Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Nghiên cứu sán lá ruột lợn trên địa bàn huyện phú vang, tỉnh thừa thiên huế và kết quả thử nghiệm một số thuốc tẩy trừ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.73 KB, 54 trang )

PHẦN MỘT. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nước ta là một nước nông nghiệp, thu nhập của người dân chủ yếu từ
trồng trọt và chăn nuôi, trong đó chăn nuôi lợn chiếm một phần đáng kể.
Trong mấy năm gần đây dịch bệnh ở lợn xảy ra thường xuyên gây thiệt hại
lớn cho người chăn nuôi mà chưa tìm được biện pháp khắc phục triệt để.
Nhằm hạn chế rủi ro có thể xảy ra, người chăn nuôi đã áp dụng các tiến bộ
khoa học kỹ thuật về con giống, thức ăn và thực hiện các biện pháp phòng
bệnh nhưng vẫn còn nhiều thiệt hại do dịch bệnh gây nên, trong đó phải kể
đến bệnh ký sinh trùng… Nếu các bệnh truyền nhiễm xảy ra nhanh và lây lan
mạnh thì bệnh ký sinh trùng lại có tính chất kéo dài, âm ỉ, làm giảm sức đề
kháng và mở đường cho các mầm bệnh khác xâm nhập vào cơ thể vật chủ.
Điển hình là bệnh sán lá ruột lợn vì khi bị nhiễm bệnh không chỉ gây thiệt hại
kinh tế cho người chăn nuôi mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Bệnh phổ biến ở những nước nhiệt đới thuộc vùng Đông Nam Châu Á
như Ấn Độ, Thái Lan, Lào, Indonesia… Ở nước ta lợn nhiễm từ 23 – 50,4%
với cường độ nhiễm từ 1 - 283 sán trong một cơ thể. Bệnh có ở khắp các vùng
trong nước nhưng phổ biến hơn cả là vùng đồng bằng 53,6%, vùng trung du
có giảm đi 38,1%, vùng núi lợn bị mắc ít hơn 8,3%. Lợn ăn sống các loại rau,
bèo dưới nước bị nhiễm nhiều hơn so với lợn ăn các loại rau trên cạn và ăn
chín.
Lợn nhiễm sán sinh trưởng, phát triển chậm. Trung bình mỗi sán làm
giảm 1,86g - 2,57g thịt trong một ngày. Lợn nái bị nhiễm thường gầy còm,
thiếu sữa làm lợn con dễ mắc bệnh ỉa phân trắng, ỉa chảy, còi cọc và tỷ lệ chết
cao khi cai sữa. Trứng được thải ra ngoài theo phân lợn gặp điều kiện thuận
lợi phát triển thành ấu trùng có khả năng gây nhiễm (kén Aldolescaria) bám
vào cây cỏ thủy sinh ở nước. Đó là nguồn gieo rắc mầm bệnh ra môi trường
và lây nhiễm cho người. Người nhiễm sán thiếu máu, gầy còm, đau bụng, ỉa
chảy, phù toàn thân. Nếu bệnh nặng có thể chết.
Ở Thừa Thiên Huế có mạng lưới sông, ao hồ, mương máng, ruộng nước
tương đối nhiều, đây là điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển của vật chủ
trung gian gây bệnh. Bên cạnh đó người dân còn có thói quen sử dụng thực


vật thuỷ sinh như bèo, rau muống, rau mùng…làm thức ăn cho lợn. Vì vậy
1
mà nguy cơ mắc bệnh sán lá ruột lợn ở người và lợn là rất cao.
Nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại do bệnh sán lá ruột lợn
gây ra cho người chăn nuôi cũng như để bảo vệ sức khoẻ con người, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài này để nắm được chính xác hơn tình hình nhiễm
bệnh sán lá ruột lợn trên cơ sở đó có biện pháp phòng trừ hợp lý.
Được sự đồng ý của Khoa Chăn Nuôi - Thú Y, cô giáo hướng dẫn Lê Thị
Vân Hà, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu sán lá ruột lợn trên địa bàn
huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế và kết quả thử nghiệm một số
thuốc tẩy trừ ”.
2
PHẦN HAI: CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1. Tình hình nghiên cứu bệnh sán lá ruột lợn trên thế giới và ở Việt
Nam.
2.1.1. Tình hình nghiên cứu bệnh sán lá ruột lợn trên thế giới
Bệnh sán lá ruột do Fasciolopsis buski (Lankaster, 1857; Odhner, 1802)
gây ra là một bệnh chung cho người và lợn. Bệnh lưu hành rộng rãi ở một số
quốc gia châu Á như Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Cambodia, Lào, Thái
Lan, Malaysia, Indonesia, Myanmar và Ấn Độ [ 20], [24], [32], [35].
Loài sán này được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1843 do Busk tìm thấy
ở tá tràng của tử thi một người trong hải quân Ấn Độ tại bệnh viện hàng hải ở
Luân Đôn. Sau đó vào năm 1837, Lankaster đã mô tả về hình thái của loài sán
này. Hai năm sau, Cobbold đã bổ sung thêm về hình thái. Năm 1899, Loss
xác định vị trí của sán lá ruột về mặt phân loại.
Về vòng đời của sán lần đầu tiên do Nakagawa (1921) và Barlow (1925)
nghiên cứu thành công gây nhiễm cho lợn và người ở Trung Quốc [20].
Theo một số tác giả Trung Quốc cho thấy trước đây tỷ lệ nhiễm bệnh ở
Trung Quốc khá cao: Quảng Châu 10,15 %, Triết Giang 36 %, (Trần Tâm
Đào, 1935 và Ngô Quang, 1938). Hiện nay số lượng người nhiễm sán

Fasciolopsis buski trên thế giới khoảng 100 triệu người (Pedro, 1987) [3].
Đối với loài Gastrodiscoides hominis được phát hiện ở người India và
lợn. Sharma (1930) cho biết tỷ lệ của người Hindu nhiễm là 3,2 %. Brau và
Bruyant đã báo cáo một trường hợp ở người Cochin Trung Quốc. Mathis và
Leger cũng đã tìm thấy loài này ký sinh ở lợn với tỷ lệ 5 % [5].
2.1.2. Tình hình nghiên cứu bệnh sán lá ruột lợn ở Việt Nam
Ở Việt Nam, bệnh sán lá ruột đã có từ lâu đời nhưng mãi đến 1911,
Marthis, Leger và Bauche mới mô tả loài sán này khi thu thập mẫu vật từ ruột
lợn và một số người bệnh ở Bắc Bộ [11].
Vào năm 1941 Đặng Văn Ngữ, Gilliard cho biết lợn bị nhiễm sán lá ruột
6 – 12 %, có khi tới 74 % [20].
Trong thời thuộc Pháp ở Bắc Bộ, Mathis và Leger (1911) cho biết tỷ lệ
nhiễm khoảng 6 %; Houdemer và Trần Thọ Huy (1925), 73 %; Đặng Văn
Ngữ và Galliard (1941), 6 – 12 % vào tháng 3, 47 % vào tháng 12; ở Huế,
3
Railiet và Henry là 1 – 2 % lợn nhiễm sán lá ruột [11], [20].
Ở miền Bắc nước ta theo Bùi Lập (1965) cho biết tỷ lệ lợn nhiễm sán lá
ruột 41,4 % ở một nông trường. Ở Vĩnh Phú, Phan Địch Lân (1963) thấy tỷ lệ
lợn nhiễm sán lá ruột 78,4 %. Điều tra trên 6139 lợn thuộc các tỉnh Hải Hưng,
Ninh Bình, Hà Bắc, Hà Nội, Nguyễn Trọng Nội (1966) thấy tỷ lệ nhiễm sán lá
ruột từ 45,4 % - 86,4 % [20].
Ở nước ta lợn nhiễm từ 23 - 50,1 % với cường độ nhiễm từ 1 - 283 sán
trong một cơ thể. Có trường hợp thấy 1.716 sán ký sinh trong một lợn (nông
trường Thống Nhất). Một số cơ sở chăn nuôi 100 % lợn bị nhiễm sán (trại
Cộng Hòa, nông trường Thống Nhất) [8], [5], [24].
Nguyễn Hữu Hưng (2002), khi nghiên cứu về thành phần giun sán ký
sinh ở lợn tại một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long cho thấy tỷ lệ nhiễm
Fasciolopsis buski có sự khác biệt giữa các vùng. Tỉnh Đồng Tháp tỷ lệ lợn
nhiễm Fasciolopsis buski ở thị xã Cao Lãnh là 11 %, Sa Đéc 1,25 %, huyện
Hồng Ngự 10,5 %, huyện Tân Hồng 3,6 %. Tỉnh Hậu Giang (Cần Thơ và Sóc

