Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty cổ phần thủy sản 584 nha trang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 102 trang )


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ như ngày
hôm nay thì sự cạnh tranh được coi là yếu tố khắc nghiệt nhất, tình trạng “cá lớn
nuốt cá bé” xảy ra là điều không thể tránh khỏi. Các doanh nghiệp không chỉ cạnh
tranh với nhau trong quốc gia mà còn phải cạnh tranh với các công ty nước ngoài.
Mặt khác, kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức Thương Mại Thế
Giới (WTO) thì đã có rất nhiều tập đoàn kinh tế nước ngoài với tiềm lực về con
người, tài chính, quản lý…luôn tìm cách chiếm lĩnh thị trường đầy tiềm năng và
rất béo bở này. Các doanh nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp nước
ngoài kinh doanh tại Việt Nam luôn tìm kiếm cho mình những cơ hội kinh doanh
mới. Tuy nhiên, để thực hiện tất cả các mục tiêu đó không phải là điều đơn giản,
đôi khi phải trả những cái giá rất đắt, thậm chí có thể thất bại dẫn đến phá sản.
Nhưng cạnh tranh cũng mang lại lợi ích không nhỏ cho các công ty như: giúp tìm
ra những chiến lược phù hợp với thực trạng của công ty, không ngừng cải tiến kỹ
thuật, chủ động và linh hoạt trong sản xuất. Từ đó có thể nâng cao sức cạnh tranh,
giành lấy ưu thế trên thị trường.
Và ngành thủy sản cũng không nằm ngoài quy luật đó, đối với lĩnh vực sản
xuất nước mắm hiện nay thì sự cạnh tranh hầu như chỉ có các doanh nghiệp trong
nước với nhau. Ở Khánh Hòa, nghề làm nước mắm đã có cách đây hàng trăm năm
và đã có nhiều vùng làm nước mắm có tiếng trong tỉnh như là Bình Ba, Bình
Hưng, Cam Linh ở Cam Ranh; Cửa Bé, Chụt ở Nha Trang. Tại Nha Trang ngoài
một số doanh nghiệp mạnh như: Công ty Cổ phần Thủy Sản 584 Nha Trang,
doanh nghiệp tư nhân Chín Tuy, Châu Sơn,…thì nhiều doanh nghiệp cũng đang
dần chiếm lĩnh thị trường, nên sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt hơn. Tuy
nước mắm Nha Trang đã có thương hiệu của mình nhưng do không có sự kiểm
soát chặt chẽ, tình trạng hàng thật, hàng giả trôi nổi ngoài thị trường đã ảnh hưởng
nghiêm trọng đến thương hiệu nước mắm Nha Trang.
Nhận thấy được thực tế này và qua quá trình thực tập tìm hiểu tại Công ty Cổ


phần Thủy sản 584 Nha Trang. Em đã xây dựng đề tài: “Một số biện pháp nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh tại Công ty Cổ phần Thủy sản 584 Nha Trang”

2
làm đồ án tốt nghiệp của mình. Để từ đó đưa ra những biện pháp nhằm góp phần
nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của công ty ở hiện tại và tương lai.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu chung: “Một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh tại Công
ty Cổ phần Thủy sản 584 Nha Trang”
Để thực hiện mục tiêu đó, đề tài khi nghiên cứu thực hiện một số mục tiêu cụ thể
sau:
- Tổng quan lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh.
- Đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh tại Công ty Cổ phần Thủy sản 584
Nha Trang
- Dựa vào kết quả phân tích thực trạng nhằm kiến nghị một số biện pháp chủ
yếu nâng cao năng lực cạnh tranh tại Công ty Cổ phần Thủy sản 584 Nha Trang.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để thực hiện những mục tiêu cụ thể đề ra, đề tài sử dụng những phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp thu thập và tổng hợp dữ liệu để đưa ra những cơ sở lý thuyết
về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh.
- Phương pháp thống kê, phân tích và so sánh… thông qua các phương pháp
này việc đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty sẽ được thể hiện qua các bảng
số liệu, từ đó đem lại kết quả đánh giá chính xác năng lực cạnh tranh của công ty.
- Phương pháp điều tra, phỏng vấn các chuyên gia để làm rõ năng lực cạnh
tranh của công ty so với các đối thủ cạnh tranh chính.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Cán bộ công nhân viên trong công ty, khách hàng của
công ty và một số khách hàng của đối thủ cạnh tranh.
- Phạm vi nghiên cứu: Công ty Cổ phần Thủy sản 584 Nha Trang.

