Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Nghiên cứu sán lá ruột lợn trên địa bàn huyện hương trà, tỉnh thừa thiên huế và kết quả thử nghiệm một số thuốc tẩy trừ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.57 KB, 53 trang )

Phần 1: ĐẶT VẤN ĐỀ

Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất cơ bản giữ vai trò to lớn
trong việc phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển. Nước ta là một nước
nông nghiệp, sản phẩm nông nghiệp chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế
quốc dân thực sự là mặt trận hàng đầu mà Đảng và Nhà nước ta luôn coi
trọng, trong đó có ngành chăn nuôi.
Chăn nuôi lợn trở thành truyền thống có từ rất lâu đời với các hình thức
từ tận dụng đến qui mô lớn đã góp phần xóa đói giảm nghèo và làm giàu cho
nhiều người, con lợn thực sự trở thành người bạn thân thiết của nhân dân ta…
Tuy nhiên việc chăn nuôi lợn không phải lúc nào cũng thuận lợi, dịch bệnh
hoành hành làm ảnh hưởng đến tốc độ phát triển đàn và cả chất lượng thịt đã
gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi.
Bệnh sán lá ruột lợn (Fasciolopsis buski) phổ biến ở những nước nhiệt
đới thuộc vùng châu Á: Ấn Độ, Thái Lan, Lào, Indonesia Ở nước ta điều
kiện khí hậu khá thuận lợi cho bệnh sán lá ruột lợn phát triển và lây lan làm
cho lợn sinh trưởng chậm, trung bình một sán lá làm giảm 1,86 g - 2,57g thịt
trong một ngày (Phạm Văn Khuê, Phan Lục, Ký Sinh Trùng Thú y, NXB
Nông Nghiệp Hà Nội 1996). Lợn nái nhiễm bệnh thường gầy còm, thiếu sữa
làm lợn con dễ mắc bệnh ỉa phân trắng, ỉa chảy, còi cọc, chậm lớn và tỷ lệ
chết cao khi cai sữa. Bệnh sán lá ruột lợn mở cửa cho các bệnh truyền nhiễm
phát sinh. Sự có mặt của sán trưởng thành làm giảm hiệu quả sử dụng thức ăn,
một phần thức ăn mà lợn hấp thụ được phải chia cho chúng, người chăn nuôi
phải tốn thêm một khoản chi phí thức ăn, chi phí cho điều trị bệnh. Tuy nhiên
việc điều trị cho lợn bệnh cũng gặp nhiều khó khăn khi thuốc tẩy sán có hiệu
quả là Dipterex đã bị cấm sử dụng từ tháng 5 năm 2002, các loại thuốc thông
thường không có tác dụng với sán lá ruột lợn.
Những tác hại trên của bệnh sán lá ruột lợn (Fasciolopsis) đã gây thiệt
hại không nhỏ cho ngành chăn nuôi nước ta, năng suất chăn nuôi thấp, hiệu
quả kinh tế mang lại không cao. Nguy hiểm hơn bệnh còn lây sang người làm
ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Thừa Thiên Huế là nơi có hệ thống sông,


suối, ao, hồ, mương máng, ruộng nước thấp tương đối nhiều, điều kiện khí
1
hậu ẩm ướt, lụt lội thường xuyên cùng với thói quen dùng thực vật thuỷ sinh
và rau sống cho lợn ăn vẫn còn phổ biến ở nhiều nông hộ làm nguy cơ mắc
bệnh sán lá ruột lợn tương đối cao.
Xuất phát từ tình hình thực tế, để nắm được một cách chính xác hơn tình
hình nhiễm bệnh sán lá ruột lợn và nhằm tìm ra loại thuốc có tác dụng hiệu
quả để khuyến cáo cho người dân sử dụng, được sự đồng ý của Khoa Chăn
Nuôi - Thú Y, cô giáo hướng dẫn Lê Thị Vân Hà chúng tôi tiến hành đề tài:
“Nghiên cứu sán lá ruột lợn trên địa bàn huyện Hương Trà, tỉnh Thừa
Thiên Huế và kết quả thử nghiệm một số thuốc tẩy trừ” từ đó làm cơ sở cho
việc phòng trừ bệnh sán lá ruột lợn một cách có hiệu quả hầu góp phần nhỏ
phục vụ tốt hơn cho ngành chăn nuôi lợn và bảo vệ sức khoẻ con người.
2
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Tình hình nghiên cứu bệnh sán lá ruột trên thế giới và ở Việt Nam
2.1.1. Tình hình nghiên cứu bệnh sán lá ruột trên thế giới
Bệnh sán lá ruột lợn, do Fasciolopsis buski (Lankaster, 1857) Odhner,
1802, gây ra là một bệnh chung cho người và lợn. Loại sán này được phát
hiện đầu tiên vào năm 1843 do Busk tìm thấy ở tá tràng tử thi một người hải
quân Ấn Độ, tại bệnh viện hàng hải ở Luân Đôn. Sau đó vào năm 1857,
Lankaster đã mô tả về hình thái của sán này. Hai năm sau, Cobbold bổ sung
thêm về hình thái. Năm 1899, Loss xác định vị trí của nó về mặt phân loại.
Trường phái Nhật Bản tìm ra chu kì phát dục của Fasciolopsis buski từ năm
1920-1921 [26].
Về vòng đời của sán, đầu tiên do Nakagawa (1921) và Barlow (1925)
nghiên cứu thành công gây nhiễm cho lợn và người ở Trung Quốc [26].
Sán lá ruột là một loài sán phổ biến nhất ở vùng viễn đông (châu Á),
ngoài Đông Dương còn thấy ở Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia,
Malaisia, Philippin, Đài Loan, Srilanca… [29], [13], [14]. Ở Trung Quốc

người ta thấy rằng tỷ lệ nhiễm sán lá ruột ở người tỷ lệ thuận với tỷ lệ nhiễm
của lợn. Ở Quảng Châu điều tra thấy tỷ lệ nhiễm ở người là 10 – 15 %, và lợn
nhiễm 26% (Trần Tâm Đào, 1953). Ở Tân Hội người bị nhiễm 82 – 83 % và
lợn nhiễm 32 – 43 % (Quan Tắc Đạt, 1938). Ngô Quang (1938) cho biết ở
Triết Giang người mắc 36 %, lợn mắc 14 % [13], [26], [14], [9]. Có vùng có
đến 65 % người mắc bệnh sán lá ruột, trẻ em mắc nhiều hơn người lớn và phụ
nữ mắc nhiều hơn nam giới [29]. Theo Wiwannikit và cộng sự (2002), tại
Thái Lan bệnh sán lá ruột chiếm đến 10 % số ca nhiễm ký sinh trùng đường
ruột [6].
Ngô Quang (1937) cho biết Fasciolopsis buski có thể sinh trưởng ở trong
cơ thể chó, thỏ, hổ và trâu tới thời kỳ sắp đẻ trứng, ngược lại sán này hoàn
toàn không thể sinh trưởng được ở trong cơ thể của mèo, dê, cừu, bò, chuột
lang, chuột bạch [26].
Nghiên cứu về các loài ốc làm ký chủ trung gian, Trần Tâm Đào (1956)
cho biết các loài ốc đĩa cảm nhiễm ấu sán khá cao, kiểm tra 5.514 ốc H.
3
umbilicalis tỷ lệ nhiễm ấu sán tới 1,45 %; trong 105 ốc Segmentina
hemisphaerula tỷ lệ nhiễm tới 2,68 %. Theo Wanllace (1936) kiểm tra 504 ốc
S. calathus tỷ lệ nhiễm ấu sán 0,66 %. Trần Vạn Lý báo cáo, ở Triết Giang tỷ
lệ nhiễm ấu sán của Planorbis là 1,6 - 4,6 % [26].
Loài Echinostoma malayanum tìm thấy ở người sống gần Batang gần
đường biên giới Sino - Tibetan (Bare, 1930). Đối với loài Gastrodiscoides
hominnis được phát hiện ở người India và lợn. Sharma (1930) cho biết tỷ lệ
nhiễm của những người lính Hindu là 3,2 %. Brau và Bruyant đã báo cáo một
trường hợp ở người Cochin (Trung Quốc). Mathis và Leger cũng đã tìm thấy
loài sán này ký sinh ở lợn với tỷ lệ 5 % [9].
2.2.2. Tình hình nghiên cứu bệnh sán lá ruột ở Việt Nam
Ở Việt Nam, bệnh sán lá ruột lợn đã có từ lâu đời, nhưng mãi đến năm
1911, Mathis, Leger, và Brauche mới mô tả loài sán này khi thu thập mẫu vật
từ ruột lợn và một số người bệnh ở Bắc Bộ, điều tra ở lợn thấy tỷ lệ nhiễm là

