Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả tại Công ty cổ phần tư vấn và đầu tư xây dựng 89

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.92 KB, 64 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Vốn là một trong những nguồn lực quan trọng nhất và không thể thiếu
trong sản xuất kinh doanh của bất kì doanh nghiệp nào, đặc biệt là trong tình
hình kinh tế hiện nay.
Trong nền kinh tế thị trường nhu cầu vốn đối với các doanh nghiệp ngày
càng trở nên quan trọng và bức thiết hơn, một mặt là vì; sự biến động của thị
trường và sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước nên đòi hỏi
các doanh nghiệp phải sử dụng vốn sao cho hợp lí nhằm mang lại hiệu quả cao
nhất trong sản xuất kinh doanh và nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Mặt
khác, để mở rộng quy mô sản xuất, các doanh nghiệp luôn tìm mọi cách tăng
cường huy động vốn từ các nguồn khác nhau.Có thể nói trong nền kinh tế hiện
nay vốn được xem như một vũ khí quan trọng của mỗi doanh nghiệp.
Xuất phát từ thực tế và những vấn đề bức xúc đã đặt ra ở trên cùng với
hiểu biết của bản thân trong việc tìm hiểu vấn đề này, tôi đã chọn đề tài:
“ Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả tại Công ty cổ phần tư vấn và đầu
tư xây dựng 89” làm đề tài cho bản chuyên đề tốt nghiệp của mình với hy vọng
sẽ góp phần nhỏ vào việc phân tích và rút ra một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả huy động và sử dụng vốn tại công ty.
Kết cấu: Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương :
Chương I: Những vấn đề cơ bản về vốn trong các doanh nghiệp hiện nay
Chương II: Thực trạng việc huy động và sử dụng vốn tại Công ty cổ phần
tư vấn và đầu tư xây dựng 89.
Chương III: Một số biện pháp nhằm nâng cao việc huy động và sử dụng
vốn tại Công ty cổ phần tư vấn và đầu tư xây dựng 89 trong những năm tới.
Để hoàn thành bản chuyên đề tốt nghiệp, trước hết tôi xin cảm ơn Ban
giám đốc và các cán bộ nhân viên Công ty cổ phần tư vấn và đầu tư xây dựng
89 đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong việc thu thập số liệu, tình hình của
1
công ty để tôi có thể hoàn thành đề tài này. Sau cùng, tôi xin chân thành cảm
ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn- GVC Lục Diệu Toán, người
đã chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình hoàn thành bản chuyên đề tốt nghiệp


này.
Tuy nhiên, do thời gian thực tập ngắn và sự hiểu biết của bản thân còn hạn
chế nên chuyên đề không thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo và bạn bè quan tâm vấn đề này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 30/4/2010
Sinh viên: Lê Anh Tuấn
Lớp : Tài chính B
Khoá : 38
Khoa : Ngân hàng- Tài chính
Trường : Đại học Kinh tế quốc dân

2
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VỐN TRONG DOANH NGHIỆP HIỆN
NAY
I: VỐN VÀ VAI TRÒ CỦA VỐN
1.Khái niệm
Để thành lập một doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh
doanh thì vốn là điều kiện không thể thiếu, nó phản ánh nguồn lực tài chính
đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Vậy vốn là gì? Và tại sao nó lại quan trọng
như vậy đối với mỗi doanh nghiệp.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về vốn mà chúng ta có thể kể đến như:
Samuelson cho rằng : Đất đai và lao động là các yếu tố ban đầu sơ khai,
còn vốn và hàng hóa là yếu tố kết quả của quá trình sản xuất. Vốn bao gồm các
loại hàng hóa lâu bền được sản xuất ra và vừa được sử dụng như các đầu vào
hữu ích trong quá trình sản xuất đó.
Trong cuốn “Kinh tế học” David Begg cho rằng: Vốn là một loại hàng
hoá nhưng được sử dụng tiếp tục vào quá trình sản xuất kinh doanh “ Vốn
được chia theo hai hình thái là vốn hiện vật và vốn tài chính.” Như vậy, ông đã

đồng nhất với tài sản doanh nghiệp. Trong đó:
-Vốn hiện vật : Là dự trữ các hàng hóa đã sản xuất mà sử dụng để sản xuất
ra các hàng hóa khác.
-Vốn tài chính : Là tiền và tài sản trên giấy của doanh nghiệp.
Theo giáo trình “Tài chính doanh nghiệp” của Trường Đại học Kinh kế
quốc dân thì khái niệm vốn được chia thành hai phần: Tư bản là giá trị mang
lại giá trị thặng dư. Vốn được quan tâm đến khía cạnh giá trị nào đó của nó mà
thôi. Bảng cân đối kế toán phản ánh tình hình tài chính của một doanh nghiệp
tại một thời điểm.Và hai là vốn được nhà doanh nghiệp dùng để đầu tư vào tài
sản của mình. Nguồn vốn là những nguồn được huy động từ đâu. Còn về bảng
3
cân đối phản ánh tổng dự trữ của bản thân doanh nghiệp dẫn đến doanh nghiệp
có dự trữ tiền để mua hàng hoá và dịch vụ rồi sản xuất và chuyển hoá chúng
thành sản phẩm cuối cùng cho đến khi trữ hàng hoá hoặc tiền thay đổi đó sẽ có
một dòng tiền hay hàng hoá đi ra đó là hiện tượng xuất quỹ, còn khi xuất hàng
hoá ra thì doanh nghiệp sẽ thu về dòng tiền( phản ánh nhập quỹ, và biểu hiện
cân đối của doanh nghiệp là ngân quỹ làm cân đối dòng tiền trong doanh
nghiệp)
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vốn được hiểu và quan niệm là toàn
bộ những giá trị ứng ra ban đầu vào các quá trình tiếp theo của doanh nghiệp.
Khái niệm này không những chỉ ra vốn không chỉ là một yếu tố đầu vào
quan trọng đối với các doanh nghiệp, mà còn đề cập đến sự tham gia của vốn
trong doanh nghiệp, trong cả quá trình sản xuất kinh doanh liên tục và tồn tại
của doanh nghiệp.
Như vậy, vốn là các yếu tố đầu vào của mọi hoạt động kinh doanh. Có vốn
doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất kinh doanh, mua sắm trang thiết bị hay
khai thác kế hoạch khác trong tương lai. Yêu cầu đặt ra đối với doanh nghiệp là
họ cần quản lí và sử dụng vốn thế nào để có hiệu quả nhằm đảm bảo cho các
doanh nghiệp ngày càng phát triển và vững mạnh.
Các đặc trưng cơ bản của vốn:

-Vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định : có nghĩa là vốn phải
được biểu hiện bằng giá trị tài sản hữu hình hoặc vô hình của doanh nghiệp.
- Vốn phải vận động sinh lời và đạt được mục tiêu trong kinh doanh.
- Vốn là phương tiện để đạt mục đích phát triển kinh tế và nâng cao đời
sống người lao động.
- Vốn có khả năng sinh lời: hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp có hiệu quả sẽ làm cho đồng vốn của doanh nghiệp sinh sôi nảy nở.
- Vốn có giá trị về mặt thời gian: điều này có vai trò quan trọng khi bỏ vốn
vào đầu tư và tính hiệu quả khi sử dụng đồng vốn.
4
- Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định, vốn sẽ không được đưa ra
để đầu tư khi mà người sở hữu của nó nghĩ về một sự đầu tư không có lợi
nhuận.
- Vốn được quan niệm như một thứ hàng hoá và có thể coi là thứ hàng hoá
đặc biệt vì nó có khả năng được mua bán quyền sở hữu trên thị trường vốn và
thị trường tài chính.
- Vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền hay các giá trị hiện vật( tài sản cố
định của doanh nghiệp; máy móc, trang thiết bị vật tư dùng cho hoạt động quản
lí...) mà còn biểu hiện dưới hình thái phi vật chất như các bí quyết trong kinh
doanh, các phát minh sáng chế.
2. Phân loại vốn
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp đều có một
phương thức và hình thức kinh doanh khác nhau . Nhưng mục tiêu của họ vẫn
là tạo ra lợi nhuận cho mình . Một số tiêu thức thường dùng để phân loại vốn
là.
2.1. Phân loại theo cách huy động.

Vốn tự có của chủ doanh nghiệp:
Đây là vốn của các chủ sỡ hữu,các nhà đầu tư góp vốn ban đầu để thành
lập doanh nghiệp. Do vậy vốn này không phải là một khoản nợ. Nguồn vốn này

là điều kiện tiên quyết để thành lập doanh nghiệp.
- Đối với công ty tư nhân, chủ doanh nghiệp phải có một số vốn nhất định
để xin đăng kí thành lập doanh nghiệp.
- Đối với công ty cổ phần, nguồn vốn do các cổ đông góp là yếu tố quyết
định để hình thành công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và chịu
trách nhiệm hữu hạn trên trị giá số cổ phần mà họ nắm giữ.
• Vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại
- Nguồn vốn tín dụng ngân hàng: Có thể nói rằng vốn vay ngân hàng là
một trong những nguồn vốn quan trọng nhất không chỉ đối với bản thân
5
doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. Các hoạt động và sự phân
tích của các công ty, doanh nghiệp đều gắn liền với dịch vụ tài chính do ngân
hàng thương mại cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn tín dụng.
Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo
nguồn tài chính cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, đặc biệt là đảm
bảo đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư theo chiều sâu..
- Vốn tín dụng thương mại: Là khoản mua chịu từ người cung cấp hoặc
ứng trước của khách hàng mà doanh nghiệp tạm thời chiếm dụng. Tín dụng
thương mại luôn gắn với một lượng hàng hóa cụ thể, gắn với một hệ thống
thanh toán cụ thể nên nó chịu tác động của chính sách tín dụng mà doanh
nghiệp được hưởng. Đây là phương thức tài trợ tiện lợi, linh hoạt trong kinh
doanh, tạo khả năng mở rộng và cơ hội hợp tác làm ăn trong tương lai.
• Vốn huy động từ việc phát hành cổ phiếu: Phát hành cổ phiếu là một
kênh rất quan trọng để huy động vốn dài hạn cho công ty một cách nhanh và
rộng rãi thông qua mối liên hệ với thị trường chứng khoán. Cách huy động này
sẽ giúp doanh nghiệp huy động được một lượng vốn lớn từ nhiều nguồn khác
nhau. Đặc điểm quan trọng của nguồn vốn nay là không gây nợ nên đây là một
hình thức huy động quan trọng để sử dụng vào mục đích dài hạn, đáp ứng nhu
cầu vốn sản xuất của doanh nghiệp.
• Vốn huy động từ việc phát hành trái phiếu