5. Nguồn tƣ liệu: Trong khóa luận sử dụng các nguồn số liệu sau:
+ Nguồn số liệu thứ cấp:
- Số liệu về tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh do phòng tài
chính- kinh doanh của công ty cung cấp.

3
- Số liệu về cơ cấu tổ chức, lao động và các chính sách liên quan đến người lao
động do phòng nhân sự của công ty cung cấp.
- Số liệu về hoạt động Marketing do phòng Marketing cung cấp
- Một số số liệu khác có liên quan được thu thập từ các website
+ Nguồn số liệu sơ cấp:
- Số liệu từ điều tra, phỏng vấn cán bộ nhân viên trong công ty.
6. Đóng góp của đề tài
- Về mặt lý luận: Đề tài góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về cạnh tranh và
năng lực cạnh tranh tại Công ty Cổ phần Thủy sản 584 Nha Trang.
- Về mặt thực tiễn:
Đề tài này sẽ giúp cho Ban lãnh đạo công ty có cái nhìn khái quát hơn về đối
thủ cạnh tranh trực tiếp và nhận thức được năng lực cạnh tranh của công ty, cũng
như xác định được điểm mạnh, điểm yếu, các cơ hội và thách thức mà công ty có
thể gặp phải trong quá trình kinh doanh. Từ đó có những biện pháp để nâng cao
năng lực cạnh tranh của công ty.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo thì bài luận gồm có 3
chương như sau:
Chương I: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh.
Chương II: Thực trạng về năng lực cạnh tranh tại Công ty Cổ phần Thủy sản
584 Nha Trang.
Chương III: Một số biện pháp nhằm nâng cao năng lực canh tranh tại Công
ty Cổ phần Thủy sản 584 Nha Trang.










4
CHƢƠNG I
TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH
1.1 Lý thuyết về cạnh tranh
1.1.1 Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh nói chung, cạnh tranh trong kinh tế nói riêng là một khái niệm có
nhiều cách hiểu khác nhau. Khái niệm này được sử dụng cho cả phạm vi doanh
nghiệp, phạm vi ngành hoặc phạm vi quốc gia vv… điều này chỉ khác nhau ở mục
tiêu được đặt ra là ở quy mô doanh nghiệp hay quốc gia mà thôi. Trong khi đó đối
với một doanh nghiệp, mục tiêu chủ yếu là tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận, còn đối
với một quốc gia mục tiêu là nâng cao mức sống và phúc lợi cho nhân dân vv…
Theo K. Marx; “Cạnh tranh là sự ganh đua đấu tranh gay gắt giữa các nhà
tư bản nhằm dành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng
hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch”.
Theo từ điển kinh doanh (xuất bản năm 1992 ở Anh) thì cạnh tranh trong cơ
chế thị trường được định nghĩa là: “sự ganh đua, kình địch giữa các nhà kinh
doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc
cùng một loại khách hàng về phía mình”.
Hai nhà kinh tế học Mỹ P.A Samuelson và W.D.Nordhaus trong cuốn kinh tế
học (xuất bản lần thứ 12) cho rằng “Cạnh tranh là sự kình địch giữa các doanh
nghiệp cạnh tranh với nhau để dành khách hàng hoặc thị trường”. Hai tác giả này

cho cạnh tranh đồng nghĩa với cạnh tranh hoàn hảo.
Với những quan niệm trên, phạm trù cạnh tranh được hiểu là: quan hệ kinh
tế, ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn
thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường,
giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục
đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi
ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi
ích tiêu dùng và sự tiện lợi.
1.1.2 Các loại hình cạnh tranh
Dựa vào các tiêu thức khác nhau, cạnh tranh được phân ra thành nhiều loại

