Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp theo hiệp định chung về thuế quan và thương mại và tác động của nó đối với doanh nghiệp việt nam sau khi việt nam gia nhập wto

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 96 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG



NGÔ ĐỨC CHIẾN


ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THUẾ QUAN ĐỐI
VỚI HÀNG CÔNG NGHIỆP THEO HIỆP ĐỊNH
CHUNG VỀ THUẾ QUAN VÀ THƯƠNG MẠI VÀ
TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO


Chuyên ngành : KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ




LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. NGYỄN THỊ MƠ






HÀ NỘI 2007


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn hai mươi năm đổi mới, Việt Nam đã có những bước phát triển
vượt bậc về kinh tế và đang được đánh giá là một môi trường kinh doanh lý
tưởng cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong hơn 20 năm qua, Việt
Nam không ngừng nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế, là thành
viên chính thức của nhiều tổ chức và diễn đàn kinh tế lớn, thể hiện mong
muốn tham gia ngày càng đầy đủ hơn vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế .
Ngày 11 tháng 7 năm 2006, Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150
của Tổ chức thương mại Thế giới WTO. Trở thành thành viên của WTO,
Việt Nam đã chứng minh với thế giới rằng nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập
với nền kinh tế thế giới và sẵn sàng tham gia vào “sân chơi chung” trong tiến
trình tự do hoá thương mại.
Là thành viên của WTO, Việt Nam đồng thời phải thực hiện các cam
kết cắt giảm thuế quan nói chung và đối với hàng công nghiệp nói riêng để
mở cửa cho hàng hoá của nước ngoài dễ dàng thâm nhập vào Việt nam. Việc
điều chỉnh cắt giảm thuế quan không chỉ ảnh hưởng tới ngân sách Nhà nước
mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới các doanh nghiệp khi phải đối mặt với cuộc
cạnh tranh bình đẳng, khốc liệt với các tập đoàn, doanh nghiệp, công ty nước
ngoài, vì thực tế các doanh nghiệp trong đó có các doanh nghiệp công nghiệp
nước ta còn non yếu và thiếu năng lực cạnh tranh.
Cam kết cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp để gia nhập

WTO đòi hỏi Việt Nam phải điều chỉnh chính sách thương mại hàng công
nghiệp của mình. Điều này sẽ có những tác động nhất định đối với các doanh
nghiệp công nghiệp của Việt Nam. Tác động sẽ là tích cực hay không tích
cực? Làm thế nào để phát huy tác động tích cực và giảm thiểu ảnh hưởng


2
của tác động phi tích cực ? Điều này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu cụ thể,
đầy đủ hơn về các cam kết của Việt nam trong WTO về cắt giảm thuế quan
đối với hàng công nghiệp, về tác động của việc điều chỉnh chính sách thương
mại hàng công nghiệp để từ đó có các giải pháp phát huy các tác động tích
cực và hạn chế các tác động phi tích cực . Đó là lý do để người viết chọn vấn
đề “Điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp theo Hiệp
định chung về Thuế quan và Thương mại và tác động của nó đối với các
doanh nghiệp Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO” làm đề tài cho
Luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Ở nước ngoài
Hiện đã có một số tài liệu như Fernandez de Cordobe, Santiago,
SamLaird and Jose Maria Serena 2004 „ Trade Liberalization and
Adjustment Costs „ Trade Analysis Branch, UNs Conference on Trade and
Development nghiên cứu về lĩnh vực điều chỉnh chính sách thương mại.
2.2. Ở Việt nam
Ngoài các bài báo, tạp chí và tập san có bài viết nghiên cứu về chính
sách thương mại, hiện đã có công trình nghiên cứu khoa học, luận văn tiến
sĩ, của tác giả Bùi Thị Lý „ Điều chỉnh chính sách thương mại của Việt nam
khi gia nhập WTO „ 2002.
Cho đến nay chưa có tài liệu nào nghiên cứu về „ Điều chỉnh chính sách
thuế quan đối với hàng công nghiệp theo Hiệp định chung về Thuế quan và
Thương mại và tác động của nó đối với các doanh nghiệp Việt nam sau khi Việt

nam gia nhập WTO „, đây là tài liệu đầu tiên nghiên cứu về lĩnh vực này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu


3
Trên cơ sở phân tích thực tế điều chỉnh sách thuế quan đối với hàng
công nghiệp của Việt Nam trong thời gian qua, sau khi làm rõ các cam kết
của Việt Nam trong WTO về cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp,
đề tài đề xuất giải pháp phát huy những tác động tích cực của việc điều chỉnh
chính sách thương mại đối với hàng công nghiệp trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài có các nhiệm vụ cụ
thể sau đây :
- Giới thiệu tổng quan về Hiệp định chung về Thuế quan và Thương
(GATT)
- Làm rõ yêu cầu của GATT đối với các nước về việc cắt giảm thuế
quan
- Phân tích đặc điểm của hàng công nghiệp và các cam kết của Việt
nam trong WTO về cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp
- Thực trạng điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công
nghiệp ở Việt nam trong thời gian qua
- Đề xuất giải pháp phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động phi
tích cực trong việc điều chỉnh chính sách thuế quan hàng công nghiệp đối
với Việt nam.
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định trong Hiệp định
GATT về cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp và các cam kết của
Việt Nam trong WTO về lĩnh vực này.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn giới hạn chỉ ở điều chỉnh chính sách
thuế quan đối với hàng công nghiệp, không mở rộng sang các sản phẩm


4
khác. Khi lựa chọn sản phẩm công nghiệp để phân tích, luận văn chọn 3 sản
phẩm là hàng dệt may, hàng da giầy và ô tô.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận về duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đổi
mới kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp như phương
pháp phân tích, diễn giải và quy nạp ; phương pháp thống kê, so sánh để khái
quát, hệ thống và khẳng định kết quả nghiên cứu.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần lời mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận văn
được chia làm 3 chương:
Chương 1: Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại và sự cần
thiết phải điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp trong
thương mại quốc tế.
Chương 2: Thực trạng điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng
công nghiệp của Việt Nam trong thời gian qua.
Chương 3: Tác động của điều chỉnh chính sách thuế quan hàng công
nghiệp đối với doanh nghiệp Việt Nam và một số giải pháp.











