Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

tóm tắt luận án tiên sĩ những biến đổi về kinh tế - xã hội ở nông thôn tỉnh đồng tháp từ năm 1975 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.97 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, vấn đề
nông dân, nông nghiệp và nông thôn được đặc biệt coi trọng. Đây là vấn
đề then chốt góp phần giữ vững ổn định xã hội, tạo điều kiện đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Xuất phát từ kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới khi tiến hành công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước đều phải ưu tiên phát triển nông nghiệp
và lấy nông thôn làm tiền đề để giữ vững sự ổn định xã hội, Đảng và Nhà
nước ta đã có nhiều chính sách quan trọng nhằm phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn. Kết qủa sau hơn 20 năm đổi mới, nông nghiệp, nông
thôn Việt Nam đã đạt được những thành tựu khá toàn diện và to lớn.
Là một trong 13 tỉnh thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long,
Đồng Tháp được biết đến là tỉnh có thế mạnh trong phát triển nông nghiệp.
Kinh tế nông nghiệp Đồng Tháp trong những năm gần đây có những
chuyển biến mạnh, từ nền sản xuất nông nghiệp truyền thống mang nặng
tính tự cung tự cấp sang kinh tế nông nghiệp hàng hoá, đã góp phần đưa
kinh tế của tỉnh từng bước ổn định và phát triển, đồng thời làm cơ sở cho
công cuộc công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Vì thế,
việc nghiên cứu đề tài “ Những biến đổi về kinh tế - xã hội ở nông thôn
tỉnh Đồng Tháp từ năm 1975 đến năm 2010” có ý nghĩa cả về mặt khoa
học và thực tiễn.
Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu nông thôn tỉnh Đồng Tháp sẽ làm phong phú thêm bức
tranh kinh tế - xã hội của đất nước và sẽ góp phần vào việc nghiên cứu
kinh tế - xã hội nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và nông
thôn cả nước nói chung.
Ý nghĩa thực tiễn
Là một tỉnh nằm ở trung tâm Đồng bằng sông Cửu Long, kinh tế nông
nghiệp đóng vai trò chủ đạo, hơn ở đâu hết đời sống nông thôn tỉnh Đồng
Tháp biểu hiện rõ những cơ hội và thách thức trong quá trình phát triển


nông nghiệp. Nghiên cứu những biến đổi kinh tế - xã hội nông thôn tỉnh
Đồng Tháp trong giai đoạn từ năm 1975 đến năm 2010, chúng tôi hi vọng
sẽ góp phần đánh giá thực trạng quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội nông
thôn qua các thời kỳ. Từ đó nêu lên những tồn tại, thách thức, triển vọng
cùng với những khuyến nghị về tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh.
1
2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
2.1. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian là địa bàn tỉnh Đồng Tháp ngày nay (theo địa
giới hành chính năm 2010).
Phạm vi thời gian nghiên cứu của đề tài là từ năm 1975 đến năm 2010.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của đề tài đã được xác định như tên gọi, là những biến đổi
về kinh tế - xã hội ở nông thôn tỉnh Đồng Tháp thời kỳ từ năm 1975 đến
năm 2010.
Trước hết là sự biến đổi về kinh tế. Luận án tập trung nghiên cứu
chuyển biến của nền kinh tế nông nghiệp được biểu hiện trên ba lĩnh vực
chủ yếu là trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản.
Về khía cạnh xã hội, luận án đi sâu nghiên cứu một số mặt cơ bản của cộng
đồng xã hội, cơ cấu xã hội, đời sống của cư dân nông thôn tỉnh Đồng Tháp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nguồn tài liệu đáng tin cậy, luận án tái dựng lại một cách hệ
thống về sự biến đổi kinh tế - xã hội nông thôn tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn
từ năm 1975 đến năm 2010.
Nghiên cứu về quá trình biến đổi về tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn
nông thôn tỉnh Đồng Tháp từ năm 1975 đến năm 2010 còn mang ý nghĩa tổng
kết lại việc triển khai và thực hiện đường lối đổi mới của Đảng ở một địa
phương cụ thể với những thành công và hạn chế, đồng thời chỉ ra những

nguyên nhân và giải pháp.
3.2.Nhiệm vụ
Trình bày, phân tích những vấn đề tiềm năng của tỉnh, về quá trình
phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn nông thôn tỉnh Đồng Tháp, chỉ ra
những biến đổi kinh tế - xã hội nông thôn của địa phương qua các giai
đoạn cụ thể 1975 – trước 1988; 1988 – 2000; 2001 – 2010. Qua đó, đánh
giá, so sánh với các tỉnh trong và ngoài khu vực, rút ra nguyên nhân và bài
học kinh nghiệm của thành công và hạn chế cho hôm nay và mai sau.
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận Mác xít, đứng trên lập trường chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử vào hoàn cảnh cụ thể, luận án
sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lô-gich là phương pháp cơ
bản. Ngoài ra tác giả còn sử dụng một số phương pháp liên ngành như
phân tích, thống kê, điền dã thực địa…
2
4.2. Nguồn tài liệu
Nguồn tư liệu sử dụng nghiên cứu đề tài được tập hợp và khai thác từ
nhiều nguồn khác nhau:
Một là, các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước,của Tỉnh
ủy, HĐND, UBND và các Sở, Ban ngành tỉnh Đồng Tháp qua các giai
năm từ 1975 đến 2010 có liên quan đến vấn đề kinh tế - xã hội nông thôn.
Hai là, nguồn tài liệu do Cục Thống kê Đồng Tháp công bố qua các niên
giám thống kê và các cuộc điều tra như điều tra về nông nghiệp, nông
thôn, mức sống dân cư, lao động và việc làm, dân số - gia đình và nhà ở,
Ba là, nguồn tài liệu từ các công trình khoa học của tỉnh như tổng kết 10
năm, 15 năm, 20 năm, nghiên cứu của tỉnh hình kinh tế - xã hội, phân
tầng xã hội, Bốn là, nguồn tài liệu được công bố trên các trang web của
các tỉnh, thành khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Tổng Cục thống kê,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Năm là, sách chuyên khảo liên

quan đến đề tài, chủ yếu các sách viết về vùng Đồng bằng sông Cửu Long
qua các thời kỳ.
5. Đóng góp khoa học của luận án
Luận án có những đóng góp khoa học cơ bản như sau:
Một là, trên cơ sở sưu tầm, tập hợp, hệ thống hóa nhiều nguồn tư
liệu, với nhiều cách tiếp cận khác nhau, trong đó có một số nguồn tư liệu
mới được công bố, luận án tái hiện bức tranh về sự biến đổi kinh tế - xã hội ở
nông thôn tỉnh Đồng Tháp trong 35 năm kể từ năm 1975 đến năm 2010.
Hai là, làm rõ vị trí, vai trò và những đóng góp cũng như hạn chế của
kinh tế nông nghiệp và nông thôn Đồng Tháp trong quá trình phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh Đồng Tháp, của Đồng bằng sông Cửu Long và của cả nước
nhằm phát huy hơn nữa sức mạnh của nông dân và nông nghiệp trong quá
trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Ba là, cùng với những công trình nghiên cứu trước đó, luận án cung
cấp nguồn tư liệu và những kiến giải cho việc nghiên cứu về nông nghiệp,
nông dân và nông thôn trong lịch sử. Đồng thời qua đây có thể rút ra
những bài học kinh nghiệm cho việc hoạch định chủ trương, đường lối
phát triển nông nghiệp, nông thôn hôm nay và mai sau.
Bốn là, các số liệu và cơ sở dữ liệu mà luận án đưa ra là đáng tin cậy vì
được rút ra từ các cuộc khảo sát, điều tra kinh tế - xã hội, số liệu thống kê
và báo cáo của các ban, ngành của nhà nước như Ủy ban Nhân dân tỉnh
Đồng Tháp, Tổng cục thống kê, Cục thống kê tỉnh Đồng Tháp, Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đồng Tháp, nên có thể sử dụng luận
án làm nguồn tài liệu tham khảo và chuyên khảo về vùng Đồng bằng sông
Cửu Long, Đồng Tháp Mười nói chung và tỉnh Đồng Tháp nói riêng.
3
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận án được kết cấu gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan tới đề tài