5
* Căn cứ vào tính chất cạnh tranh: Cạnh tranh được phân làm 2 loại:
- Cạnh tranh hoàn hảo (Perfect Competition): là hình thức cạnh tranh mà ở
đó có nhiều người bán và người mua, giá cả, số lượng hàng hóa sẽ do quan hệ
cung- cầu trên thị trường quyết định. Các sản phẩm bán ra trên thị trường đều phải
đồng nhất với nhau. Khi hoạt động trong thị trường này các doanh nghiệp phải bán
sản phẩm của mình theo giá thị trường.
- Cạnh tranh không hoàn hảo (Imperfect Competition): Đây là hình thức
cạnh tranh chiếm ưu thế trong các ngành sản xuất kinh doanh, là hình thức cạnh
tranh giữa những người bán có các sản phẩm không đồng nhất với nhau, mỗi sản
phẩm đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau. Ở đó các nhà sản xuất đủ mạnh để
chi phối thị trường.
- Cạnh tranh độc quyền (Monopolisic Competition): Trên thị trường chỉ có
một hoặc một số ít người bán một sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó, giá cả của sản
phẩm hoặc dịch vụ đó trên thị trường sẽ do họ quyết định không phụ thuộc vào
quan hệ cung cầu
* Căn cứ vào chủ thể tham gia cạnh tranh: Cạnh tranh được phân làm ba loại:
- Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: Là cuộc cạnh tranh nhằm
giành giật khách hàng và thị trường, kết quả là giá cả giảm xuống và có lợi cho

người mua. Trong giai đoạn này một số doanh nghiệp buộc phải rút lui khỏi thị
trường, nhường thị phần của mình cho các đối thủ mạnh hơn.
- Cạnh tranh của những người mua với nhau: Thường thì đây là cuộc cạnh
tranh trong khai thác các yếu tố đầu vào, mức độ cạnh tranh phụ thuộc vào quan hệ
cung-cầu trên thị trường. Khi cung nhỏ hơn cầu thì cuộc cạnh tranh trở nên gay
gắt, giá cả hàng hóa và dịch vụ sẽ tăng lên, người mua sẽ thể hiện các lợi thế của
mình như là khả năng tài chính, uy tín và các điều kiện khác, người bán sẽ so sánh
các lợi ích mà những người mua mang lại cho mình. Người mua nào mang lại lợi
ích cao nhất sẽ được chọn. Cạnh tranh này thường mang lại nhiều lợi ích cho
người bán.
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Cạnh tranh diễn ra theo qui luật
mua rẻ bán đắt. Người bán luôn muốn bán sản phẩm của mình với giá cao, còn
người mua lại muốn mua sản phẩm của mình với giá thấp. Sự cạnh tranh được thể

6
hiện trong quá trình thương lượng, mặc cả với mức giá mà cả hai bên đều cho là
mình có lợi để đi đến quyết định mua bán.
* Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế: Cạnh tranh được phân thành hai loại:
- Cạnh tranh giữa các ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các nhà sản xuất, kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm thu lợi nhuận
cao nhất. Sự cạnh tranh giữa các ngành dẫn đến việc các doanh nghiệp luôn tìm
kiếm những ngành đầu tư có lợi nhất để chuyển vốn từ ngành đầu tư ít lợi nhuận
sang ngành có lợi nhuận cao.
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trong cùng một ngành, cùng sản xuất cùng kinh doanh một loại hàng hóa hoặc dịch
vụ. Trong một ngành, các doanh nghiệp cạnh tranh mà quy mô và sức mạnh ngang
nhau thì sự cạnh tranh trên thị trường sẽ trở nên gay gắt. Kết quả cuộc cạnh tranh
này làm cho kỹ thuật phát triển
* Căn cứ vào hình thức sử dụng trong cạnh tranh: Phân thành hai loại:
- Cạnh tranh lành mạnh (Healthy Competition): Các chủ thể kinh tế sẽ dùng

