Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

cặp phạm trù khả năng-hiện thực trong triết học mác-lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 45 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC- NĂM HỌC 2013-2014
BÀI TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CẶP PHẠM TRÙ KHẢ NĂNG-HIỆN THỰC
TRONG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VÀ Ý NGHĨA
CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC ĐỊNH HƯỚNG NHẬN
THỨC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐH KHOA HỌC
XÃ HỘI & NHÂN VĂN HIỆN NAY
GVHD: Th.S. CAO THỊ CHÂU THỦY
MÃ LỚP: 04
NHÓM MẶT TRỜI
1
Danh Sách Nhóm
1. Lê Thị Ngọc Anh 1256070040 6. Nguyễn Quậy 1256070060
2. Trần Thị Cẩm Tú 1256070060 7.Cao Thị Anh Thư 1256070068
3. Nguyễn Thị Hà 1256070047 8. Nguyễn thị Bảo Trân1256070034
4. Lê Đăng Thân 1256070065 9. Phạm Thị Thu Thảo 1256070067
5. Ngô Trung Phát 1256070057 10. Trương Hoàng Nam 1256070018
11. Phạm Huy Bình 1256070003
2
LỜI CAM ĐOAN
Chúng tôi xin cam đoan những kết quả nghiên cứu trong đề tài này hoàn
toàn mới và do chính nhóm tác giả thực hiện.
Công trình này được thực hiên với sự đảm bảo về đạo đức nghiên cứu trong các
giai đoạn: (1) Xác định đề tài nghiên cứu, (2) Thiết kế nghiên cứu, (3) Thu thập dữ
liệu, (4) Xử lý , lưu trữ dữ liệu, (5) Phân tích dữ liệu và báo cáo kết quả nghiên
cứu.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng11 năm 2013
Tác giả
Nhóm Mặt Trời


3
LỜI CẢM ƠN
Nhóm Mặt Trời xin gửi lời sâu sắc đến Th.S Cao Thị Châu Thủy, giảng viên
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh, bộ môn phương
pháp nghiên cứu khoa học. Chúng em nhận ra rằng khó có lời tri ân nào xứng đáng
với sự tận tâm của cô trong suốt quá trình hướng dẫn nhóm hoàn thành bài nghiên
cứu này. Nhóm đã học hỏi được từ cô những kiến thức, kỹ năng nghiên cứu khoa
học quý giá cũng như thái độ, đạo đức cần có của một người làm nghiên cứu khoa
học. Những điều ấy vô cũng hữu ích không chỉ cho đề tài này mà còn cho những
nghiên cứu khoa học khác của nhóm trong tương lai.
Nhóm xin cảm ơn đến tất cả các bạn trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn đã hỗ trợ nhóm trong việc điền bảng khảo sát. Sự khích lệ của cô và sự giúp đỡ
của các bạn là động lực to lớn để nhóm đi đến tận cùng nghiên cứu này.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 11năm 2013
Tác giả
Nhóm Mặt Trời

4
Danh sách các thuật ngữ viết tắt
KN: Khả năng
HT: Hiện thực
MQH: Mối quan hệ
ĐH KHXH & NV: Đại học khoa học xã hội và nhân văn
KHKT: Khoa học kĩ thuật
KHCN: Khoa học công nghệ
SV: Sinh viên
BĐ: Biểu đồ
HCM: Hồ Chí Minh
5
MỤC LỤC

I. Phần mở đầu.

II. Phạm trù Khả năng và hiện thực.
1. Phạm trù Khả năng và Hiện thực trong một số ngành khoa học.
2. Phạm trù Khả năng và Hiện thực trong lý luận Mác-Lênin.
III. Phân loại khả năng.
IV. Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực
.
V. Vai trò của các điều kiện khách quan và chủ quan trong sự chuyển biến
từ khả năng đến hiện thực.
VI. Vận dụng cặp phạm trù “Khả năng – Hiện thực” để phân tích ý nghĩa của
nó trong việc định hướng nhận thúc của sinh viên trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh.
VI.1 Nhận thức của sinh viên về cặp phạm trù khả năng và hiện thực.
VI.2 Khả năng và hiện thực trong hoạt động học tập, cơ hội việc làm
trong tương lai của sinh viên.
VI.3 Khả năng và hiện thực trong hoạt đông đời sống của sinh viên
VII. Kết luận và kiến nghị
6
Danh sách các biểu đồ, bảng Trang
- Biểu đồ 1: Biểu đồ thể hiện nhận thức của sinh viên về phạm trù KN.…….
- Biểu đồ 2: Biểu đồ thể hiện nhận thức của sinh viên về phạm trù HT……
- Biểu đồ 3: Biểu đồ so sánh nhận thức về điều kiện chuyển biến KN
thành HT…………………………………………………………………….
- Biểu đồ 4: Lí do mà bạn chon ngành đang theo học………………………
- Biểu đồ 5: Cơ hội nghề nghiệp trong tương lai……………………………
- Biểu đồ 6: Thành công có kèm theo may mắn ……………………………
- Biểu đồ 7: Hoạt động thực tiễn cần dựa vào………………………………
- Bảng 1: Các con đường hình thành khả năng……………………………
- Bảng 2: Sự ảo tưởng của các bạn trẻ về KN đôi với bản thân mình……

- Bảng 3 Các KN cần chú ý để biến thành HT một cách dễ dàng………….