Chương 2: Tình hình kinh tế - xã hội nông thôn tỉnh Đồng Tháp từ
năm 1975 đến trước năm 1988
Chương 3: Những biến đổi về kinh tế - xã hội ở nông thôn Đồng Tháp
từ năm 1988 đến năm 2000
Chương 4: Bước phát triển mới về kinh tế - xã hội ở nông thôn Đồng
Tháp từ năm 2001 đến năm 2010.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI
Thực hiện đề tài luận án “Những biến đổi kinh tế - xã hội ở nông
thôn tỉnh Đồng Tháp từ năm 1975 đến năm 2010”, chúng tôi đã tiếp cận
nguồn tài liệu chủ yếu nghiên cứu về nông thôn, nông nghiệp và nông dân,
đặc biệt chú ý tới những công trình nghiên cứu trên phạm vi các tỉnh Đồng
bằng sông Cửu Long.
Có thể chia các công trình theo bốn nhóm chính:
1.1. Nhóm công trình nghiên cứu chung về tình hình kinh tế - xã
hội cả nước trước và trong thời kỳ đổi mới
1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về những vấn đề nông nghiệp,
nông dân và nông thôn giai đoạn trước và trong 25 năm đổi mới
1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu kinh tế - xã hội vùng nông
thôn Đồng bằng sông Cửu Long
1.4. Nhóm những nghiên cứu về khu vực Đồng Tháp Mười và
kinh tế nông nghiệp, nông thôn tỉnh Đồng Tháp
Tổng quan lịch sử nghiên cứu có liên quan tới luận án cho thấy ở
nhiều góc độ khác nhau khi nghiên cứu về kinh tế - xã hội đồng bằng sông
Cửu Long nói chung và tỉnh Đồng Tháp nói riêng cũng đã có nhiều công
trình điều tra, khảo sát, nghiên cứu khá toàn diện. Những công trình này
đều có giá trị về mặt tư liệu và đã gợi mở được nhiều vấn đề có sức lôi
cuốn. Nhưng cho đến nay, chưa có công trình sử học nào nghiên cứu một
cách đầy đủ, có hệ thống và toàn diện về sự biến đổi kinh tế - xã hội ở
nông thôn tỉnh Đồng Tháp giai đoạn từ năm 1975 đến năm 2010. Do vậy,

tác giả mong muốn trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu từ trước
để tiếp cận và nghiên cứu đề tài “ Những biến đổi kinh tế - xã hội ở nông
thôn tỉnh Đồng Tháp từ năm 1975 đến năm 2010” một cách hệ thống,
toàn diện và đầy đủ hơn.
4
Chương 2
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI NÔNG THÔN
TỈNH ĐỒNG THÁP TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 1988
2.1. Điều kiện lịch sử
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Đồng Tháp là một trong 13 tỉnh thành phố thuộc Đồng bằng sông Cửu
Long, phái Bắc tiếp giáp với Campuchia, phía Đông giáp tỉnh Long An và
tỉnh Tiền Giang, phía Nam giáp tỉnh Vĩnh Long và thành phố Cần Thơ,
phía Tây giáp tỉnh An Giang.
Dựa vào lợi thế vị trí địa lý như trên, kết hợp với điều kiện tự nhiên đặc
thù, tài nguyên thiên nhiên phong phú, tỉnh Đồng Tháp có nhiều ưu thế để sản
xuất nông nghiệp chủ yếu với các thế mạnh về cây lúa, thủy sản và trái cây.
Đồng thời, tỉnh Đồng Tháp còn có nhiều tiềm năng để phát triển mạnh khu
vực kinh tế thương mại – dịch vụ và là nơi cung cấp các nguyên liệu nông
nghiệp cho các ngành sản xuất công nghiệp chế biến.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Đồng Tháp là một tỉnh có quy mô dân số khá đông, số người lao
động trong độ tuổi lao động chiếm tỉ lệ cao và có khuynh hướng tăng. Đây
chính là nguồn lực quan trọng, là lực lượng sản xuất chính góp phần thúc
đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp của tỉnh theo hướng công
nghiệp hóa – hiện đại hóa. Song lại là tỉnh có mặt bằng dân trí ở mức thấp,
đại bộ phận nông dân chưa có trình độ sản xuất với sự tiến bộ của khoa
học kỹ thuật nên việc áp dụng kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất còn
gặp nhiều khó khăn.
2.1.3. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội ở nông thôn tỉnh Đồng

Tháp trước năm 1975
Phần này tác giả trình bày các nội dung khái quát, như: sơ lược về sự
hình thành vùng đất Đồng Tháp; Tình hình kinh tế - xã hội nông thôn thời
kỳ các chúa Nguyễn và thời nhà Nguyễn; thời kỳ Pháp thuộc; thời kỳ
kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) và thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
(1954 - 1975).
2.2. Những thay đổi của kinh tế - xã hội ở nông thôn Đồng Tháp
từ năm 1975 đến năm 1988
2.2.1. Đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam và sự vận dụng của
Đảng bộ,chính quyền và nhân dân tỉnh Đồng Tháp
Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước, Trung
ương, Đảng, Chính phủ, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Đồng Tháp không
ngừng đề ra các chính sách, chủ trương, biện pháp kịp thời đáp ứng cho
yêu cầu của tình hình mới nhằm giải quyết các vấn đề cấp bách về lương
5
thực, thực phẩm để từng bước ổn định đời sống của nhân dân, như: Nghị
quyết số 24 (29/9/1975) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng lao động
Việt Nam “Về nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới”; Nghị
quyết 254 (15/7/1976) của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng
ban hànhvề “Những công tác trước mắt đối với miền Nam”; Đại hội Đại
biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp lần thứ I , từ ngày 22/3/1977 đến ngày
03/4/1977, đề ra nhiệm vụ “… ra sức phát triển thủy lợi, trọng tâm là ưu tiên
phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu”; Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh ra Chỉ thị số 25/ CT – 07 (14/3//1976) về việc “ gắn liền
phát động phong trào sản xuất thâm canh tăng vụ, tăng năng xuất, mở rộng
diện tích, đáp ứng yêu cầu lương thực”; Chỉ thị số 31/CT – 76 (17/1/1976)
của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về việc chỉ đạo trước mắt là ưu tiên số 1
cho phát triển nông nghiệp; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ II (1980)
của tỉnh đã xác định “ Nhiệm vụ hàng đầu là sản xuất lương thực, thực
phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu. Tiến công vào Đồng Tháp Mười sẽ giải

quyết được những vấn đề này”.
2.2.2. Về quan hệ sở hữu và quan hệ sản xuất trong nông thôn
Cuối năm 1978, tỉnh Đồng Tháp bắt đầu tổ chức thực hiện Chỉ thị 43
– CT/TW (14/4/1978) của, Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam. Tỉnh đã
tiến hành điều chỉnh, chia cấp lại ruộng đất cho nông dân, thực hiện tập thể
hóa tư liệu sản xuất nông nghiệp mà chủ yếu là dưới dạng tập đoàn sản
xuất. Đến cuối năm 1980, toàn tỉnh đã xây dựng được 420 tập đoàn sản
xuất nông nghiệp, 59 tập đoàn máy kéo, 2 tập đoàn sửa chữa, với 530 máy
cày lớn.

Việc thực hiện đường lối cải tạo nông nghiệp một cách ồ ạt, duy ý
chí, cộng với thiên tai những năm 1978, 1979 và chiến tranh bảo vệ biên
giới Tây Nam làm cho sản xuất nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp bị ngưng trệ,
kinh tế không những không tăng trưởng mà còn bị nạn đói đe dọa. Đời
sống nhân dân tỉnh Đồng Tháp vô cùng khó khăn. Tình trạng trên dẫn đến
thực tế là diện tích, năng xuất, sản lượng lúa cả năm ở Đồng Tháp từ năm
1976 đến năm 1980 có chiều hướng chựng lại và thậm chí giảm sút. Nhìn
tổng thể giai đoạn 1976 - 1980, mặc dù có tiềm năng và triển vọng to lớn
nhưng sản xuất nông nghiệp của Đồng Tháp có chiều hướng đi xuống.
Diện tích gieo trồng luá cả năm đến năm 1980 chỉ tăng được 14,6%, so với
năm 1976. Năng suất lúa chỉ tăng từ 21,8 tạ/ha (1976) lên 22,4 tạ/ha
(1980).
Thực hiện chỉ thị số 100/CT – TW (13// 01 /1981) và Chỉ thị số 19 –
CT/TN(03/5/1983) của Ban bí thư Trung ương Đảng, Tỉnh ủy Đồng Tháp
ra các Nghị quyết số 10, 11 (1983) nhằm cải tạo quan hệ sản xuất và thực
hiện nhiệm vụ của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II (1980), lần thứ III
6
(1983), đến cuối năm 1985 tỉnh Đồng Tháp “đã hoàn thành về cơ bản công
cuộc cải tạo nông nghiệp” trong đó có việc điều chỉnh 10.300 ha cho 7.799
hộ nông dân, đưa vào làm ăn tập thể 87% diện tích đất canh tác và 93% hộ

nông dân với 2.234 tập đoàn sản xuất, liên tập đoàn và 2 hợp tác xã .
Trong thực tế, việc hợp tác hóa trong nông nghiệp, thực chất là tập
thể hóa đã thủ tiêu thị trường với nền kinh tế tiểu nông, đẩy cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội ngày càng sâu nặng. Khó khăn nhất là vào những
năm 1978 – 1980, dù là một tỉnh nằm ở trung tâm Đồng Tháp Mười, được
biết đến như vựa lúa của cả nước nhưng Đồng Tháp Người nông dân vùng
đồng bằng sông Cửu Long nói chung, cư dân Đồng Tháp nói riêng vốn cần
cù, năng động, sáng tạo, quen chủ động trong làm ăn và sản xuất hàng hóa
nhưng do chính sách chưa thích hợp nên đã làm mất dần những đặc tính ưu
việt của họ.
Trên bình diện kinh tế nông nghiệp cả nước nói chung giai đoạn
1981 – 1985 là thời kỳ Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức lại tư duy kinh
tế, tổng kết thực tiễn, phát hiện quy luật khách quan của sự phát triển để
từ đó tìm giải pháp khắc phục.
2.2.3. Về kinh tế nông thôn tỉnh Đồng Tháp
Từ sau ngày giải phóng, Đồng Tháp vừa tiến hành khôi phục và phát
triển kinh tế lại vừa hàn gắn vết thương chiến tranh, giải quyết những khó
khăn trước mắt đặc biệt là vấn đề lương thực cho người dân nhằm khắc
phục nạn đói, ổn định đời sống nhân dân sau thời gian dài chiến tranh.
Theo báo cáo thống kê của Uỷ ban Nhân dân tỉnh Đồng Tháp về kết
quả phát triển kinh tế xã hội sau 10 năm thống nhất đất nước, tổng sản
lượng lương thực quy thóc năm 1975 đạt 277.000 tấn, chủ yếu là sản
lượng luá chiếm 97,6%. Đến năm 1985 tăng lên 650.000 tấn, nhịp độ tăng
8,87% /năm. Lương thực bình quân đầu người một năm từ 280 kg năm
1975 đã tăng lên 489 kg năm 1985, nhịp độ tăng bình quân 5,74%
năm Năm 1975 tỉnh Đồng Tháp phải nhận viện trợ lương thực của Trung
ương 8.000 tấn gạo nhưng kể từ năm 1980 trở đi Đồng Tháp đã thực hiện
tốt nghĩa vụ lương thực cho Trung ương, từ năm 1981 đến 1985, toàn tỉnh
Đồng Tháp đã huy động được khoảng từ 145.000 đến 160.000 tấn lương
thực mỗi năm. Tính trong khoảng hơn 10 năm (1976 - 1988) Đồng Tháp