những biện pháp cạnh tranh hợp pháp, được xã hội thừa nhận. Cạnh tranh một
cách công bằng và lành mạnh.
- Cạnh tranh không lành mạnh (Unfair Competition): Các chủ thể kinh tế
dùng các thủ đoạn phi pháp nhằm tiêu diệt đối phương bất chấp pháp luật, lương
tâm, đạo đức nghề nghiệp. Hình thức cạnh tranh này trái với chuẩn mực xã hội và
bị xã hội lên án.
1.2 Lý thuyết về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và những đặc điểm
cạnh tranh trong lĩnh vực thủy sản
a. Khái niệm
Thuật ngữ “Năng lực cạnh tranh” được sử dụng rất rộng rãi, nhưng đến nay
vẫn chưa có một định nghĩa, tiêu thức để đo lường rõ ràng. Năng lực cạnh tranh
được định nghĩa trên ba cấp độ khác nhau: năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực
cạnh tranh doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ. Chúng
có mối quan hệ mật thiết với nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Nhưng trong đề tài này
năng lực cạnh tranh dùng để nghiên cứu trong phạm vi doanh nghiệp.

7
Trong một báo cáo về tính cạnh tranh tổng thể của Diễn đàn kinh tế thế giới
(WEF) năm 1997 đã nêu ra: “Năng cạnh tranh của một quốc gia là năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao
trên cơ sở các chính sách, thể chế bền vững tương đối và các đặc trưng kinh
tế khác”.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện khả năng của doanh nghiệp
trong việc duy trì lợi thế cạnh tranh, mở rộng thị phần tạo ra thu nhập và phát triển
bền vững (Tuấn Sơn, 2006, Sức cạnh tranh, Nxb Lao động-Xã hội, Hà Nội).
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa là khả năng sản phẩm đó tiêu
thụ được nhanh chóng khi có nhiều người cùng bán loại sản phẩm đó trên thị
trường. Hay nói một cách khác, năng lực cạnh tranh của sản phẩm được đo bằng
thị phần của sản phẩm đó, năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chất

lượng, giá cả, tốc độ cung ứng, dịch vụ đi kèm, uy tín của người bán, thương hiệu,
quảng cáo, điều kiện mua bán (Tuấn Sơn, 2006, Sức cạnh tranh, Nxb Lao động-Xã
hội, Hà Nội).
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa lại được định đoạt bởi năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp. Sẽ không có năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng
hóa cao trong khi năng lực cạnh tranh của bản thân doanh nghiệp thấp. Đây là hai
cấp độ có phạm trù khác nhau nhưng lại có quan hệ hữu cơ với nhau. Năng lực
cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa có được là do năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp tạo ra, nhưng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ do năng lực
cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa đó mà có, mà nó còn phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố khác nữa.
b. Những đặc điểm cạnh tranh trong lĩnh vực thủy sản
Trong các ngành kinh tế thì ngành thuỷ sản chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong
cơ cấu kinh tế toàn quốc nhưng lại có tốc độ tăng trưởng vượt bậc so với các
ngành kinh tế khác, trung bình giai đoạn 1995-2008 ngành thuỷ sản tăng trưởng
bình quân 13,62%/năm, cao gấp 1,4 lần so với mức tăng trưởng của ngành nông,
lâm nghiệp (theo www.agroviet.gov.vn).
Cũng như các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế thị trường, thì các doanh
nghiệp trong ngành thủy sản luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các đối thủ để