Trăng) huyện Châu Thành 10,34 %, huyện Vị Than 7,5 %, huyện Phụng Hiệp
5,5 %, thành phố Cần Thơ 1,06 %. Tỉnh Kiên Giang và An Giang tỷ lệ lợn
nhiễm Fasciolopsis buski ở huyện Gò Quao 14,6 %, huyện Giồng Riềng
31,64 %, Rạch Giá 17,72 %, thị xã Long Xuyên 6,25 %, huyện Phú Tân 8,82
%, huyện Tri Tôn 3,13 %. Tại tỉnh Hậu Giang tỷ lệ lợn nhiễm Echinostoma
.sp ở huyện Thốt Nốt 8,1 %, huyện Vị Than 2,5 %, huyện Phụng Hiệp 3,33
%. Lợn tỉnh Kiên Giang và An Giang nhiễm Echinostoma .sp ở thị xã Long
Xuyên 2,63 %, huyện Phú Tân 2,94 %, huyện Tri Tôn 6,25 %. Ở tỉnh Cửu
Long (Vĩnh Long và Trà Vinh) thì tỷ lệ nhiễm Echinostoma .sp ở lợn tại
huyện Cầu Ngang 9,8 %, huyện Cầu Kè 32,78 %, thị xã Vĩnh Long 1,81 %
[7].
Theo Phạm Chức (1986) cho biết lợn Hậu Giang nhiễm Echinostoma .sp
9,3 %. Theo Phạm Văn Khuê, Phan Văn Lục (1978) cho biết lợn 6 tỉnh đồng
bằng miền Tây và Đông Nam Bộ nhiễm Artyfechinostomum sufrartyfex với tỷ
lệ 7,01 %. Về phân loại theo Lê Văn Hòa, Lê Thị Mỹ San loài gặp ở lợn các
tỉnh phía Nam là loài Echinostoma malayanum (Leiper, 1911) đồng nghĩa với
Artyfechinostoma sufrartyfex (Lane, 1915, Bhalerao, 1931) [5].
4
Ở Việt Nam Brau và Bruyant (1911) đã thấy loài Gastrodiscoides
hominis ở lợn Trung Bộ, Nam Bộ 5 %. Lê Văn Hòa và Lê Thị Mỹ San (1978)
đã tìm thấy loài này ký sinh ở lợn nhưng với tỷ lệ nhiễm thấp [5].
2.2. Vị trí của sán lá ruột lợn trong hệ thống phân loại.
Ngành Plathelminthes
Lớp sán lá : Trematoda
Phân lớp : Prosostomidea
Bộ : Fasciola
Phân bộ : Fasciolata
Họ : Fasciolidae
Phân họ : Fasciolopsinae Odhner, 1910
Giống : Fasciolopsis Loss, 1899

Loài : Fasciolopsis buski (Lankaster,1857) [14], [22], [27].
2.3. Hình thái và chu trình phát triển của Fasciolopsis buski,
Echinostoma malayanum, Gastrodiscoides hominis
2.3.1. Fasciolopsis buski
2.3.1.1. Hình thái của Fasciolopsis buski
Fasciolopsis buski có hình lá, màu đỏ thớ thịt, phình rộng phía sau, thon
nhỏ dần về phía đầu. Sán dài 20 – 70 mm, dày 0,5 – 3 mm.
Trên thân có phủ những gai nhỏ, có hai giác bám gần nhau ở phía trước
cơ thể, giác bụng lớn hơn giác miệng. Thực quản ngắn, hầu nhỏ, hai manh
tràng chạy dọc hai bên thân. Hai tinh hoàn phân nhánh hình cành cây, xếp
trên dưới nhau ở phần sau thân sán. Buồng trứng phân nhánh ở phía trước tinh
hoàn và hơi lệch về bên trái. Túi sinh dục hình ống thông với bên ngoài qua lỗ
sinh dục phía trước giác bụng. Tuyến noãn hoàng chạy dọc hai bên thân sán.
Trứng màu vàng nhạt, vỏ mỏng, phình rộng ở giữa thon dần đều về phía
hai đầu, ở đầu hơi nhỏ có nắp trứng. Kích thước của trứng 0,13 - 0,14 mm x
0,08 - 0,085 mm. Phôi bào phân bố đều, xếp kín vỏ trứng [8], [24].
2.3.1.2. Chu trình phát triển của Fasciolopsis buski
Phát triển gián tiếp có sự tham gia của vật chủ trung gian là những ốc
nước ngọt Planorbis planorbis, P. coenurus, P. hemisphaerula, P.
schmacheri, Gyraulus chinensis , G. saigonensis, Segmentina calathus, S.
5
largillieri, Hippetis contori, H. umbilicalis. Trung bình mỗi ngày sán đẻ được
15.000 – 48.000 trứng theo phân ra ngoài gặp môi trường nước ở nhiệt độ 27
– 32
O
C sau 14 - 15 ngày phát triển thành Miracidium chui ra khỏi trứng.
Miracidium có thể sống ở ngoài môi trường 6 - 8 giờ, dài 0,123 mm, rộng
0,049 mm hình quả lê. Miracidium xâm nhập vào ốc phát triển thành
Sporocyst. Sau 9 - 10 ngày hình thành Redia ở gan tụy ốc, sau đó Cercaria
chui ra khỏi ốc sau 1 - 3 giờ rụng đuôi và tạo kén Aldolescaria. Khi người và

lợn ăn phải kén này dưới tác dụng của dịch mật và dịch tiêu hóa phát triển
thành sán trưởng thành ở ruột non sau 84 - 96 ngày (Phạm Văn Khuê, 1966).
Sán có thể sống trong cơ thể lợn hai năm, trong cơ thể người 4,5 năm.
2.3.1.3. Đặc điểm ấu trùng của Fasciolopsis buski
Mao ấu (Miracidium): có hình quả lê, dài 0,123 mm, rộng 0,049 mm.
Bên ngoài bao phủ bởi một màng mỏng có nhiều lông tơ, về mặt lưng có một
đôi mắt hình chấm tròn. Bên trong cơ thể có hệ tiêu hóa sơ sinh, mô thần
kinh, hai tế bào ngọn lửa và nhiều tế bào phôi.
Bào ấu (Sporocyst): khi không cử động có hình tròn hơi dài, to độ 0,131
x 0,083 mm; khi co rút độ 0,094 x 0,050 mm, khi giãn ra thì to độ 0,169 x
0,034 mm. Ở thời kỳ đầu bào ấu có mắt, nhánh ruột có hai tế bào ngọn lửa và
một số ống bài tiết nhỏ, có 30 - 40 khối phôi bào, ở thời kỳ cuối bào ấu to độ
0,308 x 0,108mm, phôi bào dần phát triển thành Redia mẹ.
Lôi ấu (Redia): Redia mẹ dài 0,600 - 0,800 mm, rộng 0,100 - 0,200 mm,
trong đó có khoảng 22 khối phôi bào và một số Redia con đang phát triển ở
các giai đoạn khác nhau. Redia mẹ có túi miệng, ruột hình túi dài và rộng, có
lỗ sinh sản và một đôi cơ quan phụ. Redia con dài 0,736 - 0,896 mm, rộng
0,159 - 0,165 mm. Ruột của Redia con thay đổi hình thái, có hình bán nguyệt,
có khi thành hình chấm tròn, trong cơ thể có khoảng 1 - 45 vĩ ấu đã thành
thục.
Vĩ ấu (Cercaria): vĩ ấu dài 0,639 mm. Cơ thể chia làm hai phần: thân và
đuôi. Thân dài 0,195 mm, rộng 0,145 mm. Phần trước của thân và mặt bụng
có gai nhỏ, có hai giác bám. Giác miệng to hơn hầu và giác bụng. Cercaria
sau khi chui ra khỏi ốc thì chuyển động rất mạnh trong nước, trong một thời
gian rất ngắn thì Cercaria rụng đuôi và tiết chất nhờn bọc thành kén
6
Aldolescaria. Từ lúc bắt đầu tạo kén đến khi hình thành chỉ cần 1 - 3 giờ.
Cercaria nhờ có giác miệng, giác bụng bám trên vật môi giới, sau đó rụng
đuôi, tiết chất nhờn tạo thành hai lớp màng - lớp màng ngoài dễ vỡ, lớp màng
trong chắc chắn, rất bền, dịch vị không tiêu hóa được, chỉ khi tới ruột non, do

