Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Nông thôn Việt Nam dưới triều vua Gia Long ( 1802 1820)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 97 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM





HOÀNG THỊ HUYỀN VŨ





NÔNG THÔN VIỆT NAM
DƢỚI TRIỀU VUA GIA LONG (1802 – 1820)







LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ









Thái Nguyên, 2013

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM





HOÀNG THỊ HUYỀN VŨ



NÔNG THÔN VIỆT NAM
DƢỚI TRIỀU VUA GIA LONG (1802 – 1820)



CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số: 60.22.03.13



LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ PHƢƠNG CHI






Thái Nguyên, 2013
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

i

LỜI CẢM ƠN

Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến PGS. TS
Nguyễn Thị Phương Chi đã tận tình hướng dẫn và động viên tinh thần cho tác
giả trong quá trình hoàn thành luận văn.
Tác giả xin cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong khoa Lịch sử trường
ĐHSP Thái Nguyên, Phòng tư liệu Viện sử học Việt Nam, Thư viện Quốc
gia… đã tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Tác giả cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè,
đồng nghiệp đã động viên giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và hoàn thành
luận văn này.
Tác giả xin cảm ơn những đánh giá, nhận xét của Hội đồng khoa học bảo
vệ luận văn.

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2013
Tác giả


Hoàng Thị Huyền Vũ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu “Nông thôn Việt Nam dưới triều
vua Gia Long (1802 – 1820)” dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Thị
Phương Chi là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu nêu trong luận
văn là trung thực. Những chỗ sử dụng kết quả nghiên cứu của các tác giả khác
đều được tác giả trích dẫn rõ ràng.
Tôi xin chịu trách nhiệm trước Hội đồng chấm luận văn và Nhà trường
về sự cam đoan này.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2013
Tác giả


Hoàng Thị Huyền Vũ


Xác nhận
của trƣởng khoa chuyên môn
Xác nhận
của Ngƣời hƣớng dẫn khoa học




PGS.TS Nguyễn Thị Phƣơng Chi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

iii

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn i
Lời cam đoan ii
Mục lục iii
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. CẤU TRÚC XÃ HỘI – CHÍNH TRỊ Ở NÔNG THÔN
VIỆT NAM THỜI GIA LONG 12
1.1. Bối cảnh chính trị, xã hội Việt Nam thời Gia Long 12
1.2. Tổ chức chính quyền ở nông thôn. 21
1.3. Các tầng lớp xã hội ở nông thôn 26
Tiểu kết 27
Chƣơng 2. KINH TẾ Ở NÔNG THÔN THỜI GIA LONG 29
2.1. Chế độ ruộng đất của làng xã ở nông thôn 29
2.2. Sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân. 43
2.3. Nghề thủ công và buôn bán nhỏ. 54
2.4. Giao thông và phương tiện đi lại. 60
Chƣơng 3. VĂN HÓA Ở NÔNG THÔN THỜI GIA LONG 63
3.1. Phong tục, tập quán và tín ngưỡng, tôn giáo ở nông thôn 63
3.2. Nghệ thuật và giáo dục ở nông thôn 68
3.3. Nhà ở, ăn, mặc của người dân ở nông thôn 72
KẾT LUẬN 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO 83
PHỤ LỤC 89



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


1
MỞ ĐẦU
1. do n đ i
Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở Việt Nam luôn được Đảng
và Nhà nước hết sức coi trọng trong các giai đoạn phát triển của cách mạng
Việt Nam. Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương và chính sách lớn về vấn
đề này như:
Ngay những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đặc điểm to lớn nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ
một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Sau này các Đại hội của Đảng đã
từng bước làm rõ thêm đặc điểm to lớn này, lấy đó làm cơ sở để xây dựng
đường lối chiến lược, các mục tiêu kinh tế xã hội của Đảng. Có thể dẫn những
nội dung chính liên quan đến vấn đề này qua các Đại hội toàn quốc của Đảng
như sau:
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, Đảng xác định ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV: Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp
xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công
nông nghiệp.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V: Tập trung sức phát triển mạnh nông
nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp từng bước lên
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp
tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng, kết hợp nông nghiệp,
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu
công - nông nghiệp hợp lý.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI: Bảo đảm cho nông nghiệp, kể cả lâm
nghiệp, ngư nghiệp thực sự là mặt trận hàng đầu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

2
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII: Phát triển nông - lâm – ngư nghiệp
gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây
dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh
tế - xã hội , phát triển một số ngành công nghiệp nặng trước hết để phục vụ
cho sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp,
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII: Đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư
nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX: Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp và nông thôn Tiếp tục phát triển và đưa nông, lâm, ngư
nghiệp lên một trình độ mới
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X: Đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông
nghiệp, nông thôn và nông dân Phát triển công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI: Phát triển nông - lâm - ngư nghiệp
toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với giải quyết tốt vấn
đề nông dân, nông thôn.
Như vậy, từ thực tiễn và yêu cầu phát triển của đất nước, nhận thức của
Đảng và Nhà nước là ngày càng quan tâm chú ý tới phát triển nông nghiệp,
nông dân, nông thôn trong tổng thể sự phát triển chung của đất nước. Vì sao
vậy? điều đó không chỉ bởi nông dân là một lực lượng quan trọng của cách
mạng và hiện còn đang chiếm tỷ lệ lớn trong dân số, mà chính nông nghiệp,
nông dân Việt Nam luôn khẳng định vai trò đóng góp hết sức to lớn trong sự
nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Nông nghiệp đã mở đường trong quá
trình đổi mới, tạo nền tảng, động lực cho tăng trưởng kinh tế và là nhân tố quan
trọng bảo đảm sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
Việt Nam là nước có nền kinh tế nông nghiệp đóng vai trò then chốt. Đi

đôi với nền kinh tế nông nghiệp là một xã hội nông thôn chiếm vị trí quan trọng
đối với sự phát triển chung của đất nước qua tất cả các thời kỳ lịch sử.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