8
tranh giành thị phần lẫn nhau. Nhưng so với các loại hình kinh tế khác, cạnh tranh
trong ngành thủy sản có những đặc thù riêng. Trong đó, chế biến là ngành thu hút
nhiều lao động và tạo ra các sản phẩm liên kết nông - công nghiệp và sản phẩm
cạnh tranh trên thị trường. Theo thời gian các doanh nghiệp chế biến đang từng
bước nâng cao chất lượng, song việc chủ động nguồn nguyên liệu vẫn đang là nỗi
lo. Để tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, trong thời gian qua các doanh nghiệp
chế biến phải nhập một lượng lớn nguyên liệu để sản xuất bên cạnh nguồn nguyên
liệu sẵn có trong nước, mỗi năm các doanh nghiệp chế biến thủy sản phải nhập
khoảng 15.000 tấn nguyên liệu.

Mặt khác, trên thị trường nhiều doanh nghiệp chế biến khác cũng đang rất
cần nguồn nguyên liệu nên việc cạnh tranh về nguồn nguyên vật liệu là vấn đề
không thể tránh khỏi. Các doanh nghiệp không những phải chịu áp lực cạnh tranh
từ các doanh nghiệp trong tỉnh mà còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp ngoài
tỉnh. Bên cạnh việc cạnh tranh trong khâu tìm nguồn nguyên vật liệu thì các doanh
nghiệp còn phải đối đầu với việc cạnh tranh về sản phẩm, giá bán…
Do đó vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp cần phải làm sao để vừa đảm bảo
nguồn nguyên liệu phục vụ cho quá trình sản xuất, mà vẫn đầu tư đổi mới công
nghệ, mở rộng sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm, từ đó mới có thể nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
1.2.2 Các tiêu thức đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong
ngành thủy sản
1.2.2.1 Nhóm các yếu tố đầu vào
 Năng lực tài chính
Vốn là điều kiện tiên quyết cho bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và các doanh nghiệp trong ngành thủy sản cũng không ngoại lệ. Vì
doanh nghiệp cần phải có vốn để mua các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất
như: sức lao động, nguyên vật liệu và tư liệu lao động. Bên cạnh nguồn vốn của
chủ sở hữu thì các doanh nghiệp còn phải huy động rất nhiều từ nguồn vốn vay
bên ngoài, vì vậy mới có thể đảm bảo được hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra
liên tục.

9
Nhưng hiện nay các doanh nghiệp trong ngành thủy sản đang trong tình trạng
cạn vốn, nợ trong - nợ ngoài đều “vướng”, trong khi đó khả năng tiếp cận vốn vay
ngân hàng hiện nay đang bị hạn chế do lãi suất và cơ chế vay vốn còn có nhiều
điểm chưa phù hợp. Nếu các ngân hàng chỉ hướng đến các doanh nghiệp lớn, thì
các doanh nghiệp nhỏ sẽ trông chờ nguồn vốn từ đâu trong khi số lượng doanh
nghiệp nhỏ và vừa lại chiếm một phần rất lớn. Mặc dù, mặt bằng lãi suất cho vay
đã giảm, nhưng việc tiếp cận vốn vay của không ít doanh nghiệp vẫn rất khó khăn.