6 %. Hewdemen và Trần Thọ Huy (1925) cho biết 73 % lợn nhiễm sán. Đặng
Văn Ngữ và Galliard (1941) thấy lợn nhiễm 6 – 12 % vào tháng 3 và 47 %
vào tháng 12. Ở Huế, Railiet và Henry cho biết 16 % lợn nhiễm sán lá ruột.
Cũng theo các tác giả ấy, Fasciolopsis buski là một ký sinh trùng phổ biến ở
Bắc Bộ nhưng hiếm thấy ở người. Đặng Văn Ngữ và Galliard (1941) đã thấy
5 người bị nhiễm sán lá ruột lợn trong 5 năm [13], [14], [26], [29].
Bùi Lập và cộng sự (1989) nghiên cứu về giun sán lợn miền Trung và
biện pháp phòng trừ cho biết tỷ lệ nhiễm Fasciolopsis buski ở lợn miền Trung
rất thấp chỉ chiếm 2,53 % cường độ nhiễm từ 1 - 312 sán lá/cá thể, được phân
bố đồng đều giữa các vùng. Ở miền núi tỷ lệ nhiễm 1,1 %, cường độ nhiễm 2
sán lá/lợn, vùng đồng bằng ven biển tỷ lệ nhiễm 1 %, cường độ nhiễm 1 - 2
sán lá/lợn.
Lương Văn Huấn, Lê Hữu Khương (1990) đã mổ khám 787 lợn ở 4 lứa
tuổi khác nhau ở các tỉnh phía Nam thấy tỷ lệ nhiễm là 3,4 %. Những kết quả
điều tra của nhiều tác giả đã xác định bệnh sán lá ruột lợn phân bố rộng khắp
ở các tỉnh thuộc miền núi, vùng trung du, vùng đồng bằng và vùng ven biển
từ Bắc đến Nam nước ta (Bùi Lập, 1977; Nguyễn Đăng Khải, 1977; Phạm
Văn Khuê, 1982; Lương Văn Huấn, 1994…) [13].
4
Khi nghiên cứu giun sán ký sinh ở lợn tại một số tỉnh đồng bằng sông
Cửu Long, Nguyễn Hữu Hưng (2002) thấy tại tỉnh Đồng Tháp tình hình
nhiễm Fasciolopsis buski ở thị xã Cao Lãnh 11 %; Sa Đéc 1,25 %; huyện
Hồng Ngự 10,5 %; huyện Tân Hồng 3,6 %. Tại tỉnh Hậu Giang, tình hình
nhiễm Fasciolopsis buski ở huyện Châu Thành 10,34 %; huyện Thốt Nốt 0 %;
huyện Vị Than 7,5 %; huyện Phụng Hiệp 5,5 %; thành phố Cần Thơ 1,06 %,
huyện Thạch Trị 0 %. Tại tỉnh Kiên Giang và An Giang nhiễm Fasciolopsis
buski ở huyện Gò Quao 14,6 %; huyện Giồng Riềng 31,64 %; Rạch Giá
17,72%; thị xã Long Xuyên 6,25%; huyện Phú Tân 8,82 %; huyện Tri Tôn
3,13 % [10].
Về cường độ nhiễm Fasciolopsis buski ở nước ta, khoảng từ 1 - 283 sán

trong một cơ thể lợn. Có trường hợp thấy 1.746 sán ký sinh trong một lợn nái
600 kg ở nông trường Thống Nhất (Phạm Văn Khuê, 1925) [26]. Theo Đặng
Văn Ngữ (1941), sán lấy ở nhiều lợn khác nhau thì kích thước khác nhau, trái
lại ở cùng một lợn thì hầu như sán trưởng thành có cùng một kích thước, sán
ký sinh ở lợn Việt Nam to hơn sán ký sinh ở lợn Trung Quốc [11], [22], [26].
Nguyễn Hoàng Yến (1971) đã thực nghiệm chu kỳ sán lá ruột với những
điều kiện vật chủ trung gian và khí hậu ở Việt Nam thấy sự phát triển của chu
kỳ sán lá ruột ở Việt Nam thực hiện nhanh hơn so với những tài liệu nước
ngoài [25].
Đặng Văn Ngữ, Đỗ Dương Thái, Đỗ Trần Thận đã thấy các loại kháng
nguyên của sán Fasciolopsis buski, Fasciola hepatica, Paragonimus ringeri
đều cho những phản ứng chéo và do đó có thể kết luận sán lá ruột có những
kháng nguyên chung với các sán lá ký sinh khác. Miễn dịch của sán lá ruột
cũng được Vũ Thị Tuyết, Võ An Chấn nghiên cứu. Thí nghiệm trên một số
nhỏ lợn cho thấy những lợn được bảo vệ bằng vacxin có hiện tượng giảm sán
rõ rệt so với lợn đối chứng (Võ An Chấn, 1971) [25].
Theo Nguyễn Văn Thọ, Phan Lục (1999) khi nghiên cứu ấu trùng
Cercariae ở ốc quanh khu vực chăn nuôi gia đình tại các địa điểm thuộc Gia
Lâm và Đông Anh (ngoại thành Hà Nội), kiểm tra 41.365 ốc thấy tỷ lệ nhiễm
Cercariae của sán lá là 13,8 % trong đó phát hiện được 2 loài ốc Polypilis
5
hemispherula và Gyraulus sinensis nhiễm Cercariae của sán lá ruột lợn 5,6 %
[31].
Sán lá ruột Fascilopsis buski chủ yếu ký sinh trên lợn đã xác định ký
sinh trên người ở một số tỉnh tại Việt Nam, trong đó có Ninh Bình và Nghệ
An. Năm 2004, Nguyễn Văn Đề, Lê Thanh Hòa đã tiến hành giải trình tự và
phân tích chuỗi gen 18S ARN Ribosome của sán lá ruột lợn trưởng thành trên
người thu thập tại hai tỉnh này. Cả 2 mẫu sán đều được xác định bằng hình
thái học là Fasciolopsis buski [3].
Đối với loài Gastrodiscoides hominnis, những tài liệu cũ cho biết đã thấy

ở lợn Trung Bộ, Nam Bộ (5 %); cũng thấy ở ruột già người Nam Bộ (Brau và
Bruyant, 1911). Năm 1978, Lê Văn Hòa và Lê Thị Mỹ San đã tìm thấy loài
này ký sinh ở lợn nhưng với tỷ lệ nhiễm thấp [9], [26].
Đối với Echinostoma malayanum ở Nam Bộ nhiễm 5,8 % nhưng lại ít
gặp ở các tỉnh phía Bắc. Theo Phạm Chức (1986) cho biết lợn Hậu Giang
nhiễm Echinostoma sp 9,3 %. Theo Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1978) cho
biết lợn 6 tỉnh đồng bằng miền Tây và miền Đông Nam Bộ nhiễm
Artyfechinostomum sufrartyfex với tỷ lệ 7,01 % [9].
2.2. Vị trí của sán lá ruột lợn trong hệ thống phân loại
Sán lá ruột lợn (Fasciolopsis buski) thuộc:
Ngành sán dẹt Plathelminthes
Lớp sán lá Trematoda
Phân lớp Prosostomidea
Bộ Fasciola
Phân bộ Fasciolata
Họ Fasciolidae
Phân họ Fasciolopsinae Odher, 1910
Giống Fasciolopsis Loss, 1899
Loài Fasciolopsis buski (Lankaster, 1857) [18], [38].
2.3. Hình thái và chu trình phát triển của Fasciolopsis buski,
Echinostoma malayanum, Gastrodiscoides hominis
2.3.1. Fasciolopsis buski
2.3.1.1. Hình thái
6
Fasciolopsis buski có hình lá, màu đỏ hồng, phình rộng về phía sau, thon
nhỏ về phía đầu. Sán dài 20 – 70 mm, dày 0,5 – 3 mm. Trên thân có phủ
những gai nhỏ, có hai giác bám gần nhau ở phía trước cơ thể. Giác bám bụng
lớn hơn giác bám miệng, thực quản ngắn, hầu nhỏ, manh tràng phân thành hai
nhánh ngoằn ngoèo ở hai bên và kéo dài tới cuối thân [11]. Hai tinh hoàn
phân nhánh hình cành cây, xếp trên dưới nhau. Buồng trứng phân nhánh nằm