3
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân đang trong giai đoạn thực hiện cuộc vận
động xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020. Mặc dù cuộc vận động
đã đạt được một số kết quả nhất định, bộ mặt nông thôn Việt Nam bước đầu có
nhiều khởi sắc. Tuy vậy sự nghiệp xây dựng, đổi mới khu vực nông thôn vẫn
còn nhiều hạn chế cần khắc phục và nhiều mục tiêu chưa đạt được. Do vậy việc
nghiên cứu vấn đề nông thôn Việt Nam thời Nguyễn từ 1802 đến 1820 để đưa
ra diện mạo cùng một số nhận xét về nông thôn nước ta và vai trò của khu vực
nông thôn đối với sự phát triển của lịch sử dân tộc sẽ là những đóng góp phần
nào vào sự nghiệp xây dựng và đổi mới nông thôn hiện nay của đất nước. Từ
đó rút ra một số kinh nghiệm cho việc nhìn nhận nông thôn Việt Nam hiện nay.
u n n i trong ng 143 năm (1802-1945) n i trong giai
n t c nhi u n n quan ng. n u tiên trong ch s
. Tuy nhiê
, tôi chọn đề tài “Nông thôn
Việt Nam dưới triều vua Gia Long từ 1802 đến 1820”, với mong muốn góp
phần nghiên cứu một khía cạnh trong kinh tế - xã hội của nhà Nguyễn và hy
vọng góp phần nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu về vương triều này.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Nông thôn Việt Nam
dưới triều vua Gia Long từ 1802 đến 1820” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về nhà Nguyễn đã có rất nhiều công trình được công bố,
trong đó nghiên cứu về tình hình kinh tế, xã hội, văn hóa dưới triều Nguyễn
cũng thu hút nhiều nhà nghiên cứu. Có thể kể đến một số công trình, bài viết mà
nội dung đề cập một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tới đề tài luận văn như sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


4
Trong số các nguồn tư liệu đề cập đến tình hình kinh tế, xã hội, văn hóa,
giáo dục …thời Nguyễn, trước tiên phải kể bộ quốc sử, sách, địa chí do Quốc sử
Quán triều Nguyễn biên soạn như: Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội
điển sự lệ, Minh Mệnh chính yếu, Đại Nam nhất thống chí, Quốc triều chính biên,
Việt sử thông giám cương mục, “Đại Nam thực lục”, xuất bản năm 2007 – là bộ
biên niên sử do Quốc sử Quán triều Nguyễn biên soạn. Bộ sử gồm hai phần
Tiền biên và Chính biên, biên soạn dưới thời Tự Đức và các đời vua sau tiếp
tục bổ sung cho đến triều vua Khải Định. Bộ sử ghi chép những sự kiện quan
trọng xảy ra trên khắp cả nước trong thời gian một năm, một tháng, một ngày,
cung cấp cho người đọc những tư liệu lịch sử quan trọng xảy ra trong cả nước
trên tất cả các mặt. Bên cạnh đó, tác phẩm đã cung cấp những tư liệu lịch sử
quan trọng và khá toàn diện giúp người đọc hiểu được tình hình nông thôn Việt
Nam đây là nguồn tư liệu gốc chính mà tác giả sử dụng chủ yếu trong quá trình
làm luận văn. Tuy nhiên, do cách viết theo lối biên niên cho nên những vấn đề
nghiên cứu nằm rải rác ở nhiều tập sách khác nhau nên khó theo dõi.
Bộ “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ” do Nội Các triều Nguyễn biên
soạn dưới thời Thiệu Trị (1843) và hoàn thành dưới triều Tự Đức (1851). Bộ
sách này cho chúng ta cái nhìn toàn diện về tình hình, kinh tế, chính trị, xã hội
Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX.
Cuốn “Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến nhà Nguyễn trước1858
(sơ khảo)”, của tác giả Trần Văn Giàu, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1958. Tác phẩm
nghiên cứu khá toàn diện mọi mặt của chế độ phong kiến nhà Nguyễn trước
năm 1858 về chính trị, kinh tế, xã hội…
Tác giả Trần Trọng Kim với tác phẩm “Việt Nam sử lược”, NXB Tổng
hợp thành phố Hồ Chí Minh, năm 2005 (in lần thứ năm). Tác phẩm nghiên cứu
lịch sử Việt Nam từ thời thượng cổ đến khi thực dân Pháp xâm lược và đặt ách
cai trị trên nước ta (1902). Tác giả biên soạn lịch sử theo thứ tự thời gian các
triều đại, trong từng triều đại tác giả không ghi chép sự kiện theo trình tự thời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

5
gian mà ghi chép theo từng nội dung lớn. Trong mỗi triều vua, tác giả có nhắc
đến vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa. Với cách viết này của tác giả đó
giúp người đọc dễ nhận biết nội dung liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu.
Tác phẩm “Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn” của
tác giả Nguyễn Thế Anh, NXB Lửa Thiêng, xuất bản năm 1971 (tái bản năm
2008) có trình bày khá tổng quát về các vấn đề kinh tế, xã hội dưới triều Nguyễn.
Bên cạnh đó, chúng ta phải kể đến các cuốn giáo trình như: Cuốn “Lịch
sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập 3, từ đầu thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XIX”
của tác giả Phan Huy Lê, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1965.
Sau năm 1975, có nhiều công trình nghiên cứu được công bố về vấn đề
nhà Nguyễn như:
Về ruộng đất: năm 1979, trong cuốn “Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt
Nam ở nửa đầu thế kỷ XIX”, NXB Khoa học xã hội, tác giả đã phác thảo chính
sách ruộng đất của nhà nước Nguyễn, thiết chế và kết cấu ruộng đất hình thành
từ chính sách đó. Trong đó, tác phẩm cũng đề cập đến vấn đề tô thuế ruộng đất
qua từng loại hình ruộng đất cụ thể. Tác giả cũng đề cập đến tác động những
chính sách của nhà nước đối với đời sống của người nông dân Việt Nam. Đây
thực sự là một tác phẩm có giá trị giúp người đọc có nhiều định hướng khi
nghiên cứu đời sống kinh tế - xã hội nông nghiệp trong thời kỳ này.
Trong loạt bài của tác giả Vũ Huy Phúc như: “Chế độ công điền công thổ
của nhà Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 62,
năm 1964. Trong đó, tác giả có đề cập đến chế độ công điền công thổ của nhà
Nguyễn và những biện pháp cụ thể của nhà nước với loại đất này Bên cạnh đó,
tác giả còn công bố các bài viết liên quan ít nhiều đến đề tài như: “Về ruộng đất
công làng xã thời Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu
lịch sử, số 4 năm 1981.
Bài của tác giả Nguyễn Đức Nghinh với nhan đề: “Về quyền sở hữu

ruộng đất khẩn hoang dưới thời Nguyễn” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