Những doanh nghiệp có tỷ lệ vốn vay ngân hàng lớn đang có nguy cơ đối mặt với
thua lỗ. Điều này đã đẩy hàng loạt các doanh nghiệp chế biến lâm vào thế bí. Vì
vậy, các doanh nghiệp cần phải cân nhắc trong việc sử dụng nguồn vốn sao cho có
hiệu quả.
Việc sử dụng vốn đạt hiệu quả cao hay thấp thể hiện ở tỷ suất sinh lời, chỉ
tiêu thường được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn là tỷ suất lợi nhuận
trên tổng vốn kinh doanh: Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp thu được bao nhiêu
đồng lợi nhuận trên một đồng vốn bỏ ra, được tính bằng tỷ lệ giữa tổng lợi nhuận
sau thuế chia cho tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ.
+ Công thức tính: H = Tổng lợi nhuận sau thuế / Tổng vốn kinh doanh
+ Nếu chỉ tiêu này thấp hơn đối thủ cạnh tranh chứng tỏ doanh nghiệp đang
gặp khó khăn trong cạnh tranh. Ngược lại, nếu chỉ tiêu này cao hơn so với đối thủ
cạnh tranh có nghĩa là doanh nghiệp đang kinh doanh thuận lợi và có khả năng
cạnh tranh trên thị trường.
 Máy móc thiết bị
Mức độ hiện đại của dây chuyền máy móc thiết bị cũng là yếu tố quan trọng
quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp
chế biến trong ngành thủy sản trước đây, việc vận dụng máy móc thiết bị vào trong
sản xuất còn hạn chế nên đã ảnh hưởng nhiều đến chất lượng của sản phẩm, chưa
tạo ra được những sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Không tận dụng được nguồn
nguyên liệu dư thừa, gây lãng phí làm cho giá trị xuất khẩu thấp. Nhưng dần dần
các doanh nghiệp đã áp dụng máy móc, thiết bị, khoa học công nghệ hiện đại vào
trong sản xuất nên đã giúp cho các doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, tiết
kiệm nguyên vật liệu, giảm chi phí vận hành qua đó nâng cao chất lượng sản

10
phẩm, tạo ra những sản phẩm có giá trị cao và giá thành thấp, góp phần nâng cao
khả năng cạnh tranh trước các đối thủ.
Năng lực sản xuất của máy móc thiết bị lớn sẽ cho phép doanh nghiệp trong
ngành thủy sản khai thác lợi thế kinh tế nhờ quy mô, như vậy giá thành tính cho

một đơn vị sản phẩm sẽ giảm, tăng khả năng cạnh tranh về giá cho doanh nghiệp,
dễ dàng thực hiện mục tiêu phát triển quy mô thị trường. Vì vậy, hiện nay các
doanh nghiệp trong ngành đang đầu tư mở rộng các dây chuyền máy móc, thiết bị
trong sản xuất.
 Bí quyết công nghệ
Hiện nay công nghệ là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của
doanh nghiệp trong ngành thủy sản, đặc biệt là các doanh nghiệp chế biến. Công
nghệ thay đổi nhanh chóng buộc các doanh nghiệp cũng phải không ngừng vận
động sáng tạo mới có thể sống sót. Yếu tố quan trọng nhất của công nghệ là bí
quyết công nghệ. Bí quyết công nghệ tạo ra cho sản phẩm những nét khác biệt và
khả năng thỏa mãn nhu cầu khách hàng cao. Doanh nghiệp càng tạo ra được nhiều
sự khác biệt của sản phẩm so với đối thủ thì doanh nghiệp càng có nhiều ưu thế
trong cạnh tranh. Với sự khác biệt hóa của sản phẩm, doanh nghiệp sẽ tạo được
một hình ảnh riêng của mình trong tâm trí người tiêu dùng mà không thể lẫn với
các đối thủ khác. Vì vậy mỗi doanh nghiệp phải có một bí quyết công nghệ riêng,
để tạo ra những sản phẩm có tính khác biệt hóa so với sản phẩm của các đối thủ
cạnh tranh.
Hiện nay, có nhiều doanh nghiệp đã áp dụng thành công bí quyết công nghệ
của mình vào trong sản xuất. Nhất là các doanh nghiệp chế biến nước mắm, mỗi
doanh nghiệp đều có một bí quyết làm mắm khác nhau, nên nước mắm làm ra đều
mang một hương vị riêng và đã được người tiêu dùng ưa chuộng như: nước mắm
Nha Trang, nước mắm Phú Quốc, nước mắm Nam ngư,…
 Nguồn nhân lực
Lao động được coi là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với mọi hoạt động
của doanh nghiệp. Lực lượng lao động lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất kinh doanh, tăng khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó chất lượng lao động thể hiện ở năng lực lãnh