đã huy động được 1.5 triệu tấn lương thực giao cho Trung ương và tự cung
cấp cho cán bộ, công nhân viên chức, lực lượng vũ trang.
Nhìn chung ngành nông nghiệp trồng trọt ở Đồng Tháp trước năm
1988 có bước phát triển nhưng không đồng đều và thiếu tính bền vững.
Cây công nghiệp ngắn ngày phát triển chậm, chưa cân xứng với yêu cầu
7
của cơ cấu cây trồng, Nhà nước chủ yếu tập trung cho cây lúa, một số loại
cây có sự phát triển nhưng mang tính tự phát.
2.2.4.Về xã hội nông thôn tỉnh Đồng Tháp
Từ sự bất ổn về kinh tế kéo theo sự bất ổn về xã hội. Tình trạng bỏ
bê công việc đồng áng, tình trạng, “buôn lậu” lương thực thực phẩm giữa
các huyện, thị ngày càng nhiều. Mặc dù là tỉnh trọng điểm trong sản xuất
lương thực đặc biệt là cây lúa nhưng cũng như các tỉnh Đồng bằng sông
Cửu Long, nhiều nơi trên địa bàn tỉnh nhân dân phải ăn độn. Tổn thất lớn
nhất ở thời kỳ này chính là sự thui chột nguồn lực con người với tư cách là
lực lượng sản xuất quan trọng nhất.
Phát triển kinh tế - xã hội gắn liền với an ninh quốc phòng. Là tỉnh tiếp
giáp với đường biên giới Campuchia, trong thời gian từ năm 1975 đến năm
1979 tỉnh Đồng Tháp còn phải ra sức thực hiện nhiệm vụ củng cố an ninh
quốc phòng, phòng thủ tuyến biên giới phía Tây Nam của Tổ quốc.
Tiểu kết chương 2
Trong chiến tranh chống xâm lược người nông dân cả nước nói
chung và nông dân tỉnh Đồng Tháp nói riêng trở thành một đội quân chủ
lực của cách mạng. Khi chiến tranh chấm dứt, công cuộc hàn gắn vết
thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, đã nhanh chóng lôi kéo nông dân
tham gia. Nhưng do sai lầm, yếu kém trong quá trình thực hiện cải tạo
nông nghiệp, cộng với cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, thiên
tai lũ lụt làm ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống kinh tế - xã hội nông thôn
Đồng Tháp nên 5 năm sau ngày giải phóng đời sống kinh tế - xã hội nông
thôn tỉnh Đồng Tháp gặp nhiều khó khăn.

Mặc dù Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương có nhiều đổi mới,
nhưng đi vào thực tiễn ở nông thôn tỉnh Đồng Tháp, cơ chế khoán còn
mang tính tập trung quan liêu, mức khoán ngày càng tăng cao, không phù
hợp với thực tiễn sản xuất nên đã không phát huy được sức sản xuất của
người nông dân. Cùng với đó, chỉ thị số 19 – CT/TN của Ban Bí thư Trung
ương Đảng, về việc “Hoàn thành điều chỉnh ruộng đất, đẩy mạnh cải tạo
xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp ở Nam Bộ”. Việc giải quyết vấn đề
ruộng đất ở tỉnh Đồng Tháp nhằm mục đích rút ngắn sự cách biệt về điều
kiện sản xuất có đem lại một số kết quả nhưng chưa kích thích được sản
xuất phát triển, trái lại còn làm trì trệ một nền nông nghiệp đã bước đầu
mang tính chất sản xuất hàng hoá. Điều này đã làm ảnh hưởng trực tiếp tới
sản xuất và đời sống kinh tế - xã hội ở nông thôn bị đe dọa. Đó là nguyên
nhân sâu xa của một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn ra trầm trọng
từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX trên phạm vi cả nước, trong đó có
tỉnh Đồng Tháp.
8
Chương 3
NHỮNG BIẾN ĐỔI VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI
Ở NÔNG THÔN ĐỒNG THÁP TỪ NĂM 1988 ĐẾN NĂM 2000
3.1. Đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, sự vận
dụng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Đồng Tháp nhằm
phát triển kinh tế - xã hội vùng nông thôn
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
(12/1986) đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử dân tộc.
Trong
lĩnh vực nông nghiệp, giai đoạn 1986 – 2000, Đảng và Nhà nước đã có
nhiều chủ trương quan trọng nhằm đẩy mạnh sản xuất, coi nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu trong quá trình phát triển đất nước. Các nội dung đó
được thể hiện qua Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986),
Luật đất đai (1987), Nghị quyết 10 (05/04/1988) của Bộ Chính trị, Chỉ thị

47 (31/8/1988), Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 6,
khóa VI (3/1989), Luật đất đai sửa đổi (1993),…
Một quyết định rất quan trọng trong thời gian này của Bộ Chính trị
Đảng Cộng sản Việt Nam là sự ra đời của Nghị quyết 10 – CT/TW về cải
tiến chế độ khoán trong sản xuất nông nghiệp. Với nghị quyết này, người
nông dân đã được trao quyền sử dụng ruộng đất và tư liệu sản xuất làm ra,
được chủ động trong cả khâu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, được hưởng
thụ kết quả lao động của mình…, điều này khiến người nông dân vô cùng
phấn khởi trong sản xuất và kích thích khả năng sáng tạo trong lao động.
Quán triệt Chỉ thị số 74 của Hội đồng Bộ trưởng (1988), Ủy ban
Nhân dân tỉnh Đồng Tháp đề ra nhiệm vụ, mục tiêu kế hoạch 3 năm đối
với vùng Đồng Tháp Mười (1988-1990), trọng tâm là 3 chương trình kinh
tế: Tập trung đầu tư nông nghiệp toàn diện trong đó cây lúa là chính, phát
triển cây công nghiệp ngắn ngày ở vùng I, khai thác mạnh Đồng Tháp
Mười để mở rộng diện tích trồng lúa, hoa màu…; đối với chăn nuôi tập
trung cho đàn heo, phát triển khu vực kinh tế gia đình, phát triển số lượng
đàn trâu, bò củng cố mạng lưới phòng chống dịch bệnh cho gia súc…; đưa
khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp.
Trong tiến trình đổi mới, nông nghiệp luôn là ngành kinh tế được
Đảng và Nhà nước coi trọng, góp phần vào thực hiện mục tiêu 3 chương
trình kinh tế lớn do Đại hội VI đề ra và ổn định đất nước.
Chủ trương xây dựng một nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo
hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa gắn liền với phát triển nông thôn được
Đảng và Nhà nước quan tâm cụ thể trong khoảng thời gian các năm cuối thập
kỷ 90 thế kỷ XX và trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, trong đó trọng tâm
9
là các vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn mà đặc biệt là chuyển đổi cơ
cấu kinh tế, xóa bỏ thuế nông nghiệp, chú trọng phát triển thủy lợi. Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp lần thứ VI (1996), đã xác định: :
phát triển nền nông nghiệp toàn diện, trong đó cây lúa là cây thế mạnh,

tiếp tục chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo hướng đa dạng hóa cây
trồng, vật nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao…
Trong các văn bản trên, gây tác động mạnh đến sự chuyển biến kinh tế
nông nghiệp cả nước nói chung và tỉnh Đồng Tháp nói riêng phải đặc biệt
nhấn mạnh tác động của Nghị quyết 10 của Bộ chính trị. Việc thực hiện Nghị
quyết 10 /NQ – TW của Bộ Chính trị đã thực sự tạo ra một bước ngoặt có ý
nghĩa lớn. Cơ cấu kinh tế không ngừng chuyền dịch theo hướng tích cực.
3.2. Những chuyển biến kinh tế nông thôn tỉnh Đồng Tháp từ
năm 1998 đến năm 2000
3.2.1. Quá trình biến đổi lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Vận dựng Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị vào thực tiễn sản xuất,
bằng việc đưa ra phương thức khoán mới đã nâng cao một bước chất lượng
cuộc sống đồng thời giúp các ngành công nghiệp và thủ công nghiệp ở tỉnh
Đồng Tháp được phục hồi và tăng trưởng dần, một số ngành nghề mới
cũng được mở ra như nghề trồng hoa kiểng, nghề dệt chiếu, dệt thảm lục
bình, nghề làm chiếu…
Những chủ trương quan trọng của Đảng đã nhanh chóng khôi phục
và đưa nền nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp chuyển biến nhanh chóng. Trên
tất cả các phương diện như: diện tích canh tác, năng xuất, sản lượng đều tăng
qua các năm. Trong mười năm sản lượng tăng bình quân là 9,13%. Năm
1995, sản lượng so với năm 1990 là 542.888 tấn, chỉ tính riêng con số này
gấp hơn hai lần sản lượng năm 1975, bằng xấp xỉ sản lượng năm 1985.
Trong những năm tiếp theo sản lượng tăng liên tục, đỉnh cao là năm 1999 sản
lượng lương thực đạt trên 2000 tấn. Trong sản lượng lượng lương thực
mà tỉnh Đồng Tháp đạt được thì cây lúa đóng vai trò chủ đạo. Sản lượng
lúa mà Đồng Tháp đạt được trong 10 năm 1990 - 2000) là 18.108.811 tấn
thóc. Nhờ đó đã đưa bình quân lương thực trên đầu người gia tăng đáng
kể. Nếu năm 1985 là 489 kg/ người thì đến năm 1990 là 942 kg và năm
1995 là 1200kg/người.
“Khoán 10” với chủ trương xây dựng hộ nông dân trở thành những