Trái phiếu là các giấy tờ vay nợ trung và dài hạn, bao gồm trái phiếu
chính phủ và trái phiếu công ty. Hiện nay huy động vốn bằng trái phiếu cũng là
một kênh huy động khá phổ biến của các công ty nhằm huy động được những
nguồn vốn lâu dài. Tuy nhiên khi phát hành trái phiếu các doanh nghiệp cần
xem xét là nên phát hành loại trái phiếu nào và khi nào nên phát hành để phù
hợp nhất với điều kiện cụ thể của công ty và tình hình trên thị trường tài chính.
• Nguồn vốn nội bộ.
6
Tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ là con đường tốt vì doanh nghiệp sẽ phát
huy được năng lực của mình, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Nhiều công
ty đặt ra mục tiêu phải có khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm đáp ứng nhu
cầu vốn ngày càng tăng. Nhưng điều này đối với công ty cổ phần thì việc để lại
lợi nhuận đó liên quan đến một số yếu tố nhạy cảm vì khi công ty để lại một
phần lợi nhuận, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia cho các cổ đông.
Điều này một mặt khuyến khích các cổ đông nắm giữ cổ phiếu lâu dài hơn,
nhưng mặt khác, dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong ngắn hạn do cổ
đông chỉ nhậnđược phần cổ tức nhỏ hơn.
2.2. Phân theo hình thức chu chuyển:
• Vốn cố định: là một bộ phận của vốn đầu tư, ứng trước về tài sản cố
định, mà đặc điểm của nó là luân chuyên từng phần trong nhiều chu kì sản xuất
và hoàn thành vòng chu chuyển khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng.
Trong doanh nghiệp, vốn cố định giữ vai trò rất quan trọng trong quá trình
sản xuất. Nó quyết định đổi mới kỹ thuật, công nghệ , trang thiết bị cơ sở sản
xuất, là nhân tố quan trọng bảo đảm tái sản xuất mở rộng .
Về mặt hiện vật vốn cố định bao gồm toàn bộ những tài sản cố định đang
phát huy trong quá trình sản xuất : nhà xưởng, máy móc, thiết bị, phương tiện
vận tải...Vốn cố định tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh. Sau
mỗi chu kì sản xuất thì hình thái hiện vật của vốn cố định không thay đổi
nhưng giá trị của nó giảm dần và chuyển vào giá trị sản phẩm hàng hoá dưới
dạng hình thức khấu hao.

1 Vốn lưu động : Là số tiền ứng trước về tài sản lưu động và tài sản lưu
thông nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất và tái sản xuất của doanh nghiệp
tiến hành bình thường.
Vốn lưu động bao gồm giá trị tài sản lưu động như: nguyên vật liệu chính,
nửa thành phẩm mua ngoài, vật liệu phụ, bao bì và vật liệu bao bì, nhiên liệu,
phụ tùng thay thế, sản phẩm dở dang... và vốn lưu thông như: thành phẩm,
7
hàng hoá mua ngoài tiêu dùng cho tiêu thụ sản phẩm, vật tư mua ngoài chế
biến, vốn tiền mặt...
Khác với vốn cố định, vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị vào sản phẩm
sau mỗi chu kì sản xuất. Trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn lưu động
được luân chuyển không ngừng qua ba giai đoạn: dự trữ, sản xuất và tiêu thụ.
Trong mỗi giai đoạn vốn lưu động được biểu hiện dưới nhiều hình thái khác
nhau, có thể là hình thái hiện vật hay hình thái giá trị.
Giá trị của các loại tài sản lưu động của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
thường chiếm từ 25% đến 50% tổng giá trị của chúng. Vì vậy, quản lí và sử
dụng vốn lưu động hợp lý có ảnh hưởng đến việc hoàn thành nhiệm vụ chung
của doanh nghiệp.
Có thể thấy rằng vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu của
quá trình tái sản xuất. Nếu doanh nghiệp không đủ vốn thì việc tổ chức sử dụng
vốn sẽ gặp nhiều khó khăn và do đó quá trình sản xuất cũng bị trở ngại hay
gián đoạn.
3. Đặc điểm luân chuyển của vốn
Như ta đã biết vốn sản xuất kinh doanh là toàn bộ tài sản của doanh
nghiệp được biểu hiện bằng tiền (công cụ sản xuất. Đối tượng lao động, tiền
mặt...) gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi tham gia
vào sản xuất kinh doanh, vốn luôn biến động và chuyển hoá hình thái vật chất
theo thời gian và không gian. Toàn bộ sự vận động của vốn khi tham gia vào
quá trình sản xuất được thể hiện theo sơ đồ sau:
TLSX

T- H - SX – H –T
SLĐ
Sự vận động vốn trong doanh nghiệp thương mại có thể chỉ là: T-H-T’ và
trong ngân hàng là: T-T’
Qua sơ đồ cho thấy: quá trình vận động của vốn trải qua 3 giai đoạn chủ
8
yếu sau đây:
Giai đoạn một: vốn được hoạt động trong phạm vi lưu thông, lúc đầu là
vốn tiền tệ (T) tích luỹ được đem ra thị trường ( đó là thị trường các yếu tố đầu
vào) mua hàng hoá bao gồm tư liệu sản xuất (TLSX) và sức lao động (SLĐ)
:Trong giai đoạn này vốn thay đổi từ hình thái vốn tiền sang vốn sản xuất:
TLSX
T- H
SLĐ
Giai đoạn hai: Vốn rời khỏi lĩnh vực lưu thông vào hoạt động trong khâu
sản xuất. Ở giai đoạn này vốn có tác dụng kết hợp hai yếu tố TLSX (gồm máy
móc, công cụ,nguyên vật liệu...) và SLĐ của con người để tạo hàng hoá. Vì
vậy lượng giá trị hàng hoá được cấu thành bởi cả giá trị của TLSX đã sử dụng
để sản xuất hàng hoá, tức là giá trị cũ (kí hiệu là c) và phần do hao phí lao động
sống của con người tạo ra ( kí hiệu là v+m). Khi đó tạo ra hàng hoá có giá trị là
c+v+m
TLSX
H’
SLĐ
Giai đoạn ba: Sau giai đoạn sản xuất tạo ra H’ thì vốn lại trở lại hoạt động
trên lĩnh vực lưu thông dưới hình thái hàng hoá. Trong giai đoạn này vốn có
chức năng thực hiện giá trị của hàng hoá trong đó có cả giá trị thặng dư ( phần
lợi nhuận sẽ thu được của nhà sản xuất) hay chính là chức năng chuyển hoá
hàng hoá thành tiền . Kết thúc giai đoạn này (hàng hoá được tiêu thụ) thì vốn
dưới hình thái hàng hoá chuyển thành hình thái tiền tệ ban đầu nhưng về mặt số

