Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

tìm hiểu di sản văn hóa quan họ bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.7 KB, 32 trang )

Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh

Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 1






Tiểu luận

Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh









Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh

Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 2



GIỚI THIỆU CHUNG:
I.1 Khái niệm:
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, Quan họ một loại hình dân ca đặc sắc, một lối hát giao duyên
nổi tiếng do cộng đồng người Việt (Kinh) ở 49 làng quan họ và một số làng lân cận thuộc hai tỉnh


Bắc Ninh và Bắc Giang hiện nay sáng tạo ra. Về mặt sáng tạo nghệ thuật, dân ca Quan họ được
coi là đỉnh cao của nghệ thuật thi ca.
I.2 Nguồn gốc:
Tuy có nhiều công trình nghiên cứu nhưng vẫn chưa xác định rõ nguồn gốc về Quan họ. Có rất
nhiều truyền thuyết nói về nó như: Theo Lê Văn Hảo trong “Bắc Ninh tỉnh khảo thí” cho rằng,
nguồn gốc của quan họ là do sự kết nghĩa lâu năm giữa hai làng Viêm Xá và làng Hòai Bão. mỗi
khi có dịp lễ hội, thì trai làng Hòai Bão và nữ Viêm Xá hát đối đáp với nhau để tránh những
chuyện bất an, cãi cọ. Theo Nguyễn Duy Kiện trên Việt Báo thì viết: “ thời thượng cổ nhân dân 2
làng Lũng Nhai và Tam Sơn giao hảo rất thân mật, khi làng nào có chuyện như lên lão, quan, hôn,
tang, lễ,… đều có lời mời lẫn nhau. 2 làng thường họp từ 5-7 cụ ông và 5-7 cụ bà, cùng một số
thanh niên nam nữ. trai bên này hát, thì gái bên kia đáp, còn các cụ thì ngồi nghe. Hai làng cứ tiếp
tục từ đời này sang đời khác.Cũng có một số người cho rằng quan họ bắt nguồn từ sự tích ông
quan đi qua vùng Kinh Bắc đã rất thích thú bởi tiếng hát của các liền anh liền chị mà dừng lại
thưởng thức, tuy nhiên cách lý giải này có phần mơ hồ. Một số quan điểm khác cho rằng, quan họ
xuất phát do những nghi thức tôn giáo mang tính phồn thực, họ cũng cho rằng quan họ xuất phát
từ “âm nhac cung đình”.
I.3 Qúa trình hình thành và phát triển:
Quan họ là những sản phẩm sáng tạo nhất là những thế kỉ của thời kì phong kiến độc lập. vào thời
Lý Trần ( thế kỉ XI – XIV) khi các thành tựu văn hóa, nghệ thuật dân gian nở rộ, cùng với sự am
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh

Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 3

hiểu, quý trọng của các triều vua đã ảnh hưởng đến quan họ từ giao duyên cổ sơ sang lối ca hát có
lề lối, quy củ rõ ràng. Tiếp đến thời Lê ( thế kỉ XV), đội ngũ trí thức đông đảo làm việc sáng tác
quan họ ngày càng được bổ sung. Thế kỉ XVIII dân ca quan họ đã có những hình tượng đẹp, tế
nhị, nội dung trữ tình sâu sắc, về làn điệu thì có sự giao lưu rộng rãi Bắc Nam. Những năm đầu
thế kỉ XX , các nghệ thuật khác của cả nước đã gia nhập vào quan họ làm nó được cải biến và
phát triển đến sau này.
Nội dung chính trong buổi hát Quan họ thường là khi hai bên nam – bọn quan họ nam và nữ -

bọn quan họ nữ hát đối nhau. Đứng đầu mỗi bọn Quan họ là liền anh, bên nữ gọi là liền chị. Các
câu hát có thể được chuẩn bị sẵn, nhưng ra đến khi đối đáp nhau thì thường dựa trên khả năng
ứng biến của hai bên. Họ hát những bài ca mà lời là thơ, ca dao (phần lớn là thể lục bát, lục bát
biến thể,…) từ ngữ được trau chuốt, trong sáng, mẫu mực thể hiện các trạng thái tình cảm của con
người: nhớ nhung, buồn bã khi chia xa, tình yêu lứa đôi,…bằng một ngôn ngữ giàu tính ẩn dụ.
Hát quan họ gắn liền với tục kết chạ, tục kết bạn giữa các bọn quan họ, tục “ngủ bọn”. Mặc dù
các phong tục này không được thực hành nhiều như trước đây, cộng đồng cư dân các làng quan
họ vẫn bảo tồn và truyền dạy nghệ thuật dân ca quan họ này.
Thời gian: từ mồng 4 Tết âm lịch, trong gần 3 tháng mùa xuân đầu năm, hội làng ở các làng
quan họ và các làng kề cận liên tiếp diễn ra. Suốt tháng 8 âm lịch lại là các hội lệ vào đám của các
làng. Trong số các lễ hội làng quan họ, hội Lim (thị trấn Lim, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) mở
vào 13 tháng giêng âm lịch, là hội lớn nhất. Cho nên mùa xuân và mùa thu là mùa hội và mùa ca
hát quan họ nhộn nhịp, tưng bừng làng trên, thôn dưới.
II. ĐẶC TRƯNG DI SẢN QUAN HỌ BẮC NINH:
II.1 Trang phục:
Trang phục Quan họ bao gồm trang phục của liền anh và liền chị.:
Trang phục của liền anh: áo dài 5 thân, cổ đứng, có lá sen, viền tà, gấu to, dài tới quá đầu gối,
thường bên trong mặc một hoặc hai áo cánh, sau đó đến hai áo dài.Áo dài bên ngoài thường màu
đen, chất liệu là lương, the. Quần của liền anh là quần dài trắng, ống rộng, may kiểu có chân què
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh

Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 4

dài tới mắt cá chân, chất liệu bằng phin, trúc bâu, màu mỡ gà, có thắt lưng nhỏ để thắt chặt cạp
quần. Đầu liền anh đội nhiễu quấn hoặc khăn xếp. Ngoài ra còn có các phụ kiện như: ô đen, khăn
tay, lược, thắt lưng
Trang phục liền chị : thường được gọi là “áo mớ ba mớ bảy”, có nghĩa là liền chị có thể mặc ba
áo dài lồng vào nhau ( mớ ba) hoặc là bảy áo dài lồng vào nhau ( mớ bảy ). Thành phần cơ bản
gồm có: trong cùng là một chiếc yếm có màu rực rỡ, thường làm bằng lụa truội nhuộm (có hai
loại yếm là yếm cổ xẻ dùng cho trung niên và yếm cổ viền dùng cho thanh nữ ). Bên ngoài yêm là

một chiếc áo cánh màu trắng, vàng , ngà. Ngoài cũng là những lượt áo dài năm thân. Chất liệu để
may áo hầu hết là the và lụa. Liền chị mặc váy sồi, váy lụa đôi khi có người mặc váy kép với váy
trong bằng lụa, vải màu lương, the.
Trang phục của liền chị còn có nón quai thao, khăn mỏ quạ, thắt lưng đeo dây xà tích.
II.2 Làn điệu Quan họ:
Quan họ rất phong phú về làn điệu: la rằng, đường bạn kim loan, cây gạo, giã bạn, hừ la, la hới,
tình tang, cái ả, lên núi, xuống song,… Quan họ có các hình thức: hát thờ, hát hội, hát thi lấy giải,
hát canh. Một cuộc hát quan họ hay một canh hát bao giờ cũng có ba chặng: giọng Lề lối, giọng
Vặt, giọng Giã bạn.
- Giọng Lề lối: đây là giọng hát mở đầu, được diễn xướng với tốc độ chậm, nhiều luyến láy,
nhiều tiếng đệm. Đôi lúc nhịp phách không rõ ràng, âm điệu thường ở âm khu tầm thấp, cữ
hẹp.
- Giọng Vặt: là các giọng thuộc phần chính của buổi hát. Có thể nói tính chất nghệ thuật của
Quan họ được thể hiện rõ ở giọng này. Âm nhạc ngắn gọn, bố cục chặt chẽ, tiết tấu linh
hoạt. Nội dung lời ca khá phong phú, số lượng bài bản tương đối nhiều. Ví dụ như: Trống
cơm, Qua cầu gió bay, Ngồi tựa mạn thuyền,…
- Giọng Giã bạn: là giọng hát trước lúc chia tay. Số lượng bài bản ở giọng giã bạn không
nhiều nhưng chất lượng nghệ thuật của các bài ở giọng này khá cao. Chủ đề chính của
giọng này là tiễn biệt vì vậy giai điệu thường buồn, nhưng rất mặn nồng, say đắm. Ví dụ
như: Người ở đừng về, Kẻ bắc người nam, Chia rẽ đôi nơi,…
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh

Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 5

Hát Quan họ là hình thức hát đôi đồng giọng: người hát dẫn, người hát luồn, hát đối đáp dẫn
giọng, luồn giọng một cách điêu luyện. Giọng của hai người hát cặp với nhau phải tương hợp đến
mức hai giọng trở thành một để tạo ra một âm thanh thống nhất. Có 4 kỹ thuật hát Quan họ là:
nền, rền, vang, nảy.
Nền
Trước khi bàn đến yếu tố nền, không thể không nhắc đến đặc điểm sử dụng tiếng đệm trong

hát Quan họ. Tiếng đệm là những âm thanh không thuộc phần lời thơ, như i, a, ơ, ư, hự, rằng, là,
ru hời, tính tình tang Nhiều người thường coi tiếng đệm là hư từ, nhưng ở đây không phải là
quan hệ thực từ - hư từ, mà cần nhận thấy mối quan hệ lời thơ - tiếng đệm. Trong bài Quan họ,
tiếng đệm vừa làm nền như một dàn nhạc đệm, vừa là chất kết dính các âm điệu của lời thơ, thông
qua các nốt luyến, lướt, hoa mỹ, thêu tạo thành tuyến giai điệu đặc trưng của Quan họ và chi phối
nhiều đến kỹ thuật hát Quan họ.
Nền là đặc điểm của các tiếng đệm tạo nên mặt bằng giai điệu, qua đó làm nổi lên lời thơ và
cùng với âm điệu của lời thơ tạo nên giai điệu của bài hát. Tiếng đệm thường có giai điệu nằm
trong quãng 2, quãng 3, thỉnh thoảng có quãng 4, 5, ít gặp quãng 6. Như vậy, nền ở đây có nghĩa
phông nền, chứ không phải nền nã, nền nếp như một số người quan niệm. Nói đến đặc điểm nền
trong Quan họ là nói đến đặc điểm các tiếng đệm như i ơ, hự, rằng là, tính tình tang tạo nên giai
điệu như một dàn nhạc đệm, làm nền và kết nối lời thơ. Chẳng hạn, trong câu Gọi ớ ơ ớ ơ hự à đò
không í i thấy i i hự đò là đò thưa í i (bài Gọi đò). Các tiếng đệm i í ơ ớ hự à… í i…i i hự… là…í
i làm nền cho lời thơ Gọi đò không thấy đò thưa.
Tiếng đệm thường thấy nhiều trong dân ca Việt Nam và mỗi thể loại có mức độ và cách thức sử
dụng tiếng đệm khác nhau. Ở các thể loại dân ca khác tiếng đệm thường được sử dụng để tô điểm,
làm chức năng đệm hơi, đệm nhịp hoặc cả đệm nghĩa cho dễ hát và phát triển giai điệu bài hát.
Trong Quan họ, tiếng đệm được sử dụng nhiều, chúng cũng có chức năng đệm hơi, đệm nhịp
hoặc cả đệm nghĩa, làm cho giai điệu bài hát phát triển, tuy nhiên đặc thù của tiếng đệm trong hát
Quan họ là chúng có vai trò thay cho dàn nhạc đệm, làm nền cho lời thơ và hỗ trợ cho các yếu tố
vang, rền, nẩy. Tiếng đệm trong Quan họ đòi hỏi kỹ thuật hát tương đối khó. Thiếu tiếng đệm
Quan họ không còn là Quan họ. Để hát được nền phải giữ hơi thở đều, liên tục, khẩu hình vừa
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh

Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 6

phải, vị trí âm thanh ít thay đổi để giai điệu bài hát đều đặn, hoà quyện, nối tiếp nhau và không bị
đứt quãng. Đồng thời có thể điều tiết được độ to nhỏ, mạnh nhẹ của tiếng đệm tương quan hợp lý,
không những không át đi âm điệu của lời thơ, mà còn làm nổi lên lời thơ trên nền âm thanh đệm


Rền
Rền là đặc điểm âm thanh trong câu hát hay trổ hát có độ rung đều đều, liên tục không dứt.
Rền trong Quan họ có được nhờ cách hát luyến láy và rung giọng, giai điệu phát triển liên tục.
Rền tạo nên sắc thái âm thanh đặc trưng của phong cách hát Quan họ.
Rền là cách hát nhấn nhá, luyến láy và rung giọng, vì vậy đòi hỏi người hát phải đạt tới kỹ
thuật hát tinh tế mới có thể sử lí độ nhấn vuốt của câu hát Quan Họ. Hát rền cần giữ tư thế và cổ
họng thật thoải mái, tự nhiên, khẩu hình mở vừa phải, đặt âm thanh ở hàm trên, hàm dưới rơi tự
do, lấy hơi vừa đủ, khống chế hơi, giữ và đẩy hơi ra đều, liên tục mà không đứt, gẫy, đặc biệt cần
có độ rung của thanh quản. Âm thanh phát ra vừa phải có độ vang, vừa có độ rung của giọng, mà
không bị đứt quãng. Chẳng hạn, trong câu Bỉ bài Gọi đò cần hát luyến từ gọi có độ rung giọng,
như có nhiều âm ọi liên tiếp với nhau, hát âm ơ như có nhiều âm ơơơơ ở độ cao khác nhau.

Nẩy
Nẩy hay còn gọi là nẩy hạt là đặc điểm âm thanh bị tắc lại ở họng, sau đó được bật ra ngoài
tạo thành độ nẩy của âm thanh. Nẩy hạt thường rơi vào những âm ở họng hoặc tắc họng như ư,
hự, í ợ, ạ. Có 2 kiểu nẩy hạt:
- Kiểu 1: Sau khi tắc lại ở họng, âm được bật ra, tiếp tục kéo dài và có độ rung giọng như trường
hợp âm ơ, hự, ạ trong câu Bỉ của bài Gọi đò
- Kiểu 2: Sau khi tắc họng, âm bật ra và dừng lại đột ngột như trong câu la hự, ối hự của bài Tìm
người, hoặc câu mía í ơ trong bài Cái ả
Từ góc độ giải phẫu, nẩy hạt là khi nắp thanh môn (bộ phận nằm gần như đối diện với lưỡi gà) bật
lên để âm thanh thoát ra, rồi đóng lại ngay (ở kiểu 1 sau khi đóng lại, nắp thanh môn lại mở ra,
cũng kiểu 2 nắp thanh môn đóng lại và giữ nguyên vị trí). Phải chăng từ hạt chính là chỉ nắp
thanh môn và vì vậy có tên gọi nẩy hạt.
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh

Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 7

Nẩy hạt là một kiểu sáng tạo nghệ thuật của dòng âm nhạc dân gian. Nẩy hạt có thể xem như
những điểm nhấn trong chuỗi âm thanh rền, làm cho câu hát, trổ hát thêm ấn tượng và độc đáo.

Kỹ thuật nẩy hạt không chỉ có trong Quan họ mà còn thấy ở một số thể loại khác như Chèo, Ca
trù. Tuy nhiên, mỗi thể loại lại có cách nẩy hạt khác nhau, ví dụ trong hát Ca trù thường nẩy hạt ở
âm ư, đóng khẩu hình, nhả âm thanh bằng mũi. Chèo nẩy hạt thường rơi vào âm i, mở khẩu hình
và nhả âm thanh bằng mũi và một phần bằng miệng. Trong Quan họ những âm nẩy tương đối
phong phú, thường rơi vào những âm đệm như ư, hự, í ợ, ạ và một số trường hợp nẩy hạt vào
những từ thuộc phần lời thơ của bài hát.
Kỹ thuật hát nẩy hạt trong hát Quan họ rất khác biệt làm cho phong cách hát Quan họ không
giống với các thể loại dân ca khác. Để hát được nẩy hạt, cần mở khẩu hình vừa phải, phù hợp với
từng âm nẩy hạt (hự, ơ ), hàm dưới buông lỏng và hơi hạ thấp cằm xuống, môi và hàm trên hơi
nhếch lên, khống chế hơi, dùng lực hơi thở đẩy mạnh âm nẩy hạt bật ra.
Vang
Vang là đặc điểm âm thanh truyền đi mạnh và lan toả rộng ra xung quanh. Vang là kết quả
cộng hưởng của miệng hát để khuyếch đại âm thanh. Những yếu tố hỗ trợ vang trong hát Quan họ
gồm: giai điệu bài hát phát triển liên tục, sử dụng nhiều âm thêu, luyến, nốt hoa mỹ, âm đệm mở
như ơ, í ơ, í a với độ ngân dài.
Vang là một yếu tố quan trọng không chỉ riêng trong hát Quan họ mà ở tất cả các thể loại
dân ca. Về mặt âm nhạc, vang có chức năng làm cho tuyến giai điệu của bài hát phát triển ở nhiều
cung bậc trầm bổng khác nhau, làm cho tác phẩm nghệ thuật thật sự sống động. Mặt khác, yêu
cầu đối với người hát ở bất kỳ dòng nhạc nào đều đòi hỏi có độ vang nhất định. Tuy vậy, hát vang
trong Quan họ lại có điểm khác biệt với các thể loại dân ca khác. Chẳng hạn, vang của thanh
nhạc được ngân, nghỉ vào những âm ở cuối tiết, câu hoặc đoạn nhạc. Còn vang trong hát Quan họ
là nhờ vào tuyến giai điệu phát triển liên tục, kết hợp luyến láy và ngân những âm đệm mở tạo
nên, đồng thời vẫn giữ được các yếu tố rền, nền, nẩy. Chính vì vậy, cách hát vang của Quan họ
mang nét đặc thù, cần có kỹ thuật hát phù hợp.
Để hát được vang cần hát chậm, hơi thở đầy, khẩu hình mở, vòm họng chống lên cao, có độ
rỗng bên trong họng. Hàm dưới rơi tự do, hàm và môi trên hơi nhếch cao để lộ ra hàm răng trên
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh

Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 8


như cười, tạo cảm giác như hai gò má chống lên cao, phát âm phải rõ chữ và có độ sáng Cần lưu
ý ngân trong hát Quan họ có độ rung, chứ không phẳng như thanh nhạc.
Sự phân tích các yếu tố vang-rền-nền-nẩy trong hát Quan họ từ các góc độ khác nhau ở trên
cho phép chúng ta nhận diện các yếu tố này dễ dàng và chính xác hơn: mỗi yếu tố có đặc điểm âm
thanh riêng, có giá trị âm nhạc nhất định và đòi hỏi kỹ thuật hát phù hợp. Sự kết hợp các yếu tố
vang-rền-nền-nẩy trong bài hát Quan họ tạo ra sắc thái âm thanh đặc trưng của bài hát Quan họ.
Vì vậy một trong những cái khó của hát Quan họ là người hát phải có được kỹ năng điêu luyện
thể hiện kết hợp các yếu tố này.
Quan họ được chia thành hai loại là quan họ truyền thống và quan họ mới:
 Quan họ truyền thống: “ chơi quan họ”, là hình thức tổ chức văn hóa với quy định nghiêm
ngặt, khắt khe đòi hỏi các liền anh, liền chị phải am hiểu tiêu chuẩn, luật lệ, chỉ tồn tại ở 49
làng. Nó không có nhạc đệm, chủ yếu hát đôi giữa liền anh, liền chị. Hát đôi được gọi là
hát hội, hát canh. Hát cả bọn được gọi là hát chúc, mừng, thờ.“Chơi quan họ” truyền thống
không có khán giả, người trình diễn là người thưởng thức. các bài quan họ còn ưu thích
đến giờ là La rẳng, Tình tang, Cái ả, Cây Gạo.
 Quan họ mới: “ hát quan họ”, là hình thức biểu diễn trên sân khấu hoặc trong sinh họat
cộng đồng, thực tế thì được trình diễn bất kì ngày nào, luôn có khán thính giả, người hát
còn trao đổi tình cảm với người nghe. Quan họ mới không nằm trong không gian làng xã
mà còn vươn ra nhiều nơi, ở quốc gia và cả thế giới. Có hình thức biểu diễn phong phú
hơn, gồm hát đơn, hát đôi, hát tốp, hát múa phụ họa, có cải biến các bài hát theo hai cách:
ý thức và không ý thức. Hát quan họ có nhạc đệm là không ý thức, còn cải biên có ý thức
là cải biến cả nhạc và lời của quan họ truyền thống.
II.3 Phong tục trong đám hội:
Quan họ nam mời trầu Quan họ nữ. Sau đó họ hát với nhau những lời ướm hỏi, nếu tâm đầu ý
hợp họ sẽ hẹn nhau ở làng bên nữ để tổ chức lễ kết nghĩa. Nơi tổ chức lễ kết nghĩa có thể ở đình
hoặc ở nhà bố mẹ chị Cả, chị Hai và do cụ Đám (còn gọi là ông trùm hoặc bà trùm) đứng ra làm
chủ sự.
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh

Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 9


Lễ kết nghĩa được bắt đầu bằng những lời thăm hỏi tận tình hoặc những lời thề thốt. Sau
đó, họ lại có buổi gặp nhau ở bên nam. Tại đây họ có thể hát thâu đêm suốt sáng để thổ lộ với
nhau về tình cảm. Căn cứ vào sự đồng nhất về cữ giọng, âm sắc, họ xếp thành từng cặp: Anh Cả -
Chị Cả, anh Hai- chị Hai, anh Ba – chị Ba, anh Tư – chị Tư Lời ca trong quan họ chủ yếu nói về
tình yêu nam nữ, sự gắn bó thủy chung. Nhưng trên thực tế họ không hề nghĩ đến chuyện yêu
nhau mà chỉ quan hệ trên cơ sở bình đẳng tôn trọng lẫn nhau. Họ gọi nhau bằng anh, chị và xưng
em hoặc tôi. Thời gian kết nghĩa của người Quan họ có thể từ đời này sang đời khác hay có khi
chỉ một vài năm.
Địa điểm ca hát Quan họ thường là ở sân nhà, trước cửa đình , cửa chùa, dưới gốc đa, bên
sườn đồi, trên thuyền, bến nước
Hàng năm, mỗi khi đình đám hội hè, làng có hội phải cử đôi Quan họ đến các làng Quan họ kết
chạ để mời. Đúng hẹn, các Liền anh Liền chị được mời đến đông đủ. Ngay từ cổng làng, cổng
đình chùa, Quan họ chủ nhà đã ra đón khách: Tay bê cơi trầu miệng hát mời đón khách bằng
những lời ca nghe ngọt ngào, tế nhị. Sau đó, Quan họ chủ nhà mời quan họ bạn đi lễ Phật, lễ
thánh, hát hội. Và ngày xưa hát hội là để giao lưu văn hoá giữa các bọn Quan họ nam và nữ, chứ
không thi hát lấy giải. Vui chơi hát hội đến sẩm tối, quan họ chủ nhà mời Quan họ bạn về nhà ông
(bà) Trùm để hát canh vào mỗi canh Quan họ thường thâu đêm đến sáng.
Vào canh Quan họ, các Liền anh Liền chị ngồi trên tràng kỷ hoặc phản thành bọn nam
riêng và bọn nữ riêng để hát đối đáp và bao giờ cũng phải hát bằng hệ thống giọng lề lối như Hừ
La, La Rằng…, sau đó chuyển sang giọng Sổng, giọng Bỉ, giọng Vặt và cuối cùng là giọng Giã
Bạn. Bao giờ, giữa canh quan họ, quan họ chủ nhà cũng mời cơm quan họ. Gọi là cơm Quan họ,
nhưng thực ra là cỗ ba tầng có đầy đủ các món ăn đặc sản của địa phương như giò, chả, nem,
bóng, nấm… và bánh trái hoa quả. Trong khi ăn uống, Quan họ luôn mời mọc nhau bằng những
lời ca, tiếng hát nghe ngọt ngào, tế nhị. Ăn uống xong, các bọn Quan họ nghỉ ngơi chốc lát, sau
đó lại hát tiếp đến khi nghe thấy tiếng chuông chùa thỉnh mới tàn canh Quan họ và chia tay nhau
để ra về. Quan họ chủ nhà tiễn bạn ra tận đầu làng và còn lưu luyến nhau bằng đôi câu Quan họ
để đến hẹn lại lên.
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh


Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 10

Cách thức sáng tác một bài bản Quan họ mới được người Quan họ khái quát trong một
câu nói: "Ðặt câu, bẻ giọng". Ðặt câu là sáng tác lời ca, thường là thơ, bẻ giọng là phổ nhạc cho
lời ca ấy. Như vậy việc sáng tác lời thơ làm lời ca thường diễn ra trước, sau đó là phổ phổ nhạc
cho lời ca. Cách thức sáng tác này cho phép được lấy một đoạn thơ, một bài thơ, một đoạn ca dao
có sẵn trong vốn thơ ca dân gian, dân tộc để phổ nhạc, hoặc, cũng có thể có người chỉ giỏi "đặt
câu" để rồi người khác "bẻ giọng", hoặc cũng có thể một người làm cả việc "đặt câu" và "bẻ
giọng".
Ai cũng nghĩ tiếng hát Quan họ là tiếng hát cầu duyên, cầu phúc, cầu lộc, cầu tài, cầu may và có
thể là cái cầu nối với đất trời, thần, phật để thỉnh cầu: cầu mưa, giải hạn, tiêu trùng Chính tâm lý
này đã tạo nên những thói quen, phong tục đẹp của làng xã, gia đình đối với những người ca hát
Quan họ, đối với hoạt động ca Quan họ, do đó, góp phần quan trọng vào việc giữ gìn, phát triển
Quan họ bền vững, lâu dài.
II.4. Các làng Quan họ:
49 làng Quan họ tồn tại vào đầu thế kỷ XX phân bố trong 3 huyện và 1 thị xã hiện nay của tỉnh
Hà Bắc như sau:
Huyện Tiên Sơn gồm 14 làng: Duệ Ðông, Lũng Giang (Lim), Lũng Sơn, Ngang Nội, Hoài Thị
(Bịu Sim), Hoàng Trung (Bịu Trung), Vân Khám (Khám), Bái Uyên (Bưởi), Ném Ðoài, Ném
Sơn, Ném Tiền, Tiêu, Tam Sơn, Hạ Giang.
Huyện Yên Phong gồm 16 làng: Hữu Chấp (Chắp), Viêm Xá (Diềm), Ðẩu Hàn (Hàn), Xuân Ái
(Sói), Xuân Ðồng, Xuân Viên (Vương Hồng). Thượng Ðồng (Lẫm), Thụ Ninh, Ðặng Xá (Ðặng),
Khúc Toại (Chọi), Trà Xuyên (Trà), Châm Khê, Ðào Xá (Ðiều Thôn), Dương Ổ ( Ống cao), Ông
Mơi (Mai), Ðông Yên.
Huyện Việt Yên gồm 5 làng: Hữu Nghi, Giá Sơn, Mai Vũ, Nội Ninh, Sen Hồ.
Thị xã Bắc Ninh gồm 14 làng: Cổ Mễ, Phúc Sơn, Y Na (Nưa), Thị Cầu, Thanh Sơn, Niềm Xá
(Niềm), Yên Mẫn (Yên Giữa), Yên Thị Trung (Yên Chợ), Vệ An, Ỗ Xá ( Ọ), Xuân Ổ (Ó), Hòa
Ình (Nhôi), Khá Lễ (Sé), Bô Sơn (Bò).
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh


Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 11

Các làng trên, đại bộ phận đều có cả những bọn Quan họ nam và bọn Quan họ nữ, thực hiện
phong tục kết bạn Quan họ khác giới, khác làng và tiến hành giao du, ca hát Quan họ với làng
khác. Nhưng có những làng có những nét riêng: Ngang Nội, Sen Hồ, Thị Cầu chỉ có các bọn
Quan họ nam đi kết bạn với Quan họ nữ ở làng khác; không có các bọn Quan họ nữ, hoặc có cũng
chỉ hát vui ở hội làng, không giao du ca hát Quan họ với làng khác. Các làng Niềm, Yên, Khúc
Toại, Trà Xuyên, từ 1930 - 1935 cũng chỉ còn các bọn Quan họ nam, không còn các bọn quan họ
nữ đi giao du, ca hát quan họ. Ở Tam Sơn chỉ còn lứa kết bạn cuối cùng với Lũng Giang vào
những năm đầu của thế kỷ 20. Các làng ở Việt Yên đã không đi hát Quan họ với các làng khác từ
đầu những năm 30. Một số làng khác ở phía Nam sông Cầu đến trước Cách mạng tháng 8-1945
và sau này cũng không còn hát hay ít hát, hoặc chỉ có một vài người còn hát được.
Trong các làng Quan họ, ai cũng biết hát Quan họ, trở thành những liền anh Quan họ, liền chị
Quan họ mới có thể hát được trên dưới 200 bài ca và có thể tham dự các cuộc hát Quan họ, thông
thạo mọi lề lối, phong tục Quan họ. Mỗi thế hệ nam, nữ của một làng thường có từ 3, 4, 5 bọn
Quan họ nam, nữ. Riêng làng Viêm Xá (Diềm) và 2 làng Bịu (Bịu Sim, Bịu Trung) vào đông
nhất, mỗi làng cũng chỉ có hơn 10 bọn Quan họ nam, nữ.
II.5 Lễ hội:
Lễ hội bao gồn phần lễ và hội. quan họ thường diễn ra cả phần lễ và phần hội. Quan họ phần lễ là
để hát những làn điệu cổ, còn quan họ phần hội là để các liền anh liền chị của làng đến hát đối
đáp giao lưu, mang đậm văn hóa lễ nghĩa của một vùng quê ngàn năm văn hiến. Phần lễ là thờ
thần, phật phù hộ cho mùa màng, nhân dân và vật nuôi. Phần hội diễn ra các trò chơi giải trí như:
tuồng, ca trù, quan họ,…
 Quan hệ phần lễ: là phần để hát các những làn điệu cổ có nội dung ca ngợi công đức của
thần, phật, cầu may. Theo tục lệ thì chỉ có nam hoặc nữ của làng được hát. Trong hát thờ
chỉ được hát giọng cổ như: Hừ la, La rằng, Cây gạo, tuyệt đối không được hát giọng vặt
nội dung nam nữ yêu đương.
 Quan họ phần hội: là phần quan họ nam và nữ hát đối đáp với nhau nhằm tạo không khí
vui vẻ, giải trí. Đấy là phần hấp dẫn nhát bởi các liền anh liền chị bằng những làn điệu
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh


Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 12

ngọt ngào thể hiện tâm trạng yêu đương, nhớ nhung đằm thắm của lứa đôi. Các liền anh,
liền chị hát từng tốp, hát đối giao duyên say sưa ở các sân đình, chùa, vạt núi, đồi, ruộng,
trên ao hồ. Sau khi tham gia hát hội, quan họ chủ đưa khách về nhà để hát canh quan họ,
vào canh bao giờ quan họ chủ nhà cũng mời trầu bằng cử chỉ, lời ca cung kính, tế nhị. Họ
hát đôi và theo lề lối, khỏang 10 bài rồi chuyển sang giọng sổng vài câu, tiếp là giọng vặt
và cuối cùng là giọng giã bạn.
Hội Lim là hội quan họ lớn nhất vùng Kinh Bắc được tổ chức vào trung tuần tháng Giêng âm
lịch. Từ khỏang mùng 10 đến ngày 13, không khí lễ hội rộn rã và du khách cũng trẩy hội đông
nhất. Ngòai ra, còn có hội làng Diềm (6/2 âm lịch) - có đền thờ Vua Bà, được coi là thủy tổ quan
họ. Làng Diềm là nơi khai sinh ra quan họ. Ngòai ra vùng Kinh Bắc còn nổi tiếng bởi hội hát như:
Bịu, Nhồi, Bùi, Bò.
III. HIỆN TRẠNG KHAI THÁC QUAN HỌ BẮC NINH TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH:
III.1 Trước khi được UNESCO công nhận:
Trước khi được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại thì Quan
họ đã là một nét văn hóa đẹp của người Kinh Bắc, gắn liền với đời sống của người dân nơi đây từ
rất lâu đời. Người Kinh Bắc xưa (ngày nay gồm Bắc Ninh và Bắc Giang) hát Quan họ trong suốt
bốn mùa (xuân, hạ, thu, đông) nhưng đặc biệt là vào mùa Xuân, lúc hoa cỏ đang khoe sắc đua
hương, vạn vật đang sinh sôi nảy nở, đất trời, cảnh vật như mở ra để đón nhận lòng người và cũng
là dịp diễn ra nhiều hội hè, nhất… Vào những ngày này nếu không có Quan họ thì người Kinh
Bắc như cảm thấy thiếu cái gì đó rất lớn, sẽ kém vui… Bởi quan họ như một món ăn tinh thần đã
ăn sâu vào tiềm thức, tâm hồn, tồn tại hàng thế kỷ tại vùng quê cổ kính này. Ở vùng Kinh Bắc, từ
khi mới được sinh ra, trẻ thơ đã được ông, bà, cha, mẹ hát ru bằng những làn điệu dân ca quan họ
truyền thống và cứ như vậy khi lớn lên người ta vẫn không thể quên được những làn điệu dân ca
độc đáo này, các thế hệ tiếp nối nhau hát quan họ, người trước truyền dạy người sau. Ngày nay, từ
trẻ em đến người già đều biết hát quan họ… nhiều người con của quê hương đi xa cũng không thể
nào quên được những âm vang tha thiết đó của quê nhà.
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh


Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 13

Nói đến chơi Quan họ là nói đến một lối chơi có quy củ, nền nếp, buộc người chơi phải tuân thủ
theo luật chơi gồm nhiều thể loại: hát đối, hát giao duyên, hát canh, hát kết chạ, hát lễ hội, hát
mời nước, mời trầu… chơi cho chỉ nổi kim chìm, chơi cho lở đất long trời mới xứng là trai gái
Kinh Bắc. Nhưng không chỉ có thế, Quan họ còn có lối hát tự do, ngẫu hứng thể hiện sự phóng
khoáng trong những canh hát ngày xuân. Hát để thay cho nói, tâm sự gửi cả vào trong câu hát, đó
cũng là cái tình của người quan họ đã thấm thía, lan tỏa ngàn đời. Đối với Quan họ thì yếu tố
vang, rền, nền, nảy là không thể thiếu được và đòi hỏi người hát phải trải qua một quá trình rèn
luyện rất kỳ công mới đạt đến độ chuẩn đó. Các bài Quan họ thường thể hiện tâm trạng tình yêu
đôi lứa, khát vọng sống ấm no, hạnh phúc, nỗi nhớ mong, tương tư của người quan họ.Quan họ
không chỉ là nghệ thuật hát mà nó còn là văn hóa, là "ứng xử" của người dân Kinh Bắc. Đó là
cách ứng xử thật khéo léo, tế nhị, kín đáo và mang đầy ý nghĩa như các làn điệu mời nước, mời
trầu thật chân tình, nồng thắm .
Những làn điệu Quan họ gắn bó mật thiết với đời sống người dân Kinh Bắc, là món ăn tinh thần
không thể thiếu trong các mùa lễ hội. Tuy nhiên trong giai đoạn này nó chỉ có giá trị trong lĩnh
vực văn hóa chứ chưa gắn liền với du lịch. Đó là cái riêng nổi bật của vùng đất này, gắn kết
những người trong vùng với nhau, nó chỉ phổ biến trong vùng Kinh Bắc chứ chưa có tiếng tăm
nhất định,chưa thu hút được sự quan tâm của du khách quốc tế nên việc khai thác các giá trị Quan
họ chủ yếu là của chính quyền và người dân địa phương và nó chưa thật sự được phát triển hay
bảo tồn một cách có tổ chức
III.2 Sau khi được UNESCO công nhận :
*Các tiêu chí để Quan họ Bắc Ninh được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể
đại diện cho nhân loại
Vào lúc 19.55 (giờ Việt Nam, tức 16.55 giờ Abu Dhabi), Quan họ đã được Ủy ban
Liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể long trọng công bố là
Di sản phi vật thể đại diện của Nhân loại.
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh


Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 14

Hồ sơ Quan họ được Hội đồng chuyên môn của UNESCO đánh giá cao về giá trị văn hóa
đặc biệt về tập quán xã hội, nghệ thuật trình diễn, kỹ thuật hát, phong cách ứng xử văn hóa,
bài bản, ngôn từ và cả về trang phục.
Hồ sơ đã đáp ứng đầy đủ các tiêu chí để Quan họ trở thành di sản đại diện của nhân loại
với các kết luận sau:
- Quan họ luôn được thực hành trong các hoạt động văn hóa, xã hội của cộng đồng, được
cộng đồng hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang lưu giữ, trao truyền từ nhiều thế hệ và trở thành
bản sắc của địa phương và lan tỏa trở thành không gian văn hóa đặc thù.
- Việc Quan họ được đăng ký vào danh sách đại diện sẽ góp phần tăng cường vị trí, vai trò
của di sản đối với xã hội làm giàu thêm bức tranh da dạng văn hóa của Việt Nam và của nhân
loại
- Một số biện pháp bảo vệ được đề xuất với sự cam kết của quốc gia, chính quyền địa
phương và cộng đồng cho thấy tính khả thi của các hoạt động bảo vệ di sản.
- Hồ sơ đã thể hiện rõ sự tham gia một cách tự nguyện của người dân hai tỉnh Bắc Ninh và
Bắc Giang trong việc nhận dạng, kiểm kê giá trị di sản và xác lập các biện pháp bảo vệ.
Viện Văn hóa Nghệ thuật và Cục Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa thể thao và Du lịch được ghi
nhận là các cơ quan nghiên cứu và quản lý có vai trò trực tiếp trong việc hướng dẫn cộng đồng
thực hiện việc bảo vệ và phát huy di sản văn hóa Quan họ theo đúng yêu cầu của Công ước
UNESCO 2003.
Ngay sau khi được công nhận, quan họ Bắc Ninh đã có những thay đổi nhất định, nó không chỉ là
văn hóa đại diện cho địa phương mà còn là của đất nước Việt Nam. Chính “ sự đăng quang “ Di
sản thế giới này đã tạo nên điều kiện để có thể phát triển và bảo tồn loại hình quan họ đồng thời
cũng là động lực to lớn thúc đẩy du lịch của vùng, thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước
đến tìm hiểu nét đặc sắc của di sản văn hóa này.
Sau khi được công nhận, Quan họ Bắc Ninh không chỉ tồn tại như một nét văn hóa đặc trưng cho
vùng Kinh Bắc mà đã trở thành một lực hút du lịch của vùng, gắn liền với những lễ hội đặc sắc.
Nó có vai trò rất quan trọng đối với du lịch, cụ thể là:
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh


Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 15

 Tìm hiều di sản văn hóa phi vật thể Quan họ Bắc Ninh được xem như hoạt động của
“du lịch văn hóa”
Du lịch văn hóa đang ngày một phổ biến trên thế giới và được chú trọng phát triển ở Việt Nam.
Theo Luật Du lịch, du lịch văn hóa là “loại hình du lịch dựa vào việc khai thác các giá trị di sản
văn hóa nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị của nền văn hóa dân tộc, có sự tham gia của đông
đảo cộng đồng”. Như vậy, di sản văn hóa là nhân tố cơ bản trong phát triển du lịch văn hóa.
Di sản văn hóa góp phần hình thành xu hướng phát triển du lịch trên thế giới. Ngày nay, trong xã
hội công nghiệp hiện đại, khi chất lượng cuộc sống được nâng cao, con người có điều kiện và nhu
cầu muốn được hưởng thụ văn hóa nhiều hơn, được đi tới những miền đất mới tìm hiểu khám phá
những nền văn hóa khác. Nếu di sản chỉ được giấu kín trong lòng đất, trong các bảo tàng mà
không được nghiên cứu, trưng bày giới thiệu cho công chúng biết thì di sản đó cũng không có giá
trị tồn tại. Khi di sản được khách du lịch quan tâm, tìm hiểu thì đó đã tạo cơ hội, môi trường cho
di sản được “sống”. Ngược lại, đến lượt mình, di sản văn hóa càng phong phú, đa dạng và giữ
được tính xác thực bao nhiêu thì nó lại càng có sức hấp dẫn khách du lịch bấy nhiêu. Do vậy, Bắc
Ninh là một nơi có rất nhiều lễ hội, nhiều điểm tham quan hấp dẫn có cơ hội thu hút được nhiều
khách du lịch đến để tìm hiểu, chiêm ngưỡng di sản văn hóa.
Ở nhiều quốc gia, du lịch văn hóa được xem là loại hình du lịch chính, thậm chí còn trở thành
thương hiệu của một quốc gia, một vùng đất. Chính bởi vì bản thân di sản văn hóa đã mang tính
lịch sử, tính truyền thống, tính biểu trưng…cho nên sản phẩm du lịch văn hóa có giá trị hấp dẫn
đặc biệt. Nếu biết khai thác hợp lý di sản văn hóa phục vụ du lịch thì sẽ tạo ra những sản phẩm du
lịch văn hóa giàu sức hút, có ý nghĩa.
Muốn du lịch văn hóa phát triển, không thể không dựa vào việc khai thác giá trị các di sản văn
hóa. Để du lịch văn hóa thực sự hấp dẫn thì trước hết phải xác định giá trị của mỗi di sản văn hóa
(di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể) đối với hoạt động du lịch, tiếp theo là phải
có sự đầu tư đúng mức để di sản văn hóa trở thành sản phẩm du lịch văn hóa. Ngược lại, một
phần lợi nhuận từ du lịch đem lại cần phải được đầu tư trở lại cho di sản văn hóa (nhằm phục vụ
công tác bảo tồn di sản…). Đó là sự phát triển du lịch bền vững.

Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh

Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 16

Xét trường hợp của Quan họ Bắc Ninh, do được lưu truyền bằng phương thức truyền miệng, được
biểu diễn rộng rãi trong các lễ hội nên rất phổ biến đối với du khách bởi vậy khi đến với vùng đất
Kinh Bắc chắc chắn khách du lịch không thể bỏ qua những làn điệu dân ca tuyệt vời này.Quan họ
Bắc Ninh được công nhận là di sản văn hóa và nó hội tụ rất nhiều điểm hấp dẫn để khái thác loại
hình du lịch văn hóa. Đó không chỉ là những làn điệu dân ca mượt mà nồng thăm của các liền chị
liền anh mà nó còn gắn liền với những lễ hội thể hiện đời sống sinh hoạt của người dân Kinh Bắc,
có sức hút đặc biệt giúp du khách có thể tìm hiểu sâu sắc hơn về những văn hóa cũng như nét đẹp
tâm hồn của con người nơi đây. Từ khi được UNESCO công nhận là di sản văn hóa của nhân loại,
Quan họ Bắc Ninh đã có những bước phát triển nổi bật, nó đã tạo nên tiếng vang lớn, thu hút rất
nhiều du khách đến tìm hiểu và thưởng thức, do đó thúc đẩy ngành du lịch của Bắc Ninh,giúp cho
chính quyền và người dân ở đây phát triển những tiềm năng du lịch sẵn có trong vùng nhằm phục
vụ được nhu cầu đa dạng của du khách trong và ngoài nước. Chính sự phát triển này đã góp phần
to lớn đã kéo theo sự đi lên của kinh tế địa phương, tăng thêm thu nhập, tạo việc làm cho người
dân địa phương. Đồng thời, nhận thức được ảnh hưởng tích cực từ Quan họ, ý thức bảo vệ gìn giữ
và phát huy di sản văn hóa này cũng đã nâng lên, đòi hỏi chính quyền và nhân dân cần có những
biện pháp phù hợp để thực hiện nhiệm vụ đó.
 -Di sản văn hóa Quan họ là nguồn tài nguyên du lịch quan trọng đối với hoạt
động phát triển du lịch của Bắc Ninh và của cả nước
Du lịch gắn với các giá trị di sản văn hóa Quan họ chính là điểm khác biệt, là thế mạnh nổi
bật của Bắc Ninh. Nếu được quan tâm đúng mức và đầu tư bài bản cho hoạt động du lịch, chắc
chắn hình ảnh du lịch gắn với Quan họ sẽ là thương hiệu hấp dẫn của điểm đến Bắc Ninh nói
riêng và của Việt Nam nói chung.
Thành phố Bắc Ninh tiếp giáp, cách thủ đô Hà Nội 30km, cách sân bay quốc tế Nội Bài
45km, cách cảng biển Hải Phòng 110km. Bắc Ninh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm – tam giác
tăng trưởng Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh. Đường quốc lộ 18 nối Bắc Ninh với cảng hàng
không quốc tế Nội Bài và các tỉnh Hải Dương, Quảng Ninh. Quốc lộ số 38 nối Bắc Ninh với Hải