phía trước tinh hoàn, xếp lệch về bên trái. Tử cung uốn khúc nằm từ buồng
trứng đến giác miệng. Tuyến noãn hoàng hình hạt xếp ở hai bên thân sán [4].
Trứng màu vàng, vỏ mỏng, phình rộng ở giữa, thon dần về phía hai đầu,
ở đầu nhỏ hơn có nắp trứng, kích thước của trứng dài 0,125 – 1,47 mm x
0,063 – 0,084 mm. Phân bào phân bố đều, xếp kín trứng. Ranh giới giữa các
phôi bào không rõ ràng [4].
2.3.1.2. Chu trình phát triển
Fasciolopsis buski phát triển gián tiếp có sự tham gia của vật chủ trung
gian là những ốc nước ngọt Planorbis schemacheri, Gyraulus sinensis, G.
saigonensis, Segmentina calathus, Polypilis hemisphaerula [4]. Sán trưởng
thành ký sinh ở ruột non lợn, trung bình mỗi ngày đẻ 15.000 - 48.000 trứng.
Trứng theo phân ra ngoài gặp điều kiện thích hợp (nước, nhiệt độ 27 – 32
0
C,
pH 6 - 7, ánh sáng) nở thành mao ấu (Miracidium) chui ra khỏi trứng [9].
Phạm Văn Khuê (1971) đã thí nghiệm nuôi trứng sán ở nước muối 0,5%,
nhiệt độ tủ ấm (28 - 32
0
C) và trong phòng nhiệt độ khoảng 30 - 34
0
C thì thấy
thời gian trứng nở lần lượt là 13 - 14 ngày và 15 - 18 ngày.
Mao ấu vừa mới nở phải chui vào trong cơ thể của ốc vật chủ trung gian
thích hợp thì mới tiếp tục phát triển được, sau khi nở 1 - 2 giờ khả năng chui
vào trong cơ thể ốc mạnh nhất và có thể sống trong nước 6 - 8 giờ. Mao ấu
sau khi chui vào ốc thì tới hạch lâm ba biến thành bào ấu (Sporocyst). Sau 9 -
10 ngày hình thành Rediae ở trong gan, tụy của ốc và sau đó hình thành nhiều
Cercariae chui ra khỏi ốc. Sau 1 - 3 giờ bơi tự do trong nước, Cercariae rụng
đuôi tiết chất nhờn tạo kén Aldolescariae. bám vào cây cỏ thủy sinh [11],
[26]. Khi lợn, người nuốt phải Aldolescariae còn sống vào ruột non vỏ bọc

ngoài bị phân hủy dưới tác dụng của men tiêu hóa, ấu trùng được giải phóng
và phát triển thành dạng trưởng thành, sau 3 tháng lại tiếp tục đẻ trứng và có
7
thể sống ở lợn đến 2 năm (Dương Thuật Tổ, 1936), ở người 4 - 4,5 năm (Thái
Quang Đình, 1964) [9], [11], [26]. Theo Ross, sán có thể sống tới 30 năm
[26].
2.3.1.3. Đặc điểm ấu trùng
Mao ấu (Miracidium) hình quả lê, dài 0,123 mm, rộng 0,049 mm, bên
ngoài bao phủ bởi một lớp tiêm mao, cơ quan thị giác ở dạng vết mắt, hệ tiêu
hóa đơn giản, mô thần kinh, hai tế bào ngọn lửa và rất nhiều tế bào phôi. Khi
mao ấu vừa mới nở, nhờ có lông nên chuyển động trong nước rất mạnh.
Bào ấu (Sporocyst) có dạng hình túi, kích thước 0,131 x 0,083 mm. Ở
thời kì cuối bào ấu to độ 0,308 x 0,108 mm, rộng 0,100 - 0,200 mm.
Lôi ấu (Rediae) Rediae mẹ có túi miệng, hầu và ruột hình túi dài và
rộng, có lỗ sinh sản và một đôi cơ quan phụ, dài 0,600 - 0,800 mm, rộng
0,100 - 0,200 mm, trong đó có khoảng 22 khối phôi bào và một số Rediae con
đang phát triển ở các giai đoạn khác nhau. Rediae con dài 0,736 - 0,896mm,
rộng 0,159 - 0,165mm, trong cơ thể có 1 - 45 vĩ ấu (Cercariae) đã thành thục.
Vĩ ấu (Cercariae) dài 0,693 mm, cơ thể chia hai phần thân và đuôi, thân
dài 0,195 mm, rộng 0,145 mm. Phần trước của thân và mặt bụng có gai nhỏ
và có hai giác bám. Giác miệng to hơn hầu và giác bụng. Đường tiêu hóa có
miệng, hầu, thực quản và ruột. Vĩ ấu sau khi chui ra khỏi ốc thì chuyển động
rất mạnh trong nước, rụng đuôi và tiết chất nhờn bọc thành kén Aldolescariae.
Kén (Aldolescariae) có kích thước 0,216 x 0,187 mm, hình tròn dẹp, có
giác miệng, giác bụng, hầu, thực quản, ruột, đặc biệt có ống bài tiết, trong ống
có nhiều hạt lấm tấm phân bố không đều ở hai bên, đó là một đặc điểm quan
trọng giúp cho việc xác định loại Aldolescariae của sán lá ruột, ngoài ra còn
có túi bài tiết. Aldolescariae có lớp màng ngoài dễ vỡ, lớp màng trong chắc
chắn, rất bền, dịch vị không thể tiêu hóa được, chỉ khi tới ruột non, do tác
dụng của dịch ruột và dịch mật mới phân giải được màng trong. Một đặc điểm

khá kì lạ là những ấu trùng bọc kén này hình như chọn một số cây để bám. Ở
nước ta người ta đã xác định được những loài cây chính mà ấu trùng sán
thường bám như cây củ ấu (cả lá và củ), bèo hoa dâu, rau lấp, rau muống, bèo
cái, cây niễng, cây súng… Barlow (1925) đã đếm được trên một củ ấu có tới
200 nang kén [26], [28].
8
CHU TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA FASCIOLOPSIS BUSKI
1. Trứng 5. Cercariae ở môi trường
2. Trứng trong môi trường nước 6. Aldolescariae (nang ấu)
3. Miracidium (mao ấu) 7,8. Sán trưởng thành trong lợn và người
4. Ốc vật chủ trung gian
4a Sporocysts (bào ấu)
4b Rediae (lôi ấu)
4c Cercariae (vĩ ấu)
9
2.3.2. Echinostoma malayanum
2.3.2.1. Hình thái
Echinostoma malayanum Leiper, 1911 đồng nghĩa với Euparyphium
malayanum (Leiper, 1911), Artyfechinostomum sufrartyfex (Lane, 1915;
Bhalerao, 1931). Sán dài 12mm, rộng 3mm, giác miệng nhỏ hơn giác bụng có
hình vành khăn. Trên vành khăn miệng có 42 - 43 gai xếp thành hai hàng.
Toàn thân phủ đầy gai. Túi sinh dục dài nằm trước giác bụng. Buồng trứng
hình hạt đậu nằm ở giữa thân. Hai tinh hoàn phân thùy xếp trên dưới nhau,
mỗi tinh hoàn chia 4 - 6 thùy. Tuyến noãn hoàng dày đặc hai bên thân.
Trứng gần giống với trứng của F.buski nhưng tròn hơn [4], [9].
2.3.2.2. Chu trình phát triển
Chu trình phát triển của Echinostoma malayanum thông qua vật chủ
trung gian thứ nhất là ốc Limnea luteola, vật chủ trung gian thứ hai là ốc
Limnea luteola, Indoplanorbis exustus, cá Barbus stigma. Trứng ra ngoài sẽ
phát triển thành Miracidium xâm nhập vào ốc Limnea, Indoplanorbis, cá