5

CHƢƠNG 1
HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THUẾ QUAN VÀ THƢƠNG MẠI VÀ SỰ
CẦN THIẾT PHẢI ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THUẾ QUAN ĐỐI
VỚI HÀNG CÔNG NGHIỆP TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ

1.1. TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THUẾ QUAN VÀ THƢƠNG MẠI
Trong những năm ngay sau Đại chiến thế giới thứ hai, các nước đã có
những cố gắng quan trọng ban đầu để thông qua các quy tắc điều chỉnh các
quan hệ thương mại quốc tế. Những cố gắng này đã dẫn đến việc thông qua
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (mà sau này thường được gọi
tắt là GATT - được viết tắt từ tên tiếng Anh của Hiệp định : General
Agreement on Trade and Tariff ) vào năm 1947 và Hiệp định có hiệu lực vào
ngày 1.1.1948. Các quy định của GATT được áp dụng cho thương mại quốc
tế về hàng hoá mà mục tiêu của nó là tự do hoá thương mại trên cơ sở cắt
giảm thuế quan đối với hàng hoá trao đổi giữa các nước thành viên của
GATT. Qua các năm sau, văn bản của GATT đã được sửa đổi bổ sung thêm
nhiều quy định mới, đặc biệt để xử lý các vấn đề vướng mắc liên quan đến
cắt giảm thuế quan trong thương mại của các nước đang phát triển. Ngoài ra
nhiều Hiệp định kèm theo chi tiết hoá một số điều khoản chính của GATT
cũng đã được thông qua. Các thành viên của GATT đã cùng nhau ký Hiệp
định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nhằm kế tục và phát
triển sự nghiệp của GATT, theo đó WTO chính thức thành lập độc lập với hệ
thống Liên Hiệp Quốc và đi vào hoạt động từ 1.1.1995.

1.1.1. Sự ra đời của GATT
Sau chiến tranh Thế giới II, nhằm khôi phục sự phát triển kinh tế và
thương mại, hơn 50 nước trên thế giới đã cùng nhau nỗ lực kiến tạo một tổ


6
chức mới điều chỉnh hoạt động hợp tác kinh tế, đồng thời với sự ra đời của
các định chế tài chính quốc tế lớn như Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF) và gắn bó chặt chẽ với các định chế này. Ban đầu, các
nước dự kiến thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) với tư cách là
một tổ chức chuyên môn thuộc Liên hiệp quốc. Tháng 2/1946, Hội đồng
Kinh tế - Xã hội Liên hiệp quốc triệu tập một ". Hội nghị Liên hợp quốc về
thương mại và Việc làm" với mục tiêu dự thảo Hiến chương cho Tổ chức
Thương mại Quốc tế. Dự thảo Hiến chương thành lập ITO không những chỉ
điều chỉnh các quy tắc thương mại thế giới mà còn mở rộng ra cả các quy
định về công ăn việc làm, các hành vi hạn chế thương mại, đầu tư quốc tế và
dịch vụ.
Công việc chuẩn bị cho hiến chương này đã được các quốc gia tiến
hành trong năm 1946 và 1947. Từ tháng 4 đến tháng 10/1947, các nước đã
tiến hành một hội nghị chuẩn bị toàn diện. Tại hội nghị này, bên cạnh việc
tiếp tục triển khai các công việc liên quan đến hiến chương thành lập ITO,
các nước còn tiến hành đàm phán để giảm và ràng buộc thuế quan đa
phương. Trong vòng đàm phán đầu tiên, các nước đã đưa ra được 45.000
nhân nhượng thuế quan có ảnh hưởng đến khối lượng thương mại giá trị
khoảng 10 tỷ USD, tức là khoảng 1/5 tổng giá trị thương mại thế giới [ 5 ].
Các nước cũng nhất trí áp dụng ngay lập tức và "tạm thời" một số quy tắc
thương mại trong dự thảo Hiến chương ITO nhằm bảo vệ giá trị của các nhân
nhượng nói trên. Kết quả gồm các quy định thương mại và các nhân nhượng
thuế quan được đưa ra trong Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại
(GATT). Theo dự kiến, Hiệp định GATT sẽ là một hiệp định phụ trợ nằm

trong Hiến chương ITO và nếu ITO được thành lập thì GATT sẽ hết hiệu lực
và hoà nhập vào quy định của ITO. Cho đến thời điểm cuối 1947, Hiến
chương ITO vẫn chưa được thông qua. Chiến tranh Thế giới II vừa kết thúc,


7
các nước đều muốn sớm thúc đẩy tự do hóa thương mại, và bắt đầu khắc
phục những hậu quả của các biện pháp bảo hộ còn sót lại từ đầu những năm
1930. Do vậy, ngày 23/10/1947, 23 nước đã ký "Nghị định thư về việc áp
dụng tạm thời " (PPA), có hiệu lực từ 1/1/1984, thông qua nghị định thư này,
Hiệp định GATT đã được chấp nhận và thực thi.
Trong thời gian đó, Hiến chương ITO vẫn tiếp tục được thảo luận.
Cuối cùng, tháng 3/1948, Hiến chương ITO đã được thông qua tại Hội nghị
về thương mại và Việc làm của Liên hiệp quốc tại Havana. Tuy nhiên, quốc
hội của một số nước đã không phê chuẩn Hiến chương này. Đặc biệt là Quốc
hội Mỹ rất phản đối hiến chương Havana, mặc dù Chính phủ Mỹ đã đóng
góp vai trò rất tích cực trong việc nỗ lực thiết lập ITO. Tháng 12/1950,
Chính phủ Mỹ chính thức thông báo sẽ không vận động Quốc hội thông qua
Hiến chương Havana nữa, do vậy trên thực tế, Hiến chương này không còn
tác dụng và do đó ITO đã không thể ra đời. Két quả là, mặc dù chỉ tạm thời,
GATT trở thành công cụ đa phương duy nhất điều chỉnh thương mại quốc tế
từ năm 1948 cho đến tận năm 1995, khi tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) ra đời.

Trong 48 năm tồn tại, GATT đã tổ chức 8 vòng đàm phán ( xem bảng 1.1 ).
Bảng 1.1 : GATT đã trải qua 8 Vòng đàm phán
Năm
Địa điểm/Tên
Chủ đề đàm phán
Số nước

1947
Geneva
Cắt giảm Thuế quan
23
1949
Annecy
Cắt giảm Thuế quan
13
1951
Torquay
Cắt giảm Thuế quan
38
1956
Geneva
Cắt giảm Thuế quan
26
1960-1961
Geneva (Vòng Dillon)
Cắt giảm Thuế quan
26
1964-1967
Geneva
(Vòng Kenedy)
Cắt giảm Thuế quan và các biện pháp
chống bán phá giá
62
1973-1979
Geneva
(Vòng Tokyo)
Cắt giảm Thuế quan, các biện pháp phi

quan thuế, các hiệp định "khung"
102


8
1986-1994
Geneva
(Vòng Uruguay)
Cắt giảm Thuế quan, các biện pháp phi
quan thuế, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí
tuệ, giải quyết tranh chấp, hàng dệt,
nông nghiệp, thành lập WTO, v.v…
123