Dương.
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh

Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 17

Hệ thống đường giao thông nội tỉnh cũng tương đối phát triển với trục đường quốc lộ chạy
qua 1A, 1B, 18, đường sắt xuyên Việt đi Trung Quốc. Đường sông cũng được xem là một lợi thế
trong phát triển du lịch của tỉnh, với 3 con sông chính là sông Cầu, sông Đuống, sông Thái Bình
chảy qua tạo mạng lưới đường thủy dài 127km. Với vị trí như vậy, Bắc Ninh có điều kiện giao
lưu kinh tế, buôn bán nội vùng và với các tỉnh bạn, đặc biệt là với thủ đô Hà Nội. Hoạt động giao
thông, giao lưu kinh tế phát triển tạo thuận lợi cho hoạt động du lịch của tỉnh Bắc Ninh và đặc
biệt là vùng văn hóa Quan họ.
Với những giá trị đã được thế giới công nhận, di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh thực sự là
nguồn tài nguyên du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Dựa vào di sản văn hóa Quan
họ, Bắc Ninh có thể tạo ra nhiều sản phẩm du lịch, kết hợp hình thành các tour, tuyến du lịch
phong phú.
Có thể kết hợp du lịch Quan họ với du lịch thăm quan di tích, tham dự lễ hội. Trong dân
gian ta có câu: “Cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài” để ca ngợi những di sản văn hóa cộng đồng nổi
tiếng của các miền trong nước. Xứ Bắc hay vùng Kinh Bắc là một trong những xứ sở của đình
chùa và lễ hội. Đặc biệt trong những năm gần đây một số chương trình như “ Về miền Quan họ”,
“Fesival Bắc Ninh” đã trở thành ngày hội lớn với nhiều chương trinh hấp dẫn thu hút rất nhiều du
khách trong và ngoài nước đến tham gia.
Ở đây có những ngôi chùa cổ kính có ý nghĩa lớn về lịch sử và kiến trúc như: chùa Dâu,
chùa Cổ Pháp, chùa Phật Tích, chùa Bút Tháp, chùa Dạm, chùa Lim, chùa Xuân Ổ, chùa Viêm
Xá (Diềm), chùa Châm Khê trong đó, có những ngôi chùa nổi tiếng có lễ hội gắn liền với Quan
họ cả phần lễ và phần hội như: chùa Lim, chùa Châm Khê, chùa Dương Ổ, chùa Hòa Đình. Ngoài
ra, vùng Kinh Bắc cũng nổi tiếng với những ngôi đình “Thứ nhất là đình Đông Khang, thứ nhì
đình Bảng, vẻ vang đình Diềm” (câu ca dân gian) và những ngôi đền thờ Mẫu, hầu hết tập trung ở
những làng Quan họ gốc. Những ngôi đình, ngôi đền này là không gian văn hóa để Quan họ tồn
tại và phát triển.

Khi khai thác Quan họ Bắc Ninh để khái thác du lịch có nghĩa là chúng ta tạo ra những sản
phẩm du lịch cho du khách. Ngoài việc được tham quan, tìm hiểu thưởng thức những làn điệu dân
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh

Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 18

ca ngọt ngào, nồng thắm của Quan họ thì du khách còn có thể kết hợp tham quan đến một số di
tích nổi tiếng ở đây. Bắc Ninh cũng có rất nhiều tiềm năng để phát triển du lịch như:
 Các di tích lịch sử văn hóa không chỉ là nơi lưu giữ nguồn tài liệu quý giá mà còn
hấp dẫn, thu hút đông đảo khách thập phương đến du lịch, đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho người dân. Theo số liệu thống kê
của Ban quản lý di tích tỉnh, trên địa bàn tỉnh có 1.259 di tích, trong đó có 428 di
tích xếp hạng cấp Quốc gia và cấp tỉnh. Một số di tích tiêu biểu có tiềm năng thu
hút khách du lịch phân bố tập trung trên địa bàn thị xã Từ Sơn, huyện Thuận Thành,
Gia Bình, Tiên Du, thành phố Bắc Ninh. Hệ thống di tích này đóng vai trò là một
điểm nhấn quan trọng trong các hành trình du lịch tỉnh Bắc Ninh
 Trong Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Bắc Ninh đến năm 2010 đã xác định 3
dự án khu du lịch ưu tiên đầu tư là: Khu du lịch văn hoá Quan họ Cổ Mễ (Thành
phố Bắc Ninh); khu du lịch văn hoá Đền Đầm (thị xã Từ Sơn); khu du lịch văn hoá
Phật Tích (huyện Tiên Du). Bên cạnh đó, theo dự kiến sẽ có 3 khu du lịch khác là:
Khu du lịch lâm viên Thiên Thai (huyện Gia Bình); khu du lịch văn hoá lịch sử Như
Nguyệt (huyện Yên Phong); khu du lịch tâm linh Hàm Long - Núi Dạm (thành phố
Bắc Ninh) và lựa chọn 22 điểm di tích quy hoạch phát triển thành điểm du lịch làm
động lực cho các tuyến du lịch khép kín, liên hoàn và hấp dẫn trên địa bàn.
Bên cạnh đó còn có thể kết hợp du lịch Quan họ với du lịch làng nghề. Di sản văn hóa Quan họ
Bắc Ninh được hình thành từ những làng Quan họ nhỏ bé, để rồi phát triển thành vùng văn hóa
Quan họ. Mặt khác, làng Quan họ đó đồng thời cũng là những làng nghề, hoặc nằm gần với
những làng nghề mà cho đến ngày nay, những sản phẩm của những làng nghề truyền thống này
vẫn được thị trường ưa chuộng, cả nước biết đến. Việc khai thác cho khách du lịch tìm hiểu các
làng nghề truyền thống gắn liền với du lịch Quan họ sẽ tạo nên những sản phẩm du lịch đặc trưng

riêng có của tỉnh Bắc Ninh.
Các công ty du lịch cũng đã nắm bắt được những ảnh hưởng của quan họ đối với du lịch
Bắc Ninh nên thiết kế nhiều tour du lịch đến Bắc Ninh kết hợp giữa việc thưởng thức món ăn tinh
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh

Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 19

thần Quan họ còn tham quan tìm hiểu các di tích nổi tiếng và một số điểm du lịch thu hút nhiều
du khách. Nhiều công ty du lịch đã rất thành công khi khai thác du lịch ở vùng đất này đặc biệt
Công ty du lịch Hà Nội – Sài Gòn của doanh nhân trẻ Đỗ Hoàng Cát đã đạt doanh nghiệp tiêu
biểu ở Bắc Ninh, góp phần không nhỏ vào quá trình phát triển và giữ gìn nét đẹp quan họ . Là
người con của đất Bắc Ninh, với tấm lòng yêu quê hương và khao khát muốn giữ gìn những nét
đẹp cũng như giới thiệu quê hương với du khách trong và ngoài nước, ông đã xây dựng nhiều tour
du lịch đặc biệt để du khách có những ấn tượng tốt đẹp nhất với vùng đất này.
Như vậy phát triển du lịch Quan họ sẽ góp phần hình thành xu hướng tìm hiểu văn hóa Quan họ,
cũng chính là tìm hiểu lịch sử truyền thống, phong tục tập quán của ông cha ta, bản săc dân tộc ta.
Đối với bạn bè quốc tế thì dân ca Quan họ đã trở thành hình ảnh của đất nước, con người Việt
Nam. Vì vậy, phát triển du lịch di sản văn hóa Quan họ góp phần quảng bá, đưa hình ảnh đất
nước Việt Nam ra với thế giới. Du lịch Bắc Ninh đã đạt được nhiều thành quả to lớn: Lượng
khách tới Bắc Ninh hàng năm có tốc độ tăng 17-20%, doanh thu du lịch cũng tăng 17-18%. Tỉnh
Bắc Ninh đạt mục tiêu phấn đấu đến năm 2015 doanh thu du lịch đạt trên 250 tỷ đồng, đón
400.000 lượt khách/năm; khuyến khích đầu tư xây dựng thêm 4 khách sạn tiêu chuẩn 3-5 sao để
đảm bảo đáp ứng lượng khách đến thăm khi tổ chức các sự kiện lớn; sớm hoàn chỉnh các dự án
xây dựng khu du lịch văn hóa lịch sử tiêu biểu.Chỉ tính riêng trong năm 2010, tỉnh Bắc Ninh đạt
doanh thu 125 tỷ đồng từ du lịch, đón gần 200.000 lượt khách đến thăm quan. Hệ thống cơ sở lưu
trú du lịch và dịch vụ những năm gần đây được đầu tư mở rộng, từng bước đưa du lịch Bắc Ninh
trở thành điểm đến quen thuộc trong nước.
Nhận thấy rõ tiền năng và vai trò to lớn của Quan họ đối với du lịch địa phương, song cuốn
theo vòng xoáy của xã hội ngày nay, Quan họ đã có những thay đổi kéo theo đó là những ảnh
hương tiêu cực đến du lịch vùng:

 Thứ nhất, đó là những làn điệu dân ca Quan họ đã dần bị cuốn theo bởi “ sự
hiện đại hóa”
Nếu như theo lối hát của Quan họ truyền thống thì Quan họ xưa là hình thức tổ chức sinh hoạt
văn hóa dân gian của người dân Kinh Bắc, với những quy định nghiêm ngặt, khắt khe đòi hỏi liền
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh

Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 20

anh, liền chị phải am tường tiêu chuẩn, tuân theo luật lệ, Quan họ truyền thống không có nhạc
đệm và chủ yếu hát đôi giữa liền anh và liền chị vào dịp lễ hội xuân thu nhị kỳ ở các làng quê
nhưng Quan họ bây giờ là hình thức biểu diễn trên nền nhạc đệm, rất nhiều bài quan họ được cải
biên do đó yêu cầu về kĩ thuật hát độc đáo cũng dần mất đi, cái hồn của Quan họ xưa cũng dần
phai nhạt. Một thực tế là không gian văn hóa quan họ bắc ninh đang bị rạn nứt do chịu những tác
động tiêu cực của cuộc sống hiện đại. những bài quan họ cổ xuất hiện ít hơn, trình dẫn quan họ
theo lề lối cổ cũng dần mất đi, hầu như không có sự sang tạo, ứng tác trong cuộc thi, kể cả các
cuộc thi tổ chức hàng năm.Sự hiện đại hóa trong Quan họ không hoàn toàn là tiêu cực bởi nó áp
ứng nhu cầu của xã hội ngày nay: đơn giản, dễ nghe, thu hút , không kén khan giả song nó lại âm
thầm làm mất đi vẻ đẹp của Quan họ, cái hiện đại làm phai mờ cái cổ truyền.
 Thứ hai, mục đích hát Quan họ đã thay đổi:
Nếu trước đây hát Quan họ được xem là lối sinh hoạt quen thuộc của người dân Kinh Bắc nhằm
giao lưu kết bạn giữa các liền anh liền chị, gủi gắm những tâm tư tình cảm nổi niềm trong bài hát
đồng thời cũng là giữ gìn nét đẹp văn hòa của vùng thì ngày nay hát Quan họ đã trở thành những
tiết mục biểu diễn nhằm thu lợi nhuận, quan họ được biểu diễn trong các nhà hàng hoặc các buổi
tiệc tùng, những tiết mục được xây dựng dường như chỉ có hình thức mà nội dung và chất lượng
đã không còn được quan tâm. Đó chính là một trong những nguyên nhân làm mất đi bản chất của
Quan họ.
 Thứ ba, đội ngũ nghệ nhân hát Quan họ ngày càng giảm đi về cả chất lẫn lượng
Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh của các dòng nhạc như nhạc trẻ, nhạc nước ngoài dường
như Quan họ lại càng kén khan giả hơn và cả đội ngũ nghệ nhân hát quan họ cũng dần ít đi.
Nguyên nhân có thể là do những “di sản văn hóa sống” hát Quan họ theo lối cổ đã hiếm nay lại

khó hòa hợp với đội ngũ những nghệ sĩ hát Quan họ theo lối mới, hiện trạng cho thấy ngày nay
chỉ ở vùng Kinh Băc chỉ còn hai nghệ nhân hát theo lối cũ là cụ Nguyễn Thị Nguyên và cụ Ngô
Thị Nhi, còn lại những nghệ sĩ hát Quan họ theo lối mới thì hầu như chất lượng không cao, không
truyền tải được hết bản chất của quan họ và cùng với đó là sự khan hiếm liền anh có chất lượng
cũng là điều khó khăn cho Quan họ Bắc Ninh.
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh

Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 21

Tóm lại, từ những hiện trạng trên có thể thấy Quan họ Bắc Ninh có những tiềm năng nhất định
ảnh hưởng lớn đến du lịch của địa phương. Đồng thời chúng ta cũng thấy rõ sự mai một dần của
di sản văn hóa này, do đó đòi hỏi Nhà nước và chính quyền địa phương cần phải thấy được thực
trạng khai khai thác để có những biện pháp bảo tồn và phát huy giá trị to lớn của di sản văn hóa
Quan họ Bắc Ninh xứng tầm với di sản văn hóa đại diện cho nhân loại.

IV. BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA QUAN HỌ BẮC NINH:
Sau 5 năm( 2005-2009) triển khai lập hồ sơ khoa học đề cử di sản ngày 30-09-2009, Tổ chức văn
hóa khoa học- giáo dục của Liên hợp quốc ( UNESCO) công nhận Dân ca quan họ Bắc Ninh là di
sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Sự kiện này không những mang đến cho người dân Bắc
Ninh mà còn mang đến cho người dân cả nước niềm vui, tự hào dân tộc, đồng thời còn đặt ra
nhiệm vụ quan trọng đòi hỏi trách nhiệm hết sức lớn lao của các cấp ngành từ Trung ương đến địa
phương đặc biệt là của cộng đồng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị của di sản.
Quan họ là một loại hình dân ca phong phú về giai điệu và được lưu truyền trong dân gian từ đời
này sang đời khác bằng phương thức truyền khẩu. Tuy nhiên, cũng chính phương thức lưu truyền
này đã làm cho các bài Quan họ lưu truyền trong dân gian bị biến đổi nhiều, thậm chí còn bị biến
đổi khác hẳn so với ban đầu. Do vậy, hiện nay nhiều giai điệu cổ đã hoàn toàn biến mất. Mặc dù
sự thay đổi này làm cho Quan họ phát triển, nhưng ở trong bối cảnh văn hóa Phương Tây đang
xâm nhập mạnh mẽ vào xã hội Việt Nam, thì vấn đề bảo tồn nguyên trạng Quan họ trong từng
giai đoạn phát triển là một việc làm cấp bách. Những năm qua, Bộ Văn hóa Thông tin đã xác định
Dân ca Quan họ Bắc Ninh là một di sản Văn hóa đặc biệt, để bảo tồn và phát huy giá trị của nó.

Từ năm 1954, chính quyền địa phương rất quan tâm đến bảo tồn và phát huy giá trị của di sản
Quan họ. Tỉnh Bắc Ninh đã thực hiện rất nhiều dự án nhằm bảo tồn và phát huy di sản như:
- Năm 1962, tỉnh Bắc Ninh đã tổ chức Hội nghị Quan họ lần 1/1962.
- Từ năm 1963 đến 1966, tỉnh Hà Bắc (gồm hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang), đã tổ chức 06
hội thảo về Quan họ.
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh

Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 22

- Năm 1969, Đoàn Dân ca Quan họ Bắc Ninh được thành lập để bảo tồn, phát triển và trình
diễn dân ca Quan họ.
- Tỉnh Hà Bắc thành lập trung tâm văn hóa quan họ để sưu tầm nghiên cứu nhằm bảo vệ
Quan họ.
- Tỉnh Bắc Ninh trong quyết định số 1357/QĐ-CT ngày 19-11-2003 đã quy hoạch khu đồi
Lim (huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) thành khu trung tâm lễ hội dân gian, để trình diễn
Quan họ.
- Năm 2004, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Bắc Ninh thực hiện dự án bảo tồn làng Quan họ
Viêm Xá.
- Hằng năm, hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang tổ chức hội thi hát đối đáp Quan họ vào mùa
xuân để phát hiện những giọng ca mới.
- Năm 2003, với sự hỗ trợ của văn phòng UNESCO Hà Nội, Cục di sản văn hóa và Sở Văn
hóa Thông tin tỉnh Bắc Ninh thực hiện “Dự án thi điểm nghiên cứu xây dựng danh sách
nghệ nhân Quan họ tiêu biểu”.
- Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam tổ chức hội thảo quốc tế: Bảo tồn và phát huy dân ca
trong xã hộ đương đại (trường hợp quan họ Bắc Ninh ở Việt Nam) vào tháng 3/2006.
- Cuối năm 2006, Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh tổ chức tọa đàm khoa học “Bảo tồn Quan
họ Bắc Ninh”.
Ngoài những dự án, hội thảo tỉnh Bắc Ninh cũng đã có rất nhiều hành động cụ thể để bảo tồn loại
hình văn hóa đặc sắc này và nhiều chính sách phối hợp với ngành du lịch khai thác và phát huy
giá trị di sản Quan họ một cách bền vững. Có thể kể đến một số biện pháp tiêu biểu:

- Giúp cộng đồng nhận diện và kiểm kê Dân ca Quan họ Bắc Ninh theo định kỳ từng năm.
- Xây dựng chính sách đãi ngộ với nghệ nhân như lương, phụ cấp, nhất là những nghệ nhân
được phong tặng “Báu vật nhân văn sống” ở các làng quan họ trên địa bàn hai tỉnh Bắc
Ninh, Bắc Giang.
- Hoàn thiện tư liệu và kết quả nghiên cứu về Quan họ Bắc Ninh, kể cả những làng quan họ
thuộc vùng lân cận.
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh

Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 23

- Hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang cùng với cộng đồng tổ chức các liên hoan quan họ Bắc Ninh
định kỳ 2 năm/lần trên cơ sở festival quan họ Bắc Ninh theo địa bàn huyện 1 năm/lần
(Festival Bắc Ninh 2010 diễn ra từ ngày 14-4 đến 18-4-2010).
- Hỗ trợ cộng đồng phục hồi tập quán, tín ngưỡng và các lễ hội liên quan đến Dân ca quan
họ Bắc Ninh ở các làng quê.
- Thành lập hiệp hội nghệ nhân Quan họ Bắc Ninh, trên cơ sở các Câu lạc bộ ở các làng hiện
nay, xây dựng chương trình hoạt động cho hiệp hội để tổ chức phi chính phủ này đóng vai
trò tích cực trong việc truyền dạy cho thế hệ trẻ.
- Hỗ trợ cộng đồng xây dựng nội dung truyền dạy Quan họ Bắc Ninh trong các gia đình, các
lớp dạy Quan họ Bắc Ninh tại cộng đồng theo địa bàn làng xã.
- Cục Di sản văn hóa, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam phối hợp với Sở Giáo dục và đào
tạo hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang xây dựng chuyên đề Dân ca quan họ Bắc Ninh để đưa
vào giảng dạy ở nhà trường cấp 2,3 trong chương trình văn học địa phương. Thành lập
khoa Dân ca quan họ Bắc Ninh trong trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật của cả hai tỉnh
Bắc Ninh, Bắc Giang.
- Mở chuyên mục Dân ca quan họ Bắc Ninh trên báo Bắc Ninh, Bắc Giang, Đài phát thanh
truyền hình Bắc Ninh, Bắc Giang định kì. Sử dụng đội truyền thanh cơ sở để tuyên truyền,
giới thiệu giá trị của Dân ca quan họ Bắc Ninh trong cộng đồng làng xã.
- Xây dựng đồi Lim thành một trung tâm văn hoá quan họ, khôi phục hình thức hát thờ ở hội
làng Viên Xá ( thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh) để bảo tồn các giọng Lề lối của Dân ca

Quan họ Bắc Ninh….
- Giúp cộng đồng nâng cao nhận thức về giá trị của di sản thông qua việc xuất bản và cung
cấp cho cộng đồng những sản phẩm văn hóa, Quan họ Bắc Ninh dưới mọi hình thức: đĩa
CD, VCD, DVD, sách, tờ gấp,…
- Tạo mọi điều kiện để cộng đồng trình diễn/giao lưu dân ca quan họ Bắc Ninh với các cộng
đồng khác trong nước và ngoài nước.
Bên cạnh đó, người dân địa phương không chỉ riêng hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang mà cả nước và
kiều bào sống và làm việc tai nước ngoài cũng có ý thức bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh

Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 24

tộc – dân ca quan họ. Từ các câu lâc bộ quan họ lớn nhỏ trên khắp cả nước, các diễn đàn, website
chuyên về quan họ, các buổi biểu diễn quan họ do kiều bào tổ chức tại nước ngoài,…Từ đó có thể
thấy người dân đã ý thức được trách nhiệm của bản thân cần phải gìn giữ, quảng bá, phổ biến
nghệ thuật văn hoá truyền thống quý báu, độc đáo của quê hương mình. Vai trò của người dân,
đặc biệt là những nghệ nhân làm nhiệm vụ “đưa quan họ lên sân khấu” là vô cùng quan trọng.
Theo TS. Trần Đình Luyện:” Biểu diễn và giới thiệu là một trong những nhiệm vụ quan trọng
của việc bảo tồn quan họ. Nhiệm vụ này đã được Dân ca Quan họ thực hiện dựa trên nền tảng là
quan họ gốc, từ đó phát triển, cải biên và đây là một thành tựu đáng ghi nhận”; “Những nguời
tham gia trực tiếp bảo tồn Quan họ phải là nhân dân – những người đã sáng tạp ra di sản văn
hóa đặc sắc này. Nếu người dân không nhận thức được những giá trị của di sản văn hóa Quan
họ, không tham gia vào việc bảo tồn thì mọi chủ trương, chính sách của người lãnh đạo chỉ còn
là lí thuyêt”.
Ngoài ra, ngành du lịch tỉnh cũng đã có những động thái tích cực trong vấn đề bảo tồn Quan họ.
Đưa Quan họ thành sản phẩm du lịch đặc thù là những bước đi để giữ gìn và phát huy giá trị di
sản quan họ của Bắc Ninh. Trong thời gian qua, du lịch Bắc Ninh đã bước đầu khai thác lợi thế
tiềm năng để phát triển du lịch, lượng khách đến tỉnh hàng năm có tốc độ tăng từ 17-20%, doanh
thu du lịch cũng tăng 17-18% /năm. Sau khi UNESCO công nhận dân ca quan họ là di sản văn
hóa phi vật thể của nhân loại, ngành Văn Hóa, Thể Thao và Du Lịch Bắc Ninh cũng xác định

phương hướng làm sao gắn phát triển du lịch với các hoạt động biểu diễn dân ca Quan họ. Cụ thể,
Bắc Ninh có 44 làng quan họ cổ có thể phát triển thành những điểm du lịch thu hút khách, không
những khách trong nước, quốc tế; kết hợp với các công ty lữ hành trên địa bàn xây dựng những
tour du lịch nội tỉnh. Ví dụ khách đến thì đi thăm quan các di tích lịch sử kết hợp đến các làng
quan họ cổ để phục vụ du khách trong nước và quốc tế. Có thể đề xuất với tỉnh có những chỉ đạo,
đầu tư, hỗ trợ với các làng quan họ:
- Một là về cơ sở vật chất ( hỗ trợ về trang phục, kinh phí để các câu lạc bộ ở các làng quan họ cổ
có thể duy trì), hoặc kinh phí về xây dựng cơ sở hạ tầng như xây dựng đường vào các làng quan
họ cổ, các công trình vệ sinh hoặc một số công trình hạ tầng khác để bộ mặt của các làng quan họ
cổ khang trang, sạch sẽ hơn.
Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh

Văn hóa du lch – GVHD Th.s Phm Th Thúy Nguyt Page 25

- Hai là nâng cấp Đoàn dân ca Quan họ hiện nay thành Nhà hát Quan họ để xứng tầm với công
tác biểu diễn, truyền dạy cho đủ tầm và phát huy được giá trị. Nếu ngành văn hoá và du lịch tỉnh
có thể khai thác lợi thế sẵn có này thì dân ca quan họ sẽ trở thành một sản phẩm du lịch đặc thù
của Bắc Ninh mà các tỉnh khác muốn có cũng không được.
Tóm lại, vấn đề giữ gìn sinh hoạt văn hoá quan họ phải được đặt trong không gian văn hoá quan
họ truyền thống, nhưng cũng phải nghĩ đến đặc điểm của xã hội đương đại, không gian văn hoá
đó đang trong quá trình vận động, biến đổi, phát triển. Vì thế không thể bảo tồn quan họ theo kiểu
“đóng cứng”, mà phải bảo tồn sinh hoạt văn hoá đó trong sự vận động của xã hội.
Bên cạnh đó nhóm chúng tôi cũng đưa ra một số giải pháp để bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
đặc sắc này như sau:
- Các công ty lữ hành, đơn vị tổ chức không nên chỉ tạo tour đưa khách đến nghe hát quan họ mà
nên kết hợp tour đến những di tích lịch sử, những điểm tham quan khác ở các vùng lân cận để dễ
dàng thu hút khách du lịch.
- Nhà nước nên có những chính sách hậu đãi cho người dân địa phương ở đây để họ nhiệt tình
chào đón khách du lịch.
- Nhà nước trích một ít ngân sách cho Đài truyền hình để quảng cáo những ca khúc, bài hát quan

họ trên tivi cho mọi người cùng biết đến.
- Khách du lịch đến nghe quan họ nên được phát các tờ rơi hay cuốn sách nhỏ có in lời bài hát
quan họ.
- Hướng dẫn viên và dân địa phương phải phối hợp với nhau chỉ cho khách du lịch hát một vài bài
hát quan họ.
- Tổ chức các trò chơi để khách du lịch hiểu thêm về quan họ: cho họ mặc thử trang phục hát
quan họ, trò chơi thi hát giữa những du khách tham gia tour và phần thưởng có thể là đĩa CD có
các bài hát quan họ.

×