I.Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
7
Giá trị của một học thuyết, một tư tưởng là ở tính định hướng khoa học và sự
vận dụng của nó vào trong hoạt động thực tiễn, giúp con người vươn lên làm chủ
tự nhiên xã hội và bản thân mình. Triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập
thuộc loại học thuyết như vậy.Trong “Luận cương về Phơbác” C.Mác đã nhấn
mạnh ý nghĩa cải tạo thế giới của triết học mới, khác với các học thuyết trước đây
chỉ dừng lại ở “giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau”.
Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, xuất phát từ tiền đề
kinh tế chính trị xã hội, các tiền đề khoa học tự nhiên, và các tiền đề lý luận. Cần
khẳng định rằng triết học Mác cũng như mọi triết học, không thể xuất hiện một
cách tự phát. Để nó xuất hiện được, cần có một khối lượng không lồ công việc
khoa học, sự hoạt động thường xuyên, đầy trách nhiệm với cường độ cao của tư
duy nghiên cứu, sự nắm vững về mặt lý luận, những thành quả mang tính thời đại
của khoa học, và kinh nghiệm đấu tranh giai cấp. Bước ngoặc cách mạng trong
triết học gắn liền một cách biện chứng với việc khai thác các thành tựu của tư duy
lý luận về văn hóa của quá khứ, cũng như những truyền thống tốt đẹp nhất. Thành
tựu của tư tưởng thời trước, trong đó có triết học hàm chứa nhiều vấn đề đòi hỏi
phải được giaỉ đáp theo tinh thần đó, cũng khai phá những hạt nhân hợp lý, mà các
thế hệ trước để lại cho thời đại sau, biến những hạt nhân ấy thành các yếu tố tích
cực trong điều kiện lịch sử mới. Như vậy C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng học
thuyết của mình trên mảnh đất hiện thực, nhưng đó không phải là mảnh đất hoàn
toàn tách biệt, mà nó được vun xới, khai thác từ những thế hệ đã qua. Và chính
mảnh đất hiện thực đó được hình thành từ những tiền đề (các yếu tố tạo nên khả
năng) có tính khoa học lịch sử như vậy nên nó mang tính khách quan.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới có nhiều thuận lợi nhưng
cũng không ít khó khăn, thời đan xen cơ hội và thách thức. Quá trình công nghiệp

hóa hiện đại hóa đòi hỏi đào tạo nguồn nhân lực có trí tuệ cao là bản lĩnh chính trị
vững vàng nhất là nguồn nhân lực trẻ. Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ IX của
Đảng Cộng Sản Việt Nam vạch rõ rằng đối với thế hệ trẻ cần “chăm lo giáo dục,
bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống,
văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài năng và sáng
tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc”. Để
thực hiện tốt nhiệm vụ ấy, một trong những điều cần thiết căn bản là định hướng
thế giới quan và phương pháp luận, vạch ra những mục tiêu lý tưởng, tạo dựng một
tinh thần lành mạnh cho thế hệ hệ trẻ.
Hơn thế nữa, quá trình toàn cầu hóa, tính chất hai mặt của nền kinh tế thị trường
tác động thường xuyên, phức tạp, đa diện , đa chiều đến giới trẻ, gây nên những
8
diễn biến tâm lý, tinh thần hết sức mâu thuẫn. Trong bối cảnh ấy việc tìm hiểu và
học tập các giá trị truyền thống của dân tộc, các di sản của chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh có vai trò hết sức quan trọng. Đặc biệt hơn nữa, trong giai
đoạn hội nhập quốc tế toàn cầu hiện nay, việc nhận thức đúng đắn khách quan vị trí
của mình của mỗi cá nhân, tổ chức sẽ là cơ sở định hướng cho các hoạt động thực
tiễn của con người, giúp con người có những hoạt động học tập cũng như thực tiễn
phải được điều chỉnh và dựa theo những chuẩn mực nhất định. Người ta vẫn nói
nhiều về khái niệm khả năng và hiện thực, vậy ta nên hiểu nó như thế nào? Có sự
khác biệt nào giữa những lý thuyết trên sách vở và trong đời sống thực tại, đặc biệt
là đối với sinh viên trong việc vận dụng, áp dụng đưa ra những quan điểm, cách
nhìn nhận vấn đề cũng như những suy nghĩ về tương lai dựa vào cách tiếp cận cặp
phạm trù này. Phải chăng thế hệ trẻ nói chung có cái nhìn mới mẻ và năng động,
linh hoạt hơn trong học tập cũng như xác định mục tiêu, ước mơ của mình.
Người ta vẫn thường nói một giọt nước không thể làm nên đại dương, một hạt
cát không thể lấp đầy một sa mạc, một mầm cây không thể phủ kín một cánh rừng
nhưng một ước mơ bé nhỏ có thể làm thay đổi cả cuộc đời. Mọi thành công đều
nảy mầm từ ước mơ, dù nhỏ bé hay lớn lao thì ước mơ hoài bão là gia vị không thể
thiếu trong cuộc đời của mỗi con người, để ước mơ đó trở thành hiện thực không