6
sử, số 5/6/1987 đã đề cập đến vấn đề sở hữu ruộng đất trực tiếp của nhà nước,
trong đó có vấn đề sở hữu ruộng đất đồn điền và tô thuế đối với ruộng đất này.
Năm 1997, hai tác giả Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang đã xuất bản tác
phẩm: “Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều
Nguyễn”, NXB Thuận Hóa. Tác giả vẽ lại bức tranh cụ thể về tình hình nông
nghiệp và đời sống nông dân dưới các vua triều Nguyễn.
Năm 1980, tác phẩm “Lịch sử Việt Nam, tập 2 (1427 – 1858)” của tác
giả Nguyễn Phan Quang, Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh, NXB Giáo
Dục. Năm 1990, cuốn “Nông dân và nông thôn Việt Nam thời cận đại, tập 1” của
Viện sử học, NXB Khoa học xã hội Hà Nội. Đã có những tư liệu bổ ích về kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hóa… cho tác giả trong việc nghiên cứu vấn đề này.
Về kinh tế có các công trình nghiên cứu sau: Kinh tế thương nghiệp Việt
Nam dưới triều Nguyễn. NXB Thuận Hóa (1977) của tác giả Đỗ Bang. Kinh tế
thủ công nghiệp và phát triển công nghệ dưới triều Nguyễn, NXB Thuận Hóa
(1998) của tác giả Bùi Thị Tân và Vũ Huy Phúc. Kinh tế và xã hội Việt Nam
dưới các vua triều Nguyễn. NXB Văn học (2008). Làng nghề thủ công huyện
Thanh Oai (Hà Nội), NXB Từ điển Bách khoa và Viện Văn hóa, Hà Nội của
tác giả Bùi Xuân Đính (Chủ biên) (2009), đã cung cấp cho tác giả những tư liệu
quý về tình hình kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp thời Nguyễn nói
chung và thời Gia Long nói riêng.
Về chính trị- xã hội có các công trình nghiên cứu sau: Kinh nghiệm tổ
chức quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội của tác giả Phan Đại Doãn (chủ biên) (1994). Một số vấn đề về quan chế
triều Nguyễn. NXB Thuận Hóa (1997) của tác giả Phan Đại Doãn và Nguyễn
Ngọc Quỳnh.
Ở mảng đề tài về văn hóa có các công trình nghiên cứu sau: Việt Nam

phong tục, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội của tác giả Phan Kế Bính (2003).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

7
Mấy vấn đề về văn hóa làng xã Việt Nam trong lịch sử, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội của tác giả Phan Đại Doãn (2004). Một số vấn đề làng xã Việt
Nam, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội của tác giả Nguyễn Quang Ngọc
(2009). Cùng với đó là các bài viết trong Kỷ yếu hội thảo khoa học về Chúa
Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ
XIX, tại Thanh Hóa, tháng 10 năm 2008, NXB Thế giới. (2008) cũng ít nhiều
đề cập đến lĩnh vực này như là: Bài viết Quốc sử quán triều Nguyễn từ thời vua
Gia Long đến Tự Đức của TS Trần Vũ Tài. Xứ Nghệ với Văn hóa Nguyễn của
PGS Ninh Viết Giao. Giáo dục khoa cử Thanh Hóa từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX
của TS Hoàng Thanh Hải. Tín Ngưỡng thờ cá voi của ngư dân Thanh Hóa thời
Nguyễn của Hoàng Minh Tường.
Những bộ giáo trình thông sử như tác phẩm: “Đại cương lịch sử Việt
Nam, tập 1 từ nguyên thủy đến năm 1858” của tác giả Trương Hữu Quýnh (Chủ
biên), NXB Giáo Dục, Hà Nội 2007. Sau đó là tác phẩm “Đại cương lịch sử Việt
Nam, tập 2” của tác giả Đinh Xuân Lâm (Chủ biên), NXB Giáo Dục, Hà Nội
2007. Năm 2008, tập thể tác giả Nguyễn Cảnh Minh (Chủ biên), Đào Tố Uyên,
Vũ Xuân Đàn cho ra đời cuốn giáo trình “Lịch sử Việt Nam, tập 3”, NXB Đại
học Sư phạm Hà Nội…Đây là những cuốn giáo trình cung cấp cho người đọc
những kiến thức cơ bản và khái quát nhất về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân
sự, xã hội…thời Nguyễn. Song liên quan đến đề tài chưa được đề cập một cách
chuyên sâu và cụ thể.
Năm 2001, Bộ tài chính - Tổng cục thuế cho ra đời cuốn “Thuế Việt Nam
qua các thời kỳ lịch sử”, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội. Tác phẩm đề cập
khái quát về hình thức tô thuế ở Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử đến thời kỳ
nhà Nguyễn.
Năm 2005, cuốn “Lịch sử nhà Nguyễn - một cách tiếp cận mới”, NXB

Đại học Sư phạm Hà Nội. Đây là công trình tập hợp nhiều bài nghiên cứu của
các nhà sử học và nhiều nhà giáo giảng dạy lịch sử Việt Nam thời đại nhà
Nguyễn (1802 – 1945). Sự tồn tại của nhà Nguyễn suốt 143 năm trong dòng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

8
chảy lịch sử dân tộc đã gây ra nhiều tranh cãi trong giới sử học nói riêng và
trong giới khoa học xã hội Việt Nam nói chung. Từ những cách tiếp cận khác
nhau đã tạo ra cái nhìn và đánh giá vai trò của triều Nguyễn cũng khác nhau.
Tác phẩm giúp người đọc có cái nhìn khách quan về lịch sử triều Nguyễn, tuy
nội dung của đề tài tác giả không được đề cập nhiều song cũng giúp người viết
có những quan điểm và nhận định đúng đắn, khách quan hơn về triều Nguyễn.
Năm 2008, Kỷ yếu hội thảo khoa học về Chúa Nguyễn và vương triều
Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, tại Thanh Hóa,
tháng 10 năm 2008, NXB Thế giới cũng giành một số ít trang viết tình hình
giáo dục, thi cử với bài viết của Tiến sĩ Hoàng Thanh Hải có nhan đề giáo dục
khoa cử Thanh Hóa từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX, bài viết của Tiến sĩ Hà Mạnh
Khoa: Vài nét về chính sách đào tạo và tuyển dụng và sử dụng nhân tài thời
Nguyễn. Viết về tư tưởng, tôn giáo có các bài của các tác giả như: Triều
Nguyễn với chính sách cấm đạo thiên chúa của Tiến sĩ Mai Thị Phú Phương,
bài viết: Mấy nhận xét về Nho giáo thời Nguyễn của PGS. TS Chương Thâu.
Về bộ máy hành chính làng xã với nhan đề Bộ máy hành chính làng xã thời
Nguyễn (nửa đầu thế kỉ XIX) của PGS.TS Vũ Duy Mền. Ngoài những công
trình chuyên khảo kể trên cũng có rất nhiều giáo trình khác cũng góp phần đề
cập một cách gián tiếp đến tình hình nông thôn Việt Nam triều Nguyễn như
cuốn: Tiến trình lịch sử Việt Nam (Nguyễn Quang Ngọc chủ biên), cuốn Lịch
sử Việt Nam từ thế kỷ X đến năm 1858 (Trương Hữu Quýnh chủ biên), giáo
trình Lịch sử Việt Nam (tập 3) của Nguyễn Cảnh Minh chủ biên….
Về Nam Bộ thời Nguyễn có các công trình nghiên cứu sau: Văn hóa dân
gian người Việt Nam bộ, NXB Khoa học và xã hội (1992) Nhiều tác giả. Chế

độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam kỳ lục tỉnh, Hội
sử học Việt Nam, Hà Nội (1994). Chế độ sở hữu và canh tác ruộng đất ở Nam
Bộ nữa đầu thế kỉ XIX. NXB Thành phố Hồ Chí Minh (1994) của tác giả Trần
Thị Thu Lương. Làng xã cổ truyền ở Nam bộ qua Minh điều hương ước. Tạp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

9
chí xưa và nay (số 58B) của tác giả Trương Ngọc Tường. Góp phần tìm hiểu
vùng đất Nam Bộ qua các thế kỉ XVII, XVIII, XIX. NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội (2000) của tác giả Huỳnh Lứa. Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, NXB
thế giới, tái bản lần thứ 2 (2008) của tác giả Vũ Minh Giang. Đặc điểm Phật
giáo Nam bộ thời Nguyễn của TS Trần Hồng Liên – Hội thảo chúa Nguyễn và
vương triều Nguyễn (2008), Trường thi hương Gia Định, dấu ấn sâu đậm trong
giáo dục của nhà Nguyễn ở đất phương Nam của tác giả Nguyễn Khắc Thuần -
Hội thảo chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn (2008). Những công trình
nghiên cứu kể trên đã vẽ lại một bức tranh khá rõ nét về nông thôn Nam Bộ
nước ta trên các mặt kinh tế, văn hóa, chính trị - xã hội, giáo dục là nguồn tài
liệu quý cho tác giả tham khảo trong việc nghiên cứu vấn đề này.
Như vậy, từ việc điểm lại lịch sử nghiên cứu vấn đề có thể thấy rằng vấn
đề nông thôn Việt Nam dưới thời vua Gia Long từ 1802 đến 1820 chưa được đề
cập đến một cách có hệ thống và chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên
sâu. Những công trình nghiên cứu nói trên đã ít nhiều cung cấp một số nội dung
về vấn đề nông thôn Việt Nam thời Nguyễn, có nêu lên những nhận xét, đánh
giá về chính sách của nhà Nguyễn, là nguồn tài liệu quý để tác giả tham khảo.
3. Đối tƣợng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung vào nghiên cứu về một đối tượng cụ thể đó là:
“Nông thôn Việt Nam dưới triều vua Gia Long từ 1802 đến 1820”, trên các mặt
kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa.
3.2 Phạm vi nghiên cứu

Về thời gian: Đề tài đi sâu vào nghiên cứu tình hình kinh tế chính trị, xã hội,
văn hóa ở nông thôn Việt Nam thời vua Gia Long từ năm 1802 đến năm 1820.
Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình kinh tế, chính trị,
xã hội và văn hóa nông thôn trên phạm vi cả nước Đại Nam thời kỳ trị vì của
vua Gia Long .
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

10
3.3 Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung làm rõ nội dung sau:
- Đề tài đi sâu vào nghiên cứu nội dung kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa
của thời Nguyễn dưới thời trị vì của vua Gia Long (1802 – 1820). Trên cơ sở đó
rút ra một số nhận xét, đánh giá về nông thôn Việt Nam đầu thời Nguyễn.
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1 Nguồn tài liệu
Để nghiên cứu về vấn đề nông thôn Việt Nam thời Gia Long (1802 –
1820), tác giả dựa vào một số nguồn tư liệu chủ yếu sau đây:
- Các loại tư liệu gốc: bao gồm các bộ sử của vương triều Nguyễn biên
soạn, trong đó quan trọng nhất là bộ “Đại Nam thực lục”, NXB Giáo Dục, Hà
Nội, 2007. Bộ “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ” do Viện sử học dịch của
NXB Thuận Hóa, Huế, xuất bản năm 2005. Bộ Minh Mệnh chính yếu, bộ Quốc
triều chính biên biên toát yếu….
Ngoài ra, cũng có các công trình sử học khác như “Đại Việt sử kí toàn
thư” do Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê biên soạn; bộ “Khâm định Việt sử
thông giám cương mục” của Quốc sử Quán triều Nguyễn; “Lịch triều hiến
chương loại chí” của Phan Huy Chú; bộ “Đại Nam nhất thống chí ” của Quốc
sử quán triều Nguyễn….
Các giáo trình, sách chuyên khảo về nhà Nguyễn. Các bài nghiên cứu
trên các tạp chí chuyên ngành như: Nghiên cứu lịch sử, Dân tộc học…Ngoài ra,
một số tư liệu và thông tin về lịch sử triều Nguyễn trên mạng Internet.

4.2 Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ đối tượng, nhiệm vụ của đề tài, trong quá trình thực hiện,
tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau như:
- Về phương pháp luận, tác giả sử dụng hai phương pháp nghiên cứu
chính là phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic.
+ Phương pháp lịch sử để dựng lại một cách khái quát về nông thôn Việt
Nam thời Nguyễn từ 1802 đến 1820.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

11
+ Phương pháp logic: Trên cơ sở phân tích có thể rút ra một số nhận xét,
đánh giá về chính sách của nhà nước phong kiến Nguyễn đối với nông thôn với
những mặt tích cực và hạn chế.
- Về phương pháp cụ thể, trong quá trình thực hiện tác giả sử dụng
phương pháp phân tích, phương pháp đối chiếu so sánh để làm sáng tỏ vấn đề
nghiên cứu.
5. Đóng góp của luận văn
Nghiên cứu đề tài “Nông thôn Việt Nam dưới triều vua Gia Long từ
1802 đến 1820” tác giả mong muốn có một số đóng góp nhỏ như sau:
Thứ nhất, luận văn góp phần khôi phục diện mạo về tình hình kinh tế,
chính trị xã hội và văn hóa ở nông thôn Việt Nam thời Nguyễn từ năm 1802
đến năm 1820.
Thứ hai, thông qua việc tìm hiểu về nông thôn nước ta thời Nguyễn dưới
sự trị vì của vua Gia Long có thể rút ra một vài nhận xét, đánh giá những mặt
tích cực và hạn chế trong chính sách của nhà nước.
Thứ ba, việc đi sâu vào nghiên cứu đề tài này dưới thời Gia Long (1802 –
1820), tác giả mong muốn góp phần nhỏ vào việc đánh giá chung về nhà Nguyễn.
Ngoài ra, đề tài cũng là nguồn tài liệu phục vụ cho quá trình học tập,
giảng dạy và nghiên cứu lịch sử Việt Nam Cổ Trung đại nói chung và về kinh
tế, chính trị xã hội, văn hóa nông thôn triều Nguyễn nói riêng.