tác dụng của dịch ruột và dịch mật mới phân giải được màng trong. Kích
thước của kén là 0,216 x 0,187 mm, nếu không tính màng ngoài thì chỉ có
0,148 x 0,138 mm [20].
7
CHU TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA FASCIOLOPSIS BUSKI
1. Trứng 5. Cercaria ở môi trường
2. Trứng trong môi trường nước 6. Aldolescaria (nang ấu)
3. Miracidium (mao ấu) 7,8. Sán trưởng thành trong lợn và người
4. Ốc vật chủ trung gian
4a Sporocysts (bào ấu)
4b Redia (lôi ấu)
4c Cercaria (vĩ ấu)
8
2.3.2. Echinostoma malayanum
2.3.2.1. Hình thái của Echinostoma malayanum
Echinostoma malayanum đồng nghĩa với Euparyphium malayanum
(Leiper, 1911), Artyfechinostomum sufartifex (Lane, 1915 Bhalerao, 1931).
Sán dài 12 mm, rộng 3 mm, giác miệng nhỏ hơn giác bụng có hình vành
khăn. Trên vành khăn miệng có 42 - 43 gai xếp thành hai hàng. Toàn thân phủ
đầy gai. Túi sinh dục dài nằm trước giác bụng. Buồng trứng hình hạt đậu nằm
ở giữa thân. Hai tinh hoàn phân thùy xếp trên dưới nhau mỗi tinh hoàn chia 4
- 6 thùy. Tuyến noãn hoàng dày đặc hai bên thân.
Trứng gần giống với trứng của Fasciolopsis buski nhưng tròn hơn.
2.3.2.2. Chu trình phát triển của Echinostoma malayanum
Nghiên cứu về chu trình phát triển của Echinostoma malayanum, Rao
(1933) cho rằng vật chủ trung gian thứ nhất của Echinostoma malayanum là
ốc Limnae luteola, vật chủ trung gian thứ hai là ốc Limnae luteola,
Indoplanorbis exustus và cá Barbus stigma. Trứng ra ngoài sẽ phát triển thành
Miracidium xâm nhập vào ốc Limnae luteola, sau 6 tuần sẽ hình thành
Cercaria và tiếp tục xâm nhập vào ốc Limnae, Indoplanorbis và cá Barbus,

và ốc bươu Fila sau 3 tháng. Khi lợn ăn phải vật chủ trung gian thứ hai sau 3 -
4 tuần sẽ thành sán trưởng thành ở ruột non.
2.3.3. Gastrodiscoides hominis
2.3.3.1. Hình thái của Gastrodiscoides hominis
Gastrodiscoides hominis đồng nghĩa với Amphystomum hominis (Lewis
and Connell, 1876), Amphystomum hominis (Sonsino, 1895), Gastrodiscoides
hominis (Fischoeder, 1902) thuộc họ Paramphistomatidae. Sán có hình lê hay
trái tim, phía đầu thon nhỏ, phía sau phình rộng, màu đỏ, dài 6 – 8 mm, rộng 3
– 4 mm và dày 2 mm. Giác miệng nhỏ ở đỉnh đầu. Giác bụng rất lớn nằm ở
phần sau cơ thể. Hai tinh hoàn hình khối hay hình đĩa hay chia múi nằm ở giữa
thân. Tuyến noãn hoàng phân bố phía sau thân.
Trứng hình bầu dục, một đầu có nắp dài 0,150 mm, rộng 0,072 mm.
2.3.3.2 Chu trình phát triển của Gastrodiscoides hominis
Loss (1948) cho rằng cũng như loài Gastrodiscoides aegyptiacus phát
triển ở vật chủ trung gian là những động vật chân bụng Cleopatra bulimoides
9
và C. cyclostomoides và ốc Helicorbis coenosus. Cercaria hình thành ở môi
trường nước sau vài giờ thành Aldolescaria. Khi lợn và người ăn phải kén sẽ
phát triển thành sán trưởng thành.
2.4. Dịch tễ học
2.4.1. Nơi phát hiện
Việt Nam: Nam Bộ, Sài Gòn (1908, 1910, 1913), Nha Trang, Huế, Hà
Nội (1908, 1911, 1925, 1941, 1963, 1966), Hải Phòng (1911), Sơn La (1960),
Hà Bắc, Vĩnh Phú, Thái Bình, Ninh Bình, Hải Dương, Nam Định, Thanh
Hóa, Nghệ An, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Hưng Yên… [22].
Thế giới: Ấn Độ, Mianma, Thái Lan, Trung Quốc, Đông Dương,
Malaixia, Philippin… [14], [23].
2.4.2. Đặc điểm sinh học
Phát triển qua vật chủ trung gian là ốc họ Planorbidae (Parafossaraulus
haemisphaerula, Gyraulus chinensis ). Vật môi giới mang mầm bệnh là các

thực vật thủy sinh như bèo tấm, bèo Nhật Bản, bèo cái, rau lấp, rau muống,
rau dừa nước, bèo hoa dâu, bèo tai chuột, cây súng…[37].
2.4.3. Động vật cảm nhiễm
Động vật cảm nhiễm sán lá ruột lợn là: lợn nhà, lợn rừng, chó, hổ, thỏ,
trâu (Barlow, 1920; Ngô Quang 1937 - 1949 ; Tiền Trào, 1940; Trần Vượt
Thường, 1945….Người sống ở các nước nhiệt đới ẩm Đông Nam Á cũng
thường bị nhiễm sán lá ruột Fasciolopsis buski (Lý Như Thức, 1965; Pedro
Acha, 1989) [10], [11].
2.4.4. Vùng nhiễm bệnh
Ở nước ta bệnh do Fasciolopsis buski phân bố ở lợn khắp các vùng
nhưng lợn vùng đồng bằng mắc nhiều hơn cả 53,6 %. Vùng trung du số lợn
nhiễm có giảm đi 38,1 %. Ở vùng núi lợn bị bệnh ít hơn 8,3 % [8]. Lợn nuôi ở
vùng đồng bằng có tỷ lệ nhiễm sán lá ruột cao. Ở đồng bằng Sông Hồng lợn
bị nhiễm tới 57 %; ở miền núi lợn nhiễm 8 %. Các giống lợn, các lứa tuổi đều
bị nhiễm sán [28].
Vùng núi có tỷ lệ nhiễm 14,4 %, trung du 40,1 %, đồng bằng 50,7 %
(Bùi Lập, Phạm Văn Khuê, 1967; Phạm Văn Khuê, Phan Lục, 1970 - 1971 và
Phạm Văn Khuê, 1974). Cường độ nhiễm sán lá ruột của lợn cũng tăng dần từ
10
miền núi, trung du đến đồng bằng. Cường độ nhiễm ở miền núi 1- 6 con sán,
ở trung du 1 - 270 con sán và ở đồng bằng 1- 313 con sán / 1 lợn [11].
Ở miền Bắc tỷ lệ nhiễm sán lá ruột Fasciolopsis buski của đàn lợn là
62,1 %. Còn ở miền Nam tỷ lệ nhiễm sán lá ruột lợn là 65,8 % [15].
Tỷ lệ nhiễm sán lá ruột tăng dần từ miền núi đến đồng bằng
Miền núi nhiễm 8,3 %
Trung du nhiễm 38,1 %
Đồng bằng nhiễm 53,6 % [5].
Tỷ lệ nhiễm bệnh cũng cho thấy sự phân bố của sán lá có sự khác biệt
nhau giữa các loài theo vùng địa lý. Ở miền Nam sự phân bố của Fasciolopsis
buski thấp. Qua mổ khám 787 lợn ở 4 lứa tuổi Lương Văn Huấn và Lê Hữu