11
đạo, khả năng đưa ra các quyết định đúng đắn của đội ngũ lãnh đạo, trình độ

chuyên môn nghiệp vụ của người lao động, sự trung thành của nhân viên đối với
doanh nghiệp, khả năng cải tiến máy móc kỹ thuật cũng như không ngừng sáng tạo
ra các đặc tính ưu việt cho sản phẩm.
Đặc biệt trong ngành chế biến (thủy sản) thì sử dụng nhiều lao động và tay
nghề cao, vì nó mang tính chất thủ công nhiều hơn. Do đó doanh nghiệp cần phải
hình thành một cơ cấu lao động tối ưu đảm bảo đủ số lượng, chất lượng lao động
đồng thời phải phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ
công tác giữa các bộ phận và cá nhân với nhau. Bởi vì nó là cơ sở để đảm bảo cho
quá trình sản xuất được tiến hành liên tục, cân đối, nhịp nhàng, đảm bảo nâng cao
hiệu quả trong quá trình sản xuất, từ đó sản phẩm tạo ra vừa đảm bảo chất lượng
vừa thể hiện được sự khéo léo trong từng sản phẩm, vì vậy khả năng chiến thắng
trong cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ được nâng cao.
Để duy trì và đảm bảo cơ cấu lao động tối ưu thì các nhà tuyển dụng cần phải
quan tâm hơn nữa trong công tác tuyển dụng nguồn nhân lực.
 Nguồn nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu là yếu tố rất quan trọng trong quá trình sản xuất của các
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp chế biến thủy sản, nó trực tiếp cấu
thành nên sản phẩm vì vậy chất lượng của nguyên vật liệu sẽ ảnh hưởng trực tiếp
tới chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Do đó, đảm
bảo cả về số lượng, chất lượng, chủng loại nguyên liệu có ảnh hưởng quyết định
đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp nào có nguồn cung cấp nguyên
vật liệu ổn định và chất lượng nguyên vật liệu luôn được bảo đảm thì sản phẩm tạo
ra có chất lượng cao và khả năng cạnh tranh cũng cao.
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), tình
hình xuất khẩu thủy sản đang có tín hiệu tích cực. Từ đầu năm đến giữa tháng 3-
2010, các doanh nghiệp xuất được 208.000 tấn sản phẩm các loại, đạt kim ngạch
698 triệu USD, tăng 20,6% về lượng và 18,6% về giá trị so cùng kỳ năm ngoái
(theo www.saga.vn)
Tuy nhiên có một nghịch lý là trong lúc đầu ra của ngành thuỷ sản đang có
những điều kiện tốt nhất, giá cao, đơn hàng nhiều, nhưng nguồn nguyên liệu trong