Nguồn : [ 5 ]
Nhìn từ bảng 1.1, có thể thấy rõ là cả 8 Vòng đàm phán của GATT đều tập
trung vào việc cắt giảm thuế quan, đây chính là mục đích mà các nước có nền
công nghiệp phát triển mong muốn và hướng tới nhằm tăng lợi ích của mình.
Có thể nói, trong 48 năm tồn tại của mình, GATT đã có những đóng
góp to lớn vào việc thúc đẩy và đảm bảo thuận lợi hóa và tự do hóa thương
mại thế giới. Số lượng các bên tham gia cũng tăng nhanh. Cho tới trước khi
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập vào ngày 1/1/1995,
GATT đã có 124 bên ký kết và đang tiếp nhận 25 đơn xin gia nhập. Nội
dung của GATT ngày một bao trùm và quy mô ngày một lớn: bắt đầu từ việc
giảm thuế quan cho tới các biện pháp phi thuế, dịch vụ, sở hữu trí tuệ, đầu tư,
và tìm kiếm một cơ chế quốc tế giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các
quốc gia. Từ mức thuế trung bình 40% của năm 1948, đến năm 1995, mức thuế
trung bình của các nước phát triển chỉ còn khoảng 4% và thuế quan trung
bình của các nước đang phát triển còn khoảng 15%. Trong đó, đối tượng cắt
giảm thuế của GATT từ khi thành lập cho đến nay vẫn là hàng công nghiệp.

1.1.2. Chức năng và nguyên tắc hoạt động
 Chức năng của GATT
GATT có ba chức năng cơ bản:
- Một là điều tiết mọi hoạt động thương mại của các nước tham gia ký kết;
- Hai là diễn đàn thương lượng đa phương lớn nhất để thảo luận việc
từng bước tự do hóa thương mại quốc tế về hàng hóa thông qua cắt giảm thuế
quan;


9
- Ba là tạo ra cơ chế để các nước thông qua GATT có thể giải quyết
các tranh chấp phát sinh trong thương mại quốc tế .
 Nguyên tắc hoạt động: GATT hoạt động dựa trên 5 nguyên tắc
sau:
- Nguyên tắc không phân biệt đối xử : Đây là nguyên tắc quan trọng
nhất, quy định các nước thành viên dành cho nhau những ưu đãi trên cơ sở tối
huệ quốc về thuế xuất nhập khẩu (MFN) và đối xử quốc gia (NT) trong
thương mại. Nguyên tắc này có hai ngoại lệ là :
+ Các nước tham gia các khối mậu dịch tự do hay liên minh thuế quan
khu vực như EU, NAFTA, AFTA có quyền áp dụng với nhau một biểu
thuế, một hàng rào phi quan thuế riêng.
+ Các nước đang phát triển được ưu đãi riêng, được các nước phát triển
dành cho Hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP) với thuế suất thấp hơn thuế suất tối
huệ quốc.
- Nguyên tắc có đi có lại : Một nước quyết định mở cửa thị trường của
mình (hạ thuế nhập khẩu, bỏ bớt các quy định đối với hàng nhập) có quyền
đỏi hỏi các thành viên khác có những nhượng bộ tương tự.
- Nguyên tắc công khai và cạnh tranh lành mạnh : Yêu cầu các nước
thành viên không được tăng và từng bước giảm hàng rào phi thuế quan, thừa
nhận quyền đánh thuế chống phá giá và chống trợ cấp xuất khẩu.

- Nguyên tắc khước từ một số nghĩa vụ của GATT : Cho phép mỗi thành
viên có quyền áp dụng biện pháp cấp thiết (như hạn chế nhập khẩu hoặc đình
chỉ những nhượng bộ về quan thuế) để bảo vệ ngành công nghiệp trong nước
đang bị thương tổn, hoặc do khó khăn về cán cân thanh toán.
- Nguyên tắc ưu tiên cho hàng hóa của các nước đang phát triển :
Ngoài hệ thống GSP, còn có các ưu đãi về tiếp cận thị trườn, hoặc ít bị ràng
buộc bởi nguyên tắc có đi có lại.


10
1.1.3. Những nội dung cơ bản của GATT
Mục tiêu cơ bản của GATT là tạo cơ sở để tiến hành cắt giảm thuế
quan không ngừng và ràng buộc sao cho các nước tham gia ký kết không
tăng thuế quan trở lại. Đến khi kết thúc vòng đàm phán Uruguay, các nước
tham gia GATT đã đưa ra các cam kết ràng buộc cắt giảm thuế đối với hầu
hết các mặt hàng công nghiệp nhập khẩu. Để thực hiện cam kết của mình,
các nước ký kết GATT phải nỗ lực điều chỉnh chính sách thuế quan cho phù
hợp với quy định của GATT.
Sau Vòng đàm phán Uruguay, các nước phát triển cam kết tiến hành
cắt giảm thuế quan hàng công nghiệp từ 6,3% xuống còn trung bình là 3,8%
trong vòng 5 năm, tính từ 1/1/1995. Giá trị hàng hóa nhập khẩu vào các nước
này được miễn thuế hoàn toàn lên tới 44% (từ 20%). Số lượng các sản phẩm
phải chịu thuế suất hải quan cao giảm xuống, số dòng thuế nhập khẩu từ tất
cả các nước phải chịu thuế suất trên 15% giảm từ 7% xuống còn 5% (riêng đối
với các nước đang phát triển thì mức giảm này là từ 9% xuống 5%). Số lượng
các dòng thuế được ràng buộc cũng tăng nhanh. Các nước phát triển cam kết
ràng buộc 99% dòng thuế của họ (từ mức 77%), các nước đang phát triển
ràng buộc 73% (từ 21%), các nền kinh tế chuyển đổi 98% từ (73%) [ 32 ]
Như vậy, nội dung chủ yếu của GATT là giảm và ràng buộc thuế quan
không tăng trở lại đối với hàng công nghiệp. Thật vậy với 8 vòng đàm phán,

các thành viên của GATT đã nhất trí với nội dung chủ yếu là không ngừng
cắt giảm thuế quan hàng hoá nới chung và hàng công nghiệp nói riêng. Trên
thực tế lợi ích của việc cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp chủ yếu
rơi vào tay các nước có nền công nghiệp phát triển, các nước thành viên mới
của GATT thường là các nước đang hoặc kém phát triển khi gia nhập phải tuân
thủ những điều kiện này. Vì vậy , họ phải điều chỉnh chính sách thuế quan trong
nước của họ, đây là thách thức rất lớn đối với các nước đang phát triển.