phải là một chuyện dễ dàng. Mà nó phải được xây dựng trên khả năng của con
người thông qua hoạt động học tập, làm việc và nghiên cứu. Thành công đơm hoa
kết trái dựa vào khả năng của chính mình, phù hợp với thực tiễn cuộc sống lúc bấy
giờ sẽ có giá trị lớn lao và mang lại niềm vui thực sự. Khác với những thành công
mà chà đạp lên khả năng, lợi dụng trí tuệ, phẩm hạnh của người khác thì sẽ không
mang giá tri lâu bền. Thế nhưng khả năng sẽ chỉ mãi là khả năng nếu con người
không biết vận dụng vào cuộc sống thực tiễn. Một người nếu nắm bắt được những
cơ hội cuả cuộc sống đem lại dựa vào khả năng của mình để biến những cơ hội
thành hiện thực là một người thông minh.
Thực tế cho thấy trong xã hội bây giờ có một số bộ phận không nhỏ cá nhân có
nhận thức sai lệch về lối sống, nhận thức thế giới quan, thực dụng ham thích hưởng
thụ, mong muốn thành công nhưng không chịu cố gắng, sử dụng “quyền và tiền”
để đạt được mục đích và giới trẻ không phải là ngoại lệ. Đó là lí do tại sao nổi cộm
lên những vấn đề nhức nhối của xã hội: tham nhũng, các biểu hiện suy thoái đạo
đức, bệnh thành tích trong hệ thống giáo dục và bộ máy nhà nước… cũng bởi chưa
hiểu và nắm bắt được các quy luật vận động và phát triển của thế giới tự nhiên, xã
hội và tư duy. Do vậy, để có cái nhìn đúng đắn về thế giới quan, định hướng thế
giới quan cho thế hệ trẻ nhất là sinh viên phải đi từ lý luận đến thực tiễn. Hồ Chí
Minh cũng đã dùng nhiều cách diễn đạt khác nhau để nói về vấn đề “ Lý luận đi
đôi với thực tiễn”, “Lý luận đi đôi với thực hành”, “Lý luận và thực tiễn phải luôn
9
đi đôi với nhau. Lý luận phải liên hệ với thực tế”. (HCM, 1995, tập 9, tr.292). Dù
nói “đi đôi”, gắn liền kết hợp nhưng điều cốt lỗi nhất mà Người muốn nhấn mạnh
là “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng.
Lý luận nào không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”. (HCM, 1995, tập 8,
tr.496). Thực tiễn cần tới lý luận soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo hướng dẫn, định
hướng để không mắc phải bệnh khinh nghiệm, còn lý luận phải dựa trên cơ sở thực
tiễn, phản ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn, nếu không sẽ mắc phải
bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn, lý luận cần đến nhau, nương tựa nhau hậu

thuẫn, bố sung cho nhau.

Từ những điều nói trên, tiểu luận này sẽ đi sâu vào việc nghiên cứu cặp phạm
trù khả năng và hiện thực dưới góc độ triết học Macxit tạo nên những định hướng
nhận thức mới khoa học có ích cho con người trước xu thế hội nhập.
2. M}c tiêu và nhiệm v} nghiên c~u.
2.1 M}c tiêu nghiên c~u:
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:

Một là, tìm hiểu nội dung cặp phạm trù khả năng đến hiện thực một cách có hệ
thống và toàn diện. Từ đó rút ra ý nghĩa của nó đối với sự phát triển của triết học
Mác – Lênin trường ĐH KHXH & NV Đại Học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh nói
riêng. , cũng như những bài học về định hướng thế giới quan đối với hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn của thế hệ trẻ trong điều kiện hiện nay nói chung
và sinh viên.
Hai là, khẳng định tầm quan trọng và ý nghĩa thực tiễn của Triết học trong đời
sống hiện đại.
2.2 Nhiệm v} nghiên c~u:
Để hoàn thành những mục tiêu trên đề tài có nhiệm vụ giải quyết những các nội
dung chủ yếu sau:
Một là, trình bày khách quan những vấn đề lý luận chung về cặp phạm trù 
 và  đi từ lý luận đến thực tiễn. Trong đó đặc biệt chú ý và làm rõ
quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về cặp phạm trù khả năng và hiện thực.
10
Hai là, bằng các phương pháp nghiên cứu khoa học đề tài nghiên cứu phân tích,
tổng hợp được quan điểm, nhận thức của sinh viên trường ĐH KHXH & NV đối
với hoạt động học tập và việc làm trong tương lai dựa trên cách tiếp cận cặp phạm
trù   của học thuyết Mác – Lênin.

Ba là, từ cơ sở nghiên cứu lý luận cặp phạm trù   cùng

quá trình nghiên cứu để đưa ra giải pháp định hướng thế giới quan có khoa học
theo phương diện Triết học cho sinh viên. € nghĩa của để tài nghiên cứu đối với
các ngành khoa học khác và đời sống.
3.Giả thuyết của đề tài nghiên c~u:
Triết học cho đến ngày nay vẫn giữ một vai trò quan trọng trong đời sống. Cặp
pham trù  trong những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
– Lênin cũng không ngoại lệ.
Sinh viên chưa vận dụng triệt để nội dung quy luật của cặp phạm trù 
 vào học tập và định hướng việc làm trong tương lai.
4. Đối tư•ng và khách thể nghiên c~u:
Đối tượng của đề tài nghiên cứu là cặp phạm trù  và  và ý
nghĩa của nó đối với nhận thức của sinh viên đi từ lý luận đến thực tiễn. Khách thể
được áp dụng để tiến hành nghiên cứu là sinh viên trường ĐH KHXH & NV Đại
Học Quốc Gia Tp. Hồ Chí Minh.
5. Gi€i hạn của đề tài nghiên c~u:
Cặp phạm trù KN & HT một trong sáu cặp phạm trù cơ bản của phép biện
chứng duy vật chủ nghĩa Mác – Lênin và vai trò của nó đối với nhận thức thế giới
quan của con người nói chung và thế hệ trẻ nói riêng thông qua khách thể nghiên
cứu mà nhóm nghiên cứu hướng đến.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ áp dụng cho khách thể nghiên cứu là sinh
viên trường ĐH KHXH & NV thuộc Đại Học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh.
Thời gian nghiên cứu: Năm học 2013 – 2014.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên c~u.
6.1 Về mặt lý luận.
11
Đề tài góp phần làm rõ một cách hệ thống những vấn đề lý luận về cặp phạm
trù  và  của học thuyết Mác: đặc điểm, mối quan hệ biện chứng
giữa khả năng và hiện thực, vai trò của những điều kiện khách quan và chủ quan
trong quá trình chuyển tiếp từ sang , vai trò lý luận của cặp
phạm trù khả năng và hiện thực trong triết học Mác đối với các ngành khoa học