lượng thì sẽ lớn hơn ban đầu vì nhà sản xuất sẽ thu được lợi nhuận
H’-------------- T’(T’>T)
Từ sự phân tích sự vận động của vốn thông qua “ vòng tuần hoàn vốn” ta
thấy rằng: tiền có khả năng chuyển hoá thành vốn chỉ khi tiền được đưa vào
9
quá trình sản xuất kinh doanh thông qua hoạt động đầu tư nhằm mục đích sinh
lời mới được gọi là vốn. Với tư đầu tư thì mục đích cuối cùng là tạo ra T’ phải
lớn hơn mức T bỏ ra ban đầu.
4. Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp.
Vốn đóng vai trò hết sức quan trọng trong mỗi doanh nghiệp .Nó là cơ sở,
là tiền đề cho một doanh nghiệp bắt đầu khởi sự kinh doanh. Muốn đăng kí
kinh doanh, theo quy định của nhà nước, bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải có
đủ vốn pháp định theo từng ngành nghề kinh doanh của mình (vốn ở đây không
chỉ bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, mà nó còn là các tài sản thuộc sở hữu
của các chủ doanh nghiệp. Rồi để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp
phải thuê nhà xưởng, mua máy móc thiết bị ... tất cả những điều kiện cần có để
một doanh nghiệp có thể tiến hành và duy trì những hoạt động của mình nhằm
đặt mục tiêu đã đề ra đều cần một lượng vốn nhất định. Từ đó có thể rút ra một
số vai trò quan trọng của vốn như sau:
4.1 Vốn là điều kiện tiền đề của quá trình sản xuất kinh doanh.
Một quá trình sản xuất sẽ được diễn ra khi có ba yếu tố: vốn , lao động và
công nghệ. Trong ba yếu tố đó thì vốn là điều kiện tiền đề có vai trò quyết định
xem có nên sản xuất kinh doanh hay không.
Khi sản xuất, doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn để mua nguyên
nhiên vật liệu đầu vào, thuê nhân công, mua thông tin trên thị trường, mua các
công nghệ sản xuất sản phẩm...Bởi vậy có thể nói vốn là điều kiện đầu tiên trên
cho yếu tố đầu vào về lao động và công nghệ được đáp ứng đầy đủ.
4.2 Vốn quyết định sự ổn định và liên tục của quá trình sản xuất kinh
doanh.
Khi yêu cầu về vốn, lao động và công nghệ được đảm bảo, để quá trình

sản xuất diễn ra liên tục thì vốn phải được đáp ứng đầy đủ, kịp thời và liên tục.
Hiện nay có rất nhiều loại hình doanh nghiệp nên nhu cầu vốn cũng khác
nhau. Hơn nữa các quá trình sản xuất doanh nghiệp cũng khác nhau nên việc sử
10
dụng vốn lưu động cũng khác nhau. Trong quá trình sản xuất nhu cầu vốn phát
sinh thường xuyên đặc biệt là vốn lưu động như mua thêm nguyên nhiên liệu,
mua thêm hàng hoá để bán, để trả nợ, để giao dịch...Mà trong quá trình sản
xuất không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có đầy đủ vốn. Những lúc thiếu hụt
như vậy nếu không bổ sung vốn kịp thời sẽ xảy ra hiện tượng đình trệ sản xuất
gây ra chi phí lớn cho doanh nghiệp.
4.3 Vốn đối với sự phát triển của doanh nghiệp
Ngày nay nước ta chuyển dần sang nền kinh tế thị trường đã xuất hiện
nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau, kinh doanh trên nhiều lĩnh vực khác
nhau. Vì vậy, doanh nghiệp muốn tồn tại thì phải tự nâng cao đủ để cạnh tranh
với các doanh nghiệp khác. Trong khi các đối thủ cạnh tranh ngày càng gay gắt
và khốc liệt .Hơn nữa ,do đòi hỏi của khách hàng ngày càng cao, nên doanh
nghiệp phải đầu tư nhiều hơn cho khoa học công nghệ để nâng cao chất lượng
sản phẩm và hiệu quả sản xuất làm giảm giá thành,dẫn đến sự tăng trong việc
sử dụng vốn của mình. Điều đó sẽ giúp doanh nghiệp có thể phát triển và đứng
vững hơn trên thị trường.
II: HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP.
1:Những vấn đề cơ sở trong việc huy động vốn
Để có được vốn hoạt động thì doanh nghiệp phải thực hiện huy động vốn
từ nhiều nguồn khác nhau. Theo cách phân loại vốn ở trên ta thấy một số
nguồn vốn có thể huy động đối với doanh nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu vốn
trong quá trình sản xuất của mình như:
- Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp
- Nguồn vốn tín dụng ngân hàn và tín dụng thương mại
- Nguồn vốn phát hành cổ phiếu
- Nguồn vốn huy động qua phát hành trái phiếu

- Nguồn vốn nội bộ
Tuy nhiên việc huy động vốn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau
11
hay đó chính là các ràng buộc như:
- Hình thức pháp lý của doanh nghiệp: một doanh nghiệp nhà nước khi
huy động vốn phải chịu sự ràng buộc của các văn bản quản lý Nhà nước về tỷ
lệ vốn huy động tối đa hay doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu
hạn không được phát hành cổ phiếu...
- Sự vững mạnh về tình hình tài chính nói chung và khả năng thanh toán
nói riêng của doanh nghiệp là những điều kiện mà chủ doanh nghiệp xem xét
vấn đề huy động vốn của doanh nghiệp mình.
- Chiến lược kinh doanh quyết định cầu về vốn và từ đó ảnh hưởng đến
lượng vốn huy động cần thiết của doanh nghiệp.
Vì vậy tuỳ từng đặc điểm của doanh nghiệp ở từng thời kì mà lựa chọn các
nguồn vốn huy động khác nhau.
2. Cách thức huy động vốn
2.1 Tự cung ứng
- Khấu hao tài sản cố định: việc xác định mức khấu hao cụ thể phụ thuộc
vào thực tiễn sử dụng tài sản cố định cũng như ý muốn chủ quan của con
người. Đối với doanh nghiệp nhà nước trong chừng mực nhất định phải phụ
thuộc vào nhà nước. Trong chính sách tài chính của mình, doanh nghiệp có thể
lựa chọn và điều chỉnh khấu hao tài sản cố định và coi đây là một nguồn cung
ứng vốn bên trong của mình.
-Tích luỹ tái đầu tư: phụ thuộc vào hai nhân tố cụ thể là tổng số lợi nhuận
thu được trong từng thời kì kinh doanh và chính sách phân phối lại lợi nhuận
sau thuế của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà nước toàn bộ lợi nhuận
thu được sẽ phải sử dụng cho các khoản như:
+ Nộp tiền sử dụng vốn ngân sách nhà nước theo quy định
+ Trả các khoản theo quy định như:
• Trả lương công nhân