Barbus, và ốc bươu Fila sau ba tháng. Khi lợn ăn phải vật chủ trung gian thứ
hai sau 3 - 4 tuần sẽ trưởng thành ở ruột non [4], [9].
2.3.3. Gastrodiscoides hominis
2.3.3.1. Hình thái
Gastrodiscoides hominis thuộc họ Paramphistomatidae. Sán có hình lê
hay trái tim, phía đầu thon nhỏ, phía sau phình rộng, màu đỏ, dài 6 – 8 mm,
rộng 3 – 4 mm, dày 2 mm. Giác miệng nhỏ nằm ở đỉnh đầu, giác bụng rất lớn
nằm ở phần sau cơ thể. Hai tinh hoàn hình khối hay hình đĩa nằm ở giữa thân.
Tuyến noãn hoàng phân bố ở phía sau thân.
Trứng hình bầu dục, một đầu có nắp dài 0,150 mm, rộng 0,072 mm [4],
[9].
2.3.3.2. Chu trình phát triển
Chưa được nghiên cứu đầy đủ. Loss (1948) cho rằng cũng như loài
Gastrodiscoides aegyptiacus phát triển ở vật chủ trung gian là những động vật
chân bụng Cleopatra bulimoides và C. cyclostomoides và ốc Helicorbis
coenosus. Cercariae hình thành ở môi trường nước sau vài giờ thành
10
Aldolescariae. Khi người và lợn ăn phải kén Aldolescariae sẽ phát triển thành
sán trưởng thành [9].
2.4. Dịch tễ học
2.4.1. Nơi phát hiện
Việt Nam: Nam Bộ, Sài Gòn (1908, 1910, 1913), Nha Trang, Thừa
Thiên Huế, Hà Nội (1908, 1911, 1925, 1941, 1963, 1966), Hải Phòng (1911),
Sơn La (1960), Hà Bắc, Vĩnh Phú, Thái Bình, Ninh Bình, Hải Dương, Nam
Định, Thanh Hóa, Nghệ An, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Hưng Yên, Hà Tĩnh.
Thế giới: Đông Dương, Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan, Mianma,
Malaysia [18], [38].
2.4.2. Đặc điểm sinh học
Fasciolopsis buski phát triển qua vật chủ trung gian là ốc nước ngọt
Planorbis schemacheri, Gyraulus sinensis, G. saigonensis, Segmentina

calathus, Polypilis hemisphaerula [4].
Vật môi giới là các thực vật thủy sinh như cây củ ấu, bèo Nhật Bản, bèo
tấm, bèo cái, bèo hoa dâu, bèo tai chuột, rau dừa nước, rau lấp, rau muống,
cây niễng, cây súng… [18], [38].
Echinostoma malayanum Rao (1933) cho rằng vật chủ trung gian thứ
nhất là ốc Limneae luteola, vật chủ trung gian thứ hai là Limnae luteola,
Indoplanorbis exustus và cá Barbus stigma, ốc bươu Fila [4], [9].
Gastrodiscoides hominnis: Loss (1948) cho rằng vật chủ trung gian là
những động vật chân bụng Cleopatra bulimoides và C. cyclostomoides và ốc
Helicorbis coenosus [9].
2.4.3. Động vật cảm nhiễm
Các loài thú có vú cảm nhiễm sán lá ruột lợn là lợn nhà, lợn rừng (bộ có
guốc móng chẵn), chó, hổ, thỏ, và trâu (Barlow, 1920; Ngô Quang, 1937-
1949; Tiền Trào, 1940; Trần Việt Thường, 1945…). Người sống ở các nước
nhiệt đới ẩm Đông Nam Á cũng thường bị nhiễm sán lá ruột Fasciolopsis
buski (Lý Như Thức, 1965; Pedro Acha, 1989; Đỗ Dương Thái, 1978…) [13],
[26], [18], [38], [14], [15].
11
2.4.4. Vùng nhiễm bệnh
Bệnh phân bố nhiều ở các nước Châu Á như Việt Nam, Lào, Thái Lan,
Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia…
Ở Việt Nam, qua mổ khám 1.156 lợn ở các vùng có điều kiện khí hậu địa
hình khác nhau, phương thức trồng cấy và tập quán chăn nuôi khác nhau ở 6
tỉnh (Nghĩa Lộ, Hải Hưng, Hà Bắc, Nam Hà, Quảng Ninh, Thanh Hóa) thấy
sự phân bố của sán lá ruột tăng dần từ miền núi qua trung du tới đồng bằng.
Vùng núi tỷ lệ nhiễm 14,4 %, vùng trung du nhiễm 41,1 %, vùng đồng bằng
nhiễm 50,7 % [26].
Cường độ nhiễm Fasciolopsis buski ở lợn nông trường miền trung du (1
- 313 con sán) và đồng bằng (1 - 270 con sán) cũng cao hơn miền núi (1 - 6
sán) [13], [26], [14].

Tỷ lệ nhiễm Fasciolopsis buski ở hai miền Nam - Bắc cũng có sự khác
nhau. Ở các tỉnh phía Bắc tỷ lệ nhiễm Fasciolopsis buski 23 - 50,4 % với
cường độ nhiễm từ 1 - 283 sán, có trường hợp thấy 1.746 sán ký sinh trong
ruột non lợn (Phạm Văn Khuê, 1925). Có những địa phương 100 % lợn bị
nhiễm sán lá ruột (trại Cộng Hòa - Vĩnh Phú, Nông trường Thống Nhất…)
[26], [11], [9], [30]. Ở miền Nam sự phân bố Fasciolopsis buski thấp. Qua mổ
khám 787 lợn ở 4 lứa tuổi, Lương Văn Huấn và Lê Hữu Khương (1990) cho
biết tỷ lệ nhiễm Fasciolopsis buski ở các tỉnh phía Nam là 3,4 % trong đó
Bình Trị Thiên (cũ) 46 %, Quảng Nam - Đà Nẵng 2,7%, Phú Khánh (cũ) 2,7
%, Sông Bé 2,1 % và có xu hướng tăng theo tuổi. Như vậy Fasciolopsis buski
phân bố nhiều ở các tỉnh phía Bắc và một số tỉnh miền Trung, các tỉnh miền
Tây tỷ lệ nhiễm rất thấp [9].
Trong khi đó các tỉnh Nam Bộ lợn nhiễm Echinostoma cao 5,8 % phân
bố ở Long An 33 %, Kiên Giang 25 %, thành phố Hồ Chí Minh 19,4 %,
Quảng Nam - Đà Nẵng 2,7 %, Phú Khánh 13,8 %, Đồng Nai 8 %, Sông Bé
3,2 %, Tây Ninh 0,8 %. Theo Phạm Chức (1986) lợn Hậu Giang nhiễm
Echinostoma .sp 9,3 %. Phạm Văn Khuê, Phan Văn Lục (1978) cho biết lợn
6 tỉnh đồng bằng miền Tây và Đông Nam Bộ nhiễm Artyfechinostomum
sufrartyfex với tỷ lệ 7,01 %. Echinostoma rất ít gặp ở lợn các tỉnh phía Bắc.
Đây là đặc điểm phân bố riêng biệt của hai loài [9].
12
Đối với loài Gastrodiscoides hominnis, những người lính Hindu nhiễm
3,2 % (Sharma, 1930). Mathis và Leger cũng đã tìm thấy loài này ký sinh ở
lợn với tỷ lệ 5 % [9]. Ở Việt Nam đã thấy ở lợn Trung Bộ và Nam Bộ (5 %)
[9], [26].
2.4.5. Tuổi mắc bệnh
Tỷ lệ nhiễm sán lá ruột lợn theo qui luật tăng dần theo tuổi. Theo số liệu
điều tra của bộ môn Ký sinh trùng trường Đại Học Nông Nghiệp I Hà Nội cho
thấy lợn 3 - 12 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm tăng dần từ 74,19 - 95,72 % [4].
Tuổi càng cao tỷ lệ nhiễm F. buski càng tăng.

Dưới 2 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm 16,6 %.
Từ 3 - 4 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm 45,8 %.
Từ 5 - 7 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm 58,3 %.
Trên 8 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm 70,8 % [13], [14], [26].
Theo Lương Văn Huấn (1990) tỷ lệ nhiễm Echinostoma malayanum
cũng tăng dần theo lứa tuổi lợn
Dưới 3 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm 0,5 %.
Từ 3 - 4 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm 5 %.
Từ 5 - 7 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm 8,5 %.
Trên 8 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm 8,8 % [9].
Ngoài ra kết quả điều tra cũng xác nhận không có sự chênh lệch đáng kể
về tỷ lệ nhiễm sán lá ruột giữa các giống lợn (Phạm Văn Khuê, 1965) [13],
[14], [26].
2.4.6. Điều kiện lây truyền
Bệnh sán lá ruột lợn muốn phát ra phải có đầy đủ các yếu tố nguồn tàng
trữ và truyền mầm bệnh, vật chủ trung gian, có vật môi giới và tập quán ăn
rau sống của người và lợn, nếu thiếu một trong các yếu tố đó thì không thể tạo
thành nguồn dịch.
F. buski không những ký sinh ở lợn mà còn cả ở người. Lợn và người
nhiễm sán lá chính là nguồn tàng trữ và gieo rắc mầm bệnh. Ở Việt Nam tỷ lệ
nhiễm ở người thấp nhưng ở lợn lại cao. Theo Đỗ Dương Thái, tỷ lệ nhiễm
sán lá ruột ở người Việt Nam khoảng 0,08 %; ở lợn tỷ lệ nhiễm phụ thuộc vào
điều kiện sinh thái, có nơi bị nhiễm 100 % [9], [13], [14], [26].
13
Ở các vùng đồng trũng, trồng lúa nước thường có tỷ lệ nhiễm sán lá ruột
lợn rất cao vì có điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các loài ốc ký chủ
trung gian như Planorbis coenurus, Segmentina hemisphaerula, Gyraulus
sinensis… Ốc sẽ giúp cho ấu trùng sán lá ruột lợn phát triển trong cơ thể của
chúng đến giai đoạn Cercariae. Các vùng đồng trũng, nhiều ao hồ, mương
lạch cũng là điều kiện cho cây cỏ thủy sinh phát triển mạnh và rất đa dạng.