6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phần phụ lục phần
nội dung của luận văn được kết cấu thành ba chương:
Chƣơng 1: CẤU TRÚC XÃ HỘI - CHÍNH TRỊ Ở NÔNG THÔN VIỆT
NAM THỜI GIA LONG
Chƣơng 2: KINH TẾ Ở NÔNG THÔN THỜI GIA LONG
Chƣơng 3: VĂN HÓA Ở NÔNG THÔN THỜI GIA LONG
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

12

Chƣơng 1
CẤU TRÚC XÃ HỘI – CHÍNH TRỊ Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM
THỜI GIA LONG

1.1. Bối cảnh chính trị, xã hội Việt Nam thời Gia Long
Năm 1802, sau khi đánh bại phong trào Tây Sơn, làm chủ toàn bộ lãnh
thổ đất Đàng Trong và Đàng Ngoài cũ, Nguyễn Ánh tự đặt niên hiệu là Gia
Long lập ra nhà Nguyễn. Các vua nhà Nguyễn từ Gia Long (1802 – 1819),
Minh Mạng (1820 - 1840) đến Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1848-1883) kế
tiếp nhau xây dựng đất nước.
Gia Long lên ngôi đã thừa hưởng một đất nước thống nhất từ mục Nam
Quan đến Mũi Cà Mau do công sức bảo vệ, mở mang, khai phá của nhiều thế
hệ, đặc biệt là ở phía Nam dưới thời các chúa Nguyễn, từ Nguyễn Hoàng
(1556-1613) đến Nguyễn Phúc Thuần (1765-1776). Lãnh thổ nước ta cho đến
cuối thế kỉ XVIII được chia thành nhiều lộ, trấn, dinh có thay đổi tách nhập ít
nhiều bao gồm 24 trấn, lộ, dinh và một phủ Trung Đô (Thăng Long).
Để xây dựng một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền quản lý có
hiệu lực quốc gia thống nhất gồm các đơn vị hành chính trên, ngay từ đầu
vương triều Nguyễn Gia Long phải đương đầu với nhiều khó khăn lớn. Trước

hết phải kể đến việc đất nước bị chia cắt trong nhiều năm với nhiều phe phái
thù địch. Đó là các tập đoàn Lê, Trịnh, Nguyễn trong đó đáng kể nhất là tập
đoàn phong kiến Lê với ảnh hưởng của họ còn in đậm trong tâm tư, tình cảm
của nhiều người, đặc biệt là trong các cựu thần nhà Lê đông đảo các Nho sĩ và
thế gia vọng tộc có tầm cỡ ở Bắc Hà. Không phải vô cớ mà các chúa Nguyễn,
chúa Trịnh và Tây Sơn từng phải giương cao ngọn cờ “phù Lê”. Trong khi đó
lãnh thổ nước ta bị chia cắt trong nhiều năm, chịu ảnh hưởng của nhiều thế lực,
không có được sự phát triển đồng đều. Bắc Hà, từ sông Gianh trở ra chịu ảnh
hưởng của vua Lê - chúa Trịnh, trải qua loạn lạc triền miên vẫn quen nếp cũ với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

13
hoài vọng một thời Thái Tổ, Thái Tông (Lê sơ). Từ sông Gianh đến cực Nam
Trung Bộ là đất mở mang lập nghiệp của các chúa Nguyễn nhưng lại nghèo và
lại là đất phát tích, từng chịu ảnh hưởng của nhà Tây Sơn. Vùng Nam Bộ được
mở mang thêm từ cuối thế kỉ XVII, hứa hẹn nhiều tiềm năng nhưng lại là nơi
hội tụ nhiều tộc người Việt, Hoa, Chàm, Khơ me khác nhau nhiều phương
diện không dễ quản lí và có lẽ quan trọng hơn cả là tình trạng nội chiến triền
miên đã để lại một hậu quả bao trùm: tổ chức quản lí lõng lẽo, phân tán khá
phổ biến. Trong khi đó Nguyễn Ánh và các cận thần thân tín của ông tuy có
thừa mưu lược chinh chiến để giành quyền lực nhưng lại thiếu uy tín, kinh
nghiệm trong quản lí đất nước. Tuy vậy việc xây dựng một nhà nước quân chủ
trung ương tập quyền vẫn là mục tiêu phấn đấu của Nguyễn Ánh sau khi tiêu
diệt nhà Tây Sơn đồng thời cũng là trách nhiệm của ông trước một đất nước
độc lập thống nhất có chủ quyền.
Trải qua gần hai thế kỉ đất nước bị chia cắt, cùng với những năm tháng
chống chọi với nhà Tây Sơn, Nhà Nguyễn ra đời trong khung cảnh đất nước có
những phức tạp về mặt chính trị. Tuy đã thống nhất quốc gia về mặt lãnh thổ,
song mỗi miền có một chế độ chính trị khác nhau đã gây nhiều trở ngại cho nhà
Nguyễn trên bước đường xây dựng chế độ mới.

Ở phía Bắc – Đàng Ngoài, tư tưởng “hoài Lê” vẫn còn in dấu khá đậm
trong tâm tư tình cảm của người dân Bắc Hà, đặt biệt là hàng ngũ quan lại cựu
triều và những trí thức nho sĩ cũ. Gia Long lên ngôi, không phải ông không
nhận thức được vấn đề này – tư tưởng “hoài Lê” là một cản trở rất lớn đối với
ông trên con đường xây dựng chế độ mới.
Gia Long cùng với những quần thần của ông không phải là không có
nhiều mưu lược trong việc chinh chiến giành quyền đế vương, nhưng bước vào
công cuộc xây dựng chính quyền mới đã gặp nhiều lúng túng, thậm chí còn
thiếu kinh nghiệm trong việc tổ chức, xây dựng đất nước.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