• Nộp thuế thu nhập doanh nghiệp...
12
+ Thiết lập các quỹ đặc biệt
- Điều chỉnh cơ cấu tài sản: Phương thức này tuy không làm tăng tổng số
vốn sản xuất- kinh doanh nhưng lại có tác dụng lớn trong việc tăng vốn cho các
hoạt động cần thiết trên cở sở giảm vốn những nơi không cần thiết.
2.2 Phương thức cung ứng từ bên ngoài
2.2.1.Cung ứng từ ngân sách nhà nước
Với hình thức này doanh nghiệp sẽ nhận được lượng vốn xác định từ ngân
sách nhà nước cấp. Thông thường hình thức này không đòi hỏi nhiều điều kiện
đối với doanh nghiệp được cung cấp như các hình thức huy động khác. Tuy
nhiên, hình thức này càng bị thu hẹp cả về quy mô và phạm vi được cấp. Hiện
nay đối tượng hưởng hình thức này là doanh nghiệp nhà nước, các dự án đầu tư
ở những lĩnh vức sản xuất hàng hoá công cộng, hoạt động công ích mà tư nhân
không muốn hoặc không có khả năng làm.
2.2.2.Vay vốn của các ngân hàng thương mại
Đây là mối quan hệ giữa bên đi vay và bên cho vay. Với hình thức này
doanh nghiệp có thể huy động một lượng vốn lớn, đúng hạn và có thể mời các
doanh nghiệp khác cùng tham gia thẩm định dự án nếu có nhu cầu vay vốn lớn
để đầu tư. Nếu doanh nghiệp vay tiền của ngân hàng thương mại có thể bị ngân
hàng kiểm soát các hoạt động kinh doanh trong thời gian cho vay.
2.2.3. Tín dụng từ nhà cung cấp (tín dụng thương mại)
Đây là quan hệ mua bán trao đổi giữa các doanh nghiệp. Thông thường sự
trao đổi giữa các doanh nghiệp không kết thúc tại một điểm, tức là có sự chênh
lệch về mặt thời gian giữa dòng tài chính và dòng vật chất. Trong thực tế luôn
diễn ra đồng thời quá trình doanh nghiệp nợ khách hàng tiền và chiếm dụng
tiền của khách hàng. Nếu tiền doanh nghiệp chiếm dụng của khách hàng nhiều
hơn số tiền của doanh nghiệp bị chiếm dụng thì số tiền dôi ra sẽ mang bản chất
của tín dụng thương mại hay tín dụng nhà cung cấp.
Đây là hình thức tín dụng ngắn hạn quan trọng đặc biệt đối với doanh

13
nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp trong thời kì tăng trưởng.
2.2.4.Gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu
Đây là phương thức mà doanh nghiệp được cung ứng vốn trực tiếp từ thị
trường chứng khoán. Như ta đã biết ở trên thị hình thức này làm tăng vốn
nhưng không làm tăng các khoản nợ bởi lẽ những người sở hữu cổ phiếu trở
thành cổ đông là người chủ của doanh nghiệp . Vì vậy hình thức này có thể coi
là nguồn cung nội bộ.
Tuy nhiên chỉ công ty quy mô vốn lớn mới được phát hành và phải tuân
thủ theo Luật doanh nghiệp và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
2.2.5.Vay tiền bằng cách phát hành trái phiếu trên thị trường vốn:
Đây là hình thức cung ưng vốn trực tiếp từ công chúng. Doanh nghiệp
phát hành lượng vốn cần thiết dưới hình thức trái phiếu sau đó bán cho công
chúng , Đặc trưng cơ bản của hình thức này là tăng vốn gắn với tăng nợ. Một
số ưu điểm và hạn chế của hình thức này :
- Ưu điểm: có thể huy động được lượng vốn cần thiết, chi phí sử dụng
vốn thấp hơn so với vay ngân hàng, không bị người cung ứng kiểm soát chặt
chẽ như vay ngân hàng và doanh nghiệp khác.
- Hạn chế: đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm chắc kĩ thuật tài chính để tránh
áp lực nợ đến hạn và vẫn có lợi nhuận khi lạm phát cao. Chi phí kinh doanh
phát hành trái phiếu là khá cao vì doanh nghiệp cần có sự giúp đỡ của ngân
hàng thương mại. Doanh nghiệp nào thoả mãn các điều kiện của pháp luật mới
được phát hành trái phiếu.
2.3Liên doanh, lên kết
Với cách thức này doanh nghiệp liên doanh, liên kết với một hoặc một số
doanh nghiệp khác nhằm tạo ra vốn cho hoạt động của doanh nghiệp nào đó.
-Ưu điểm: doanh nghiệp sẽ có một lượng vốn cần thiết cho một số hoạt
động mà không tăng thêm nợ.
- Nhược điểm: các bên liên doanh cùng tham gia liên doanh và cùng chia
14