Các cây cỏ thủy sinh là vật môi giới của mầm bệnh. Lợn và người nhiễm sán
lá ruột là do ăn thực vật thủy sinh (có mang kén Aldolescariae) còn sống hoặc
chưa được nấu chín.
Kết quả nghiên cứu của khoa Chăn nuôi trường Đại Học Nông Nghiệp I
(1968 - 1969) cho thấy lợn ăn thức ăn rau xanh nấu chín tỷ lệ nhiễm sán từ
3,4 – 4 %; ăn rau sống và thức ăn tinh ủ tỷ lệ nhiễm sán từ 12,4 - 20,5 %. Kết
quả thí nghiệm khẳng định lợn ăn rau sống có tỷ lệ nhiễm sán cao hơn hẳn lợn
ăn rau xanh nấu chín (Phạm Văn Khuê, 1978) [13], [14], [26].
2.4.7. Mùa vụ phát bệnh
Mục đích nghiên cứu mùa vụ phát bệnh nhằm nắm được sự biến động
của tỷ lệ nhiễm F. buski ở các tháng trong năm tạo cơ sở khoa học cho việc
xây dựng lịch tẩy sán [26].
Trong điều kiện nóng ẩm ở các nước Đông Nam Á, trứng sán có thể phát
triển thành mao ấu quanh năm. Các loại ốc ký chủ cũng hoạt động gần như
suốt 12 tháng trong năm nhưng tập trung vào các tháng nóng của mùa hè và
mùa thu. Đó là hai yếu tố thuận lợi cho sán lá phát triển từ giai đoạn mao ấu
thành kén gây nhiễm [13], [14].
Do vậy kén sán có thể lây nhiễm cho lợn qua việc ăn rau cỏ xanh tươi
sống quanh năm. Những thí nghiệm điều tra về tỷ lệ nhiễm của lợn qua các
tháng trong năm tại trại chăn nuôi Quang Trung (Đại Học Nông Nghiệp I),
nông trường Toàn Thắng (Hà Nội) và nông trường Thống Nhất (Hải Hưng)
cho thấy trong một năm, cả bốn mùa đều tìm thấy trứng F. buski trong phân
lợn. Song tỷ lệ dương tính thấp nhất ở tháng 5 - 6 (26 – 29%) đến tháng 9 - 10
tỷ lệ nhiễm cao nhất (66 – 67 %). Sự biến động tỷ lệ nhiễm F. buski giữa các
mùa không có sự thay đổi rõ rệt, nghĩa là quanh năm lợn đều bị nhiễm sán từ
bên ngoài vào cơ thể [11], [13], [14], [26].
14
2.4.8. Sức đề kháng của trứng và kén trong điều kiện tự nhiên
Sức đề kháng của trứng F. buski không mạnh lắm, nếu đem phân ủ trong
18 ngày thì có thể diệt trứng (Barlow, 1925) [11], [13], [14], [26]. Theo kết

quả nghiên cứu của Phạm Văn Khuê, ở Việt Nam, ủ phân nhiệt độ từ 50 – 54
0
C thì diệt được trứng sán. Trứng sán bị chết trong khoảng vài giờ cho đến 2,
3 ngày khi tiếp xúc với vôi ở trong phân theo tỷ lệ 1/1000 đến 1/10.000 [13],
[14], [26]. Theo Nguyễn Thị Hoa Lý (2001) trứng F. buski trong nước thải có
thể đến giai đoạn gây nhiễm sau 6 - 28 ngày ở nhiệt độ và khí hậu nước ta và
tồn tại được 2 - 5 tháng [21].
Sức sống của kén Aldolescariae mạnh hay yếu tùy thuộc môi trường mà
chúng sinh sống, khi nhiệt độ ở nước 30 – 32
0
C thì chúng có thể sống được
trên 90 ngày, khi 24 – 28
0
C sống trên 60 ngày, khi 4 – 5
0
C kén tồn tại 25
ngày. Nếu lấy kén Aldolescariae từ cây cỏ ở nước cho lên giấy thấm ướt giữ
ở nhiệt độ 28 – 30
0
C kén chỉ có thể sống trên 10 ngày, nếu kén bám ở cây, cỏ
ở chỗ rất ít nước, có ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp thì chỉ khoảng 10 phút
kén mất sức sống [11], [13], [14], [26].
2.4.9. Vai trò của vật chủ trung gian trong bệnh sán lá ruột lợn
Quá trình phát triển của sán lá ruột lợn cần một ký chủ trung gian là ốc ở
nước và cây cỏ ở nước làm vật môi giới truyền bệnh. Sán trưởng thành
F.buski ký sinh ở ruột non của lợn hoặc người, đẻ trứng theo phân ra ngoài
gặp điều kiện thích hợp (nước, ánh sáng, nhiệt độ, pH,…) sẽ nở thành mao ấu
(Miracidium) chui vào ốc ký chủ trung gian rồi biến thành bào ấu (sporocyst),
rêđi mẹ (rediae I), rêđi con (rediae II) và vĩ ấu (cercariae). Vĩ ấu chui ra khỏi
ốc rụng đuôi bám trên cây cỏ thủy sinh thành nang ấu (Aldolescariae). Nếu

người và lợn ăn rau, cỏ còn sống có nang ấu sẽ bị nhiễm sán. Như vậy vật chủ
trung gian là mắt xích quan trọng trong vòng đời của sán lá ruột lợn. Trong ốc
vật chủ trung gian mầm bệnh tăng lên về số lượng và phát triển đến giai đoạn
có thể gây nhiễm.
Ở nước ta vật chủ trung gian phổ biến của F.buski là Polypilis
hemisphaerula và Gyraulus sinensis [11], [30], [31].
2.5. Triệu chứng, bệnh tích
2.5.1. Triệu chứng
15
Biểu hiện rõ nhất của lợn nhiễm sán là còi cọc, thiếu máu suy nhược cơ
thể, lông xù, chậm lớn do sán chiếm đoạt chất dinh dưỡng. Lợn nhiễm sán,
nhất là lợn con 3 - 4 tháng tuổi vẫn ăn khoẻ nhưng tăng trọng rất thấp. Sự
giảm tăng trọng phụ thuộc vào cường độ cảm nhiễm sán của lợn. Lợn nhiễm
nặng có triệu chứng nôn mửa, ỉa chảy, phân tanh, có thể dẫn đến tử vong nếu
không điều trị kịp thời. Độc tố của sán cũng gây ra hiện tượng rối loạn tiêu
hoá ở lợn con 3 - 4 tháng tuổi, khi ỉa táo, khi phân lỏng, làm cho lợn còi cọc
và chậm lớn [13], [14], [15], [16], ngoài ra còn làm cho con vật có triệu
chứng thần kinh [9].
Lợn nái nuôi con nhiễm sán lá không những gầy mà còn giảm lượng sữa,
ảnh hưởng đến sự phát triển của lợn con và tỷ lệ lợn con ỉa phân trắng cao
hơn ở các đàn lợn mà lợn nái không nhiễm sán [26].
2.5.2. Bệnh tích
Mổ khám lợn bệnh thấy thành ruột non chỗ sán ký sinh bị dày cộm lên
từng đám, làm cho ruột phình to ra từng đoạn, nhưng bên trong ống ruột lại
hẹp, niêm mạc ruột non bị loét và tụ máu thể hiện trạng thái viêm ruột cata, có
những chỗ ruột bị hoại tử do tác động bám vào ruột và di chuyển của sán lá
[13], [14], [15], [16], [28]. Trường hợp nhiễm sán quá nhiều, ruột có thể bị tắc
thậm chí vỡ ruột [9], [22], [24].
2.5.3. Tác hại do sán gây ra
Tác hại rõ nhất của sán lá ruột là làm lợn sinh trưởng chậm. Kết quả thí