14
Ở buổi ban đầu xây dựng chính quyền, vì việc phải trả “món nợ” cũ cho
những người nước ngoài đã từng giúp nhiều cho ông trong công cuộc tranh
giành quyền lực từ nhà Tây Sơn, Gia Long đã phải chấp nhận cho một số người
Pháp vào làm quan trong triều đình nhà Nguyễn như Jean Baptiste Chaigneau
Philippe Vannier De Forsans và Despians những người này được Gia Long đãi
ngộ hậu hĩnh và phong cho những chức võ quan cao cấp, rồi cấp thêm cho họ
mỗi người một đội lính hầu gồm 50 người được toàn quyền sai phái. Tuy được
đãi ngộ hậu hĩnh và làm quan trong triều đình nhà Nguyễn, nhưng dù thế nào đi
chăng nữa thì họ vẫn không thể quên được “mẫu quốc” và chỉ chờ có cơ hội
thuận lợi là tinh thần “ái quốc” của họ sẽ trỗi dậy. Đây phải chăng là một trong
những mầm họa sau này đối với triều đình Nguyễn.
Đối với những người phò tá Gia Long trước khi lên ngôi, có nhiều công
lao chinh chiến chống lại Tây Sơn, bên cạnh việc thưởng công, Gia Long cũng
cất nhắc họ vào làm quan trong triều đình, càng làm gia tăng số quan lại xuất
thân từ hàng võ trong buổi đầu xây dựng chính quyền.
Ngoài số này ra, Gia Long muốn thu dụng nhân tài, trong buổi đầu
không còn cách nào khác, đã hạ lệnh cho các bộ, viện trong triều đều được đề
cử những người mình biết để bổ vào các ty ở bộ các viện Hàn lâm và Thị

thư…như: cử Lê Đắc Tân, Lê Chính Lộ, Nguyễn Đăng Đệ, Đoàn Đại Thận và
Nguyễn Xuân Tình (5 người) làm Thiêm sự Lại bộ; Nguyễn Viết Cơ, Trương
Trí Lý, Đào Văn Lễ, Trần Minh Nghĩa, Nguyễn Đình Chất, Lê Công Bật và
Hoàng Trọng Mộ làm Thiêm sự Binh bộ; Trần Quốc Cao và Trần Bá Bảo làm
Thiêm sự Hình bộ; Trần Quang Mân, Nguyễn Hữu Thận, Võ Tiến Ngôn và
Nguyễn Đăng Cơ (4 người) làm Hàn lâm viện chế cáo; Sung vào Hàn lâm viện
với số khá Đông 30 người. Trong đó có Thái Văn Nguyên, Nguyễn Kim
Phượng, Phan Đức Hiên, Hoàng Đường, Nguyễn Văn Công, Võ Đoàn Thiếp,
Nguyễn Đăng Thiệp, Nguyễn Công Trực, Nguyễn Đức Đàm; Cử Trương Minh
Thành làm Hàn lâm viện thị thư phụng chỉ; Trần Đình Trung, Nguyễn Văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

15
Quang, Võ Hữu Hợp, Nguyễn Văn Châu và Nguyễn Văn Huyền (5 người) làm
Hàn lâm viện thừa chỉ; Cử 13 người vào Hàn lâm viện thị thư. Trong đó có
Trần Văn Tính, Trần Viết Bình, Lê Văn Phú, Lê Văn Đồng, Nguyễn Côn Định,
Nguyễn Văn Nhiêu…[61]
Đối với những thân sĩ cựu triều ở Bắc Hà đang còn mang nặng tư tưởng
“hoài Lê” – một vấn đề lớn cản trở trên con đường dựng nghiệp của nhà
Nguyễn – Gia Long đã kịp thời giải quyết từ ngay sau khi ông lên nắm quyền
(từ cuối tháng 6 năm 1802) Gia Long đã hạ chiếu dụ cho các hào mục Bắc Hà
rằng “mới rồi đây Tây Sơn gây biến, ngôi nhà Lê bị mất rồi. Bọn các ngươi ôm
lòng trung căm giận đã lâu, chẳng chịu để giặc sai khiến. Nhiều người trốn
tránh, nhóm họp ở núi rừng chưa biết về đâu. Nay bọn giặc đã trừ, phong tục
văn chương cùng một mối. Vậy đặc dụ rằng, phàm ai bị can phạm trước kia
đều không xét hỏi, đều cho giải tán hết nghĩa binh đem nộp khí giới, do địa
phương sở tại làm biểu báo lên, trẫm sẽ tùy tài lục dụng”.[61, tr. 504].
Đến tháng 7 năm đó, Gia Long lại tiếp tục ban chiếu dụ các cựu thần nhà
Lê và hương cống học trò rằng: “mới đây giặc Tây Sơn can phạm đạo thường,
làm cho trời đất tối đen, trong lúc ấy có nhiều người ẩn náu, không muốn làm

quan cho giặc, mà ôm đức giữ tài để chờ thời cơ. Nay đảng giặc dẹp yên, võ
công cả định, chính là buổi đầu chấn hưng văn hóa, xây dựng trị bình. Nhân
tài trong đời há chịu cùng với cỏ cây mục nát sao? Vậy nên báo cáo cho nhau,
đều đến hành tại để bọn Chưởng tiền quân Nguyễn Văn Thành, Lể bộ Đặng
Đức Siêu, Tán Lý Đặng Trần Thường, Tham tri Đặng Như Đăng, Học sĩ
Nguyễn Văn Viên, lần lượt dẫn vào yết kiến. Ta sẽ nghe lời nói thử việc làm,
tùy tài bổ dụng, cho người hiền được có vị, người tài được có chức, đẹp lòng
nghĩ, chia mưu làm, để cùng nên đạo trị nước” [61, tr.507]. Nhân có lời chiếu
dụ như vậy, những người ở Bắc Hà đã “tranh nhau ra giúp việc” và đã có hàng
loạt người đứng vào hàng ngũ quan lại của triều đình Nguyễn trong buổi đầu
như: Nguyễn Duy Hợp làm Thị trung trực học sĩ, lãnh chức Hiệp trấn Kinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