nhau lợi nhuận thu được.
* Thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI:
Với phương thức này doanh nghiệp không chỉ nhận được vốn mà còn
nhận được cả kỹ thuật- công nghệ cũng như phương thức quản trị tiên tiến và
cũng được chia sẻ thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên huy động vốn theo kiểu này
phải chịu sự kiểm soát điều hành của doanh nghiệp nước ngoài và phụ thuộc
vào tỷ lệ vốn góp.
2.4 Huy động từ nguồn vốn ODA
Hình thức cấp vốn ODA có thể là hình thức viện trợ không hoàn lại hoặc
cho vay với điều kiện ưu đãi lãi suất và thời hạn thanh toán. Hình thức này có
chi phí sử dụng vốn thấp. Tuy nhiên để nhận được nguồn vốn này các doanh
nghiệp phải chấp nhận thủ tục chặt chẽ. Đồng thời doanh nghiệp phải có điều
kiện làm việc với các cơ quan Chính phủ và các chuyên gia nước ngoài.
3 .Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn.
3.1 Thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp
Trước hết cần xem lại tình trạng tài chính của doanh nghiệp tại thời
điểm cần huy động vốn bằng việc tính toán một số chỉ tiêu tài chính căn bản
như: chỉ số nợ, chỉ số hoạt động, chỉ số doanh lợi. Đồng thời tính toán lại các
chỉ tiêu theo phương án huy động khác nhau. Trên cơ sở đó khẳng định mục
tiêu, phương án cụ thể.
3.2 Lãi suất
Lãi suất được coi là chi phí của việc sử dụng vốn. Nó có ảnh hưởng trực
tiếp tới việc huy động vốn của doanh nghiệp đặc biệt đối với các khoản vốn
vay. Nếu lãi suất tăng cao làm cho chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp tăng
dẫn đến lợi nhuận thu được giảm, doanh nghiệp sẽ ngại vay vốn để đầu tư sản
xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu mức lãi suất thấp sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn do chi phí sử dụng vốn thấp.
3.3 Chủ các nguồn tài chính:
15
Nghiên cứu tỉ mỉ các nguồn tài chính( chủ nợ) cũng là một sự cân nhắc rất

quan trọng. Nếu đó là ngân hàng, các tổ chức tài chính thì tiềm lực sức mạnh
kinh doanh của họ là một bảo đảm cần thiết trong trường hợp doanh nghiệp cần
kéo dài thời hạn các khoản nợ vì một lí do nào đó. Hơn nữa cũng cần xem xét
động cơ tham gia vào nguồn tài chính doanh nghiệp của họ.
3.4 Quyết định huy động nguồn vốn
Đây là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp, do vậy trước hết cần tập
trung nghiên cứu và khai thác triệt để các biện pháp quản trị khả thi đối với
nguồn huy động. Điều này có ý nghĩa to lớn đối với doanh nghiệp đang trong
tình trạng khó khăn về tài chính, khả năng thanh toán thấp.
3.5 Kế hoạch huy động tài chính cho chi trả
Nguồn tài chính huy động hôm nay sẽ phải thanh toán chi trả khi đáo hạn
(đối với những khoản vay) do đó doanh nghiệp cần phải có kế hoạch huy động
thanh toán, chi trả.
4. Vai trò của huy động vốn
Chúng ta đã phân tích về vai trò rất quan trọng của vốn ở trên, nhưng
không phải lúc nào vốn cũng có sẵn để sử dụng. Doanh nghiệp muốn đầu tư
mở rộng sản xuất kinh doanh mà không đủ vốn họ sẽ phải huy động nhiều
nguồn khác nhau bằng nhiều cách thức khác nhau.Lúc này huy động vốn giúp
bù đắp phần vốn còn thiếu của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có đủ tiềm lực
kinh tế để thực hiện các hoạt động đầu tư.. Thực tế cho thấy không một doanh
nghiệp nào có đủ khả năng tài chính mà có thể thực hiện tất cả các hoạt động
đầu tư của mình. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì việc đầu tư kinh
doanh hoặc mở rộng sản xuất là điều tất yếu. Nếu khi thực hiện các hoạt động
đầu tư mà không huy động vốn kịp thời sẽ gây nên đình trệ và lãng phí vốn của
doanh nghiệp. Hơn nữa, khi huy động vốn bằng phương thức tín dụng thương
mại cũng là một cách thức quan trọng làm tăng thêm mối quan hệ giữa các
doanh nghiệp với nhau. Đôi khi một doanh nghiệp dù vẫn đủ vốn để thực hiện
16
các hoạt động của mình nhưng họ vẫn thực hiện hình thức huy động vốn bằng
phương thức tín dụng thương mại. Điều này là cơ sở giúp họ giữ được các mối

quan hệ với những doanh nghiệp khác
III. VẤN ĐỀ SỬ DỤNG VỐN CÓ HIỆU QUẢ:
1. Quan điểm về sử dụng vốn có hiệu quả trong các doanh nghiệp
hiện nay
Trong điều kiện sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường,để tồn tại và
phát triển đòi hỏi doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi. Để đạt được kết quả cao
nhất trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải đưa ra
phương hướng mục tiêu đầu tư, biện pháp sử dụng các điều kiện có sẵn về các
nguồn lực như: vốn, nguồn nhân lực, vật lực... Muốn vậy, các doanh nghiệp
cần nắm được các nhân tố ảnh hưởng, mức độ và xu hướng tác động của từng
nhân tố đến kết quả kinh doanh. Điều này chỉ thực hiện được trên cơ sở phân
tích và sử dụng hợp lí các nguồn sẵn có trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Như chúng ta đã biết mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp đều nằm
trong thế liên hoàn với nhau. Bởi vậy, chỉ có tiến hành phân tích hoạt động sản
xuất kinh doanh một cách toàn diện mới có thể giúp cho các doanh nghiệp
đánh giá đầy đủ và sâu sắc trong hoạt động kinh tế trong trạng thái thực của
chúng trên cơ sở đó, nêu lên một cách tổng hợp về trình độ hoàn thành các mục
tiêu và được biểu hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật, tài chính của doanh
nghiệ. Đồng thời, phân tích sâu sắc các nguyên nhân hoàn thành và không hoàn
thành các chỉ tiêu đó trong sự tác động lẫn nhau giữa chúng. Từ đó, ta có thể
đánh giá đầy đủ mặt mạnh, mặt yếu trong công tác quản lí của doanh nghiệp.
Mặt khác, qua phân tích kinh doanh, giúp cho các doanh nghiệp tìm biện pháp
sát thực để tăng cường hoạt động kinh tế và quản lí doanh nghiệp nhằm phát
huy mọi khả năng tiềm tàng về vốn, lao động, đất đai ... trong quá trình sản
xuất kinh doanh. Một trong những yếu tố không thể thiếu được chính là công tác
quản lí vốn một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, các doanh nghiệp muốn hoạt động
17
và sử dụng các nguồn vốn có hiệu quả thì phải đảm bảo một số điều kiện sau:
- Phải khai thác các nguồn vốn một cách triệt để (tức là đồng vốn phải
luân chuyển trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp).