nghiệm tại nông trường Đồng Giao (Ninh Bình) năm 1963 cho thấy trung
bình mỗi tháng một con sán trung bình làm giảm 65 g thịt [26], [28].
Phạm Văn Khuê theo dõi đàn lợn nái nuôi con nhiễm sán ở nông trường
Thống Nhất (Hải Hưng) thấy đa số lợn nái bị gầy còm, con bị thiếu sữa bú, tỷ
lệ lợn con bị mắc bệnh ỉa cứt trắng cao, sau khi cai sữa thường bị ỉa chảy, còi
cọc [26].
Những kết quả nghiên cứu khác đã chứng minh tác hại của sán về nhiều
mặt:
- Sán có giác bám to, khỏe để bám vào thành ruột vật chủ gây tổn thương
niêm mạc ruột.
16
- Sán có kích thước lớn khi ký sinh với số lượng nhiều thường gây tắc
ruột thậm chí vỡ ruột và làm lợn chết đột ngột.
- Độc tố của sán tiết ra làm lợn gầy còm, sút cân, thiếu máu, bạch cầu
tăng, sức đề kháng giảm.
- Sán chiếm đoạt chất dinh dưỡng để lớn lên mỗi ngày làm cho lợn chậm
lớn, khó vỗ béo.
- Nếu lợn nhỏ 10 – 15 kg mà nhiễm 15 sán, lợn lớn khoảng 50 kg mà
nhiễm trên 50 sán thì thấy lợn kém ăn, gầy yếu, chậm lớn, da và màng mắt
nhợt nhạt, thỉnh thoảng đi ỉa chảy.
- Khi mổ lợn thì thấy thành ruột non chỗ sán nằm bị dày lên, có khi lấm
chấm xuất huyết, có những chỗ ruột bị đen chứng tỏ các tế bào bị phá hoại
[11], [28], [33], [34].
2.6. Chẩn đoán
2.6.1. Dựa vào triệu chứng, đặc điểm dịch tễ học
Quan sát điều kiện ngoại cảnh, phương thức chăn nuôi lợn, tìm hiểu
xem nơi đó cho lợn ăn thức ăn sống hay chín; cách sử dụng phân lợn có ủ hay
là bón phân tươi; điều tra tình hình xử lý nước phân, nước cống rãnh, có trực
tiếp chảy ra ruộng thức ăn của lợn hay không. Ngoài ra cần xem xét cơ sở đó
thuộc miền núi, trung du hay đồng bằng, thuộc vùng chiêm trũng hay vùng

ven biển, thuộc vùng lúa hay màu… Qua điều tra một số vấn đề trên giúp
chúng ta biết được cơ sở đó có thể có hay không có sán lá ruột [26].
Cũng cần dựa vào triệu chứng của bệnh làm căn cứ để chẩn đoán, xác
định bệnh [26], [4], [9].
2.6.2. Kiểm tra phân
Có thể dùng phương pháp trực tiếp hoặc phương pháp lắng cặn
Benedek. Phương pháp trực tiếp hiệu quả chẩn đoán kém, khó phát hiện trứng
và trứng ít tập trung trong một vi trường, chỉ áp dụng đối với những con có
biểu hiện bệnh [26]. Chủ yếu là dùng phương pháp lắng cặn Benedek để tìm
trứng trong phân. Phương pháp này đã và đang được áp dụng rộng rãi để chẩn
đoán bệnh sán lá ruột, đơn giản và dễ thực hiện [13], [14].
17
Trong khi chẩn đoán tìm trứng, cần phân biệt giữa trứng Fasciolopsis
buski với trứng Fasciola và trứng Gastrodiscus, đều có thể thấy ở phân lợn.
Nhưng hai giống sán sau rất ít gặp ở lợn Việt Nam [26].
2.6.3. Chẩn đoán bằng kháng nguyên tiêm nội bì
Có thể chế kháng nguyên từ sán F. buski trưởng thành, pha thành nồng
độ 1/250 tiêm nội bì (chỗ da mỏng) của con vật cần chẩn đoán. Sau 10 - 20
phút, nơi tiêm có phản ứng sưng đỏ lan rộng là dương tính, ngược lại là âm
tính.
Phương pháp này cho kết quả tốt, có thể chẩn đoán khi sán còn non chưa
kịp đẻ trứng theo phân ra ngoài, nhưng cũng có khi có phản ứng giả và khó áp
dụng trong thực tiễn sản xuất [13], [14], [26], [33].
Ngoài ra có thể sử dụng kĩ thuật ELISA để chẩn đoán sán lá ký sinh
trong cơ thể vật nuôi [33].
2.6.4. Mổ khám và điều trị để chẩn đoán
Chọn một số con để mổ khám nhằm tìm sán lá ruột ở trong ruột non.
Thường áp dụng với gia súc chết, hoặc dùng trong nghiên cứu [9], [11], [26].
Có thể dùng một số loại thuốc tẩy sán để tẩy thử một số con, rồi theo dõi
phân từ 24 - 48 giờ sau khi cho thuốc, nếu có sẽ thấy sán tẩy ra theo phân

[26].
2.7. Biện pháp phòng trừ
2.7.1. Tẩy trừ sán cho lợn.
Đối với dịch tễ học việc nghiên cứu thời gian tẩy sán trước lúc trưởng
thành chưa kịp đẻ trứng đồng thời diệt sán còn non có ý nghĩa lớn trong thực
tế sản xuất. Tẩy sán cho lợn cần đạt mục đích chữa khỏi cho lợn bệnh, nhưng
cũng có ý nghĩa phòng và diệt trừ căn bệnh, muốn thế cần có lịch tẩy cho toàn
bộ lợn. Từ khi lợn nhiễm sán cho đến khi sán trưởng thành đẻ trứng phải độ
90 ±

6 ngày do đó tốt nhất là tẩy sán cho lợn hai tháng rưỡi một lần. Nhưng
hiện nay do chưa có đủ điều kiện, nên cần tẩy cho lợn thịt hai lần vào ba và
sáu tháng tuổi (trước lúc vỗ béo), lợn nái một năm tẩy hai lần sau khi nuôi
xong một lứa lợn đến cai sữa [28]. Trong thời gian tẩy sán, phân phải tập
trung để ủ, vì lúc này trong phân có rất nhiều giun sán và trứng sán [26].
Vime - Ono: 1 g/10 – 15 kg P, uống một liều duy nhất.
18
Vime - Dazol: 1 g/10 kg P.
(Không nên tẩy đối với nái mang thai)
Han - Dertil B: 1 viên cho 40 – 50 kg P
Nitroxinil - INJ: 2 ml/50 kg P, tiêm dưới da một liều duy nhất [1].
Những thuốc tẩy sán thường độc nên khi dùng phải cẩn thận, xác định
chính xác trọng lượng để định liều cho đúng.
Có thể dùng thuốc nam để tẩy trừ sán cho lợn. Hạt cau già với liều lượng
1g/1 kg P [22], [24], [25]. Hạt cau (Hreca catechu) được sắc và loại bỏ chất
chát (cho một lòng trắng trứng vào nước sắc hạt khi sôi, các chất chát bám
vào lòng trắng trứng và vớt bỏ lòng trắng trứng). Có thể sử dụng quả chua
ngút (Embelia ribes) dưới dạng thô hoặc dưới dạng embelat amon chiết xuất
từ chua ngút cũng có tác dụng tốt, an toàn và làm sạch sán ở lợn [25].
2.7.2. Vệ sinh môi trường và diệt trứng sán trong phân.