Khương (1990) cho biết tỷ lệ nhiễm ở lợn các tỉnh phía Nam là 3,4 %. Trong
đó Bình Trị Thiên (cũ) 46 %, Quảng Nam - Đà Nẵng 2,7 %, Phú Khánh (cũ)
2,7 % và có xu hướng tăng dần theo tuổi. Như vậy Fasciolopsis buski phân bố
nhiều ở các tỉnh phía Bắc và một số tỉnh miền Trung. Các tỉnh miền Tây có tỷ
lệ nhiễm rất thấp [5].
Trong khi đó các tỉnh Nam Bộ lợn nhiễm Echinostoma cao 5,8 % phân
bố ở Long An 33 %, Kiên Giang 25 %, thành phố Hồ Chí Minh 19,4 %,
Quảng Nam - Đà Nẵng 2,7 %, Phú Khánh 13,8 %, Đồng Nai 8 %, Sông Bé
3,2 %, Tây Ninh 0,8 %. Echinostoma rất ít gặp ở lợn các tỉnh phía Bắc. Đây
là đặc điểm phân bố riêng biệt của hai loài. Tỷ lệ nhiễm Echinostoma
malayanum tăng dần theo tuổi lợn [3], [5].
2.4.5. Tuổi nhiễm bệnh
Tỷ lệ nhiễm tăng dần theo tuổi. Theo số liệu điều tra của bộ môn ký sinh
trùng - Đại học Nông Nghiệp Hà Nội cho thấy lợn từ 3 - 12 tháng tỷ lệ nhiễm
tăng dần từ 74 %, 19 – 95 %, 72 %. Do bệnh không có miễn dịch hoàn toàn,
gia súc ở trong môi trường bị ô nhiễm luôn bị tái nhiễm, lợn ở lứa tuổi này
thường được ăn rau sống nhiều hơn trong khẩu phần [3]. Dưới 2 tháng tuổi
lợn đã nhiễm sán. Tuổi càng tăng mức độ nhiễm sán càng nhiều [8].
Dưới 2 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm 16,6 %
Từ 3 - 4 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm 45,8 %
Từ 5 - 7 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm 58,3 %
11
Trên 8 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm 70,8 % [5], [10], [11], [12].
Về tỷ lệ nhiễm theo tuổi, số đông tác giả cho là lợn từ trên 4 tháng tuổi
và những lợn nái, lợn đực giống có tỷ lệ nhiễm cao nhất (đến 90 %) [20].
Lợn nhiễm Echinostoma tăng dần theo tuổi
Dưới 3 tháng tuổi nhiễm 0,5 %
Từ 3 - 4 tháng tuổi nhiễm 5 %
Từ 5 - 7 tháng tuổi nhiễm 8,5 %
Trên 7 tháng tuổi nhiễm 8,8 % [5].

2.4.6. Giống nhiễm bệnh
Theo số liệu điều tra của trại thực hành thí nghiệm trên 200 lợn lai F1 từ
4 - 10 tháng tuổi, tỷ lệ nhiễm bệnh 100 %. Còn lợn Lang Hồng thuần cùng
tuổi tỷ lệ nhiễm bệnh thấp hơn (74 %) [3].
Mọi giống lợn ở nước ta đều bị nhiễm sán. Các giống lợn nội như Ỉ
Bắc Ninh, Ỉ Nam Định, Ỉ Quảng Hải, Móng Cái và Yorkshire đều cảm
nhiễm sán lá ruột mà không có sự chênh lệch đáng kể về tỷ lệ (Phạm Văn
Khuê, 1965) [8], [11], [20].
2.4.7. Điều kiện lây truyền bệnh
Các điều kiện lây truyền bệnh bao gồm nguồn tàng trữ và truyền mầm
bệnh, vật chủ trung gian, vật môi giới và tập quán ăn rau sống. Lợn và người
nhiễm sán là nguồn tàng trữ và gieo rắc mầm bệnh.
Ở các vùng đồng trũng, trồng lúa nước thường có tỷ lệ nhiễm sán lá ruột
ở lợn rất cao bởi vì có điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các loài ốc ký
chủ trung gian như Planorbis coenurus, Segmentina hemisphearula, Gyraulus
chinensis …Ốc sẽ giúp cho ấu trùng sán lá ruột lợn phát triển trong cơ thể
chúng cho đến giai đoạn cảm nhiễm. Các vùng đồng trũng, nhiều ao, hồ,
mương rạch cũng là điều kiện cho các cây cỏ thủy sinh phát triển mạnh và đa
dạng. Lợn và người ăn rau thủy sinh sống có kén bị nhiễm sán [11].
2.4.8. Mùa vụ phát bệnh
Ở nước ta cả bốn mùa lợn đều nhiễm bệnh. Song số lợn bị bệnh giảm
xuống ở tháng 5 - 6 (26 – 29 %). Những tháng tiếp theo tỷ lệ nhiễm sán tăng
dần. Đến tháng 9 - 10 tỷ lệ lợn nhiễm sán cao hơn cả (66 – 67 %). Những
tháng tiếp theo tỷ lệ này lại giảm dần cho đến tháng 5 năm sau [3], [8 ], [24].
12
Theo kết quả điều tra về tỷ lệ nhiễm sán của lợn qua các tháng trong
năm tại trại chăn nuôi Quang Trung (Đại Học Nông Nghiệp I), nông trường
Toàn Thắng (Hà Nội) và nông trường Thống Nhất (Hải Hưng) đã cho thấy tỷ
lệ nhiễm sán lá ruột của lợn gần như không có sự chênh lệch từ tháng 1 đến
tháng 12. Tỷ lệ nhiễm sán trung bình của lợn trong các tháng là: tháng 10 có

tỷ lệ nhiễm sán cao nhất 67 % và tháng 5 có tỷ lệ nhiễm thấp nhất 26 %
(Phạm Văn Khuê, 1968-1969) [11].
Theo Trần Tâm Đào (1965), vĩ ấu chui ra khỏi ốc có liên quan đến thời
tiết. Vào mùa xuân thấy có rất nhiều vĩ ấu chui ra, vào mùa hạ thì chui ra rất
ít, vào mùa thu thì ít hơn, vào mùa đông không thấy có vĩ ấu chui ra. Vĩ ấu
sau khi chui ra khỏi ốc thì rụng đuôi và hình thành kén Adolescaria bám ở củ
ấu, củ niễng….Ở Quảng Đông (Trung Quốc) thường thu hoạch củ ấu vào mùa
hè, khi thu hoạch nông dân nhất là trẻ em thường ăn sống củ ấu nên nuốt phải
kén Adolescaria vì thế mà mắc bệnh [20].
2.4.9. Phương thức cho ăn
Tỷ lệ lợn mắc bệnh còn phụ thuộc vào thức ăn sống hay chín, thức ăn
xanh dưới nước hay trên cạn. Lợn ăn sống các loại rau, bèo dưới nước bị
nhiễm sán nhiều so với lợn ăn các loại rau trên cạn và ăn chín [8], [20], [24].
Những vùng đồng bằng ruộng nước, có nhiều cây thủy sinh (rau, bèo)
làm thức ăn cho lợn, có môi trường sống thuận lợi cho các loài ốc thích hợp
với sự phát triển của sán lá ruột thì tỷ lệ nhiễm cao hơn [23].
Thí nghiệm của khoa chăn nuôi, Đại học Nông Nghiệp I (1968 - 1969)
thấy lợn ăn thức ăn xanh nấu chín tỷ lệ nhiễm sán từ 3,4 – 4 %; ăn rau sống và
thức ăn tinh ủ, tỷ lệ nhiễm sán từ 11 - 26,5 % và ăn rau sống với gạo nghiền,
tỷ lệ nhiễm sán từ 12,4 - 20,5 %. Kết quả thí nghiệm khẳng định lợn ăn rau
sống có tỷ lệ nhiễm sán cao hẳn lợn ăn rau xanh nấu chín (Phạm Văn Khuê,
1978) [5], [31]. Khi cho lợn ăn thức ăn sống thuộc các loại rau, bèo nước có
nhiều kén Aldolescaria lợn thường nhiễm sán lá cao hơn (từ ba đến bảy lần)
so với lợn ăn thức ăn chín [20].
Ngoài ra tình hình nhiễm sán còn phụ thuộc rất nhiều vào tình hình vệ
sinh thú y. Nếu nơi nào không bón phân lợn tươi thì tỷ lệ nhiễm sán lá ruột rất
thấp và ngược lại thì tỷ lệ nhiễm sẽ cao [20].
13
2.4.10. Sức đề kháng của trứng và kén trong điều kiện tự nhiên
Sức đề kháng của trứng Fasciolopsis buski không cao. Nếu ủ phân 18