đơn vị kinh tế tự chủ đã phát huy được sức sản xuất của nông dân. Sự
“bung ra” trong sản xuất đã giải quyết tình trạng thiếu lương thực, nếu
trước năm 1988 cả nước còn phải nhập đến 60.000 tấn gạo thì sang năm
1989 không những đảm bảo đủ lương thực mà đã xuất khẩu được
1.200.000 tấn. Nhà nước đã giải quyết được vấn đề mấu chốt về an ninh
10
lương thực cho quốc gia, góp phần thành công chương trình trọng điểm của
Nhà nước đặt ra “Lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”.
3.2.2. Sự chuyển biến cơ cấu kinh tế
Chuyển biến về cơ cấu kinh tế nông nghiệp: ngành trồng trọt và ngành
chăn nuôi
Ngành trồng trọt: Sự chuyển biến trong ngành trồng trọt được thể hiện
trên các phương diện cụ thể như diện tích canh tác, năng suất, sản lượng,
trong đó trọng tâm là sản xuất lúa gạo.
Trong việc chỉ đạo phát triển nông nghiệp, tỉnh luôn ưu tiên đầu tư
phát triển cây lúa là cây thế mạnh của tỉnh. Từ thực tế diện tích đất sản
xuất nông nghiệp mở rộng nên diện tích đất trồng lúa cũng tăng nhanh qua
các năm. Nếu năm 1988 diện tích đất trồng lúa là của cả tỉnh là 250.971 ha
thì đến năm 1995 là 383.053 và năm 2000 là 408.368 ha, Bên cạnh đó,
năng suất lúa không ngừng được tăng lên qua các năm. Nếu năm 1988,
năng suất lúa đạt là 42,37 tạ/ha thì đến năm 1995 là 47,05 tạ/ha, nhưng
năm 2000 chỉ đạt 46 tạ/ha là do nạn lụt lịch sử xảy ra trong năm 2000 làm
ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất lúa toàn tỉnh. Tăng cùng với diện tích,
năng suất, khiến sản lượng lúa cũng tăng đáng kể. Năm 1988 toàn tỉnh đạt
801.896 tấn, năm 1990 đạt 1.260.137 tấn vượt chỉ tiêu Đại hội IV đề ra
(chỉ tiêu Đại hội IV đề ra là 800.000 tấn). Năm 1995, sản lượng lúa của
Đồng Tháp tăng vượt bậc, đạt 1.802.169 tấn. Năm 2000 đạt 1.878.426 tấn.
Do vậy, đưa mức bình quân lương thực trên đầu người của tỉnh từ 490 kg
năm 1988 tăng lên 920 kg (1990), năm 1995 là 1.200 kg và năm 2000 là
1.195 kg. Nếu như năm 1988, toàn tỉnh mới chỉ có 250.000 tấn lúa hàng

hóa, đến năm 1990 có 600.000 tấn, năm 1995 có 1.000.000 tấn. Kết quả
đó đã đem lại cho tỉnh Đồng Tháp không chỉ đảm bảo đủ nhu cầu lương
thực mà còn xuất khẩu gạo ra thị trường bên ngoài. Cụ thể, năm 1990 tỉnh
Đồng Tháp xuất khẩu được 111.237 tấn, năm 1995 xuất khẩu được
145.000 tấn. Trong đó gạo từ 5% đến 15% chiếm tỷ lệ trên 70% giá trị cây
lúa ngày càng được nâng lên. Năm 1995, giá trị sản xuất cây lúa là 1.830
tỷ, chiếm 88% giá trị sản phẩm trồng trọt.
Trong sự phát triển nông nghiệp mà trọng tâm là sản xuất cây lúa giai
đoạn này phải kể tới sự chuyển biến của cơ cấu mùa vụ Cơ cấu mùa vụ
đã thay đổi làm vụ Đông xuân, Hè thu phổ biến bên cạnh lúa mùa, trong
đó vụ Đông xuân làm vụ chính. Năm 1990, diện tích lúa Đông xuân là
141.903 ha, diện tích lúa Hè thu là 61.958 ha thì năm 1995, diện tích lúa
Đông xuân là 180.647 ha và Hè thu là 165.267 ha và năm 2000, diện tích
lúa Đông xuân là 203.686 ha và Hè thu là 185.838 ha. Từ việc sản xuất lúa
11
mùa 1vụ/năm cho năng xuất thấp người nông dân Đồng Tháp đã chuyển
đổi làm từ 2 đến 3 vụ/ năm cho năng xuất từ 13 đến 15 tấn/ha
Ngoài ra, phải kể tới sự chuyển biến mạnh mẽ về cơ cấu giống lúa.
Năm 1990, diện tích lúa đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào khoảng 40% thì đến
năm 2000 là trên 80%. Nông nghiệp Đồng Tháp đã có lúa xuất khẩu đáp
ứng được yêu cầu thị trường thế giới.
Ngoài ra, không thể không nhắc tới sự chuyển đổi của cây hoa kiểng ở
thị xã Sa Đéc. Ở xã Tân Quy Đông có tới 400 hộ chuyển đổi từ trồng lúa,
cây ăn trái sang tập trung cây hoa kiểng quanh năm để cung ứng cho thị
trường trong và ngoài tỉnh.
Thực tế trên cho thấy ngành nông nghiệp trồng trọt ở tỉnh Đồng Tháp
trong giai đoạn 1988 - 2000 có sự chuyển biến đáng kể. Rõ nét nhất là sự
chuyển biến cơ cấu diện tích, năng suất, sản lượng, cơ cấu mùa vụ cây lúa.
Sự chuyển biến này mang lại sự phát triển vượt bậc trong kinh tế nông
nghiệp. Kết quả cho thấy không chỉ đảm bảo nhu cầu lương thực cho nhân

dân trong tỉnh mà còn làm nhiệm vụ lương thực với Trung ương và bước
đầu hướng tới xuất khẩu ra thị trường bên ngoài. Ngành trồng trọt đã có
những đóng góp lớn cho sự phát triển nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp. Trong
cơ cấu ngành nông nghiệp, tổng giá trị sản lượng nông nghiệp năm 1995 là
3.475.212 triệu đồng thì trồng trọt chiếm 2.896.156 triệu đồng bằng 83,34
%, phần còn lại là thuộc ngành chăn nuôi và dịch vụ. Nhờ kết quả đó mà
nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp đã cùng với nông nghiệp cả nước thực hiện
thành công 3 chương trình kinh tế của tỉnh và của Nhà nước.
Ngành chăn nuôi
Chăn nuôi là một trong hai ngành sản xuất vật chất chính trong nông
nghiệp. Có thể đánh giá việc chăn nuôi gia súc, gia cầm ở tỉnh Đồng Tháp
giai đoạn này (1988 - 2000) đã tạo được phong trào rộng khắp trong nhân
dân, với số lượng và sản lượng khá lớn. Tuy nhiên, xét về quy mô chăn
nuôi chưa tương xứng với ngành trồng trọt và chưa phát huy được tiềm
năng vốn có của tỉnh. Tốc độ phát triển chưa ổn định, còn bấp bênh.
Nguyên nhân là do mức độ tập trung đầu tư chưa cao và thiếu ổn định.
Trong giai đoạn 1988 - 2000, sản xuất nông nghiệp của tỉnh mới chỉ
ưu tiên phát triển cây lúaThực tế, cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn
tỉnh Đồng Tháp chưa thoát khỏi thế độc canh và thuần nông, nhiều vùng
chủ yếu là độc canh cây lúa. Sản xuất nông nghiệp vẫn chủ yếu tập trung ở
kinh tế hộ, trình độ sản xuất còn thấp, thiết bị cơ giới hóa cho sản xuất còn
lạc hậu so với các tỉnh trong vùng và trong cả nước. Sản xuất nông nghiệp
12
chưa gắn liền với công nghiệp chế biến, bảo quản sau thu hoạch và thị
trường tiêu thụ nông sản nên còn nhiều bất cập đặc biệt là tình trạng được
mùa nhưng rớt giá. Đây là khâu chủ yếu ảnh hưởng tới hướng ra của nông
nghiệp cần khắc phục trong giai đoạn tiếp theo để nông nghiệp Đồng Tháp
phát triển tương xứng với thế mạnh tiềm năng của tỉnh.
Chuyển biến về cơ cấu kinh tế ở nông thôn
Cơ cấu kinh tế nông thôn Đồng Tháp biến đổi chậm hơn so với toàn