khác liên quan.
6.2 Về mặt thực tiễn.
Góp phần giúp cho sinh viên có cái nhìn thực tế hơn, áp dụng khả năng của bản
thân vào hoạt động thực tiễn, biến những khả năng ở dạng tiền đề thành hiện thực.
Đưa ra một số giải pháp định hướng nhận thức thế giới quan cho sinh viên.
Đề tài nghiên cứu có thể dùng để làm tài liệu tham khảo cho sinh viên chuyên
ngành triết học và các chuyên ngành, lĩnh vực liên quan.
II. Phạm trù Khả năng và Hiện thực.
1. Phạm trù Khả năng và Hiện thực trong một số ngành khoa học.
Trong các ngành khoa học khác Khả năng và Hiện thực được thể hiện trong
việc định hướng, theo sát tiến trình phát triển của kế hoạch. Nó nêu lên mặt nào có
thể làm được, Khả năng có thể đạt được; đồng thời kiểm chứng bằng thực tế kết
quả đạt được, hiện thực mà khả năng định hướng.
Về khoa học kỹ thuật, một ví dụ: Năm 2000: Năm bản lề của thế kỷ 21, nhóm
nhà khoa học Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Trung Quốc và Nhật Bản đã hoàn thành công
trình giải mã bộ gien người, giúp khám phá cơ chế hoạt động của sự sống, qua đó
tìm cách khắc phục các loại bệnh tật.
Bản phác thảo đầy đủ đầu tiên về bản đồ bộ gen người - một trong những sự kiện
lớn nhất có tầm vóc đột phá lịch sử khoa học của con người từ trước tới nay, đã
được công bố vào dịp mở đầu thiên niên kỷ mới, ngày 12/2/2001 tại Tokyo (Nhật
Bản), London (Anh), Washington (Mỹ) và nhiều thành phố khác trên thế giới.
Theo kết quả nghiên cứu mới nhất này thì con người được hình thành từ một số
lượng gen ít hơn nhiều so với mọi dự đoán ban đầu, chỉ khoảng 30.000 gen.
12
Hiện thực là bản phát thảo về bộ gen người đã thành công, ta thấy khi công trình
giải mã bộ gen người đang trong tiến độ thì nó mang một khả năng là sẽ đua ra bản
phát thảo bộ gen người và nó đã thành hiện thực.
Trong hóa học, ví dụ một hội nghị có nội dung tiêu chí: “Hóa học và Công
nghiệp hóa chất Việt Nam vì cuộc sống và sự phát triển bền vững của cộng đồng”,
tập trung vào những nội dung chủ yếu sau đây:

1. Chiến lược phát triển ngành công nghiệp hóa chất, hóa dầu và các chương
trình KHKT của ngành đến năm 2020 tầm nhìn đến 2030.
2. Thành tựu nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực hóa học, đặc biệt là các công
trình nghiên cứu có khả năng ứng dụng vào sản xuất.
3. Thành tựu ứng dụng tiến bộ KHCN, sáng tạo sản phẩm mới, sáng kiến cải
tiến kỹ thuật, nhập công nghệ hiện đại tại các doanh nghiệp.
4. Tiềm năng, cơ hội và phương thức hiệu quả liên kết các nhà khoa học với
các nhà sản xuất đáp ứng nhu cầu phát triển của công nghiệp hóa chất.
5. Các vấn đề và giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực ngành hóa học.
Đặc biệt, Hội nghị lần này định hướng mạnh mẽ KHCN gắn bó với sản xuất
và thiết thực phục vụ sản xuất. Do vậy, phần quan trọng trong số các báo cáo của
Hội nghị sẽ dành cho các doanh nghiệp và đội ngũ chuyên gia đang trực tiếp sáng
tạo và ứng dụng tiến bộ KHCN tại các đơn vị sản xuất.
Như vậy cho ta thấy những định hướng trong hội nghị mang một khả năng, và
đến một thời điểm như trong chiến lược hội nghị đã định hướng khả năng đó có thể
sẽ thành hiện thực.
Đó là những ví vụ về một số ngành khoa học, trong đó khả năng và hiện thực đóng
vai trò quan trọng. Khả năng là chỉ tiêu định hướng đề ra, còn hiện thực là kết quả
đạt được, và cứ thế nó cứ luân phiên thay nhau phát triển.
2. Phạm trù Khả năng và Hiện thực trong lý luận Mác-Lênin.
Mỗi ngành khoa học đều có một hệ thống phạm trù riêng cho mình phản ánh
những thuộc tính của bản chất, những mối liên hệ chung nhất thuộc phạm vi ngành
khoa học được nghiên cứu. Chẳng hạn toán học có các phạm trù: số, điểm, mặt
13
phẳng, hàm số Vật lý có các phạm trù: lực, gia tốc, vận tốc, Sinh học có các
phạm trù: di truyền, biến dị, đồng hoá, dị hoá, động vật, thực vật, Kinh tế học có
các phạm trù: sản xuật, lưu thông, phân phối, hàng hoá, giá trị, giá cả, tiền tệ, lợi
nhuận, Đạo đức học có các phạm trù: tốt, xấu, đẹp, thiện, ác, lương tâm, Mỹ
học có các phạm trù: cái đẹp, cái bi, cái hài, cái hùng, cái cao cả, cái thấp hèn,
các phạm trù nói trên chỉ phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ

chung của các sự vật, hiện tượng trong một lĩnh vực nhất định của hiện thực thuộc
phạm vi nghiên cứu của một ngành khoa học cụ thể.
Phép biện chứng duy vật nói chung và cặp phạm tù khả năng và hiện thực nói
riêng là một hệ thống mở, nó thường xuyên bổ sung và làm phong phú thêm bằng
những tri thức khoa học và những phạm trù mới. Bởi lẽ, với tư cách là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan, cặp phạm trù khả năng và hiện thực phải luôn
luôn vận động và phát triển tương ứng với sự vận động và phát triển của thế giới
khách quan. Chỉ có như vậy chúng mới phản ánh đúng đắn thế giới khách quan và
trở thành công cụ nhận thức và thực tiễn.
Theo phép biện chứng duy vật Khả năng và hiện thực là cặp phạm trù phản ánh
mối liên hệ biện chứng giữa những cái tồn tại dưới dạng “tiền đề”, “mầm mống”
với những cái tồn tại dưới dạng các sự vật, hiện tượng, quá trình trong hế giới.
Khả năng là phạm trù triết học chỉ những “tiền đề”, “mầm mống” vốn có ở
trong sự vật khi có điều kiện chín muồi thì phát triển trở thành hiện thực.
Hiện thực là phạm trù tiết học chỉ các sự vật, hiện tượng, quá trình đang tồn tại
thật sự do khả năng phát triển tạo nên.
Ví dụ: Sinh viên A là đang học năm nhất là khoa Triết học trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn là hiện thực. Trong sinh viên A có những phẩm chất
cần cù, chịu khó, thông minh và say mê học tập. Vì vậy sinh viên A có khả năng
tốt nghiệp đại học loại giỏi. Ở đây những phẩm chất “cần cù, chịu khó ” là tiền
đề, mầm mống (khả năng) khi điều kiện chín muồi thì chng1 trở thành hiện thực
(sinh viên A tốt nghiệp loại giỏi).
14
Như vậy, trong quá trình vận động, phát triển của hiện thực luôn làm xuát hiện
khả năng (tức là những tiền đề, mầm mống) và khả năng phát triển khi có điều kiện
chín muồi thì nó trở thành hiện thực.
Không thể đồng ý với ý kiến cho rằng khả năng là cái chưa có nhưng nó vẫn
luôn tồn tại và sẽ trở thành hiện thực. Ở đây xuất hiện hai vấn đề: Thứ nhất, làm
sao cái “không có” hoặc “chưa có” lại tồn tại được? Và nếu tồn tại thì tồn tại ờ
dạng nào? (Không thể tồn tại dưới dạng “thuần tuý trống rỗng” được. Thứ hai,

bằng cách nào để cái “không có” hoặc “chưa có” lại trở thành “cái có” (hiện thực)
được? Cách lập luận trên đây sẽ tạo ra cách hiểu mơ hồ và đễ dẫn đến chủ nghĩa
duy tâm.
Cần nhấn mạnh rằng, cả khả năng và hiện thực đều tồn tại thực sự. Dấu hiệu
căn bản để phân biệt Khả năng với hiện thực là ở chỗ khả năng tồn tại dưới dạng
“tiền đề”, “mầm mống” để nảy sinh trong lòng hiện thực , cò hiện thực chính là các
sự vật (hiện tượng, quá trình) của thế giới.
Ví dụ: Bên trong hạt lúa đã chứa đựng những “tiền đề”, “mầm mống” (khả
năng) để trở thành cây lúa (khi có điều kiện thích hợp).
III. Phân loại khả năng.
Tất cả mọi khả năng đều tồn tại thực sự, do hiện thực sản sinh ra, và đều hình
thành và lớn lên ở ngay trong lòng bản thân hiện thực. Ví dụ như một em bé mới ra
đời đã chứa đựng khả năng trở thành một con người có ích cho xã hội nếu được
nuôi dưỡng và giáo dục tốt Những khả năng này đều có sẵn ngay trong bản thân
sự vật, do sự vật sản sinh ra. Và theo nghĩa này thì khả năng là khả năng thực tế.
Bên cạnh đó còn có khả năng ảo, khả năng hình thức hay khả năng trừu tượng, tức
là những điều mơ uớc, những cái do con người tưởng tượng ra một cách chủ quan,
không bắt nguồn từ hiện thực và không thể biến thành hiện thực. Ví dụ như nghĩ
rằng một cái chén vỡ có thể tự gắn các mãnh vỡ lại với nhau để trở thành chén
lành
Tuy tất cả các khả năng đều là khả năng thực tế, nhưng sự hình thành chúng
không hoàn toàn như nhau: có cái hình thành một cách tất nhiên, có cái hình thành
một cách ngẫu nhiên. Khả năng tất nhiên là khả năng được hình thành do quu luật
15
vận động hội tụ của sự vật. Khả năng ngẫu nhiên được tạo ra bởi các tương tác
ngẫu nhiên của hiện thực. Ví dụ như, khi ta gieo một đồng tiền xu xuống đất thì
khả năng xuất hiện một trong hai mặt của đồng tiền là khả năng tất nhiên, còn khả
năng xuất hiện mặt sấp hay ngửa trong mỗi lần gieo là khả năng ngẫu nhiên.
Trong khả năng tất nhiên lại có thể phân thành khả năng gần, tức khả năng đã có
đủ những điều kiện cần thiết để biến thành hiện thực, và khả năng xa tức khả năng