16
Bắc, Lê Duy Đảng làm Kim Hoa điện trực học sĩ, lãnh chức Hiệp trấn Lạng
Sơn. Lê Duy Trầm, Ngô Xiêm và Nguyễn Đình Tứ làm Thái hòa điện học sĩ,
Nguyễn Đường làm Kim hoa điện học sĩ, Phạm Tích, Võ Trinh làm Thị trung
học sĩ; Vũ Đình Tử, Nguyễn Huy Thảng làm Cẩm chính điện học sĩ… Trong số
những người này chỉ có một người là Hương cống còn toàn bộ đổ Tiến sĩ.
Ngoài ra còn một số nho sĩ khác ở Bắc Hà khi nghe tin Gia Long trọng
dụng trở lại, đã dâng trình phong bì kín và được tuyển dụng tới 32 người, trong
đó có: Phan Chính Thể, Nhữ Công Thiệu, Nguyễn Duy Cung, Bùi Phổ
Như vậy số quan lại cựu triều xuất thân từ khoa bảng đã gia nhập hàng
ngũ quan lại của triều đình nhà Nguyễn với một số lượng tương đối lớn và đa
phần họ lại có học vấn hơn số quan lại xuất thân từ hàng võ thân cận với Gia
Long. Đây cũng là một vấn đề tương đối nan giải đối với Gia Long.
Thực ra Gia Long muốn dùng người của mình vào làm ở chính quyền
mới, nhưng một phần vì chưa đủ, một phần vì chưa có thời gian để đào tạo
tuyển dụng quan lại lớp mới và quan trọng hơn là xét về nhân tình thế thái lúc
đó Gia Long không thể nào làm khác hơn được mà phải tiếp tục sử dụng không

những số đông quan lại cũ của triều Lê mà phải sử dụng cả một số người nước
ngoài. Đó là điều bất cập trong buổi đầu xây dựng chính quyền. Với một cơ cấu
quan chức như vậy, chắc chắn không thể “họp lòng nghĩ, chia mưu làm, để
cùng nên đạo trị nước” như Gia Long mong muốn được.
Đã thế Gia Long còn phải ứng xử sao cho “phải lẽ” với bề tôi trung
nghĩa của nhà Lê, và con cháu họ Trịnh nữa.
Đối với những bầy tôi trung nghĩa của nhà Lê, Gia Long đã ban chiếu
trọng thưởng rất ân cần rằng “mới đây giặc Tây Sơn xướng loạn, hãm hại nhân
dân, những người trung nghĩa ai cũng căm giận, hoặc đương thuở nhà Lê suy
yếu liều mình đánh giặc, đến khi việc nước đã hỏng mà cầm quân chống giặc,
hết lòng, hết sức không kể được thua. Khi trẫm mới thu phục Gia Định quyết trí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

17
diệt thù, cũng đã biết rõ một tấm trung thành của bọn ngươi, dù muôn dặm non
sông cũng chẳng cho là xa cách, hằng thông tin sứ, ứng nghĩa cũng nhiều. Có
người hăng hái nhóm họp binh sĩ chống giặc, nhưng sợi tóc khó mang nổi
nghìn cân, thế lực không thể địch nổi, hằng đánh, hằng thua. Cũng có người tới
chốn quân mạc, vâng chịu mệnh lệnh, nhưng khi không làm xong kín đáo, lại
mắc tai vạ, lòng ta rất thương xót. Nay đã diệt quân hung ác, cả định võ công,
nghĩ đến những người trung nghĩa, chính nên khen thưởng. Vậy hạ lệnh cho các
địa phương Bắc thành và Thanh Nghệ. Xét trước đây có ai theo nghĩa bỏ mình
thì cho con cháu họ hàng đem việc bày tâu, xét ban tuất điền”. [61, tr.507]
Đối với con cháu họ Trịnh, Gia Long cũng xuống chiếu rằng “Tiên thế
với họ Trịnh vốn là nghĩa thông gia. Trung gian Nam – Bắc chia đôi, dần nên
ngăn cách, đó là việc đã qua của người trước, không nên nói nữa. Ngày nay
trong ngoài một nhà, nghĩ lại mối tình thích thuộc bao đời, thương người còn
sống, nhớ người đã mất, nên lấy tình hậu mà đối xử. Vậy nên cùng báo cho
nhau, họp chọn lấy một người trưởng họ, giữ việc thờ cúng, để giữ tình nghĩa
đời đời”.[61, tr.508]

Như vậy là tuy được thừa hưởng một thành quả to lớn của Phong trào
nông dân Tây Sơn trong sự nghiệp thống nhất đất nước là làm chủ một đất
nước thống nhất từ ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau, nhưng triều Nguyễn đã phải
tồn tại trong một bối cảnh xã hội hết sức đặc biệt của đất nước vào đầu thế kỉ
XIX. Đó là những hậu quả về mặt chính trị hết sức nặng nề như đã nêu ở trên.
Mặc dù vậy, ở thời kỳ đầu, các vua triều Nguyễn tỏ ra hết sức cố gắng và có nhiều
đóng góp đáng kể trong công cuộc kiện toàn bộ máy hành chính quốc gia.
Trước những khó khăn chồng chất đó, Gia Long đã chọn Phú Xuân, đặt
dinh Quảng Đức tách từ trấn Thuận Hóa làm kinh đô. Trên cơ sở các đơn vị
hành chính đã có, Gia Long sắp đặt lại. Lấy Phú Xuân làm trung tâm, Gia Long
đặt miền Trung từ Thanh Hoa ngoại đến Bình Thuận dưới quyền quản lý trực
tiếp của triều đình. Phía Bắc từ Sơn Nam hạ trở ra bao gồm 11 trấn gọi là Bắc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

18
Thành. Phía Nam từ Trấn Biên trở vào gồm 5 biên, trấn gọi là Gia Định thành,
do một viên võ quan đại thần đứng đầu với chức danh Tổng trấn, có Hiệp trấn,
Phó Tổng trấn giúp việc thay mặt nhà vua quản lý mọi việc. Ngoài ra ở mỗi
thành còn có ba tào: Binh, Hộ, Hình chia nhau chuyên trách từng phần kiêm cả
Lại, Lễ, Công.
Dưới thời Gia Long, bộ máy nhà nước Nguyễn về cơ bản kế thừa mô
hình tổ chức trước đó. Ở cấp trung ương đặt đủ sáu bộ gồm: Lại, Hộ, Lễ, Binh,
Hình, Công do thượng thư đứng đầu, cấp phủ có Tả Tham tri và Hữu Tham tri
và bộ phận giúp việc như Thiêm sự, Câu kê, Cai hợp…Tại triều đình có một số
cơ quan chức năng khác như Quốc tử giám, Viện hàn lâm, Viện thái y…
Ở các cấp hành chính địa phương dưới thời Gia Long và đầu thời Minh
Mạng hầu như không có thay đổi đáng kể nào so với trước. Cả nước chia thành
27 doanh (Đàng Trong cũ) và trấn (Đàng Ngoài cũ) Đàng ngoài cũ gồm 13
doanh trấn và một phủ Phụng Thiên (năm 1805 đổi là phủ Hoài Đức). Đàng
Trong có 14 doanh (năm 1808) đổi hầu hết thành trấn trừ doanh Quảng Đức