vùng Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước. Trong cơ cấu tổng sản phẩm
GDP năm 1988: số liệu cả nước là: khu vực I (nông, lâm, ngư nghiệp) là
38%; khu vực II (công nghiệp và thủ công nghiệp) 23%; khu vực III
( thương mại, dịch vụ) 39%. Trong đó khu vực Đồng bằng sông Cửu Long
và tỉnh Đồng Tháp số liệu tương ứng là khu vực I: 55% và 67%; khu vực
II là 9,8% và 7,5%; khu vực III là 35,2% và 23,5%. Đến năm 2000, cơ cấu
kinh tế phân theo khu vực biến đổi như sau: Cả nước, khu vực I là 22,5%,
khu vực II là 31,8% và khu vực III là 45,7%. Trong đó khu vực Đồng bằng
sông Cửu Long và Đồng Tháp tương ứng là: khu vực I: 48,2% và 58,12%;
khu vực II là 12,7% và 15,21% và khu vực III là 39,1% và 26,67% [28].
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở tỉnh Đồng Tháp chậm hơn so với
trong cùng khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước. Tuy nhiên, sự
chuyển dịch này cũng đã tạo nên những thay đổi đáng kể trong cơ cấu
thành phần kinh tế và là bước đà tạo nên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp và cơ cấu kinh tế nông thôn trong vùng nhanh hơn.
3.3. Chuyển biến xã hội ở nông thôn tỉnh Đồng Tháp từ năm
1988 đến năm 2000
3.3.1. Sự phân hóa giàu nghèo và các nguyên nhân dẫn đến sự
phân hóa giữa các tầng lớp trong xã hội ở nông thôn.
Ở Đồng Tháp, hộ thuần nông chiếm khá cao, đến 77,92% số hộ,
ngược lại, chỉ có 0,73% số hộ tiểu thủ công nghiệp, 3,44% số hộ thương
nghiệp, 1,13% số hộ dịch vụ, 0,28% số hộ xây dựng và 16,08% số hộ làm
nghề khác. Theo số liệu điều tra của Sở Khoa học Công nghệ và Môi
trường vào năm 1994, một số, hộ có mức thu nhập khá chiếm 34,92%, hộ
giàu chiếm 15%, hộ trung bình chiếm 20%. Năm 1995, cuộc điều tra quy
mô của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đồng Tháp cho thấy:
hộ nghèo có thu nhập từ 0,180 đến 0,348 triệu đồng/người/năm chỉ chiếm
14,21% số hộ (37.500 hộ), trong đó hộ cực nghèo chiếm 2,72%, ngược lại
hộ trung bình có thu nhập từ 0,763 đến 1,043 triệu đồng/năm/người chiếm
tỉ lệ cao hơn, đến 44,03% (116.239 hộ) và hộ giàu khá chiếm tỉ lệ thấp

hơn, trong đó hộ giàu có thu nhập từ 3,023 đến 17,119 triệu
13
đồng/người/năm chiếm 8,65% (22.836 hộ), hộ khá có thu nhập từ 1,465
đến 2,943 triệu đồng/người/năm chiếm 33,11% (87.410 hộ).
Sự phân hóa giàu nghèo diễn ra rõ rệt trên diện rộng.
Mặc dù trong nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long quá trình phân
hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội sớm hình thành ngay sau tiến hành công
cuộc đổi mới trên lĩnh vực kinh tế nông nghiệp vào những năm 1986 –
1988, nhưng sự phân hoá ấy diễn ra ngày một nhanh chóng và gay gắt vào
những năm cuối 1980 và đầu 1990. Quá trình chuyển dịch cơ cấu hộ giàu
nghèo theo xu hướng tích cực tăng hộ giàu, giảm hộ nghèo diễn ra khá
nhanh và rõ nét. Kết quả điều tra ở 3 điểm thuộc 3 huyện: Hồng Ngự, Tam
Nông, Châu Thành của Cục Thống kê tỉnh Đồng Tháp ở hai thời điểm
1990 và 1992 cho thấy. Số hộ giàu từ 15% (1990) tăng lên đến 26%
(1992), ngược lại, số hộ nghèo 35,12% (1990) giảm xuống còn 21%
(1992).
Tóm lại, chính sách đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp và đất đai
của Đảng và Nhà nước ta đã tạo ra những tiền đề quan trọng làm cho cơ
cấu sở hữu ruộng đất giữa các nông hộ có những chuyển biến đáng kể, quá
trình phân hóa giàu nghèo cũng diễn ra nhanh và mạnh hơn.
3.3.2. Quá trình hình thành và chuyển hóa của tầng lớp nông dân
trong các tổ chức tập thể
Đến năm 1993, Đồng Tháp còn hơn 1.110 đơn vị kinh tế tập thể,
trong đó chỉ có khoảng 114 đơn vị thực sự hoạt động (78 tập đoàn sản
xuất, 35 liên tập đoàn và 1 hợp tác xã), đến 1995 con số này chỉ còn 647
đơn vị. Một số đơn vị chuyển đổi nội dung hoạt động, phát triển và mở
rộng dịch vụ, làm ăn có hiệu quả. Bên cạnh đó số đơn vị làm ăn kém hiệu
quả chiếm tỷ lệ cao (47% tập đoàn sản xuất, 68% liên tập đoàn).Các hình
thức hợp tác mới trong sản xuất nông nghiệp ra đời đã nhanh chóng thích
nghi và tỏ ra hiệu quả trước những đòi hỏi của sản xuất cũng như cơ chế

thị trường ngày càng rõ nét trong kinh tế nông thôn Đồng Tháp.
3.3.3. Quá trình biến đổi của tầng lớp dân cư phi nông nghiệp trong
nông thôn
Do tác động của “khoán 10” mà đặc biệt là chủ trương “ ai giỏi nghề
gì làm nghề ấy” đã tạo tiền đề vật chất quan trọng đưa đến sự phân công
lao động trong nông thôn. Mặt khác, do những tác động của nền kinh tế thị
trường và quá trình đô thị hóa một bộ phận nông dân ở nông thôn Đồng
Tháp đã nhanh chóng trở thành lực lượng lao động ở các khu công nghiệp,
hoặc họ di cư tới các thành phố, trung tâm thành thị tham gia vào các hoạt
động dịch vụ thương mại làm tiểu thương hoặc làm các công việc phổ thông.
14
Ngoài ra, do đặc điểm địa hình hàng năm đều có lũ lụt ảnh hưởng
trực tiếp đến đời sống và sản xuất nên tỉnh thường xuyên có những chương
trình di dân tránh lũ, xây dựng đê bao vùng ngập lũ. Điều này ít nhiều tác
động đến đời sống sinh hoạt và sản xuất của nông dân. Một trong những
biện pháp mà tỉnh đã giải quyết là mở các khóa dạy nghề cho nông dân và
tạo điều kiện cho nông dân tự bố trí việc làm theo năng lực trình độ.
3.3.4. Biến đổi diện mạo xã hội nông thôn
Tiểu mục này, tác giả trình bày sự chuyển biến xã hội nông thôn tỉnh
Đồng Tháp trên các mặt, như : về giao thông nông thôn; về điện thắp sáng;
về nước sinh họat; về nhà ở; về y tế; về giáo dục. Nhìn chung, diện mạo
nông thôn Đồng Tháp giai đoạn 1988 – 2000 đã có sự chuyển biến sâu sắc,
tuy nhên so với mặt bằng chung các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Cửu
Long và cả nước thì nông thôn Đồng Tháp vẫn cón là một tỉnh chậm phát
triển, đặc biệt trong các mặt, như giao thông, y tế và giáo dục.
Tiểu kết chương 3
Sau mười năm (1990 - 2000), nền nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp đã tạo
ra được sản lượng nông nghiệp tăng gần hai lần, không những giải quyết
đảm bảo nhu cầu lương thực mà nhanh chóng trở thành một trong những tỉnh
đóng góp chủ đạo sản lượng nông nghiệp cho đất nước. Khi đất nước bước

vào sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thì
nông nghiệp Đồng Tháp đã phát huy những thế mạnh của mình như đẩy
mạnh sản xuất lúa năng xuất và chất lượng cao, mô hình cánh đồng 50
triệu/ha đã trở lên phổ biến trên đồng ruộng. Cơ cấu nền nông nghiệp thuần
nông đã từng bước phá vỡ trong nông nghiệp Đồng Tháp. Tỷ trọng các
ngành công nghiệp và dịch vụ - thương mại từng bước tăng nhanh. Trong
sản xuất nông nghiệp cây trồng, vật nuôi từng bước chuyển đổi cho phù
hợp với nhu cầu của thị trường. Ngành nuôi trồng và đánh bắt thủy sản đã
thực sự trở thành một thế mạnh của tỉnh.
Mặc dù nội lực phát triển nông nghiệp Đồng Tháp mạnh nhưng có
những phương diện vẫn đang tồn tại ở dạng tiềm năng. Trong quá trình
thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tỉnh
Đồng Tháp không tránh khỏi những thử thách.
Chương 4
BƯỚC PHÁT TRIỂN MỚI VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI
Ở NÔNG THÔN ĐỒNG THÁP TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010
15
4.1. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Đồng Tháp vận
dụng chủ trương của Đảng thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2001-2010
Bước sang thế kỷ XXI, cùng với việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học
kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, tập trung chuyển đổi cơ cấu kinh tế
theo hướng sản xuất hàng hóa. Hội nghị Ban chấp hàng Trung ương Đảng
khóa IX (2/2001) đã khẳng định công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nướcNghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X
(2006) nhấn mạnh “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông
dân”
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp lần thứ VII (2001) về