- Phải sử dụng hợp lí và tiết kiệm.
- Phải có phương pháp quản lí vốn một cách có hiệu quả ( không để nguồn
vốn bị chiếm dụng, sử dụng sai mục đích).
Ngoài ra doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích, đánh giá hiệu quả sử
dụng vốn để nhanh chóng có biện pháp khắc phục những hạn chế và phát huy
những ưu điểm của doanh nghiệp trong quản lí, sử dụng và huy động vốn.
Có hai phương pháp để phân tích tài chính cũng như hiệu quả sử dụng vốn
của doanh nghiệp, đó là phương pháp phân tích so sánh và phân tích tỉ lệ:
* Phân tích so sánh:
So sánh là một trong hai phương pháp được sử dụng phổ biến trong hoạt
động phân tích để xác định xu hướng, mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích.
Vì vậy, để tiến hành so sánh và phân tích, giải quyết những vấn đề cơ bản như
xác định gốc để so sánh, xác định điều kiện so sánh, mục tiêu so sánh và cần
thoả mãn một số điều kiện như: thống nhất về thời gian,không gian, nội dung,
tính chất và đơn vị tính...Xác định gốc để so sánh phụ thuộc vào vào mục đích
cụ thể, nhưng thông thường chọn gốc là gốc thời gian hoặc không gian, kỳ
phân tích được chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể lựa
chọn là số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân, nội dung so sánh bao
gồm:
- Khi so sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ
được xu hướng phát triển tài chính của doanh nghiệp nhằm đánh giá chính xác
sự tăng, giảm về tài chính của doanh nghiệp để kịp thời đưa ra các phương
pháp khắc phục.
- So sánh giữa số thực hiện và số kế hoạch để thấy được sự phấn đấu của
doanh nghiệp.
18
- So sánh số liệu của doanh nghiệp với số liệu của ngành, của các doanh
nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp
- So sánh chỉ tiêu dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng
thể, so sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số

tương đối và số tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua niên độ kế toán liên tiếp.
* Phương pháp tỷ lệ:
Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài
chính. Về nguyên tắc thì phương pháp tỷ lệ đòi hỏi phải xác định được các
ngưỡng, các định mức để nhận xét, để đánh giá tình hình tài chính của doanh
nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với tỷ lệ tham chiếu.
Trong phân tích tài chính của doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân
tích thành các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn và
nguồn vốn, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời. Trong mỗi trường hợp khác nhau,
tuỳ theo giác độ phân tích người ta có thể sử dụng các nhóm chỉ tiêu khác nhau
2. Hiệu quả và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
2.1: Khái niệm về hiệu quả sử dụng vốn
a. Khái niệm.
Hiệu quả sử dụng vốn là một phạm trù kinh tế phản ánh chất lượng của
hoạt động sử dụng vốn vào giải quyết một nhu cầu nhất định trong phát triển
sản xuất (đầu tư phát triển) và hoạt động sản xuất kinh doanh.
Về mặt lượng, hiệu quả sử dụng vốn thể hiện ở mối tương quan giữa kết
quả thu được từ hoạt động bỏ vốn đó mang lại với lượng vốn bỏ ra. Mối tương
quan đó thường được biểu hiện bằng công thức :
Dạng thuận Kết quả
H=
Vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này dùng để xác định ảnh hưởng của hiệu quả sử dụng vốn đến
kết quả kinh tế.
19
Dạng nghịch:
vốn kinh doanh
E=
Kết quả
Chỉ tiêu này là cơ sở xác định quy mô tiết kiệm hay lãng phí nguồn lực.

Về mặt định tính hiệu quả sử dụng vốn thể hiện trình độ khai thác, quản lý
và sử dụng vốn của doanh nghiệp.
b. Phân loại hiệu quả sử dụng vốn
- Hiệu quả toàn bộ và hiệu bộ phận
Hiệu quả toàn bộ thể hiện mối tương quan giữa kết quả thu được với tổng
số vốn bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Nó phản ánh hiệu quả
sử dụng vốn chung của doanh nghiệp.
Còn hiệu quả bộ phận cho thấy mối tương quan giữa kết quả thu được với
từng bộ phận vốn( vốn của chủ sở hữu, vốn cố định, vốn lưu động). Việc tính
toán, phân tích này chỉ cho chúng ta thấy hiệu quả sử dụng từng loại vốn của
doanh nghiệp và ảnh hưởng của chúng đối với hiệu quả sử dụng vốn chung
trong doanh nghiệp. Về nguyên tắc hiệu quả toàn bộ phụ thuộc vào hiệu quả bộ
phận.
- Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh.
Hiệu quả tuyệt đối được tính bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt
đối hoặc so sánh tương quan các đại lượng thể hiện chi phí hoặc kết quả của
các phương án, năm với nhau.
2.2 Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
Nhóm chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
Tình hình tài chính của doanh nghiệp thể hiện khá rõ nét qua các chỉ tiêu
về hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Nó thể hiện mối quan hệ giữa kết quả
kinh doanh trong kỳ và số vốn bình quân. Ta có thể sử dụng các chỉ tiêu sau:
20
ROA- Đây là một chỉ số thể hiện tương quan giữa mức sinh lợi của một
công ty so với tài sản của nó. ROA sẽ cho ta biết hiệu quả của công ty trong
việc sử dụng tài sản để kiếm lời. ROA được tính bằng cách chia thu nhập hàng
năm cho tổng tài sản, thể hiện bằng con số phần trăm.Công thức tính như sau:
Thu nhập ròng
ROA=
Tổng tài sản