11
1.1.4. Các quy tắc cơ bản của GATT
Như đã trình bày ở trên, mục tiêu chính của GATT là tự do hoá
thương mại trên cơ sở cắt giảm thuế quan, đặc biệt là đối với hàng công
nghiệp. Vì vậy, để đạt được mục tiêu này, GATT đã đưa ra 4 quy tắc pháp lý
để ràng buộc các nước tham gia. Bốn quy tắc đó là :
1.1.4.1. Quy tắc thứ nhất
Quy định về việc giảm và xóa bỏ thuế quan và các rào cản thương mại
khác thông qua đàm phán đa phương. Mức giảm thuế quan được liệt kê trên
cơ sở dòng thuế quan trong Danh mục nhượng bộ của mỗi nước. Mức thuế
trong Danh mục nhượng bộ này còn được gọi là mức thuế ràng buộc. Các
nước không được phép nâng thuế suất vượt qua mức thuế ràng buộc đã ghi
trong Danh mục nhượng bộ.
- Cần cắt giảm dần thuế quan và bị ràng buộc không tăng thêm.
Giảm thuế quan
Quy tắc quan trọng thứ nhất của GATT là phải giảm thuế quan và các
biện pháp khác mà các quốc gia duy trì để bảo hộ nền sản xuất nội địa và nếu
có thể, loại bỏ thông qua đàm phán giữa các quốc gia thành viên, và mức
thuế đã giảm phải được cam kết ràng buộc là sẽ không tăng thêm.
Cam kết không tăng thêm
Cần giải thích thêm khái niệm "cam kết ràng buộc". Mức thuế quan

thỏa thuận tại các cuộc đàm phán cũng như các cam kết khác của các nước
ghi lại trong Danh mục nhượng bộ. Mỗi quốc gia thành viên của WTO có
một danh mục riêng và có nghĩa vụ không được áp đặt thuế quan hay các
khoản thuế, lệ phí khác "cao hơn mức đã đưa ra" tại danh mục của mình. Các
quốc gia không được phép áp dụng các biện pháp như áp đặt hạn chế định
lượng làm giảm giá trị của các nhượng bộ thuế quan. Mức thuế quan ghi
trong danh mục còn được gọi là thuế suất ràng buộc.


12
Ràng buộc thuế quan.
Các nước không được tự động tăng thuế vượt quá mức ràng buộc ghi
trong Danh mục nhượng bộ. Ngoài nhiều vấn đề khác, Danh mục này liệt kê
từng sản phẩm với thuế suất trước khi đàm phán và thuế suất mà một nước
đã thỏa thuận "trong quá trình đàm phán để ràng buộc thuế suất".
Trong đàm phán thương mại, một nước có thể thỏa thuận:
Ràng buộc thuế suất dương (chẳng hạn 10%) hay thuế suất bằng
không hiện hành; hoặc
Giảm thuế suất, chẳng hạn từ 10% xuống còn 5%, và ràng buộc thuế
suất đã giảm.
Một quốc gia cũng có thể ràng buộc thuế suất ở mức trần cao hơn thuế
đã thỏa thuận giảm trong đàm phán. Như vậy, một quốc gia đã chấp nhận
giảm thuế suất từ 10% xuống 5% cũng có thể nêu ra rằng, trong khi sẽ áp
dụng mức giảm thuế đối với hàng nhập khẩu như đã thỏa thuận thì thuế suất
ràng buộc vẫn là 8%. Trong trường hợp này, quốc gia đó có thể tự do tăng
thuế suất lên tới 8% bất kỳ lúc nào mà không vi phạm bất cứ nghĩa vụ nào
của mình theo GATT.
Vòng đàm phán Uruguay đã mang lại những tiến bộ to lớn trong việc
ràng buộc thuế quan của mọi quốc gia. Tất cả quốc gia - phát triển, đang phát
triển và các nền kinh tế chuyển đổi - đều ràng buộc thuế quan trong lĩnh vực

công nghiệp: hơn 98% hàng nhập khẩu vào các nước phát triển và chuyển
đổi sẽ được nhập khẩu theo mức thuế quan ràng buộc.
Đối với hàng nhập khẩu vào các nước đang phát triển, tỷ trọng hàng
nhập khẩu nhập vào theo thuế suất ràng buộc là khoảng 73%. Tuy nhiên, một
số nước đang phát triển lại ràng buộc mức trần trong một số trường hợp.
Những ràng buộc mức thuế trần như vậy có dạng cam kết không tăng thuế:
Vượt quá mức thuế trần đã nêu cho từng sản phẩm;
Vượt quá mức thuế trần áp dụng cho một ngành nhất định;


13
Vượt quá mức thuế áp dụng cho toàn bộ sản phẩm.
Một nước sau khi đã ràng buộc thuế quan cũng vẫn có thể từ bỏ và
nâng mức thuế lên trên thuế suất ràng buộc. Để thực hiện điều này, họ sẽ tái
đàm phán với các nước mà lúc đó họ đã đàm phán nhượng bộ cũng như với
các nước cung cấp sản phẩm đó nhiều nhất và do vậy được lợi từ việc
nhượng bộ. Trong những cuộc đàm phán này, nước yêu cầu xóa bỏ cam kết
sẽ phải có nhượng bộ thuế quan đền bù cho các sản phẩm mà các nước đối
tác đàm phán có lợi ích thương mại.
1.1.4.2. Quy tắc thứ hai
Trong khi thừa nhận rằng các nước cần thay đổi chính sách thương
mại mở và tự do nhưng đồng thời cũng cho phép các nước bảo hộ nền sản
xuất trong nước tránh sự cạnh tranh của nước ngoài, miễn là sự bảo hộ này
chỉ được thực hiện thông qua thuế quan và chỉ ở mức thấp. Để đạt được điều
đó, quy tắc nghiêm cấm các nước sử dụng các hạn chế định lượng, trừ
những trường hợp đặc biệt. Quy tắc chống hạn chế định lượng đã được củng
cố thêm tại Vòng đàm phán Urugoay.
Trong khi GATT ủng hộ tự do thương mại, hiệp định này cũng thừa
nhận là các quốc gia có thể muốn bảo hộ nền sản xuất trong nước khỏi cạnh
tranh của nước ngoài. Hiệp định này thúc đẩy các nước tiến hành bảo hộ ở

mức thấp hợp lý thông qua thuế quan. Nguyên tắc bảo hộ bằng thuế quan
được hỗ trợ bởi điều khoản cấm các quốc gia thành viên sử dụng các hạn chế
định lượng đối với hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, nguyên tắc này có những
ngoại lệ đặc biệt.
Một ngoại lệ quan trọng là cho phép các quốc gia khi gặp khó khăn
trong cán cân thanh toán quốc tế (BOP) được phép hạn chế nhập khẩu nhằm
đảm bảo tình hình tài chính đối ngoại của mình. Trường hợp ngoại tệ này tạo
sự linh hoạt cho các nước đang phát triển hơn là những nước phát triển trong