còn phải qua nhiều giai đoạn phát triển quá độ mới đủ điều kiện để biến thành hiện
thực.
IV. Mối quan hệ biện ch~ng giữa khả năng và hiện thực.
Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối liên hệ gắn bó hữu cơ với nhau và chúng
thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau. Bởi vì khả năng luôn được nảy sinh trong lòng
hiện thực, quá trình vận động và phát triển của sự vật chính là quá trình làm nảy
sinh ra khả năng và biến khả năng thành hiện thực. Trong hiện thực mới lại nảy
sinh khả năng mới và khả năng mới này lại nảy sinh hiện thực mới khi có điều
kiện.
Cùng trong những điều kiện nhất định ở cùng một sự vật thường tồn tại một số
khả năng, chứ không phải chỉ có một khả năng duy nhất. Văn kiện đại hội IX của
Đảng chỉ ra rằng, đất nước ta hiện nay “có cả cơ hội lớn và thách thức lớn”. Những
cơ hội lớn tạo ra khả năng “tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ
ngoại lực ” đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển thành nước
công nghiệp. Còn những thách thức lớn tạo ra khả năng phát triển trì truệ, tụt hậu
xa hơn về kinh tế, thậm chí là chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, bước vào
những năm đầu thế kỷ XXI, đất nước ta cùng tồn tại nhiều khả năng (thuận lợi và
khó khăn, thời cơ và thách thức) phát triển, Bối cảnh đó đòi hỏi Đảng và nhân dân
ta phải phát huy tối đa nội lực , tranh thủ điều kiện thuận lợi và thời cơ để vượt qua
khó khăn và thách thức đưa nước ta vững bước đi lên theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Ngoài những khả năng vốn có ở sự vật, trong những điều kiện mới sự vận động
và phát triển của sự vật sẽ làm xuất hiệ thêm những khả năng mới; đồng thời
những khả năng có trước của biến đổi (tăng thêm hoặc giảm đi) tùy thuộc vào sự
biến đổi của sự vật.

Trên thực tế khả năng luôn biến thành hiện thực. Tuy nhiên để khả năng biến
thành hiện thực nhất thiết phải có điều kiện, hơn nữa phải có một tập hợp những
16
điều kiện cần và đủ. Ví dụ, để một hạt lúa có khả năng nảy mầm thành cây lúa cần

tập hợp các điều kiện như đất đai, độ ẩm, ánh sáng để cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa nổ ra và giành thắng lợi cần có sự phát triển chính mùi của cả điều kiện
khách quan và nhân tố chủ quan: a – giai cấp thống trị đả thói nát, lâm vào cuộc
khủng hoảng và không thể thống trị như trước được nữa; b – giai cấp bị trị đã lâm
vào cảnh bần cùng, không thể sống như trước được nữa và họ sẵn sàng lao vào
cuộc chiến đấu chống lại giai cấp thống trị; c – Giai cấp lãnh đạo cách mạng có đủ
năng lực, nắm bắt thời cơ cách mạng, phát động quần chúng thực hiện hoạt động
cách mạng đập tan chính quyền của giai cấp thống trị. Đó là những điều kiện cần
và đủ cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra và giành thắng lợi.
Trong giới tự nhiên, quá trình khả năng biến thành hiện thực được diễn ra một
cách tự động. Còn trong xã hội, khả năng biến thành hiện thực được diễn ra thông
qua hoạt động có ý thức của con người. Hoạt động có ý thức của con người giữ vai
trò quan trọng trong quá trình khả năng biến thành hiện thực. Nó có thể tác động,
điều khiển cho khả năng phát triển theo hướng này hay hướng khác bằng cách tạo
ra các điều kiện tương ứng và có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm quá trình hả năng
biến thành hiện thực.
V. Vai trò của các điều kiện khách quan và chủ quan trong sự chuyển biến
từ khả năng đến hiện thực.
Trong giới tự nhiên, quá trình khả năng biến thành hiện thực chủ yếu là một quá
trình khách quan. Nói “chủ yếu” là vì trong giới tự nhiên không phải mọi khả năng
đều biến thành hiện thực một cách tự phát cả. Ở đây, có thể phân ra ba trường hợp:
Thứ nhất: loại khả năng mà điều kiện để biến chúng thành hiện thực chỉ có thể
bằng con đường tự nhiên. Đó là trường hợp xảy ra trong quá trình vũ trụ và địa
chất.
Thứ hai: loại khả năng có thể biến thành hiện thực bằng con đường tự nhiên
cũng nhờ sự tác động của con người. Thí dụ, bằng cách thay đổi điều kiện sống
gây đột biến con người biến khả năng tạo giống mới thành hiện thực.
Thứ ba: loại khả năng mà trong điều kiện hiện nay nếu không có sự tham gia của
con người thì không thể biến thành hiện thực. Các khả năng này vốn có ở khách
thể, nhưng để biến chúng thành hiện thực cần có những điều kiện mà hiện nay

không thể tạo ra bằng con đường tự nhiên.
17
Thí dụ, đó là việc chế tạo các polime tổng hợp, các con tàu vũ trụ
Trong lĩnh vực xã hội, bên cạnh các điều kiện khách quan, khả năng muốn biến
thành hiện thực còn cần có các điều kiện chủ quan là hoạt động thực tiễn của con
người. Ở đây, khả năng không khi nào tự nó biến thành hiện thực nếu không có sự
tham gia của con người.
Hoạt động có ý thức của con người trong đời sống xã hội có vai trò hết sức to
lớn trong việc biến khả năng thành hiện thực. Nó có thể đẩy mạnh hoặc kìm hãm
quá trình biến đổi khả năng thành hiện thực, có thể điều khiển cho khả năng phát
triển theo hướng này hay hướng khác bằng cách tạo ra các điều kiện thích ứng.
Không thấy rõ tác dụng cực kỳ quan trọng của nhân tố chủ quan trong quá trình
chuyển biến khả năng thành hiện thực, chúng ta sẽ mắc sai lầm hữu khuynh, chịu
bó tay khuất phục trước hoàn cảnh. Tuy nhiên, nếu quá nhấn mạnh tác dụng của
nhân tố chủ quan, xem thường các điều kiện khách quan chúng ta sẽ mắc sai lầm tả
khuynh, phiêu lưu mạo hiểm. Kết hợp một cách đúng đắn tác động của nhân tố chủ
quan với các điều kiện khách quan là một trong những đảm bảo cho thành công
của chúng ta trong hoạt động thực tiễn.
Chương VI: Kết quả nghiên c~u sự vận d}ng “ Cặp phạm trù khả năng
và hiện thực” và ý nghiã của nó trong việc định hư€ng nhận th~c của sinh
viên.
Chương này là kết quả từ việc phân tích, xử lý những thông tin mà nhóm đã
thu thập được thông qua quá trình thực hiện khảo sát 393 mẫu khảo sát các đặc
điểm:
Đối tượng khảo sát là sinh viên trường không phân biệt các năm mà dàn trải
từ năm I đến năm IV bao gồm nhiều chuyên ngành khác nhau. Do vậy, các kết quả
mà nhóm thu thập được hoàn toàn mang tính khách quan.
VI.1. Cặp phạm trù khả năng và hiện thực trong nhận th~c của sinh
viên.
18