năm 1821 đổi thành phủ Thừa Thiên. Các doanh Quảng Bình, Quảng Trị,
Quảng Nam đến năm 1827 cũng thống nhất đổi thành trấn. triều đình trung
ương chỉ trực tiếp cai quản kinh kỳ gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức,
Thừa Thiên và Quảng Nam và bảy trấn gồm Nghệ An, Thanh Hóa, Quảng
Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Bình Khương và Bình Thuận. Vì nhiều lý do, dưới
thời Gia Long triều đình Huế buộc phải chấp nhận hai khu vực hành chính có
tính trung gian là Bắc Thành (đặt năm 1802) và Gia Định thành (đặt năm
1808). Bắc thành gồm 5 nội trấn (Sơn Nam Hạ, Sơn Nam Thượng, Kinh Bắc,
Sơn Tây và Hải Dương) và 6 ngoại trấn (Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng
Sơn, Cao Bằng, Yên Quảng và Hưng Hóa). Gia Định thành gồm 4 trấn: doanh
Phiên trấn đổi thành trấn Phiên An doanh Trấn Biên đổi thành trấn Biên Hòa,
doanh Vĩnh trấn đổi thành trấn Vĩnh Thanh, doanh Trấn Định đổi thành trấn
Định Tường và trấn Hà Tiên đặt từ năm 1810.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

19
Đứng đầu mỗi thành là chức Tổng Trấn có một Hiệp tổng trấn (sau đổi
thành Phó tổng trấn). Tổng trấn có quyền hành rất lớn, việc thăng gián chức
quan lại, xử lý kiện tụng được tự quyết định rồi mới tâu lên triều đình. Bộ máy
cai trị các thành gồm ba tào là Hộ (Kiêm Công), Binh (kiêm Lại), Hình (kiêm
Lễ), đứng đầu là các chức Tham tri được biệt phái từ các bộ đến.
Đứng đầu các dinh là chức Lưu thủ, giúp việc có các chức Cai bạ, Ký
lục, đứng đầu trấn là chức Trấn thủ (võ quan), giúp việc có các chức Hiệp trấn,
Tham hiệp (văn quan). Tại các doanh, trấn thành lập hai ty gồm 6 phòng. Ty tả
thừa gồm các phòng Lại, Binh, Hình; Ty Hữu thừa gồm các phòng Hộ, Lễ,
Công. Quan lại ở các trấn thuộc Bắc Thành và Gia Định thành đặt dưới sự điều
khiển trực tiếp của quan Tổng trấn, nhận chỉ thị của từ quan Tổng trấn mà
không được giao thiệp với các bộ ở trung ương cũng như tâu thẳng lên nhà vua,
ngược lại, triều đình trung ương cũng chỉ làm việc với địa phương thông qua
quan Tổng trấn.

Dưới trấn, dinh là các phủ, huyện, tổng, xã. Đứng đầu là các chức Tri
phủ, Tri huyện, Cai Tổng và Xã trưởng, cơ bản chưa có thay đổi so với trước.
Thời Gia Long, mỗi phủ, huyện đều có hai viên Tri phủ, Tri huyện đứng đầu.
Đối với dân tộc thiểu số buổi đầu nhà Nguyễn vẫn duy trì cơ cấu tổ chức
truyền thống và sử dụng đội ngũ tù trưởng cai quản các vùng thiểu số. (Từ thời
Minh Mạng nhằm tiến tới sự thống nhất về mặt hành chính, tăng cường quyền
kiểm soát của nhà nước hạn chế thế lực của các thổ tù, hàng loạt cải cách quan
trọng được thi hành). Khi nhà Nguyễn mới được thiết lập, quan lại phần lớn là
những người từng theo Nguyễn Ánh chống lại nhà Tây Sơn, trong đó chủ yếu
là các võ quan. Về sau việc tuyển chọn quan lại chủ yếu thông qua khoa cử.
Năm 1807, Gia Long mở khoa thi hương đầu tiên. Phần lớn những người đổ đạt
đều được bổ dụng vào các chức vụ của bộ máy nhà nước và trở thành bộ phận
nòng cốt của nền hành chính quốc gia.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

20
Pháp luật: trong những năm đầu mới cầm quyền, Gia Long sai đình thần
tham khảo bộ luật Hồng Đức triều Lê sở định ra một số điều lệ về kiện tụng, về
trừng phạt quan lại nhũng nhiễu dân, ăn hối lộ. Năm 1811 Gia Long ban chỉ dụ
“bọn khanh (các đình thần soạn thảo bộ luật mới của triều đình nhà Nguyễn)
nên hết lòng khảo xét những pháp lệnh điển lệ của triều đình, tham hợp luật với
điều luật đời Hồng Đức và nước Đại Thanh, lấy bỏ cân nhắc mà làm thành
sách. Trẫm sẽ tự sửa chửa cho đúng để ban hành [61, tr. 808]. Năm 1815, bộ
luật được ban hành, gồm có 398 điều, chia làm 22 quyển. Tên là Hoàng triều
luật lệ (còn gọi là Hoàng Việt luật lệ hay luật Gia Long). Cách cấu trúc của luật
Gia Long giống phần nào trong cấu trúc của bộ luật Hồng Đức.
Mặc dù trong một số không nhiều điều luật của bộ luật Gia Long có tham
khảo bộ luật Hồng Đức thời Lê sơ như một số điều luật về bộ máy quan lại, về
việc xử lí và trừng phạt các quan lại nhũng nhiễu, hạch sách, đục khoét dân
chúng, ăn hối lộ, nhưng một số điều luật tích cực, tiến bộ của luật Hồng Đức

không còn được thể hiện trong bộ luật Gia Long.
Bộ luật Gia Long nói riêng, pháp luật thời Nguyễn nói chung thể hiện
sâu sắc ý đồ bảo vệ quyền hành tuyệt đối của nhà vua và đề cao địa vị của chế
độ. Bộ luật Gia Long và pháp luật thời Nguyễn thể hiện tính chất chuyên chế
cực đoan đối với nhân dân. Điều này được phản ánh khá nổi bật việc thực hiện
những điều luật hình đối với nhân dân dưới triều Nguyễn.
Quân đội thời Nguyễn được tổ chức có hệ thống chặt chẽ, có năm phủ đô
đốc chỉ huy năm quân (trung quân, tiền quân, hậu quân, tả quân, hữu quân).
Đứng đầu mỗi phủ đô đốc có chức đô thống chưởng phủ sự, tiếp đến là các
chức thống chế, chưởng vệ. Năm phủ đô đốc đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp
của nhà vua. Vua nắm quyền quyết định việc điều động và di chuyển quân đội.
Thời Gia Long chế độ binh dịch được quy định như sau “từ Quảng Bình
đến Bình Thuận cứ 3 người dân có một người phải đi lính, từ Biên Hòa trở vào

×