ngày có thể diệt được trứng. Trứng sán bị diệt ở nhiêt độ trên 40
0
C và 5 ≥ pH
≥ 8 [8], [11], [24].
Sức đề kháng của kén Aldolescaria phụ thuộc vào môi trường. Nhiệt độ
trong nước từ 4 - 5
0
C kén tồn tại 25 ngày, ở 24 - 28
0
C trên 60 ngày, ở 32 - 39
0
C trên 90 ngày. Lấy kén để trong điều kiện khô và nhiệt độ 28 – 30
0
C thì chỉ
sống được 10 ngày.
Nếu Aldolescaria lấy từ cây cỏ dưới nước cho lên giấy thấm ướt giữ ở
nhiệt độ 28 – 30
0
C có thể sống trên dưới 10 ngày. Nếu kén bám ở cây cỏ ít
nước có ánh nắng chiếu trực tiếp, sau 10 phút kén mất sức sống [8], [11],
[20], [24].
2.4.11. Vật chủ trung gian và vật môi giới truyền bệnh sán lá ruột lợn
Quá trình phát triển của sán lá ruột cần có ký chủ trung gian là ốc và cây
cỏ ở nước làm vật môi giới truyền bệnh. Sán trưởng thành sống ở ruột non
của người hoặc lợn, sán đẻ trứng theo phân lợn và người ra ngoài, gặp điều
kiện thích hợp (nước, ánh sáng, nhiệt độ, pH ) nở thành Miracidium chui vào
ốc là ký chủ trung gian, phát triển thành bào ấu (Sporocyst), lôi ấu (Redia)
mẹ, lôi ấu (Redia) con, và vĩ ấu (Cercaria). Sau khi hình thành ở cơ thể ốc thì
vĩ ấu chui ra ngoài và rụng đuôi, bám vào cây cỏ ở nước thành nang kén
(Aldolescaria) [20].

Ký chủ trung gian của sán lá ruột là các ốc nước ngọt Planorbis
coenusus, Segmentina nitidella, S. calathus, S. schmachkeri, S.
hemisphaerula, Gyraulus saigonensis và Hippeulis cantori (Barlow, 1925);
Segmentina calathus (Wallace, 1936); S. largillierti (Nakagawa, 1922); H.
cantori, G. saigonensis (Ngô Quang, 1937) [8], [12], [20], [24].
Trần Tâm Đào (1956) cho biết các loài ốc đĩa bị cảm nhiễm ấu sán khá
cao. Điều tra 5.514 ốc H. umbilicalis, tỷ lệ nhiễm ấu sán tới 1,45 %; trong 105
ốc Segmentina hemisphaerula, tỷ lệ nhiễm tới 2,68 %, vì tỷ lệ ốc nhiễm ấu
sán cao nên tỷ lệ cây cỏ nước có mang nang ấu Aldolescaria cao [20].
Ở nước ta ký chủ trung gian của sán lá ruột lợn là Polypilis
hemispherula và Gyraulus chinensis [1]. Qua nghiên cứu 41365 ốc thuộc 14
14
loài thường phân bố ở ao, hồ, mương, cống rãnh, đồng ruộng…quanh khu vực
chăn nuôi gia đình vùng ngoại thành (Gia Lâm, Đông Anh) Hà Nội thì chỉ
phát hiện được 2 loài nhiễm Cercaria của sán lá ruột lợn là Polypilis
hemispherula (9,2 %) và Gyraulus chinensis (5,6 %) [25].
Theo Ngô Quang (1936 - 1938) các loại cây, cỏ sống dưới nước sau đây
có khả năng làm vật môi giới truyền bệnh: Eicchornia crassipes, Trapa
natans, Eliocharis tuberosa, Salvia natans, Lemna polyrhiza, Trapa natans
var (Wallace, 1936) [20].
Loài sán lá ruột Gastrodiscoides hominis ký sinh trên khỉ, hươu, cheo và
người. Kho dự trữ sán là lợn. Ký chủ trung gian là một ốc nước ngọt
Planosbis với các Aldolescaria bám vào các thực vật thủy sinh [33].
Về cây cỏ sống ở nước làm vật môi giới truyền bệnh sán lá ruột lợn, năm
1966, Phạm Văn Khuê đã làm thí nghiệm lấy ba loại rau muống, rau lấp, bèo
dâu được bón phân lợn tươi, cho 60 lợn ăn riêng từng loại thức ăn sống kể
trên, thì cả ba lô (53 con) đều bị nhiễm sán lá ruột; lô đối chứng ăn chín
không bị nhiễm. Chứng tỏ ba loại rau bèo trên đều có nang kén Aldolescaria.
Theo Trần Tâm Đào (1965) và Diêu Vĩnh Chính (1953), củ ấu (Trapa
natans), củ niễng (Eliocharis tuberose) và Zizania aquatica là vật môi giới

của sán lá ruột. Tác giả đã kiểm tra một củ ấu có tới 20 ốc bám, kiểm tra 10
củ ấu trung bình có 17,9 nang ấu, cá biệt có tới hơn 200 Aldolescaria. Có nơi
kiểm tra thấy 100 % củ ấu có chứa kén. Ở một vùng khác trung bình một củ
ấu có 105,8 kén, có khi tới 688 kén (Barlow, 1925).
Theo Hứa Bằng Như (1964), các loại cây cỏ thuỷ sinh khác như: bèo
Nhật Bản (Eichhornia crassipes Solm), tóc tiên nước (Vallisneria spiralis
Linn), bèo ong (Salvinia natans Hoffm), bèo dâu (Azolla pinnala R. Br), rong
đuôi chó (Geratophyllum demersum Linn), rong nhám (Hydrilla verticillata)
… đều là vật môi giới truyền bệnh sán lá ruột lợn [20].
2.5. Triệu chứng và bệnh tích
2.5.1. Triệu chứng
Lợn nhiễm sán còi cọc, thiếu máu, suy nhược do sán chiếm đoạt chất
dinh dưỡng… có những lợn vẫn ăn khỏe nhưng không lớn được, tăng trọng
thấp.
15
Lợn nái nuôi con bị nhiễm sán thì gầy còm, giảm sản lượng sữa, tỷ lệ lợn
con ỉa phân trắng cao.
Lợn ỉa chảy, phân nhão, tanh, da hơi thô, lông xù. Lợn ăn uống thất
thường, gầy còm, chậm lớn [8], [12], [24], [29].
2.5.2. Bệnh tích
Niêm mạc ruột non bị loét, tụ máu.
Ở những lợn trưởng thành 6 - 8 tháng thường thấy ruột non bị sùi lên,
niêm mạc ruột dày do tác động bám vào ruột và di chuyển của sán [12], [20].
2.6. Cơ chế sinh bệnh
Do sán lá ruột có giác bám to khỏe để bám vào thành ruột vật chủ, gây
tổn thương niêm mạc ruột mở đường cho vi khuẩn gây bệnh đường ruột phát
triển, tạo điều kiện cho việc nhiễm trùng thứ phát, gây viêm ruột cata.
Sán có kích thước lớn khi ký sinh với số lượng nhiều thường gây tắc
ruột.
Độc tố của sán tiết ra làm lợn trúng độc, còi cọc, chậm lớn, gầy yếu,