14
việc sử dụng các hạn chế định lượng đối với hàng nhập khẩu nếu việc hạn
chế này là cần thiết để ngăn chặn sự suy giảm nghiêm trọng dự trữ ngoại tệ.
Trong lĩnh vực công nghiệp, hầu hết các nước phát triển không áp
dụng quy tắc chống sử dụng các hạn chế định lượng đối với hàng dệt, một
lĩnh vực mà các nước đang phát triển đặc biệt quan tâm. Có sự khác biệt cơ
bản giữa các hạn chế áp dụng cho lĩnh vực nông nghiệp và hạn chế áp dụng
cho ngành dệt. Trừ những trường hợp đặc biệt, còn lại các hạn chế trong lĩnh
vực nông nghiệp nằm ngoài sự điều chỉnh của các quy tắc của GATT. Còn
trong trường hợp hàng dệt, các hạn chế này được sự cho phép bởi các điều
khoản của hiệp định đa sợi (MFA), được sự đàm phán dưới sự bảo hộ của
GATT. MFA cho phép các nước giảm nghĩa vụ cơ bản của mình và thực
hiện hạn chế hàng dệt may nhập khẩu, miễn là đáp ứng được các điều kiện
đưa ra.
Củng cố nguyên tắc chống sử dụng hạn chế định lượng, cụ thể trong
lĩnh vực hàng công nghiệp.
Trong lĩnh vực hàng dệt may, Hiệp định dệt may (ATC) yêu cầu các
nước thành viên hiện đang duy trì các hạn chế phải loại bỏ dần theo bốn giai
đoạn, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn vào ngày 1/1/2005.
1.1.4.3. Quy tắc thứ ba

Yêu cầu các nước tiến hành buôn bán mà không được phân biệt đối xử
giữa các nước xuất khẩu hoặc giữa các nước nhập khẩu hàng hóa đó. Quy
tắc được thể hiện trong nguyên tắc tối huệ quốc (MFN). Trường hợp ngoại
lệ đặc biệt của quy tắc này là thỏa thuận ưu đãi khu vực.
Quy tắc cơ bản thứ ba của GATT quy định không được phép phân biệt
đối xử trong thương mại và được thể hiện trong quy chế tối huệ quốc. Theo
cách nói đơn giản, điều này có nghĩa là nếu một quốc gia thành viên cho
phép một nước hưởng ưu đãi thuế quan hay các ưu đãi đối với bất kỳ sản
phẩm nào thì ngay lập tức và vô điều kiện, quốc gia này cũng phải cho phép


15
các nước khác hưởng ưu đãi như thế đối với sản phẩm tương tự. Vì vậy, nếu
nước A, khi đàm phán thương mại với nước B, thỏa thuận giảm thuế nhập
khẩu chè từ 10% xuống 5% thì mức thuế giảm này cũng phải áp dụng cho tất
cả các thành viên còn lạ của WTO. Nghĩa vụ đối xử theo quy chế tối huệ
quốc không chỉ áp dụng đối với nhập khẩu mà còn đối với cả xuất khẩu. Vì
vậy, nếu một nước đánh thuế đối với hàng xuất khẩu sang một nước, thì cũng
phải đánh thuế suất như vậy đối với hàng xuất khẩu sang tất cả các nước.
Hơn thế nữa, nghĩa vụ đối xử theo quy chế tối huệ quốc không chỉ hạn
chế ở thuế quan mà còn áp dụng đối với:
Bất kỳ khoản phí nào liên quan tới nhập khẩu và xuất khẩu;
Phương pháp đánh thuế và các khoản phí nói trên;
Những quy tắc và thủ tục liên quan đến xuất khẩu và nhập khẩu;
Thuế và phí nội địa đối với hàng nhập khẩu và các luật lệ, quy định,
điều kiện ảnh hưởng đến việc bán hàng;
Việc quản lý các hạn chế định lượng (chẳng hạn như phân phối
quota giữa các quốc gia cung cấp hàng trên cơ sở không phân biệt) trong
những trường hợp ngoại lệ được phép áp dụng hạn chế định lượng.
Vì vậy, nguyên tắc này nhấn mạnh rằng, khi thỏa thuận áp dụng quy

chế tối huệ quốc, các nước thành viên cam kết không phân biệt đối xử giữa
các nước và không được đối xử đối với một nước ưu đãi hơn một nước khác
trong mọi vấn đề liên quan tới thương mại hàng hóa.
Ngoại lệ của quy chế tối huệ quốc.
Tuy nhiên, các quy định của GATT cũng cho phép được giảm thuế
quan và các rào cản thương mại khác trên cơ sở ưu đãi giữa các nước tham
gia hiệp định thương mại khu vực. Thuế suất thấp hoặc miễn thuế đối với
hoạt động thương mại giữa các thành viên của thỏa thuận thương mại khu
vực không phải áp dụng đối với các nước khác. Chính vì vậy, hiệp định ưu


16
đãi khu vực tạo thành môi trường hợp ngoại lệ quan trọng của quy chế tối
huệ quốc. Để đảm bảo lợi ích của các nước không phải là thành viên của
hiệp định thương mại khu vực, GATT cũng đưa ra những điều kiện nghiêm
ngặt khi thành lập các hiệp định này. Các điều kiện này cùng với các điều
kiện khách quy định rằng:
Các nước thành viên của hiệp định khu vực phải xóa bỏ thuế quan và
các rào cản thương mại khác có ảnh hưởng đến thương mại giữa các nước đó,

Các hiệp định này không được dẫn đến việc đặt ra những rào cản
thương mại đối với các nước khác.
Các hiệp định này có thể hình thành dưới dạng liên minh thuế quan
hoặc khu vực thương mại tự do. Trong cả hai trường hợp, thương mại giữa
các nước thành viên được miễn thuế trong khi buôn bán với các nước khác
vẫn phải tuân thủ theo mức thuế quan của quy chế tối huệ quốc. Đối với liên
minh thuế quan, thuế suất của các nước thành viên đã được hài hòa và được
áp dụng thống nhất như nhau đối với hàng nhập khẩu từ các nước bên ngoài.
Trong khu vực thương mại tự do, thuế suất không được hài hòa mà thay vào
đó, các nước thành viên tiếp tục sử dụng mức thuế quan ghi trong danh mục

của từng nước.
Hiện có hơn 100 hiệp định ưu đãi khu vực đang có hiệu lực, trọng tâm
là thúc đẩy thương mại dựa trên cơ sở khu vực thông qua củng cố và giảm
mạnh thuế quan cũng như tăng cường các nhượng bộ khác trao đổi tại các
hiệp định ưu đãi khu vực và gia tăng trong những năm gần đây. Kết quả là
thương mại khu vực tăng vững chắc và tỷ trọng thương mại khu vực ngày
càng lớn trong thương mại thế giới.
Các hiệp định ưu đãi này đã tạo ra lợi thế cho các ngành công nghiệp
tiếp thị sản phẩm của mình ở các nước khác trong khu vực. Đồng thời, nó