Biểu đồ 1: Biểu đồ thể hiện nhận th~c của sinh viên về phạm trù khả
năng.
Chú thích: khả năng những gì chưa có chưa tới, nhưng sẽ có sẽ tới (khả
năng như đã nói trên là cái “hiện chưa có nhưng bản thân thì tồn tại. Song đó là
một sự tồn tại đặc biệt: cái sự vật được nói đến trong khả năng chưa tồn tại, nhưng
bản thân khả năng thì tồn tại.)
Bằng kết quả khảo sát cho thấy có 59,3% sinh viên nhận thức đúng về bản chất
phạm trù KN là những gì chưa có chưa tới nhưng sẽ có, sẽ tới. Còn lại có cách hiểu
mơ hồ, chưa nắm được bản chất của phạn trù khả năng rơi vào trường hợp cho
rằng KN là năng lực bản thân (38,9%) hoặc nó chỉ dự tính mức độ thành công.
Nhưng cần khẳng định KN bao giờ cũng là KN thực tế. Chính vì KN được hình
thành trong lòng HT, xuất phát từ thực tiễn nên nếu chỉ nhận thức KN chỉ là năng
lực của bản thân sẽ là một cách nhìn phiến diện, sơ khai.
Cũng bởi một phần SV có cái nhìn chưa đúng về phạm trù KN nên SV có nhận
thức sai về phạm trù HT. Qua khảo sát 22.9% SV phủ nhận HT không phải là cái
đã có sẵn, đã tới. Điều này thể hiện qua biểu đồ dưới đây:
19
Biểu đồ 2. Biểu đồ thể hiện nhận th~c của sinh viên về phạm trù HT.
Khảo sát chỉ ra rằng hầu hết SV đều nhận thức được MQH hữu cơ giữa KN &
HT cụ thể 95,7% SV chọn phương án giữa KN & HT có MQH với nhau. Chỉ có
4,3% có suy nghĩ trái chiều. Như vậy, SV nhận thức được cặp phạm trù KN&HT
phản ánh MQH biện chứng giữa những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự (HT)
với những gì hiện có nhưng sẽ có, sẽ tới khi có các điều tương ứng (KN).
KN & HT có MQH biện chứng với nhau nhưng để KN chuyển biến thành
HT cần phải có những điều kiện tiền đề.
Khả năng là cái từ khi bạn sinh ra đã có được, nó luôn gắn liền với mỗi chúng ta.
Tự bản thân chúng ta hình thành nên những KN mới trong quá trình sinh thành của
mỗi người, tùy vào tác động của HT mà mỗi người sẽ hình thành cho mình những
KN khác nhau. Và rồi từ những KN khác nhau đó hình thành nên những HT khác
nhau. Có 92,4% SV hiểu được sự quan trọng của sự phối hợp giữa chủ thể là bản

thân con người (SV)_và các điều kiện khác: hoàn cảnh lịch sử_xã hội, môi trường
giáo dục, điều kiện phát triển kinh tế…- điều kiện khách quan để biến KN thành
HT. 7,6% SV còn lại có ý kiến khác chỉ cho rằng nhân tố để chuyển biến từ KN
đến HT hoặc chỉ là nhân tố chủ quan hoặc khách quan.
20
Biểu đồ 3: Biểu đồ so sánh nhận th~c về điều kiện chuyển biến KN thành HT
Bên cạnh đó khả năng cũng chịu sự tác động của các yếu tố hình thành nên nó:
con đường tất nhiên và ngẫu nhiên. Nhưng chỉ có 23.4% khẳng định điều đó. Phần
lớn SV cho rằng khả năng được hình thành theo con đường ngẫu nhiên (được gây
nên bởi những tương tác ngẫu nhiên của HT). Đây là một nhận thức sai lầm của họ
bởi nếu như vậy thì cũng đồng nghĩa họ không cho khả năng cũng được hình thành
theo con đường tất nhiên tức nó được gây ra bởi những tương tác tất nhiên của hiện
thực khi những yếu tố hiện thực thế này thì khả năng thế kia nhất định phải xảy ra.
Tần số Phần trăm (%)
Giá trị
Tất nhiên 59 15
Ngẫu nhiên 254 64.6
Khác 80 20.4
Tổng 393 100
21
Bảng 1. Các con đường hình thành khả năng
Sự nhận thức lệch lạc như vậy sẽ dễ dẫn đến một số sai lầm không đáng có
trong các hoạt động trong tương lai cũng như bỏ qua những điều kiện mà HT đã
tạo ra dẫn đến KN và từ KN này có thể đưa đến một HT mới khác.
Tuy vậy về cơ bản SV cũng đã nhận thức được bản chất của cặp phạm trù
KN-HT.
VI.2. Khả năng và hiện thực trong hoạt động học tập, tương lai nghề nghiệp
của SV.
Khi chúng tôi khảo sát về khả năng của SV để từ đó đi đến việc lựa chọn nghề
nghiệp thích hợp với bản thân, thích hợp với nhu cầu của xã hội. Lí do mà các bạn