thiếu máu.
Sán chiếm đoạt chất dinh dưỡng làm lợn chậm lớn, khó vỗ béo [8], [10],
[11], [12], [20], [24].
2.7. Tác hại do sán gây ra
Tác hại của sán lá ruột phụ thuộc vào số lượng sán trong cơ thể lợn, tình
trạng sức khỏe và chăm sóc nuôi dưỡng. Theo kết quả thí nghiệm của
Iacovlev (1963), Nguyễn Văn Quang (1966) lợn mắc sán nhẹ mỗi tháng giảm
tăng trọng khoảng 1 kg, lợn mắc nặng thì giảm đến 3 kg [5], [20].
Tác hại lớn nhất của bệnh là làm lợn sinh trưởng chậm. Trung bình một
sán làm giảm 1,86 - 2,57 g thịt trong một ngày. Lợn nái nhiễm bệnh thường
gầy còm, thiếu sữa, lợn con dễ mắc bệnh ỉa phân trắng, ỉa chảy, còi cọc, tỷ lệ
chết cao khi cai sữa.
Hứa Như Bằng (1964) cho biết bệnh tác hại nhiều đối với lợn con, ảnh
hưởng tới tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ chết cao. Lợn con sau khi cai sữa từ 1 - 2
tháng có thể mắc bệnh, nuôi 5 - 6 tháng trọng lượng chỉ được 13 – 35 kg [20].
Theo Phan Địch Lân và Lê Hồng Căn (1978) theo dõi đàn lợn nhiễm sán
và lợn không nhiễm sán ở nông trường An Khánh thấy lợn bị nhiễm sán giảm
16
tăng trọng 8 - 10 kg trong thời gian 3 tháng [10], [11].
2.8. Chẩn đoán
2.8.1. Chẩn đoán bằng xét nghiệm phân
Phương pháp chẩn đoán chủ yếu để phát hiện trứng sán lá ruột lợn là sử
dụng phương pháp lắng cặn để tìm trứng trong phân. Phương pháp này dựa
vào sự chênh lệch tỷ trọng của trứng sán lá ruột lợn với nước lã (d = 1) để
tách trứng ra khỏi phân.
2.8.2. Chẩn đoán bằng kháng nguyên tiêm nội bì
Có thể chế kháng nguyên từ sán Fasciolopsis buski trưởng thành, pha
thành nồng độ 1/250 tiêm nội bì. Phương pháp này cho kết quả tốt có thể chẩn
đoán được khi sán còn non chưa đẻ trứng. Tuy nhiên khó thực hiện trong sản
xuất vì phương pháp này đòi hỏi sử dụng kỹ thuật phức tạp, tốn công sức

[10].
Cách tiến hành: lấy kháng nguyên tiêm vào nội bì của con vật cần chẩn
đoán. Sau 10 - 20 phút nơi tiêm có phản ứng sưng đỏ là dương tính, ngược lại
là âm tính [10], [28].
2.9. Biện pháp phòng trừ
2.9.1. Tẩy trừ sán cho lợn
Căn cứ vào thời gian từ kén Aldolescaria phát triển thành sán trưởng
thành, thời gian tẩy thích hợp là 90 ± 6 ngày. Nên tẩy sán trước ngày 84 và
không quá ngày thứ 96. Thời gian tẩy tốt nhất là trước lúc sán trưởng thành
chưa kịp đẻ trứng, tránh gieo rắc mầm bệnh ra ngoài môi trường và hạn chế
tác hại của sán [3].
Đối với lợn nái tẩy 1 lần/năm, thời gian tẩy là sau khi cai sữa và trước khi
phối giống.
Có thể sử dụng một số loại thuốc tẩy sau
Vime - Ono: 1 g/10 - 15 kg P, uống một liều duy nhất.
Vimedazol: 1 g/10 kg P, uống một liều duy nhất.
Chú ý: không sử dụng cho gia súc già và gia súc đang mang thai.
Han - Dertil – B: 1 viên/50 kg P.
Bioxinil: 1ml/25 kg P.
Ngoài ra có thể sử dụng bài thuốc Nam
17
Vỏ rễ lựu 40 g
Đại hoàng hoặc chút chít 10 g
Hạt cau già 1 g
Nước 750 ml
Sắc lên lấy 30 ml, chia làm 3 lần uống, mỗi lần cách nhau nửa giờ. Sau 3 - 4
giờ sán sẽ ra. Nếu lợn con từ 15 - 20 kg thì chỉ cần dùng nửa liều trên.
Chú ý: vỏ rễ lựu rất độc, khi sử dụng phải cẩn thận. Nếu tẩy đại trà cho nhiều
lợn nên tẩy thí điểm trước vài con để rút kinh nghiệm rồi mới dùng tẩy cho
nhiều con khác [6].

Ở Trung Quốc thường dùng hạt cau (Areca catechu) để chữa sán lá ruột
đạt kết quả cao. Dùng hạt cau già với liều 1g cho 1kg cân nặng của bệnh
nhân. Hạt cau được sắc và loại bỏ các chất chát (cho một lòng trắng trứng vào
nước sắc hạt cau khi sôi, các chất bám vào lòng trắng trứng và vớt bỏ lòng
trắng). Sau khi uống nước sắc hạt cau sẽ tẩy được sán lá ruột [19].
2.9.2. Xử lý phân để diệt trứng sán
Đây là biện pháp có hiệu quả nhằm cắt đứt một khâu trong chu trình
khép kín của sán lá ruột.
Sức đề kháng của trứng không mạnh lắm, nếu đem ủ phân trong 18 ngày
có thể diệt được trứng (Barlow, 1925). Theo kết quả nghiên cứu của Phạm
Văn Khuê, ủ phân nhiệt độ từ 50 - 54
0
C thì diệt được trứng sán. Trứng sán bị
diệt trong khoảng vài giờ đến 2 - 3 ngày khi tiếp xúc với vôi ở trong phân
theo tỷ lệ 1/1000 - 1/10000 [20].
Những cơ sở chăn nuôi lợn hàng ngày phải thu dọn và ủ phân trước khi đem
bón ruộng [1], [13].
Công thức ủ phân có tác dụng diệt trứng là:
Phân chuồng 2000 kg
Lá xanh 250 - 300 kg
Vôi bột 50 – 80 kg
Xếp những thứ này thành lớp. Một lớp phân ủ một lớp vôi và một lớp lá
xanh, xếp thành đống, ngoài trát bùn. Cách ủ này có thể làm nhiệt độ trong
đống phân tăng lên đến 50
0
C trong khoảng 12 ngày, có tác dụng diệt trứng
Fasciolopsis buski. Những nơi có điều kiện có thể xây bể lắng chứa phân,
18
nước tiểu, nước rửa chuồng, nước cống rãnh rồi cho vôi vào sao cho pH ≥ 8 ,
sau 10 ngày trứng Fasciolopsis buski bị diệt.