17
cũng có thể đặt các ngành công nghiệp của các nước nằm ngoài khu vực, là
những nơi phải đóng thuế theo quy chế tối huệ quốc, vào một vị thế cạnh
tranh bất lợi. Một trong những thách thức lớn mà các nước thành viên WTO
sẽ gặp phải trong năm tới là làm sao đảm bảo được sự bổ sung giữa nỗ lực
phát triển thương mại khu vực với ý đồ tiếp tục tự do hóa thương mại ở cấp
độ đa phương.
Bên cạnh những hiệp định này, các nước phát triển cũng đã áp dụng
các hiệp định tự do thương mại một chiều, theo đó hàng nhập khẩu từ tất cả
hay một số các nước đang phát triển có thể thâm nhập vào thị trường nước
phát triển mà không phải đóng thuế nhập khẩu. Đây là các hiệp định không
có đi có lại bởi vì các nước đang phát triển được lợi từ việc thâm nhập ưu đãi
mà không phải đối xử tương tự đối với hàng nhập khẩu từ các nước phát
triển. Ví dụ của các hiệp định thương mại ưu đãi một chiều này là:
- Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP), theo đó các nước phát
triển cho phép nhập khẩu trên cơ sở ưu đãi và miền thuế nhập khẩu tất cả các
sản phẩm công nghiệp, và một số nông phẩm chọn lọc của tất cả các nước
đang phát triển.
- Công ước Lomé ( Lomé IV - hết hạn 2.2002 ), theo đó các quốc gia

thành viên của Liên minh Châu Âu cho phép hàng nhập khẩu trên cơ sở miễn
thuế nhập khẩu của một số nước đang phát triển và chậm phát triển ở châu
Phi, vùng Caribê, châu Á và Thái Bình Dương (tức là các nước ACP) đưa
vào thị trường này.
- Sáng kiến Lòng chảo Caribê, theo đó Mỹ cho phép nhập khẩu hàng
hóa tên cơ sở miễn thuế nhập khẩu từ các nước vùng Caribê.
Cơ sở pháp lý của việc các nước phát triển dành đối xử ưu đãi cho
hàng nhập khẩu từ tất cả các nước đang phát triển theo GSP chính là Quyết
định về đối xử khác biệt và ưu đãi hơn, tương hỗ và tham gia đầy đủ hơn của


18
các nước đang phát triển. Quyết định này được áp dụng trong GATT từ 1979
và thường được biết đến dưới tên gọi Điều khoản cho phép chung. Trong các
điều khoản của GATT 1994 không có một có sở pháp lý rõ ràng cho các hiệp
định ưu đãi như Công ước Lomé và Sáng kiến Lòng chảo Caribê, trong đó
các nước phát triển thâm nhập có ưu đãi hoặc miễn thuế đối với một số ít các
nước đang phát triển mà các nước phát triển đó có những ràng buộc lịch sử
hay vì các yếu tố khác. Hiện nay, các hiệp định này được cho phép theo điều
khoản "miễn trừ" dành cho các nước phát triển đưa ra ưu đãi, tức là khỏi phải
thực hiện nghĩa vụ dành đối xử tối huệ quốc.
Đứng về mặt pháp lý, các hiệp định ưu đãi hạn chế này sẽ dẫn tới sự
phân biệt đối xử đối với hàng nhập khẩu của các nước nước đang phát triển
không được hưởng ưu đãi này. Vì vậy hiện có rất nhiều sức ép đòi hỏi các
nước phát triển dành những ưu đãi này phải điều chỉnh cho phù hợp với các
quy tắc của GATT.
1.1.4.4. Quy tắc thứ tư
Gọi là quy tắc đối xử quốc gia. Quy tắc này yêu cầu các nước không
được đánh thuế nội địa như thuế doanh thu hay thuế giá trị gia tăng vào các
sản phẩm nhập khẩu sau khi hàng hóa đó đã vào thị trường nội địa và nộp

thuế nhập khẩu tại biên giới, theo mức thuế cao hơn mức thuế đánh vào sản
phẩm nội địa tương tự.
Quy chế tối huệ quốc yêu cầu các thành viên không phân biệt đối xử
giữa các nước. Nguyên tắc đối xử quốc gia bổ sung cho quy chế tối huệ
quốc, quy định rằng, một mặt hàng nhập khẩu sau khi đã đi qua biên giới và
đã trả các khoản thuế quan cũng như các khoản phí khác sẽ không bị đối xử
kém ưu đãi hơn so với các sản phẩm nội địa tương tự. Nói cách khác, nguyên
tắc này yêu cầu các nước thành viên đối xử với các hàng nhập khẩu trên
cùng cơ sở như hàng sản xuất trong nước. Vì vậy các nước không được đánh


19
các khoản thuế nội địa (như thuế doanh thu) với thuế suất cao hơn mức áp
dụng cho các sản phẩm nội địa tương ứng đối với hàng nhập khẩu sau khi nó
đã thanh toán các khoản thuế quan tại biên giới. Tương tự như vậy, các quy
định tác động đến việc mua bán sản phẩm tại thị trường trong nước cũng
không thể áp dụng nghiêm ngặt hơn đối với hàng nhập khẩu.
1.2. YÊU CẦU CỦA GATT ĐỐI VỚI CÁC NƢỚC THÀNH VIÊN TRONG
ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THUẾ QUAN ĐỐI VỚI HÀNG CÔNG NGHIỆP.
Một trong những mục đích quan trọng của GATT là hỗ trợ các nước
thúc đẩy phát triển kinh tế thông qua thương mại gia tăng bằng cách xóa bỏ
thuế quan đối với thương mại hàng công nghiệp tại các cuộc đàm phán.
1.2.1. Đặc điểm, vai trò, vị trí hàng công nghiệp trong thƣơng mại quốc tế
Thương mại quốc tế những thập niên gần đây đã có bước tăng trưởng
đột biến cả về chất và lượng. Song với sự tăng trưởng mạnh mẽ này, các khu
vực và quốc gia trên thế giới cũng đã và đang tích cực mở cửa thị trường nội
địa của mình với tư tưởng rằng tự do hóa thương mại là một xu thế khách
quan, là nền tảng của sự phát triển, tự do hóa thương mại đưa các quốc gia
xích lại gần nhau, thân thiện hơn trong quan hệ sản xuất, kinh doanh và chia
sẻ thịnh vượng chung.