nhiệm vụ, mục tiêu và kế hoạch 5 năm (2001 – 2005) phát triển nông
nghiệp, nông thôn trong đó “trọng tâm phát triển nông nghiệp theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Tỉnh ủy Đồng Tháp đề ra chương trình
hành động số 31-CT/TU ngày 01/8/2002 với nội dung là tổ chức cho nông
dân tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi với các hình thức luân
canh lúa – màu, lúa – thủy sản; tiếp tục khai thác thế mạnh về sản xuất lúa
với quy mô tập trung, chất lượng cao.
Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn (2006), nêu rõ:
“ Phát triển trồng trọt theo hướng thâm canh, tăng dần lợi nhuận
trên đơn vị diện tích đất thông qua áp dụng giống mới và quy trình sản
xuất tiên tiến. Đẩy mạnh hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung
gắn với đẩy mạnh cơ giới hóa, đồng bộ các khâu sản xuất, hiện đại hóa
công nghệ chế biến.”
Đến năm 2008, Tỉnh ủy có Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 09/02/2008
về nông nghiệp, nông dân, nông thôn nhằm xây dựng nền nông nghiệp
theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững góp phần đảm bảo an ninh lương
thực quốc gia và là nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định cho sản xuất công
nghiệp, chế biến hàng xuất khẩu.
Những chủ trương, chính sách, biện pháp của Đảng bộ và chính quyền
tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn 2001 – 2010 được áp dụng đồng bộ cùng
sự nỗ lực hết mình của nông dân đã có ý nghĩa sâu sắc, làm chuyển biến cơ cấu
kinh tế nông nghiệp và thay đổi hoàn toàn bộ mặt nông thôn tỉnh Đồng Tháp.
4.2. Kinh tế nông nghiệp, nông thôn Đồng Tháp trong việc thực
hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn từ năm
2001 đến năm 2010
16
Từ năm 2001, với chủ trương tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn sự đầu tư cho nông nghiệp ở Đồng Tháp được
quan tâm nhiều hơn. Trước tiên phải kể tới lượng vốn đầu tư cho xây dựng

cơ bản (bao gồm cả thủy lợi) trong vòng 10 năm (2001 - 2010) tăng liên
tục, từ 79.130 triệu đồng năm 2001, chiếm 15,6% tổng vốn đầu tư xây
dựng cơ bản toàn tỉnh thì đến năm 2010 lên tới 218.656 triệu, chiếm 17%
tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản toàn tỉnh. Đến năm 2005, tỉnh đã hoàn
thành cơ bản hệ thống thủy lợi và thủy nông nội đồng, với 4.738 tuyến
kênh với tổng chiều dài khoảng 5.630 nghìn km. Tính đến năm 2009, hệ
thống thủy lợi của tỉnh đã đáp ứng được yêu cầu nước tưới, tiêu chống lũ
cho trên 200.000 ha sản xuất nông nghiệp.
Cơ giới hóa từng bước được đẩy mạnh, tỉnh đã tập trung kinh phí
thực hiện dự án phát triển trạm bơm điện. Đến năm 2010, toàn tỉnh có 620
trạm bơm, đáp ứng được 45% nhu cầu bơm tưới trong sản xuất nông nghiệp
(còn lại 38% sử dụng tram bơm dầu và 17% là hệ thống thủy lợi tự chảy).
4.2.1. Thay đổi trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Trong nội bộ cơ cấu ngành nông nghiệp có bước chuyển biến rõ nét
theo hướng giảm dần tỷ trọng ngành trồng trọt, tăng dần tỷ trọng ngành
chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp. Tỷ trọng ngành trồng trọt đã giảm
xuống dưới 80% ở các năm 2001; 2002, 2003, 2006 nhưng trong các năm
tiếp theo, duy trì ở mức 82%. Trong khi đó, tỷ trọng ngành chăn nuôi tăng
đều, năm 1995 ngành chăn nuôi chiếm tỷ trọng 7,75% thì đến 2005 là
10,02%, năm 2010 là 11,28%. Ngành dịch vụ nông nghiệp cũng tăng đều
trong các năm từ 2000 đến 2006, đặc biệt là năm 2002 chiếm 12,34%
trong toàn ngành. Mạng lưới dịch vụ và hình thức dịch vụ ngày càng đa
dạng như về tín dụng, vật tư, về giống, cây trồng, vật nuôi, thú y, các khâu
trong quá trình sản xuất và thu hoạch…, ngày càng đáp ứng đầy đủ theo
nhu cầu trong sản xuất nông nghiệp.
Ngành nông nghiệp đã có bước phát triển theo chiều sâu, giá trị toàn
ngành tăng ổn định trong suốt giai đoạn (1995 - 2010), với mức bình quân
đạt 7,5%/năm. Năm 2001, giá trị toàn ngành đạt 4.262.635 triệu đồng thì
đến năm 2010 tăng lên 19.694.102 triệu, tốc độ gia tăng gấp gần 5 lần.
4.2.2. Tác động của sản xuất nông nghiệp tới sự chuyển biến của

kinh tế nông thôn và đời sống nông dân
Sự thay đổi căn bản kinh tế nông nghiệp ở Đồng Tháp trong những
năm 1996 - 2010 đã tác động tích cực đến nền kinh tế chung của tỉnh.
Đóng góp vào tổng sản phẩm nội tỉnh của ngành nông nghiệp luôn ở mức
cao, năm 1995 ngành nông nghiệp đóng góp 71,58%, năm 2000 là
62,23%, năm 2005 là 58,12% và năm 2010 là 48,77%. Mặc dù tỷ trọng
17
ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế giảm dần nhưng giá trị sản xuất và
mức đóng góp của nông nghiệp cho giá trị tổng sản phẩm nội tỉnh vẫn lớn,
luôn giữ được mức gia tăng ổn định. Nhờ đó mà thu nhập bình quân đầu
người ngày càng tăng, năm 2000 thu nhập bình quân đạt 759 nghìn đồng/
người/ tháng đến năm 2005 tăng lên là 1.533 nghìn/ người/ tháng đến năm
2010 tăng lên là 3.040 nghìn đồng/người/tháng.
Nhìn chung, trong giai đoạn 2001 – 2010, bộ mặt nông thôn và đời
sống nông dân ở Đồng Tháp đã có bước chuyển biến đáng kể. Sự phát
triển của kinh tế nông nghiệp đã quyết định sự phát triển của kinh tế - xã
hội nông thôn và đời sống nông dân ngày càng được nâng cao.
4.3. Sự biến đổi xã hội ở nông thôn tỉnh Đồng Tháp giai đoạn
2001-2010
4.3.1. Biến đổi về cộng đồng xã hội trong nông thôn tỉnh Đồng Tháp
Trong tiểu mục này, tác giả trình bày sự biến đổi trên các mặt, như:
biến đổi về dân số và lao động; biến đổi về chất lượng cuộc sống dẫn đến
phân hóa xã hội nông thôn. Tác giả đi đến kết luận, sự chuyển biến trong
xã hội nông thôn Đồng Tháp là quá trình phân hóa không ngừng tình trạng
giàu nghèo ở nông thôn. Trên nền tảng của sự phục hồi kinh tế hộ tư nhân
ở nông thôn là sự khuyến khích kinh tế hộ phát triển với các hình thức phi
nông nghiệp như thủ công nghiệp, dịch vụ nông nghiệp… Đây còn là
nguồn lực về vốn, trình độ sản xuất và quản lý, sẽ là nguồn động lực góp
phần đưa nông thôn Đồng Tháp thực hiện thành công công nghiệp hóa –
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

4.3.2. Sự biến đổi về đời sống cư dân nông thôn tỉnh Đồng Tháp
Sự thay đổi trong đời sống dân cư nông thôn tỉnh Đồng Tháp gắn
liền với kết quả phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Hay nói cách khác,
chuyển biến đời sống dân cư nông thôn là thước đo hiệu quả sự tăng
trưởng kinh tế và kết quả thực hiện các chính sách xã hội của Đảng và nhà
nước về nông nghiệp, nông thôn. Trước hết đó là sự phát triển, nâng cao
đời sống vật chất và đời sống tinh thần của cư dân nông thôn. Đặc biệt, ở
những vùng sâu, vùng xa thì sự thay đổi này thực sự là một cuộc sống mới
cho người dân nông thôn.
Tuy nhiên, nếu đem so sánh Đồng Tháp với các tỉnh trong vùng và
cả nước thi vẫn còn là tỉnh khó khăn. Mặt bằng dân trí, tỷ lệ đội ngũ lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở mức thấp. Vì thế, việc tiếp tục đầu
tư cho sự nghiệp phát triển giáo dục – đào tạo, nâng cao dân trí, bồi dưỡng
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ cấp thiết đặt ra trong thời gian trước mắt và
cả lâu dài.
18
4.4. Tỉnh Đồng Tháp thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia
xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020.
4.4.1. Nội dung cơ bản của đề án xây dựng nông thôn mới
Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới là chương
trình cụ thể hóa Nghị quyết số 26 – NQ/TW ngày 05 tháng 8 năm 2008,
của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của Chương trình này ngày
06 tháng 10 năm 2010, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp ra Quyết định số
911/QĐ-UBND.HC “Về việc ban hành Đề án xây dựng nông thôn mới
tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 2010 – 2020”
4.4.2. Những kết quả bước đầu đạt được từ phong trào xây dựng
nông thôn mới
Sau 2 năm triển khai thực hiện, cho đền nay (tháng 5 năm 2013)