Quét dọn sạch chuồng trại hàng ngày, định kỳ tiêu độc bằng nước vôi
10b %, biện pháp này có tác dụng diệt mầm bệnh trong chuồng trại [13], [14].
Tuyệt đối không cho phân lợn chảy xuống ao, ruộng nhất là những ao,
ruộng trồng rau bèo làm thức ăn nuôi lợn hoặc lấy nước dùng trong chuồng
lợn. Phân lợn phải được ủ kỹ cho chết trứng sán mới dùng để bón. Chỗ ủ phải
xa các ao, ruộng để khi trời mưa to nước phân không chảy xuống ao mang
theo trứng sán.
Vùng có tập quán dùng phân lợn tươi hòa với nước để tưới thì có thể xây
dựng nhiều tầng bể để lắng trứng sán, dựa vào nguyên lí tỷ trọng trứng nặng
hơn tỷ trọng của nước, khi qua những bể lắng trứng sẽ chìm xuống đáy, nước
phân không còn trứng sán sẽ chảy trực tiếp bón cho các ruộng rau bèo, chỗ
phân cặn hót ra đưa đi ủ [26]. Có thể sủ dụng bón phân chéo bằng cách bón
phân bò cho cây thức ăn của lợn [4].
Điều quan trọng là phải thực hiện ủ phân để diệt trứng sán lá trong phân
bằng nhiệt. Biện pháp tuy đơn giản nhưng có tác dụng tránh được sự ô nhiễm
mầm bệnh ngoài môi trường tự nhiên, vừa đảm bảo độ N – P - K trong phân.
Theo Phạm Văn Khuê (1964) nên ủ như sau:
Phân chuồng : 200 kg
Lá xanh, chất độn: 20 - 30 kg
19
Vôi bột: 50 - 80 kg
Xếp những thứ này thành lớp. Cứ một lớp phân phủ một lớp vôi và một
lớp lá xanh, xếp thành đống, ngoài trát bùn để mưa không trôi phân và giữ
nhiệt độ trong đống phân ủ. Cách ủ này có thể làm nhiệt độ trong đống phân ủ
tăng đến 50 - 51
0
C trong khoảng 12 ngày, có tác dụng diệt trứng F. buski. Có
thể xây những bể chứa phân, nước tiểu, nước rửa chuồng, nước cống rãnh rồi
cho vôi vào sao cho pH ≥ 8, sau 10 ngày trứng F. buski bị diệt [9], [11], [26].
Ở các cơ sở chăn nuôi tập trung, chăn nuôi gia đình có điều kiện có thể

xây bể biogas có bổ sung chế phẩm EM (Effective microorganisms) sẽ ức chế
sự phát triển của trứng F. buski, rút ngắn thời gian diệt trứng, làm giảm độ pH
của nước nhưng lượng khí trong bể lại tăng lên. Ở bể biogas có bổ sung EM
1%, sau 10 ngày chỉ có 24,6% trứng phát triển được tới Miracidium, thời gian
trứng phát triển hết 18 ngày. Sau 20 ngày không trứng nào phát triển, trứng
mất màu, một số trứng tan rữa. Ở bể biogas có bổ sung EM 5%, sau 10 ngày
trứng không biến dạng nhưng nhạt màu, tế bào của nhiều trứng tan rữa. Sau
20 ngày trứng mất màu, tế bào của đa số trứng tan vỡ hoàn toàn, không có
trứng nào phát triển được tới Miracidium. So với bể biogas không bổ sung
EM thì ở mức bổ sung 1% thời gian diệt trứng F. buski đã rút ngắn được 10
ngày, ở mức 5% rút ngắn được 20 ngày (Nguyễn Văn Thọ, 2006) [32].
2.7.3. Diệt ốc ký chủ trung gian.
Những ao, ruộng trồng rau, bèo làm thức ăn nuôi lợn phải tát cạn ít nhất
mỗi năm hai lần và rắc vôi xuống đáy, phơi ao một thời gian rồi mới dùng lại,
vừa tẩy uế vừa diệt ốc [28]. Nếu không áp dụng được biện pháp tháo cạn thì
cần dọn sạch ao bằng cách phát quang, vớt bèo… làm cho ốc hết chỗ bám.
Nước vôi 5 - 10%, sunphat đồng (CuSO
4
) 5/10.000 có tác dụng diệt các
loài ốc ký chủ trung gian trong tự nhiên. Nhưng cần chú ý, sunphat đồng có
thể gây ô nhiễm và độc cho người và súc vật [11], [13], [14], [15], [16].
Diệt ốc bằng biện pháp sinh học: nuôi những con vật ăn ốc như vịt, ngan,
ngỗng… Trong điều kiện có thể, luân phiên cây trồng thức ăn, chuyển ruộng
trồng rau bèo có nước thành ruộng trồng cây cạn để đổi vụ nhằm tạo điều kiện
khô cạn để ký chủ trung gian không tồn tại [11], [26].
20
2.7.4. Chăm sóc, nuôi dưỡng.
Chăm sóc, nuôi dưỡng tốt đàn lợn để nâng cao sức đề kháng với bệnh
[13], [14], [15]. Không nuôi lợn thả rông nhất là ở nơi đã có bệnh sán lá ruột
[9], [28]. Cho súc vật ăn uống sạch, đủ chất. Ở những vùng có bệnh, cách tốt

nhất là thức ăn phải nấu chín hoặc nếu cho ăn xanh thì phải xử lý đảm bảo
không còn Aldolescariae có sức gây bệnh (rau rửa sạch ngâm nước muối hoặc
nước vôi 5% trước khi cho ăn). Nước uống phải sạch, không cho lợn uống
nước ao tù [11], [28], [29].
2.8. Bệnh sán lá ruột ở người
Người bị bệnh do ăn sống thực vật thủy sinh có chứa kén Aldolescariae.
Vào đường ruột dưới tác dụng của dịch mật và dịch tiêu hóa của ruột non,
màng kén bị phân giải, ấu trùng chui ra bám vào niêm mạc ruột non và phát
triển thành sán trưởng thành gây bệnh cho người.
Tình hình nhiễm sán lá ruột tập trung chủ yếu vào vùng Đông Á và
Trung Á. Theo thống kê điều tra ổ bệnh chính là Trung Quốc. Tình hình
nhiễm cao ở những vùng Hương Cảng, Quảng Đông, dọc theo bờ sông Dương
Tử, tỷ lệ bệnh thay đổi từ 5 – 71 %, có nơi nhiễm tới 92 % (Trần Tâm Đào,
1965) [24], trẻ em mắc nhiều hơn người lớn và phụ nữ mắc nhiều hơn nam
giới [29]. Ở vùng Quảng Đông thường thu hoạch củ ấu vào mùa hè, khi nông
dân nhất là trẻ em hay ăn sống củ ấu nên ăn phải kén Aldolescariae vì thế mà
mắc bệnh [26]. Năm 1925 Barlow đã dùng thuốc tẩy sán cho một bé gái 9 tuổi
tẩy ra 3.721 con sán lá ruột. Ở các thành phố như Thượng Hải tỷ lệ bệnh cũng
cao. Ở Ấn Độ, Thái Lan, Malaisia, Đài Loan cũng rải rác những ổ bệnh sán lá
ruột lợn [24]. Bệnh sán lá ruột hiện vẫn được coi là bệnh cần báo động ở
nhiều quốc gia châu Á và mới đây đã phát hiện bệnh này có ở một số nước
thuộc châu Phi. Ở nước ta tỷ lệ nhiễm bệnh ở một số tỉnh như sau: Nam Định
6 %, Yên Bái 1,2%, Đăk Lăk 1,2 - 3,8 %, Thừa Thiên Huế 1,8 %. Sán lá ruột
thu thập từ bệnh nhân khi điều tra tại 7 tỉnh, thành Nam Định, Ninh Bình,
Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Cần Thơ và An Giang đã được xác
định là loài F. buski qua phương pháp hình thái học và sinh học phân tử [8].
Trong tháng 05/2007, Trung tâm Phòng chống Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn
trùng Thừa Thiên Huế điều tra tình hình nhiễm giun sán trên đối tượng học
21
sinh mẫu giáo tại địa phương đã phát hiện 1 học sinh 5 tuổi bị nhiễm sán lá