Theo thời gian, thương mại quốc tế ngày càng phát triển, biểu hiện ở
chỗ hàng hoá ngày một nhiều, sự thông thương hàng hoá giữa các quốc gia
dễ dàng hơn bao giờ hết.
Hàng công nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn trong thương mại hàng hoá
quốc tế. Thông thường, hàng công nghiệp được chuyển từ các nước phát
triển, các nước có nền công nghiệp phát triển, một số nước đang phát triển có
nền sản xuất công nghiệp sang các nước đang phát triển và kém phát triển.
Đối với các quốc gia công nghiệp, kim ngạch thương mại hàng công
nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn trong thương mại hàng hoá, do vậy hàng công


20
nghiệp luôn giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển thương mại quốc tế, hàng
công nghiệp cũng là tác nhân cho sự phát triển trong các lĩnh vực ngành
hàng hoá và dịch vụ.
Các nước phát triển và đang phát triển luôn chú trọng xây dựng cho
quốc gia mình một chiến lược phát triển công nghiệp lớn mạnh. Sản xuất hàng
công nghiệp luôn giữ vị trí nòng cốt trong sự phát triển của một quốc gia, vì
trên thực tế lợi ích tạo ra từ thương mại hàng công nghiệp là vô cùng lớn.
Trong giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới II, thương mại quốc tế đã
có những bước phát triển ngoạn mục, đặc biệt có nhiều quốc gia giàu lên
nhanh chóng, mà chủ yếu là các quốc gia có nên công nghiệp phát triển như
Mỹ, Nhật bản, các nước EU …, bên cạnh đó nổi lên các nước đang phát
triển, có chính sách thương mại phù hợp và nền sản xuất công nghiệp trong
nước vững mạnh như Hàn quốc, Trung quốc, … điều này cho thấy rằng hàng
công nghiệp giữ vai trò quan trọng cho sự phát triển của một quốc gia.
1.2.2. Yêu cầu của GATT đối với các nƣớc tham gia
Sau mỗi Vòng đàm phán, thuế suất mà các nước thoả thuận với nhau
được ghi vào bản danh mục ưu đãi, hay còn gọi là danh mục thuế quan. Mỗi
nước có một bản danh mục riêng. Thuế suất ghi trong bản danh mục này

được gọi là thuế suất ràng buộc, tức là sau này nước đó sẽ không được phép
tăng thuế suất cao hơn mức đã ghi trong danh mục. Như vậy, nếu đã đưa vào
danh mục thuế quan là mặt hàng đó đã bị ràng buộc, những mặt hàng không
đưua vào danh mục thuế quan thì được tự do tăng thuế suất.
Thực tế, việc giảm thuế quan thường diễn ra từ từ qua một số năm để
các ngành sản xuất trong nước có thể thể thích nghi dần với việc giảm bảo hộ
qua thuế quan. Các mặt hàng công nghiệp thường được giảm thuế quan trong
thời gian 5 năm với mức giảm bằng nhau cho mỗi năm. Như vậy, nếu trước


21
khi đàm phán một mặt hàng công nghiệp có thuế suất 40%, sau đàm phán
thuế suất hạ xuống 15%, còn 25% thì mỗi năm thuế suất sẽ giảm đi 3%.
GATT chỉ yêu cầu các thành viên phải áp dụng thuế xuất khẩu như
nhau đối với các thành viên khác ( đãi ngộ tối huệ quốc ). Trên thực tế, nhiều
nước đã tự nguyện giảm dần hoặc xoá bỏ thuế xuất khẩu để khuyến khích
xuất khẩu.
1.2.3. Điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp từ phía
các nƣớc tham gia GATT.
1.2.3.1. Các điều chỉnh chung
 Giảm thuế quan
Ngoài việc tạo nên một khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thương mại
quốc tế, hệ thống thương mại đa phương tạo nên một diễn đàn để tiếp tục
đàm phán cho việc tự do hoá thương mại. Việc cắt giảm thuế quan một cách
rõ rệt và các rào cản thương mại là kết quả của những vòng đàm phán nối
tiếp nhau trong 50 năm qua.
Nhờ những cắt giảm thuế quan đã đạt được từ những vòng đàm phán
trước đây, mức thuế quan trung bình của các sản phẩm công nghiệp tại các
nước phát triển giảm từ khoảng 40% vào năm 1948 khi GATT thành lập
xuống khoảng 7% vào cuối Vòng đàm phán Tokyo [ 1 tr 22]. Trong vòng

đàm phán Uruguay, các nước này đã đồng ý cắt giảm thêm 40% chia đều
trong 5năm. Tuy nhiên, tỷ lệ cắt giảm thuế quan cho một số mặt hàng mà các
nước đang phát triển có lợi ích xuất khẩu như các sản phẩm dệt, may, da và
các sản phẩm da là thấp hơn nhiều so với mức trung bình. Nhiều nước đang
phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi cũng đã nhất trí cắt giảm thuế quan
của họ bằng khoảng 2/3 tỷ lệ cắt giảm của các nước phát triển .
Mức thuế quan trung bình của các sản phẩm công nghiệp của các nước
đang phát triển giảm từ 40% xuống còn 10%, mức trung bình này còn tiếp


22
tục được giảm xuống thêm 40% nữa tại Vòng đàm phán Uruguay [ 1 tr 243].
Các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi cũng cắt giảm thuế quan,
nhưng ở mức thấp là 30%. Các nước chậm phát triển không đòi hỏi giảm
thuế quan theo tỷ lệ phần trăm, nhưng được khuyến khích thực hiện về
nhượng bộ tượng trưng bằng cách giảm thuế quan ở những mặt hàng có chọn
lọc. Tất cả những cắt giảm đó, trừ một vài ngoại lệ, đều được thực hiện trong
5 giai đoạn bằng nhau để đạt tới thuế suất thoả thuận cuối cùng đã được áp
dụng vào năm 1999.
Các nước phát triển và các nước đang phát triển cũng đồng ý tại vòng
đàm phán Urugoay loại bỏ mọi thuế quan ở một số ngành nhất định, gọi là
các ngành có thuế suất bằng không. Đó là các ngành tân dược, thiết bị nông
nghiệp, thiết bị xây dựng, thiết bị y tế, bàn ghế, giấy, thép và đồ chơi. Do kết
quả của những thỏa thuận này và những nhượng bộ khác, tỷ trọng hàng công
nghiệp thâm nhập vào thị trường các nước phát triển trên cơ sở tối huệ quốc
đã tăng gấp đôi, từ 22% lên 44%. Mức bình quân gia quyền của thuế quan áp
dụng cho hàng công nghiệp sẽ giảm từ:
+ 6,3% xuống còn 3,8% tại các nước phát triển
+ 15,3% xuống còn 12,3% tại các nước đang phát triển
+ 8,6% xuống còn 6% tại các nền kinh tế chuyển đổi [ 1 tr 244]