phong trào xây dựng nông thôn mới của tỉnh Đồng Tháp đã thu được
những kết quả bước đầu đáng ghi nhận. Phong trào xây dựng nông thôn
mới được triển khai rộng rãi từ tỉnh đến địa phương. Phong trào đã nhận
được sự hưởng ứng, đồng thuận cao từ phía người dân. Tính đến hết năm
2012, toàn tỉnh có 81/119 số xã đạt chuẩn về tiêu chí giáo dục, 107 xã đạt
chuẩn về tiêu chí y tế, 102 xã đạt tiêu chí văn hóa.
Tiểu kết chương 4
Nhìn trên phương diện bao quát, sau 10 năm tiến hành công cuộc
công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, kinh tế - xã hội
nông thôn tỉnh Đồng Tháp đã có nhiều khởi sắc, tuy nhiên không thể đã
hết những khó khăn thử thách (bao gồm cả chủ quan và khách quan) của
một tỉnh đặc thù thuần nông trồng lúa. Song, khả năng hoàn thành công
cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của tỉnh
Đồng Tháp là có khả năng. Để phát huy được những thế mạnh nội lực
trong lợi thế so sánh của tỉnh với các tỉnh trong khu vực Đồng bằng sông
Cửu Long và cả nước, Đồng Tháp cần phải chú trọng đến sự thay đổi về
nhận thức, về đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao, về
phát triển đi đôi với bảo vệ môi trường, về đầu tư trọng điểm có chất lượng
cho phát triển mang tính bền vững… Và một nhân tố không thể thiếu đó
chính là quyết tâm của Đảng ủy, các cấp chính quyền và sự nỗ lực của
cộng đồng mà chủ thể của quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn là nông dân. Đó chính là việc giải quyết tốt các mối
quan hệ trong trục tam giác nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Hay đó
cũng chính là mục tiêu của đề án xây dựng nông thôn mới mà tỉnh Đồng
Tháp đã đề ra và đang trên đường thực hiện.
KẾT LUẬN
19
Trong tiến trình lịch sử, Đồng Tháp được biến đến với những điều
kiên tự nhiên thuận lợi và con người nơi đây thuần chất, nghĩa khí, giàu
tinh thần yêu nước và cách mạng. Đất và người nơi đây đã đi vào lịch sử

Đồng Tháp Mười, Lịch sử Nam Bộ với những trang sử hào hùng trong
chiến đấu cũng như trong lao động và sản xuất.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, do nằm ở địa bàn chủ yếu
của cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và phải dành nhiều công
sức nhằm khắc phục hậu quả chiến tranh cộng với sự duy trì quá lâu cơ
chế quản lý tập trung bao cấp đã làm cho Đồng Tháp lâm vào cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội mang tính chung bao phủ của cả nước. Cuộc khủng
hoảng này được chấm dứt bằng đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước.
Bằng sự nỗ lực cống hiến hết mình, người nông dân Đồng Tháp đã từng
bước tháo gỡ khó khăn đưa cuộc sống trở lại ổn định. Đồng Tháp đã góp
phần cùng cả nước thóat khỏi tình trạng thiếu lương thực và đảm bảo an
ninh lương thực cho quốc gia và có phần giành cho xuất khẩu.
Song cũng chính từ điều này mà làm cho Đồng Tháp không thể thoát
ra khỏi tính chất một tỉnh thuần nông. Mặt tích cực luôn đi với những hạn
chế không thể tránh khỏi, Đồng Tháp cho đến nay vẫn là một tỉnh được
biết đến với những vấn đề hạn chế về giáo dục, y tế, chất lượng nguồn
nhân lực,…Vị trí của tỉnh trong khu vực và cả nước vẫn còn ở mức thấp.
Những biến đổi kinh tế – xã hội nông thôn tỉnh Đồng Tháp trong thời
gian từ năm 1975 trở lại đây đã thực sự tạo nên một diện mạo mới cho
nông thôn Đồng Tháp. Cùng với các tỉnh trong khu vực, Đồng Tháp đã
góp phần quan trọng vào công cuộc tái thiết đất nước sau 30 năm chiến
tranh khốc liệt và từng bước khắc phục hậu quả chiến tranh để lại, đưa đất
nước thóat ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và trên đường thực
hiện công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Có thể khái quát
quá trình này gồm ba giai đoạn:
Khoảng hơn 10 năm đầu sau khi thống nhất đất nước, do hậu quả
nặng nề của chiến tranh để lại, do chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và
âm mưu phá họai của các thế lực thù địch, do tác động của các chính sách
phát triển kinh tế - xã hội chưa phù hợp, duy trì quá lâu cơ chế quản lý tập
trung quan liêu bao cấp, làm triệt tiêu động lực phát triển, mắc phải sai lầm

khuyết điểm trong đường lối cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp
và công thương nghiệp làm cho tình hình kinh tế - xã hội trì trệ, sản xuất
đình đốn, nhiều mặt của đời sống giảm sút. Mục tiêu phát triển thời kỳ này
tuy đạt được nhưng chưa đáng kể, chưa phát huy được các nguồn lực vốn
20
có về tiềm lực tự nhiên và lao động ở tỉnh Đồng Tháp – một địa bàn nhiều
tiềm năng và năng động trước đó.
Ccông cuộc đổi mới toàn diện đất nước được thực hiện từ năm 1986,
với nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển,
giải quyết cuộc khủng hoảng của những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ
XIX, cuộc đổi mới trên cả ba phương diện chính trị, kinh tế và xã hội thực
sự là đòn bẩy trong việc giải quyết khó khăn trước mắt và chỉ ra định
hướng phát triển xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Trong nông nghiệp, quá trình đổi mới thực sự diễn ra sau khi có chỉ
thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (1981) và nhất là từ sau khi có
Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (1988). Cùng với cả nước và khu vực,
nông thôn tỉnh Đồng Tháp có bước phát triển mạnh mẽ và ngày càng bền
vững. Bộ mặt nông thôn có nhiều chuyển biến, nhất là từ khi tiến hành
công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tạo ra
sự phát triển nhảy vọt, biểu hiện trên các mặt:
Kinh tế nông nghiệp, nông thôn tỉnh Đồng Tháp còn nhiều khó khăn
do xuất phát điểm thấp nhưng có thể khẳng định kể từ sau thực hiện Nghị
quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp,
các yếu tố vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp, nông thôn đã
có bước phát triển khá toàn diện, phát huy ngày càng có hiệu quả các
nguồn lực, tiềm năng đất đai, lao động gắn với từng bước chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế so sánh, đẩy mạnh thâm canh tăng
vụ phát triển cây trồng, vật nuôi đạt hiệu quả kinh tế cao.
Về quan hệ sản xuất: Qua hai đợt điều chỉnh ruộng đất, thực hiện cải

tạo nông nghiệp những năm sau giải phóng đã có hiệu quả nhất định trong
việc giải quyết các vấn đề chính trị, xã hội trong những năm đầu sau giải
phóng. Tuy nhiên, các hình thức này xơ cứng, chậm đổi mới về cách làm,
đặc biệt là chưa dung hòa được lợi ích kinh tế tập thể và lợi ích người lao
động. Trong tình hình ấy việc thiết lập cơ chế quản lý mới thay thế kiểu
quản lý cũ và mô hình hợp tác xã cũ tan rã đã mở ra một hướng phát triển
trong kinh tế nông nghiệp. Từ năm 1988, nông nghiệp Đồng Tháp dần
khôi phục được tiềm năng và sức sống của mình, đáp ứng được đủ nhu cầu
lương thực của nhân dân trong tỉnh và giành một phần cho xuấ khẩu.
Từ năm 1995 đến nay, do sự phát triển trong kinh tế hộ nông dân
ngày càng sôi động, nhu cầu hợp tác, liên kết lại xuất hiện các hình thức
hợp tác mới. Sự hợp tác được thiết lập trên cơ sở dân chủ, bình đẳng, tự
nguyện giữa các thành viên trong quá trình sản xuất đã ra đời ở nông thôn
tỉnh Đồng Tháp. Dưới sự hỗ trợ của Đảng, Nhà nước và các cấp chính
21
quyền về chính sách, vốn, tiêu thụ sản phẩm, giống cây trồng vật nuôi theo
phương thức đối tác trực tiếp, lấy hiệu quả kinh tế làm cơ sở, mở ra một
khả năng mới làm tiền đề cho mô hình hợp tác xã kiểu mới phát triển ngày
càng hoàn chỉnh hơn ở nông thôn.
Do sản xuất phát triển, vai trò tự chủ của người nông dân trong sản xuất
và sử dụng sản phẩm được coi trọng, và do các biện pháp khuyến khích của
Nhà nước mà kinh tế hàng hóa trong nông thôn Đồng Tháp có bước phát triển
khá mạnh. Với năng lực sản xuất của mình, các sản phẩm nông nghiệp đặc
biệt là cây lúa đã góp phần cùng cả nước đảm bảo an ninh lương thực và xuất
khẩu. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh đã biến đổi theo hướng đa canh gắn
liền với chuyên canh, thâm canh tăng vụ phát huy lợi thế tự nhiên và nguồn
lao động.
Nói chung, các ngành sản xuất ở nông thôn Đồng Tháp có bước phát
triển nhanh, vượt xa tình trạng kinh tế tự cấp tự túc của thời kỳ những
năm sau giải phóng, hình thành nền sản xuất hàng hóa khá năng động, kinh