ruột. Do muốn tìm hiểu sự liên quan, đã xét nghiệm phân của người mẹ 36
tuổi và người cha 40 tuổi cũng phát hiện nhiễm sán lá ruột (gia đình ở đường
Đào Duy Anh, thành phố Huế) [7]. Có trường hợp bệnh nhân 2,5 tuổi ở Vinh
đã nôn ra 8 sán lá ruột lợn [2].
Những thương tổn cơ thể bệnh học xảy ra một phần do sán gây chấn
thương ở ruột, chiếm thức ăn, một phần khác do những độc tố sán bài tiết ra
[24].
Trong giai đoạn đầu bệnh nhân chỉ bị mệt mỏi, thiếu máu nhẹ, sức khỏe
giảm sút Khi bệnh toàn phát, người bệnh bị đau bụng kèm theo tiêu chảy.
Phân lỏng không có máu, nhưng nhày và có lẫn nhiều thức ăn không tiêu.
Bệnh nhân thường đau bụng ở vùng hạ vị, đau kèm theo tiêu chảy, đôi khi có
thể xảy ra những cơn đau dữ dội. Nếu người bệnh có nhiều sán và không
được điều trị, bệnh sẽ ngày càng nặng, có thể bị phù nề, tràn dịch ở nhiều nội
tạng và chết trong tình trạng suy kiệt [19]. Trang Bạch (1956) cho biết ở Tân
Hội (Trung Quốc) trong số 65 bệnh nhân bị bệnh sán lá ruột thì tỷ lệ chết 21,5
% [26].
Việc phòng bệnh chủ yếu không ăn các loại thực vật thủy sinh không
được nấu chín, không dùng nước lã, nước ở chỗ tù hãm, gần chỗ có phân lợn.
Cần ủ kỹ phân trước khi bón cho cây trồng ở dưới nước, điều trị những người
có bệnh kết hợp phòng trị bệnh cho lợn. Do bệnh sán lá ruột có thể nhiễm tới
mức độ cao ở một số vùng nhỏ nên đối với những vùng này cần có những
biện pháp qui mô hơn như thanh khiết nguồn nước, diệt ốc vật chủ trung gian,
điều trị hàng loạt người bệnh [24], [28].
22
PHẦN 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Lợn ở tất cả các lứa tuổi từ sơ sinh đến trưởng thành trên địa bàn nghiên cứu.
3.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu:
Thời gian nghiên cứu từ 5/1 đến 09/5/2009.
Mẫu được lấy từ một số xã ở huyện và xét nghiệm tại phòng thí nghiệm

Khoa Chăn nuôi Thú y Trường Đại Học Nông Lâm Huế.
3.3. Nội dung và các chỉ tiêu nghiên cứu:
3.3.1. Nội dung:
Đề tài gồm 3 phần:
- Tình hình nhiễm bệnh sán lá ruột lợn tại các xã trên địa bàn nghiên cứu
- Tình hình nhiễm mầm bệnh sán lá ruột trong môi trường
- Đánh giá hiệu quả thuốc tẩy trừ
3.3.2. Các chỉ tiêu nghiên cứu:
- Tỷ lệ nhiễm sán lá ruột lợn tại các xã trên địa bàn nghiên cứu
- Tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm ở các nhóm tuổi.
- Tỷ lệ nhiễm theo tính biệt.
- Tỷ lệ nhiễm theo phương thức cho ăn (nấu chín, ăn sống).
- Mật độ ốc và tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá ruột lợn ở ốc vật chủ trung gian
trong môi trường tự nhiên.
- Sự phát triển của trứng sán lá ruột lợn trong một số môi trường nuôi: nước
cất; nước hồ; nước muối 0,5%; nước muối 0,9%.
- Sự phát triển của ấu trùng sán lá ruột lợn trong ốc vật chủ trung gian.
- Tỷ lệ ra sán.
- Tỷ lệ sạch trứng sán sau khi tẩy.
3.4. Phương pháp nghiên cứu và vật liệu nghiên cứu
3.4.1. Mẫu phân
- Phương pháp lấy mẫu: Phân được lấy trực tiếp qua hậu môn hoặc phân lợn
vừa đi ra cho vào bọc nilon buộc lại bằng dây thun. Ghi nhãn hiệu mẫu phân
và đưa vào thùng đựng có mẫu nước đá mang về phòng thí nghiệm kiểm tra.
Yêu cầu: phân được kiểm tra ngay hoặc chậm nhất là 2 ngày sau khi mang về
(mẫu chưa kiểm tra phải được bảo quản ở nhiệt độ 4
0
C).
23
- Phương pháp kiểm tra mẫu: sử dụng phương pháp lắng cặn

Nguyên lý: dựa vào sự chênh lệch tỉ trọng của trứng sán lá với nước lã (d =1)
để tách trứng ra khỏi phân.
Tiến hành: lấy 5-10g phân gia súc cho vào cốc thuỷ tinh, cho vào một lượng
nước vừa phải để khuấy tan phân, lọc qua rây vào cốc tam giác ta được dung
dịch lọc. Đổ thêm nước vào dung dịch lọc đến vạch 500ml, để yên 15 - 30 phút
sau đó đổ lớp nước phía trên ra. Đổ thêm nước vào, chờ thời gian t2 < t1, làm
như vậy 3 - 5 lần cho 1 mẫu. Sau khi đổ nước lần cuối cùng ra, ta đổ cặn vào
đĩa petri rồi nhỏ một giọt xanh methylen vào. Dùng ống hút nhỏ hút cặn lên
lam kính, đặt lamen lên, kiểm tra dưới kính hiển vi và đọc kết quả.
Dùng cùng một nguồn nước cho các mẫu để đảm bảo độ chính xác khi so
sánh.
3.4.2. Phương pháp nuôi trứng:
- Chuẩn bị trứng
Dùng một lượng phân lớn của những lợn được xét nghiệm thấy có nhiều
trứng sán lá ruột lợn đem lắng cặn nhiều lần. Lấy phần cặn kiểm tra trứng sán
lá ruột lợn.
- Nuôi trứng
Phần cặn sau khi kiểm tra có nhiều trứng sán lá ruột lợn cho vào các môi
trường nuôi: nước cất, nước hồ, nước muối 0,5%, nước muối 0,9%. Hàng
ngày theo dõi nhiệt độ, độ ẩm phòng nuôi; pH môi trường nuôi; sự phát triển
của trứng và ấu trùng trong trứng.
3.4.3. Ốc vật chủ trung gian
- Tính mật độ ốc vật chủ trung gian: cắm 4 cọc xuống ruộng và chăng dây tạo
thành hình vuông có diện tích 1m
2
và đếm số ốc trong ô. Tính mật độ ốc trên đám
thực vật thuỷ sinh tại 5 điểm: 4 điểm ở 4 góc và 1 điểm ở chính giữa. Sau đó tính
mất độ ốc trung bình.
- Mổ ốc và kiểm tra ốc vật chủ trung gian: ốc đem mổ bỏ phần vỏ và phần
miệng, phần còn lại nghiền với nước sinh lí 0,9 % đem soi dưới kính hiển vi

tìm ấu trùng.
- Nuôi ốc gây nhiễm: ốc vật chủ trung gian được lấy ở những vùng sau khi
kiểm tra không tìm thấy ấu trùng sán lá ruột lợn. Sau đó bắt 600 ốc về nuôi
24
trong nước sạch 30 ngày để kiểm tra dần, mỗi lần kiểm tra 50 ốc, kiểm tra 5
lần không tìm thấy ấu trùng sán lá ruột trong ốc thì số ốc còn lại sử dụng để
nuôi gây nhiễm. Ốc được cho vào các môi trường nuôi: nước cất; nước hồ;
nước muối 0,5%; nước muối 0,9% sau khi trứng nở. Thả thêm rong, bèo đã
rửa sạch cho ốc bám. Dùng rau sà lách thái nhỏ làm thức ăn cho ốc. Hàng
ngày theo dõi nhiệt độ, độ ẩm phòng nuôi; pH môi trường nuôi; sự phát triển
của ốc, bèo trong các môi trường nuôi và mổ ốc kiểm tra sự phát triển của ấu
trùng sán lá ruột lợn.
3.4.4. Các phương pháp điều trị:
- Thuốc tẩy Bioxynil:
Tính chất: thuốc có dạng dung dịch, trong 100ml có chứa 250 mg
Nitroxynil.
Tác dụng: Nitroxinil có tác dụng đến sán lá ruột trưởng thành và chưa
trưởng thành. Ngoài ra còn có tác dụng đến giun xoăn, giun móc, giun kết hạt
ở lợn. Thuốc ngăn trở sản phẩm ATP trong ký sinh không ghép nối được với
quá trình phosphoryl hóa.
Liều lượng và cách dùng: 1ml/25 kg P, tiêm dưới da, dùng một liều duy
nhất. Không dùng chung với các loại thuốc trị ký sinh trùng khác.
- Thuốc tẩy Vime - Ono
Tính chất: thuốc có dạng bột kết tinh màu trắng, trong 100 g có 50 g
Bithionol.
Tác dụng: Bithionol có tác dụng gây chết ngoài ra còn có tác dụng dự phòng.
Thuốc diệt ký sinh trùng hiệu quả cao, tiêu diệt các loại giun tròn, sán dây,
sán lá gan, sán lá ruột lợn ở cả 3 giai đoạn phát triển (trứng giun sán, ấu trùng,
giun sán trưởng thành)
Liều lượng và cách dùng: 1g/10-15 kg P, cho uống trực tiếp hoặc trộn vào

thức ăn. Dùng một liều duy nhất.
3.4.5. Thu thập kết quả
- Tỷ lệ nhiễm = x x 100

25
Số mẫu dương tính
Số mẫu kiểm tra

×