Ngoài ra có thể xây bể Biogas và bổ sung chế phẩm EM vào nước bể.
Chế phẩm EM có tác dụng làm giảm độ pH của nước nhưng làm lượng khí
trong bể tăng lên. Ở bể biogas có EM 1 %, sau 20 ngày trứng sán bị mất màu,
một số trứng tan rữa. Với nồng độ EM 5 %, sau 10 ngày trứng không biến
dạng, nhưng nhạt màu, tế bào của nhiều trứng tan rữa. Sau 20 ngày trứng mất
màu, tế bào của đa số trứng tan rữa hoàn toàn. Trứng ngâm 10 ngày, ở nồng
độ EM 1 % chỉ có 24,6 % trứng phát triển được tới Miracidium, thời gian
trứng phát triển hết 18 ngày. Ngâm 20 ngày, không trứng nào phát triển. Ở
nồng độ 5 %, không có trứng nào phát triển được tới Miracidium. Chế phẩm
EM có tác dụng rút ngắn thời gian diệt trứng Fasciolopsis buski. So sánh với
kết quả lưu giữ trứng trong bể không bổ sung EM, thì ở mức bổ sung EM 1 %
thời gian diệt trứng Fasciolopsis buski đã rút ngắn được 10 ngày, EM 5 % rút
ngắn được 20 ngày [26].
2.9.3. Diệt ốc ký chủ trung gian
Diệt vật chủ trung gian là một mắc xích quan trọng vì không có vật chủ
trung gian sán lá ruột không thể phát triển và gây bệnh được. Tiêu diệt vật chủ
trung gian là làm mất một mắc xích quan trọng trong toàn bộ chu trình đó.
Ở nước ta ký chủ trung gian phổ biến của Fasciolopsis buski là Polypilis
và Gyraulus. Để diệt ký chủ trung gian có thể dùng những biện pháp sau:
Dùng vôi bột (CaO), sunfat đồng (CuSO
4
) một số loại phân hóa học
như sulphat amon [(NH
4
)
2
SO
4
], sulphat kali (K
2

SO
4
)
Dùng vôi bón ruộng rau để diệt ốc vật chủ trung gian 40 - 50 kg vôi bột
trên 360 m
2
.
Nước vôi 5 – 10 %, sunlfat đồng (CuSO
4
) 5/10.000 có tác dụng diệt các
loài ốc ký chủ trung gian trong tự nhiên. Những nơi có điều kiện thì nên sử
dụng biện pháp này diệt ốc ký chủ trung gian trong các ruộng trồng rau thủy
sinh cho lợn và người. Nhưng cần chú ý, sunlfat đồng có thể gây ô nhiễm và
độc cho người và súc vật. Ở nước ta, việc thực hiện biện pháp diệt ốc ký chủ
trung gian rất khó khăn, chưa khắc phục được [30]. Nuôi những con vật ăn ốc
(vịt, ngan, ngỗng ) hoặc luân phiên trồng cây thức ăn. Thay ruộng trồng rau
19
bèo có nước thành ruộng trồng cây cạn để ký chủ trung gian không tồn tại [8],
[24]. Sử dụng bón phân chéo bằng cách bón phân bò cho cây thức ăn lợn.
Định kỳ tiêu độc chuồng trại bằng nước vôi 10 %.
2.9.4. Chăm sóc nuôi dưỡng
Cho súc vật ăn đủ chất. Ở những vùng có bệnh thức ăn phải nấu chín
hoặc xử lý đảm bảo không còn kén Aldolescaria có sức gây bệnh.
Không cho động vật uống nước ao hồ tù hãm. Những cống rãnh gần nơi
uống nước phải được bao vây, giữ khô ráo, sạch sẽ. Máng nước phải sạch, sau
mỗi lần uống phải rửa sạch và để khô. Những chỗ nước đọng gần nơi uống
nước nên lấp bằng, những bãi chăn ẩm ướt cần tiêu nước [8], [24].
2.10. Sán lá ruột ở người
Đặng Văn Ngữ và Galliard (1941) thấy năm trường hợp ở người trong 5
năm [10]. Những tài liệu nước ngoài cho biết sán này khá phổ biến ở người

Trung Quốc, tỷ lệ nhiễm cao và gây bệnh nặng. Có vùng có đến 65 % người
mắc bệnh sán lá ruột, trẻ em mắc nhiều hơn người lớn và phụ nữ mắc nhiều
hơn nam giới [23]. Ở Quảng Châu người nhiễm 10 – 15 % (Trần Tâm Đào
1935), Quang Tắc Đạt điều tra ở Tân Hội thấy người nhiễm 82 – 83 %. Theo
Ngô Quang 1938 cho biết ở Triết Giang người mắc 36 %. Theo Đỗ Dương
Thái (1959) tỷ lệ người Việt Nam nhiễm sán lá ruột khoảng 0,08 % [20].
Theo Vogel (1936) thời gian hoàn thành vòng đời của sán ở cơ thể người
là mười tuần lễ. Năm 1925, Barlow đã dùng thuốc tẩy sán cho một em bé gái
chín tuổi ở Trung Quốc, tẩy ra 3721 con sán lá ruột, đó là mức nhiễm cao
chưa từng thấy. Theo Trang Bạch (Trung Quốc, 1956) cho biết ở Tân Hội
trong số 65 bệnh nhân bị bệnh sán lá ruột thì tỷ lệ chết 21,5 % [20].
Sán lá ruột phân bố từ miền trung Trung Quốc đến Bengal và nhiều nước
ở bán đảo India. Stoll (1947) ước tính rằng có khoảng 10 triệu người nhiễm
sán phần lớn là người Trung Quốc. Barlow cho biết có nhiều làng mạc ở
Trung Quốc tỷ lệ người nhiễm 100 % [5]. Tại Trung Quốc, có nơi trẻ nhiễm
đến 80 – 86 %; tại Thái Lan, bệnh sán lá ruột chiếm đến 10 % số ca nhiễm ký
sinh trùng này ở đường ruột (Wiwanitkit và cộng sự, 2002) [35].
Theo Mao Thủ Bạch (1964), bệnh sán lá ruột ở người thường có tỷ lệ
cao ở lứa tuổi 15 - 20 tuổi, sau đó thì giảm dần theo sự tăng của tuổi [20].
20
Hiện nay số người nhiễm Fasciolopsis buski trên thế giới khoảng 100 triệu
người (Pedro, 1987) [3], [ 5].
Tại Việt Nam, thời gian từ năm 2000 - 2005, 16 tỉnh, thành trong cả
nước có người nhiễm sán lá ruột lợn Fasciolopsis buski (Yên Bái, Tuyên
Quang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Phú Thọ, Quảng Ninh, Bắc Giang, Hà Tây, Nam
Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Huế, Đắc Lăk, Cần Thơ và An
Giang. Tỷ lệ nhiễm chung trung bình là 1,23 % (0,16 – 3,82 %)). Sán lá ruột
trưởng thành thu thập từ bệnh nhân khi điều tra tại 7 tỉnh, thành Nam Định,
Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Cần Thơ và An Giang đã
được xác định loài là Fasciolopsis buski qua phương pháp hình thái học và