tế tăng trưởng liên tục ở mức cao. Tuy rằng, quy mô sản xuất đã lớn hơn,
tạo ra một khối lượng hàng hóa gia tăng đáng kể nhưng xét về trình độ sản
xuất, nơi đây vẫn còn mang nặng đặc trưng của kinh tế tiểu nông. Chính vì
vậy, lợi nhuận của nông sản hàng hóa và thị trường phần lớn rơi vào bộ
phận thương nhân. Với nền kinh tế đó, đời sống người nông dân vẫn nghèo
khổ, nhất là vùng sản xuất còn độc canh cây lúa như ở Đồng Tháp. Những
ngành sản xuất khác ngoài cây lúa như rau, đậu, trái cây có giá trị cao,
chăn nuôi, thậm chí ngành nuôi trồng thủy sản được coi là thế mạnh thứ
hai của tỉnh sau trồng lúa nhưng nhiều năm qua tình trạng “trúng mùa rớt
giá” thường xuyên diễn ra vì thế tính ổn định trong sản xuất chưa cao và
chưa thể chuyển thành nền sản xuất hàng hóa một cách bền vững.
Dân số và nguồn nhân lực của Đồng Tháp tăng khá nhanh, mật độ dân
số phân bố không đều giữa các vùng trong tỉnh. Nguồn lao động đang từng
bước được nâng lên về trình độ văn hóa, về chuyên môn kỹ thuật. Tuy
nhiên, lao động chưa qua đào tạo còn số lượng lớn. Lao động có trình độ kỹ
thuật cao còn ít, đặc biệt là phụ nữ ở nông thôn có trình độ học vấn thấp, hạn
chế năng lực chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và khả năng quản lý, tổ chức sản
xuất, phát triển kinh tế - xã hội. Đồng Tháp là một tỉnh còn nhiều khó khăn
trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn so với các tỉnh trong khu vực và cả nước.
Ở Đồng Tháp, mặt bằng dân trí cư dân nông thôn tăng lên rất nhiều
so với thời kỳ trước 1975. Tỉnh đã cơ bản hoàn thành chương trình chống
mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học và đang hướng tới hoàn thành phổ
cập giáo dục trung học cơ sở. Dân cư nông thôn ngày càng có điều kiện
22
thuận lợi để tiếp thu thông tin với các phương tiện thông tin đại chúng đa
dạng. Cho đến cuối thập niên đầu của thế kỷ XXI, 100% xã ở Đồng Tháp
đã có mạng lưới truyền thông và Internet. Việc tiếp nhận thông tin tuyên
truyền, các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, tiếp nhận chuyển giao khoa học kỹ thuật từ các tổ chức đoàn thể hết

sức thuận lợi. Năng lực nhận thức, tư duy kinh tế - xã hội của người nông
dân cũng nâng lên đáng kể nên ngày càng dễ nắm bắt cơ chế thị trường,
đặc biệt là thông tin về thị trường và giá cả.
Đời sống dân cư nông thôn Đồng Tháp có nhiều thay đổi, tỷ lệ hộ
khá và giàu ngày càng tăng, không còn hộ đói như những năm trước giải
phóng. Nhà ở được xây dựng kiên cố, bán kiên cố ngày càng tăng. Các tiện
nghi sinh hoạt phục vụ cuộc sống ngày càng đa dạng, phong phú hơn. Sức
khỏe người dân ngày càng được chú ý, công tác phòng, khám và trị bệnh
ngày càng được cải thiện. Người nông dân đã quan tâm nhiều hơn tới việc
học hành của con em mình. Đời sống vật chất và tinh thần ngày càng nâng
lên về chất lượng, hướng tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Dù còn nhiều
khó khăn trên con đường xây dựng và phát triển, song có thể khẳng định
kinh tế - xã hội nông thôn tỉnh Đồng Tháp đã có những chuyển biến tích
cực, bộ mặt nông thôn đã thay đổi căn bản.
Là vùng đất đai phì nhiêu, khí hậu hiền hòa, dân cư thuần chất, năng
động, cần cù, sáng tạo trong lao động nên Đồng Tháp có nhiều khả năng
phát triển nền nông nghiệp toèn diện và hiện đại. Bên cạnh những thuận
lợi cơ bản đó, Đồng Tháp còn có không ít khó khăn trên con đường phát
triển. Mặc dù diện tích đất phù sa của tỉnh chiếm 46,72% song do mức độ
khai thác trong những năm gần đây đã làm cho độ phì nhiêu của đất giảm
sút nhiều, cộng với việc sử dụng hóa chất trên đồng ruộng không theo mức
độ chuẩn cho phép nên tình trạng đất bạc màu ngày càng ra tăng. Bên cạnh
đó đất phèn đứng hàng thứ hai, chiếm 45,08%, tình trạng nhiễm phèn nặng
vào mùa khô làm ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất, chi phí thau chua, rửa
phèn trên đồng ruộng làm ra tăng chi phí sản xuất nên lợi nhuận thu được
trên đồng đất nhiễm phèn ngày càng giảm sút.
Mặc dù có nhiều chuyển biến trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nhưng chưa thật vững chắc. Trong trồng trọt, cây lúa vẫn là cây chủ
đạo. Chăn nuôi còn nhỏ lẻ, chủ yếu trong các hộ gia đình, chưa tận dụng
hết nguồn lực tự nhiên của tỉnh. Ngành thủy sản bước đầu đạt giá trị cao

trong sản xuất nhưng còn bấp bênh và trở ngại về vốn, giống, kỹ thuật nuôi
trồng, và thị trường tiêu thụ. Đặc biệt là tình trạng cạn kiệt nguồn lợi thủy
sản trong tự nhiên ngày càng rõ nét và chưa có biện pháp ngăn chặn hữu hiệu.
23
Là tỉnh đầu nguồn của hệ thống sông Cửu Long nên Đồng Tháp luôn
phải đối diện với lũ lụt hàng năm, lũ lụt vừa là điều kiện vừa là trở ngại
trên con đường phát triển. Trong những năm qua mặc dù công tác thủy lợi
được đầu tư, nâng cấp nhưng sự tàn phá của thiên tai đôi khi không thuộc
tầm kiểm soát của con người vì thế lũ lụt vẫn đang còn là vấn đề đe dọa
trực tiếp tới đời sống dân cư Đồng Tháp nói riêng và Đồng bằng sông Cửu
Long nói chung.
Cơ sở hạ tầng, kỹ thuật trong nông nghiệp, nông thôn tuy đã cố gắng
đầu tư xây dựng nhưng chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ, xuống cấp nhanh,
nguồn vốn để tu bổ, nâng cấp không kịp thời nên hiệu xuất sử dụng không
cao. Các ngành nghề phi nông nghiệp phát triển chậm, nền kinh tế hàng
hóa chuyển biến khó khăn, sức mua trên thị trường nông thôn còn yếu.
Mặc dù đã xuất hiện những hình thức liên kết, hợp tác kiểu mới trong sản
xuất nông nghiệp nhưng còn mỏng và hiệu quả chưa cao. Mức sống của
dân cư nông thôn và dân cư thành thị còn có khoảng cách khá xa và ngày
càng chênh lệnh.
Về mặt xã hội, tình trạng phân hóa giàu nghèo ở nông thôn Đồng
Tháp tăng nhanh. Sự chênh lệnh về sở hữu tư liệu sản xuất, thu nhập, mức
sống, hưởng thụ ngày càng lớn cho thấy năng lực sản xuất của kinh tế hộ
có sự khác biệt trong sản xuất của các thành phần kinh tế ở nông thôn.
Tình trạng hộ nông dân nghèo mất đất do bán, sang, cầm cố ngày càng gia
tăng dẫn đến nạn dư thừa lao động, tăng lực lượng lao động làm thuê ở
nông thôn, hiện tượng thừa lao động thiếu việc làm diễn ra phổ biến ở khu
vực nông thôn. Từ đó làn sóng lao động đổ về các trung tâm thành thị gây
sức ép về các vấn đề xã hội cho thành thị ngày càng trở lên căng thẳng.
Đây là một vấn đề nan giải trong đời sống kinh tế - xã hội nông thôn cần

phải giải quyết không chỉ ở tỉnh Đồng Tháp mà là nông thôn cả nước.
Trình độ dân trí, điều kiện để phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo
nguồn nhân lực tồn tại nhiều yếu kém, chưa mở ra được hướng khắc phục
cũng là một nguy cơ khiến Đồng Tháp sẽ tụt hậu ngày càng xa so với các
tỉnh trong khu vực và cả nước.
Quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế ngày càng diễn ra sâu rộng và
mạnh mẽ. Đồng Tháp không những phải theo kịp sự phát triển chung của
khu vực và cả nước mà còn phải tự lực vươn lên sao cho tương xứng với
những tiềm năng thế mạnh của mình. Xuất phát từ thực tiễn lịch sử, để
thực hiện mục tiêu đó, tiền đề và điều kiện cần phải có của Đồng Tháp là
phải giải quyết tốt nhất những vấn đề mang tính trước mắt và lâu dài cản
trở con đường phát triển. Một trong đó là vấn đề mang tính lịch sử để lại
cho Đồng Tháp là tình trạng dân trí thấp kém. Vì vậy, muốn phát triển
24
không có con đường nào khác là phải tập trung nâng cao trình độ dân trí,
phát triển nguồn nhân lực một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Đặc
biệt, với hai lĩnh vực được coi là thế mạnh của tỉnh là nông nghiệp và thủy
sản, đây được coi là hai ngành đóng vai trò mũi nhọn, chủ lực trong phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Tháp nói chung và khu vực nông thôn
nói riêng.
25

×