loạt,
chính xác, nhanh chóng nhằm tiết kiệm thời gian và giảm giá thành sản
phẩm… Do đó, các tín hiệu thị giác trong vẽ thiết kế truyền thống nay đã
dần được số hoá nhằm đảm bảo sự chính xác, và chuẩn công nghiệp trên
toàn thế giới: để đảm bảo độ chính xác và tính thống nhất trong các sản
phẩm sản xuất, tất cả các đối tượng, điểm chấm, đường nét, màu sắc đều
phải được qui định cụ thể rõ ràng, có thể đo lường được một cách chính xác
thông qua các thông số. Ngay cả những đường cong trước đây được họa sĩ
vẽ một cách tự do nhất thì nay cũng vẫn có thể được biểu diễn bằng những
hàm toán học nhất định nào đó mà khi chúng được kết xuất ra sản phẩm đều
cho sự chính xác và thống nhất cao trên mọi sản phẩm. Đây là một ưu điểm
lớn trong sản xuất công nghiệp hiện đại, tuy nhiên nó cũng là một nhược
điểm của việc thiết kế Mỹ thuật đa phương tiện. Nhiều họa sĩ đã không khỏi
hoài nghi, cân nhắc về những lợi ích mà đồ họa vi tính đem lại cho quá trình
sáng tạo và những cảm xúc mang đầy chất ngẫu hứng của người nghệ sĩ mà
nó lấy đi trong quá trình thể hiện tác phẩm… Điều này có nguy cơ hình
thành nên một thế hệ họa sĩ thiết kế bị số hoá, với những tác phẩm khô khan,
vô cảm, lấy phần mềm lập trình và logic toán học thay cho những cảm xúc
sáng tạo… Gây ra một tâm lý dè dặt khi phải tiếp xúc và ứng dụng khoa học
kỹ thuật hiện đại vào trong quá trình thiết kế sáng tạo.
Đồ họa vi tính đã được ứng dụng vào thiết kế mẫu, xử lý ảnh, và được
áp dụng rộng rãi trong công nghệ in offset bốn màu. Báo chí, ảnh quảng cáo,
dàn trang đều được thực hiện nhờ sự trợ giúp của máy vi tính. Thông qua
đó, đồ họa vi tính đã khẳng định vị trí của mình trong lĩnh vực in ấn và dàn
trang. Với công nghệ in ấn tiên tiến, mọi công đoạn trước đây phải làm thủ
công nay đã được tự động hóa hoàn toàn. Ngay cả với công nghệ còn lạc hậu
ở Việt Nam, máy tính cũng đã thay thế con người trong một số giai đoạn,
nhất là giai đoạn thiết kế, xử lý và tách màu… Tranh ảnh, ấn bản đồ họa

ngày càng được cải thiện đẹp hơn, hấp dẫn hơn. Sự thiết thực và hữu dụng
cuả Đồ họa vi tính đã lấp đầy những lỗ hổng là điểm yếu của mỹ thuật ứng
dụng Việt Nam trong quá khứ. Những mảng đề tài, thể loại tranh truyện,
tranh minh hoạ sách báo, hoạt hình, cuả Việt Nam trước kia thật nghèo và
đơn điệu. Sản phẩm sách báo, tạp chí được in trên giấy tái chế và còn bị
khống chế về màu sắc trong công nghệ in tipo. Nhưng giờ đây, một bộ mặt
khác cuả thị trường sách báo, tạp chí bằng công nghệ in offset nhiều màu rất
sống động… Ai cũng có thể cảm nhận thấy được sự phát triển nhanh chóng
đến mức ngạc nhiên của thị trường sách báo văn hoá phẩm hiện nay.
Kỹ xảo truyền hình cũng là một trong những hướng phát triển mới của
Mỹ thuật đa phương tiện. Một khi nền kinh tế phát triển, lĩnh vực thiết kế
mẫu quảng cáo cũng phải thay đổi theo cho kịp trào lưu của xã hội. Quảng
cáo không còn đơn thuần là giới thiệu sản phẩm trên sách, báo, tạp chí mà
còn cả trên các phương tiện thông tin đại chúng. Hiện nay, hình thức quảng
cáo trên truyền hình được đánh giá là gây ấn tượng mạnh nhất và đem lại lợi
nhuận lớn. Thậm chí ở một số nước có thể coi việc quảng cáo sử dụng kỹ
xảo truyền hình là một nghề “hái ra tiền”. Bởi lẽ những kỹ xảo khi được
trình bày trên giấy khó lột tả cũng như thể hiện hết công năng của sản phẩm
thì nay việc kết hợp giữa hình ảnh, ánh sáng đồng thời với họat hình đã tạo ít
nhiều thu hút, gây ấn tượng sâu sắc cho người chưa dùng qua sản phẩm đó.
Có khả năng truyền cảm và thuyết phục rất cao. Chỉ tiếc rằng hầu hết những

×