Tài sản của một công ty thì được hình thành từ vốn vay và vốn chủ sở
hữu. Cả hai nguồn vốn này được sử dụng để tài trợ cho các hoạt động của công
ty. Hiệu quả của việc chuyển vốn đầu tư thành lợi nhuận được thể hiện qua
ROA. ROA càng cao thì càng tốt vì công ty đang kiếm được nhiều tiền hơn
trên lượng đầu tư ít hơn
ROE: Hệ số thu nhập trên vốn cổ phần, phản ánh mức thu nhập ròng trên
vốn cổ phần của cổ đông (hay trên giá trị tài sản ròng hữu hình). Công thức
tính :
Lợi nhuận ròng
ROE =
Vốn cổ phần
Chỉ số này là thước đo chính xác nhất để đánh giá một đồng vốn bỏ ra và
tích lũy được tạo ra bao nhiêu đồng lời. Hệ số này thường được các nhà đầu tư
phân tích để so sánh với các cổ phiếu cùng ngành trên thị trường, từ đó tham
khảo khi quyết định mua cổ phiếu của công ty nào. Tỷ lệ ROE càng cao càng
chứng tỏ công ty sử dụng hiệu quả đồng vốn của cổ đông, có nghĩa là công ty
đã cân đối một cách hài hòa giữa vốn cổ đông với vốn đi vay để khai thác lợi
thế cạnh tranh của mình trong quá trình huy động vốn, mở rộng quy mô. Cho
nên hệ số ROE càng cao thì các cổ phiếu càng hấp dẫn các nhà đầu tư hơn.
21
2.3.Hiệu quả sử dụng vốn toàn bộ của doanh nghiệp
D
Hv =
V
Trong đó: Hv: Hiệu quả sử dụng vốn toàn bộ của doanh nghiệp
D: Doanh thu thuần của doanh nghiệp
V: Toàn bộ vốn sử dụng bình quân trong kỳ.
Vốn doanh nghiệp được chia thành vốn cố định và vốn lưu động. Do đó ta
có các chỉ tiêu cụ thể sau:
2.3.1Hiệu quả sử dụng vốn cố định

D
Hvcd =
Vcd
Trong đó: Hvcd: HIệu quả sử dụng vốn cố định
Vcd: Vốn cố định bình quân trong kì
2.3.2Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
D
H
VLD
=
V
LD
Trong đó: Hvld: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Vld : Vốn lưu động bình quân sử dụng trong kỳ
Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn cho biết: một đồng vốn của doanh
nghiệp sử dụng bình quân trong kỳ làm ra bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu
này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp càng cao, đồng
thời chỉ tiêu này còn cho biết doanh nghiệp muốn nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn thì phải quản lí chặt chẽ và tiết kiệm về nguồn vốn hiện có của mình.
2.3.3 Tỷ suất lợi nhuận
Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động kinh
22
doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, để phản ánh chính xác hơn ta cần xem xét
đến cả số tuyệt đối và số tương đối thông qua việc so sánh giữa tổng số vốn bỏ
ra với số lợi nhuận thu được trong kỳ.
Các chỉ tiêu phản ánh tỷ suất lợi nhuận
* Tỷ suất lợi nhuận của toàn bộ vốn kinh doanh

LNST
T

LN

VKD
= × 100

VKD
Trong đó: T
LN

VKD
: Tỷ suất lợi nhuận tổng vốn kinh doanh

LNST:
Tổng lợi nhuận sau thuế trong kỳ

VKD:
tổng vốn kinh doanh bình quân trong kỳ
* Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động ∑
LNST
T
LNVLD
=

VLD
Trong đó: T
LNVLD:
Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động

VLD:
tổng vốn kinh doanh bình quân trong kì


LNST
:
Tổng lợi nhuận sau thuế trong kỳ
*Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định

LNST
T
LNV
CD
= × 100

VCD
Trong đó: ∑
CD:
tổng vốn cố định bình quân trong kỳ
T
LNV
CD
: tỷ suất lợi nhuận vốn cố định.
Các chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng vốn kinh doanh trong kỳ của doanh
23
nghiệp thì đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận
2.3.4 Một số chỉ tiêu khác phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động của
doanh nghiệp
* Tốc độ luân chuyển vốn lưu động.
Là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ tổ chức, quản lí và
hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nó bao gồm các chỉ tiêu sau:
- Số vòng quay của vốn lưu động trong kỳ: Là số lần luân chuyển vốn
trong kỳ và được tính như sau: D

C =
V
ld
Trong đó: C là số vòng quay lưu động
D- doanh thu thuần trong kỳ
V
ld
- vốn lưu động bình quân trong kỳ
- Số ngày luân chuyển: Là số ngày thực hiện một vòng quay vốn lưu động

T T×V
LD

N = =
C D
Trong đó :
N- Số ngày luân chuyển của một vòng quay vốn lưu động.
T- Số ngày đảm nhiệm
- Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động:
V
LD

H =
D
Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra được một đồng doanh thu thì doanh
nghiệp bỏ ra bao nhiêu đồng vốn lưu động.
24
4. Phân tích tình hình và khả năng thanh toán
+ Phân tích tình hình thanh toán: Là xem xét mức độ biến thiên của các
khoản thu, phải trả để từ đó tìm ra nguyên nhân của các khoản nợ đến hạn chưa

đòi được hoặc nguyên nhân của việc tăng các khoản nợ đến hạn chưa đòi được.
+ Phân tích khả năng thanh toán: Khả năng thanh toán của doanh nghiệp
phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các khoản phải thanh toán trong kỳ.
Nhóm chỉ tiêu này bao gồm các chỉ tiêu sau:
Tài sản lưu động
Hệ số thanh toán ngắn hạn =
Nợ ngắn hạn
Vốn bằng tiền
Hệ số thanh toán tức thời =
Nợ đến hạn
Vốn bằng tiền+ các khoản phải thu
Hệ số thanh toán =
Nợ ngắn hạn
25

×