sinh học phân tử [35].
Người bị nhiễm sán bị thiếu máu, gầy còm, đau bụng, ỉa chảy, phù toàn
thân. Nếu nặng có thể chết [5], [8], [24].
Tính cảm nhiễm và miễn dịch
Khi nhiễm sán lá ruột, ngoài những tổn thương tại ruột là nơi ký sinh của
sán, những độc tố tiết ra từ sán sẽ gây rối loạn chung có thể làm phù nề toàn
thân, tràn dịch ngoại tâm mạc, biến đổi tổ chức ở lách. Bệnh nhân thường bị
thiếu máu, số lượng hồng cầu giảm, huyết cầu tố giảm, bạch cầu toan tính
tăng lên. Cũng như nhiễm sán lá gan lớn, khi nhiễm sán sau 2 tuần, cơ thể
xuất hiện kháng thể kháng sán lá ruột trong huyết thanh của người bệnh [35].
Để phòng bệnh trong các vùng có sán lá ruột lưu hành, cần phổ biến các
biện pháp phòng bệnh cho người như ăn chín uống sôi, hạn chế ăn rau sống,
không nên ăn thực vật thủy sinh sống hoặc chưa được nấu chín. Không dùng
phân chưa ủ để bón ruộng. Khi có các biểu hiện lâm sàng nghi nhiễm sán lá
ruột, cần đến khám và điều trị tại các cơ sở chuyên khoa ký sinh trùng [17].
21
PHẦN 3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Lợn nuôi tại nông hộ ở 4 xã Phú Thượng, Phú Dương, Phú Mậu, Phú
Mỹ huyện Phú Vang - Tỉnh Thừa Thiên Huế .
3.2 Thời gian nghiên cứu
- Đề tài được tiến hành từ ngày 05/01/2009 đến ngày 09/05/2009 .
3.3 Địa điểm nghiên cứu
- Đề tài được tiến hành trên địa bàn 4 xã Phú Thượng, Phú Dương, Phú
Mậu, Phú Mỹ của huyện Phú Vang - Tỉnh Thừa Thiên Huế. Mẫu được xét
nghiệm tại phòng thí nghiệm ký sinh trùng khoa Chăn Nuôi Thú Y - Trường
Đại học Nông Lâm Huế .
3.4 Nội dung nghiên cứu
- Tình hình nhiễm sán lá ruột lợn ở 4 xã Phú Thượng, Phú Dương, Phú
Mậu, Phú Mỹ của huyện Phú Vang - Tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Nghiên cứu sự phát triển của mầm bệnh sán lá ruột lợn ở môi trường
nuôi và trong ốc vật chủ trung gian.
- Đánh giá hiệu quả của thuốc Bioxinil và Vime - Ono tẩy sán lá ruột
lợn.
3.5 Chỉ tiêu nghiên cứu
- Tỷ lệ nhiễm sán lá ruột lợn ở 4 xã Phú Thượng, Phú Dương, Phú Mậu,
Phú Mỹ của huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm sán lá ruột lợn ở các nhóm tuổi: sơ
sinh đến 2 tháng tuổi, trên 2 tháng tuổi đến 4 tháng tuổi, trên 4 tháng tuổi đến
6 tháng tuổi, trên 6 tháng tuổi đến 12 tháng tuổi và trên 12 tháng tuổi.
- Tỷ lệ nhiễm sán lá ruột theo tính biệt .
- Tỷ lệ nhiễm sán lá ruột theo phương thức cho ăn.
- Sự phát triển của trứng sán lá ruột trong các môi trường: nước cất, nước
hồ, nước muối 0,5 %, nước muối 0,9 %.
22
- Sự phát triển của ấu trùng sán lá ruột trong ốc vật chủ trung gian.
- Mật độ ốc và tỷ lệ ốc nhiễm ấu trùng sán lá ruột lợn trong tự nhiên.
- Tỷ lệ ra sán lá ruột lợn.
- Tỷ lệ sạch sán lá ruột sau khi tẩy.
3.6 Phương pháp nghiên cứu và vật liệu nghiên cứu
3.6.1 Phương pháp lấy mẫu
- Chọn gia súc ngẫu nhiên, lấy mẫu từng cá thể, phân do lợn mới thải ra.
Lấy nhiều điểm trên đống phân, không lấy phần tiếp xúc với mặt đất, mỗi
mẫu lấy 10 – 15 g, cho vào túi nilon có ghi đầy đủ thông tin: số mẫu, địa
điểm, tên chủ hộ, giống, tính biệt, tuổi…và các thông tin khác được ghi trong
sổ số liệu thô.
3.6.2 Phương pháp kiểm tra mẫu
- Phương pháp lắng cặn (Sedimentation method)
+ Nguyên lý : dựa vào sự chênh lệch tỷ trọng của trứng với nước lã (d
=1) để tách trứng ra khỏi phân.

+ Các bước tiến hành :
Bước 1: lấy 5 - 10 g phân cho vào cốc thuỷ tinh, cho vào một lượng
nước vừa để khuấy tan phân, lọc qua rây vào cốc tam giác ta được dung dịch
lọc.
Bước 2:
- Đổ nước vào đến vạch 500 ml, chờ trong thời gian 15 – 30 phút sau đó
đổ nước ra.
- Đổ nước vào chờ thời gian t2 < t1,làm như vậy 3 - 5 lần cho 1 mẫu.
Bước 3: sau khi đổ nước lần cuối ra,đổ cặn vào đĩa petri rồi nhỏ một giọt
xanh methylen vào để nhuộm màu các cặn và dễ phân biệt trứng sán.
Bước 4: dùng ống hút nhỏ hút cặn lên lam kính, đặt lamen lên và kiểm
tra dưới kính hiển vi.
Bước 5: đọc và ghi kết quả.
3.6.3 Tính mật độ ốc vật chủ trung gian
23
- Dùng 4 m dây và 4 cọc nhỏ. Khi xuống ruộng cắm 4 cọc và giăng dây
tạo thành hình vuông có diện tích 1 m
2
, đếm số ốc trong ô. Tính mật độ ốc ở 5
điểm khác nhau sau đó tính mật độ ốc trung bình.
3.6.4. Phương pháp mổ ốc
Ốc bắt về đem mổ, bỏ phần vỏ và phần miệng. Lấy phần gan tụy ốc
nghiền với nước sinh lý 0,9 % đem soi dưới kính hiển vi tìm ấu trùng.
3.6.5. Phương pháp nuôi trứng
3.6.5.1. Chuẩn bị trứng
Lấy một lượng phân lớn của những con đã xét nghiệm thấy có nhiều
trứng sán lá ruột lợn, sử dụng phương pháp lắng cặn nhiều lần. Lấy phần cặn
kiểm tra lại để tìm sán lá ruột.
3.6.5.2. Nuôi trứng
Phần cặn sau khi kiểm tra có nhiều trứng sán lá ruột được cho vào các

môi trường: nước hồ, nước cất, nước muối 0,5 %, nước muối 0,9 %. Hàng
ngày theo dõi nhiệt độ, độ ẩm của phòng nuôi, pH của môi trường, sự biến đổi
của trứng và ấu trùng.
3.6.6. Phương pháp nuôi ốc gây nhiễm
3.6.6.1. Chuẩn bị ốc
Ốc vật chủ trung gian bắt ở những vùng khi kiểm tra không tìm thấy ấu
trùng sán lá ruột lợn. Sau đó bắt 500 ốc về nuôi trong nước sạch để kiểm tra
dần, mỗi lần kiểm tra 50 ốc và kiểm tra 3 lần nếu không tìm thấy ấu trùng sán
lá ruột trong ốc thì số còn lại sử dụng để nuôi ốc gây nhiễm.
3.6.6.2. Nuôi ốc
Ốc vật chủ trung gian bắt ở các ao hồ trên địa bàn huyện Phú Vang
được cho vào chậu thuỷ tinh. Thả thêm rong, bèo sạch vào cho ốc bám và làm
thức ăn, để chậu ở nơi có ánh sáng thường xuyên. Hàng ngày theo dõi nhiệt
độ, độ ẩm, pH của môi trường, sự phát triển của ốc. Mổ ốc kiểm tra sự thay
đổi của ấu trùng sán lá ruột.
3.6.7. Thu thập kết quả

24
Tỷ lệ nhiễm =
Số mẫu dương tính
* 100
Số mẫu kiểm tra

Cường độ nhiễm
1 - 5 trứng / 1tiêu bản +
6 - 10 trứng / 1 tiêu bản + +
> 10 trứng / 1 tiêu bản + + +
Tỷ lệ ra sán =
Số lợn tẩy có ra sán
* 100

Tổng số lợn được tẩy
Tỷ lệ sạch sán =
Số lợn tẩy ra sạch sán
* 100
Tổng số lợn được tẩy
3.6.8. Vật liệu và dụng cụ nghiên cứu
3.6.8.1 Thuốc tẩy Vime - Ono
Vime – Ono là thuốc tẩy sán lá ruột lợn do công ty cổ phần vật tư và thuốc
thú y Vimedim sản xuất.
Tính chất: Trong 100 g có 50 g Bithionol
Tác dụng: tiêu diệt các loài giun tròn, sán dây, sán lá ruột lợn, sán lá gan. Tiêu
diệt giun sán ở cả 3 giai đoạn phát triển: trứng sán - ấu trùng - giun sán trưởng
thành.
Liều lượng và cách sử dụng: cho từng cá thể uống trực tiếp hoặc trộn vào thức
ăn, cho uống một liều duy nhất, 4 - 6 tuần sau lặp lại một lần. Sau đó cứ mỗi 4
tháng cho lợn uống lại một lần.
Lợn 1 g/10 - 15 kg P
3.6.8.2. Thuốc tẩy Bioxinil
Bioxinil là thuốc tẩy sán lá ruột do công ty Bio – Pharmachenic sản xuất.
25

×