trẻ chọn nghề nghiệp, chọn ngành học hiện nay là phù hợp với khả năng của bản
thân, nó chiếm tới 42,5% cho thấy các bạn đã xác định rõ mục tiêu tương lai của
mình là gì.
Chỉ có 5,3% là do gia đình sắp đặt và 6,1% là do điểm đầu vào . Nhưng lại có
đến 46,1% chưa xác định rõ lý do mà mình đang theo học . Như vậy, nhiều sinh
viên chưa xác định được mục đích, đam mê và khả năng của chính bản thân phù
hợp với ngành học nào. Điều này khiến chúng ta phải suy nghĩ liệu rằng so với
những sinh viên xác định lựa chọn ngành học theo KN với những người không biết
mình học vì cái gì, vì đâu thì ai sẽ dễ dàng hòa nhập hơn, cơ hội việc làm tốt hơn
trong tương lai trong khi môi trường cạnh tranh Việt Nam đang bước vào giai đoạn
hội nhập thị trường quốc tế về tất cả mọi mặt khiến con người ngày càng dễ bị đào
thải hơn bao giờ hết nếu không có năng lực.
22
Biểu đồ 4. Lí do mà bạn chọn nghành đang theo học.
Cuộc sống ngày càng phát triển nhanh chóng kiến tạo nhiều người biết mình
cần có những năng lực nào để hòa nhịp vào cuộc sống hiện đại. Trở thành một
người tri thức với tấm bằng đại học, cao đẳng trong tay dường như là một hướng đi
được nhiều bạn trẻ lựa chọn. Với câu hỏi khảo sát của chúng tôi “Theo bạn xếp
loại bằng ĐH có phản ánh toàn bộ khả năng của một SV không?”. Kết quả cho
thấy 71,1 % SV trả lời nó chỉ phản ánh một phần KN của SV. Điều đó đánh giá cái
nhìn về năng lực con người qua bằng cấp không được xem trọng tuyệt đối. Bằng
cấp chỉ đánh giá một phần năng lực của sinh viên đối với công việc. Muốn có được
công việc tốt thì bằng cấp chỉ là điều kiện cần, còn điều kiện đủ là các kỹ năng
chuyên môn, kỹ năng cuộc sống khác.
Khi được hỏi “Để có công việc tốt trong tương lai cần có điều kiện nào?” sự
lựa chọn nhiều nhất của các bạn là đạo đức và thái độ làm việc, kế đến là kỹ năng
chuyên môn, sau cùng là sự quen biết. Sự lựa chọn như vậy cho thấy cái nhìn về
năng lực của các bạn không chỉ bó hẹp trong trình độ học vấn mà nó còn là giá trị
đạo đức, đó là một cái nhìn tích cực.
23

Tập hợp các đặc điểm: lí do chọn ngành nghề, các kỹ năng chuyên môn, xếp
loại bằng ĐH, đạo đức… là những lí do ảnh hưởng lớn đến cơ hội nghề nghiệp của
SV sau khi rời khỏi ghế giảng đường:
Biểu đồ 5. Cơ hội nghề nghiệp trong tương lai.
Chúng ta sống là phải lao động đây là đặc điểm lớn nhất để phân biệt con người
với con vật, giúp con người tách khỏi thế giới của loài vật. Quá trình lao động, học
tập sẽ tạo cho con người những quan hệ xã hội mới, những niềm vui và nó cũng là
nguồn gốc duy trì sự tồn tại xã hội.
Khi bước chân ra khỏi ghế nhà trường mỗi người đều mong muốn có một công
việc ổn định, hơn 60% SV hi vọng mình sẽ làm việc đúng chuyên môn, đúng
những gì được đào tạo và đặc biệt là phù hợp với khả năng của bản thân. Nhưng
nhiều bạn trẻ lại cảm thấy cơ hội nghề nghiệp của mình trong tương lai chỉ là
tương đối khả quan chiếm đến 55,5% tổng số SV được khảo sát. 8,4% SV cảm
thấy thất vọng về nghề nghiệp của mình cho rằng cơ hội nghề nghiệp trong tương
lai sau này là không hề khả quan. Chỉ có 27% SV cho rằng con đường nghề nghiệp
của họ thật sự rộng mở. Còn lại là chưa hề nghĩ đến.
Tại sao chỉ có 27% SV cảm thấy tương lai nghề nghiệp của họ rộng mở trong
khi khi nhóm nghiên cứu khảo sát “ Lí do mà bạn dự đoán nghề nghiệp trong
24
tương lai” thì có đến 60% SV khẳng định mình có đủ khả năng. Vậy có những lí do
nào khác ảnh hưởng đến tương lai nghề nghiệp của họ sau này?
Biểu đồ 6. Thành công kèm theo may mắn.
Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy ngoài các yếu tố về xếp loại bằng cấp, kĩ
năng chuyên môn, các mối quan hệ xã hội ( sự quen biết ) thì 66,9% SV khẳng
định sự thành công trong công việc, tương lai nghề nghiệp còn kèm theo yếu tố
may mắn. Ở đây ta thấy sự mâu thuẫn: SV khẳng định mình có KN nhưng nhận
định về tương lai nghề nghiệp của mình thì chỉ là tương đối, đặc biệt nhiều SV cho
rằng thành công kèm theo may mắn như vậy họ đã không tin hoặc không chắc chắn
về khả năng của bản thân. Như vậy, SV chưa vận dụng triệt để phạm trù KN&HT
vào chính cuộc sống của họ.


VI.3. Nhận th~c KN&HT trong cuộc sống của sinh viên
Từ quá trình sống và trải nghiệm thực tế các bạn trẻ đã nhìn nhận đúng vấn đề
đặt ra cho chính bản thân mình. Hiện thực của cuộc sống và khả năng của bản thân
đã được mọi người đánh giá là đúng và đồng thời không chỉ thế các bạn đã đủ tri
thức để phán đoán các vấn đề mang tính thâm sâu và trừu tượng.
25

×