 Điều chỉnh theo ràng buộc thuế quan
Mọi hàng công nghiệp nhập khẩu vào các nước phát triển đều chịu
suất ràng buộc, tỉ trọng đối với các nước đang phát triển và các nước có nền
kinh tế chuyển đổi là 73% và 98%. Một trong những lợi thế của sự ràng buộc
là đem lại đảm bảo tiếp cận thị trường nước ngoài. Các doanh nghiệp có thể
đặt kế hoạch phát triển thương mại của mình mà không sợ bị tăng thuế nhập
khẩu hay giới hạn tiếp cận thị trường bởi hạn chế số lượng.
Việc điều chỉnh chính sách thuế quan hàng công nghiệp mà cụ thể là
cắt giảm thuế quan qua các Vòng đàm phán của GATT đã mang lại cho


23
thương mại hàng công nghiệp nói riêng và thương mại hàng hoá nói chung
những bước tiến vượt bậc, cụ thể nó làm tăng thu nhập thế giới lên 1% mỗi
năm hay khoảng từ 200 tỷ đến 500 tỷ mỗi năm, kim ngạch thương mại thế
giới tăng trưởng từ 6% tới 20% mỗi năm [ 1 tr 23 ]. Tuy nhiên, trên thực tế,
hầu hết lợi ích mang lại đều do các nước phát triển và một số nước đang phát
triển hưởng lợi chính; các nước phát triển và một số nước đang phát triển cso
trình độ phát triển cao, có nền công nghiệp mạnh do vậy chủ yếu hàng công
nghiệp đều xuất phát từ các quốc gia này .
1.2.3.2. Kinh nghiệm của một số nước trong việc điều chỉnh chính sách
thuế quan hàng công nghiệp trước và sau khi gia nhập WTO.
 Kinh nghiệm của Trung Quốc:
Từ năm 1990, Trung Quốc đã liên tục cắt giảm thuế quan đánh vào
hàng công nghiệp nhập khẩu. Tháng 11 năm 1995, tại Nhật Bản, trong Hội
nghị các nhà lãnh đạo APEC, Trung Quốc tuyên bố giảm mức thuế trung
bình từ 36% xuống 24%. Tiếp đến tháng 10/1997, Trung Quốc giảm mức
thuế trung bình xuống còn 17%. Năm 1998, Trung Quốc chuẩn bị một kế
hoạch chi tiết về việc tiến hành giảm bình quân khoảng 30% thuế cho 7000
mặt hàng nhằm đưa mức thuế trung bình về hàng công nghiệp xuống còn

10% năm 2005. Đối với ngành sản xuất ô tô, thuế suất đánh vào xe nhập
khẩu vào Trung Quốc khá cao, dao động từ 80% đến 100%, đã giảm theo lộ
trình xuống còn 25% vào tháng 7/2006. Đối với phụ tùng, thuế suất cũng đã
giảm từ 23,4% xuống còn 10% vào tháng 7/2006. Trong năm 2001, Trung
Quốc cũng đã quyết định giảm 6,6% thuế nhập khẩu đối với 152 mặt hàng
thuộc ngành sản xuất ô tô.
Trung Quốc và ASEAN đang xúc tiến quá trình giảm thuế xuất nhập
khẩu để thiết lập khu vực thương mại tự do Trung Quốc - ASEAN (FTA).


24
Mức thuế suất xuất nhập khẩu của Trung Quốc áp dụng đối với hàng
hóa của các nước ASEAN giảm từ 9,9% xuống 8,1% năm 2005 và sẽ giảm
xuống 6,6% vào năm 2007 [ 29 ]
Mức thuế suất trung bình sẽ giảm xuống 2,4% vào năm 2009 và vào năm
2010, thời điểm dự tính khu vực thương mại tự do Trung Quốc - ASEAN được
thiết lập, 93% sản phẩm từ các nước ASEAN sẽ hoàn toàn được miễn thuế.
Thực tế cho thấy giảm thuế quan sẽ tăng giao dịch thương mại giữa
Trung Quốc và ASEAN. Tổng thương mại giao dịch Trung Quốc với
ASEAN đạt 130,4 tỷ USD năm 2005, trong đó nhập khẩu chiếm 75 tỷ USD,
xuất khẩu chiếm 55,4 tỷ USD [ 29 ]
Cho đến 2010, Trung Quốc sẽ thiết lập FTA với Brunei, Indonesia,
Malaysia, Philipin, Singapo và Thái Lan. Các nước còn lại sẽ dần thiết lập
trong thời kỳ quá độ hơn 5 năm.
 Kinh nghiệm của Đài Loan
Trong quá trình gia nhập WTO, Đài Loan cũng liên tục cắt giảm thuế
quan. Tháng 7/1995, Đài Loan đã đưa đề nghị cắt giảm thuế suất cho 758 sản
phẩm. Như vậy, chỉ tính riêng trong giai đoạn 1986-1995, Đài Loan đã thực
hiện cắt giảm cho 74% sản phẩm công nghiệp từ mức 24,4% xuống 6,38%.
Tại phiên họp của tổ công tác vào cuối năm 1995, Đài Loan công bố kế

hoạch cắt giảm mức thuế trung bình đối với hàng công nghiệp là 5,2% vào
năm cuối cùng của thời gian chuyển tiếp, sau đó tiếp tục hạ xuống chỉ còn
4,34%. Đây là mức thuế nhập khẩu khá thấp, chắc chắn ngành công nghiệp
nội địa của Đài Loan sẽ gặp phải những áp lực cạnh tranh lớn với hàng nhập
khẩu từ bên ngoài.
 Kinh nghiệm của Băng la det
Băng-la-đet đã thực hiện việc cắt giảm thuế quan một cách mạnh mẽ.
Ngay từ những năm đầu 1990, các hạn chế định lượng của Băng-la-đet đã
được cắt giảm mạnh mẽ đến mức khó có thể cắt giảm hơn nữa. Thực vậy, số

×