12
nước lại đang vơi dần đi do đã qua vụ thu hoạch tại các vùng nguyên liệu. Kèm
theo đó với sự biến động của nền kinh tế như hiện nay thì giá nguyên vật liệu cũng
không ngừng tăng lên.
Do đó việc tính toán lượng nguyên vật liệu dự trữ hợp lý là điều cần thiết đối
với các doanh nghiệp hoạt động trong ngành thủy sản, để đảm bảo cho quá trình
sản xuất diễn ra liên tục với chi phí hợp lý. Bên cạnh đó, thì số vốn bỏ ra để mua
nguyên vật liệu chiếm một tỷ lệ lớn trong vốn lưu động (khoảng 40%-60%), trong
khi đó thì các doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng thiếu vốn. Vì vậy, việc sử
dụng hợp lý tiết kiệm nguyên liệu là biện pháp chủ yếu tiết kiệm chi phí sản xuất,
hạ giá thành, nâng cao lợi nhuận và nâng cao khả năng cạnh tranh, góp phần nâng
cao danh tiếng của doanh nghiệp.
1.2.2.2 Nhóm các yếu tố đầu ra
 Sản phẩm
Sản phẩm luôn đóng một vai trò quan trọng trong cạnh tranh của doanh
nghiệp. Chất lượng sản phẩm tốt, có nhiều điểm khác biệt và thỏa mãn nhu cầu của
khách hàng sẽ có lợi thế rất lớn trong cạnh tranh. Nhưng trong các ngành chế biến
thủy sản thì các sản phẩm thường có tính đồng dạng, do đó các doanh nghiệp cần
phải tạo ra nét khác biệt trong sản phẩm của doanh nghiệp mình so với đối thủ
cạnh tranh. Bên cạnh đó để sản xuất ra sản phẩm có chất lượng, tính năng sử dụng
cao thì đòi hỏi chi phí sản xuất nhiều, vì vậy doanh nghiệp cần phải tính đến chi
phí sản xuất sao cho hợp lý, thể hiện ở chi phí đơn vị của doanh nghiệp.
Nếu chi phí đơn vị của doanh nghiệp thấp thì giá thành trên một đơn vị sản
phẩm giảm, và giá bán sẽ rẻ hơn sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh, như vậy sẽ
giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh về giá của sản phẩm.
Sản phẩm bao gồm chất lượng bên trong, hình thức bên ngoài và nhiều yếu
tố khác nữa. Do đó để đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm cần phải đánh
giá tổng hợp nhiều yếu tố.
 Giá cả

Giá là công cụ cạnh tranh truyền thống được rất nhiều doanh nghiệp sử dụng.
Giá đóng vai trò quyết định trong việc mua hàng đối với người tiêu dùng. Đối với
công ty nó có vị trí quyết định trong cạnh tranh trên thị trường. Việc định giá sản

13
phẩm có ý nghĩa quan trọng đối với doanh nghiệp vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến
doanh số và lợi nhuận.
Sản phẩm trong ngành chế biến thủy sản thường có tính đồng dạng, chất
lượng tương đương nhau, nhưng sản phẩm của doanh nghiệp nào có giá thấp hơn
thì khả năng cạnh tranh sẽ cao hơn. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải đưa ra mức
giá bán sao cho hợp lý. Một mức giá quá thấp có thể làm cho doanh nghiệp bị lỗ,
còn giá quá cao có thể làm cho khách hàng rời bỏ, trừ khi sản phẩm hoặc dịch vụ
của doanh nghiệp đó có thể mang lại cho khách hàng lợi ích đặc biệt mà họ không
thể có được từ các sản phẩm hoặc dịch vụ của nhà cung cấp khác.
Việc định giá bán cho sản phẩm thì có nhiều phương pháp nhưng phải dựa
vào chi phí sản xuất ra sản phẩm, tỷ lệ lợi nhuận mà doanh nghiệp mong muốn đạt
được, quan hệ cung-cầu trên thị trường, giá bán của đối thủ cạnh tranh và chiến
lược giá mà doanh nghiệp áp dụng.
 Kênh phân phối
Kênh phân phối là yếu tố quan trọng trong khâu tiêu thụ sản phẩm. Doanh
nghiệp nào trong ngành thiết lập được hệ thống kênh phân phối hợp lý thì khả
năng cung ứng sản phẩm tới người tiêu dùng sẽ tốt hơn, sản lượng tiêu thụ cao hơn
và khả năng kiểm soát, chi phối thị trường mạnh hơn vì vậy sẽ góp phần nâng cao
năng lực cạnh tranh cho sản phẩm trên thị trường.
Số lượng và vị trí giữa các đại lý phân phối cần được doanh nghiệp xác định
một cách hợp lý và tạo được sự liên kết chặt chẽ giữa các đại lý phân phối sẽ đem
lại hiệu quả cao trong công tác tiêu thụ sản phẩm.
Hiện nay ngày càng có nhiều doanh nghiệp gia nhập vào ngành thủy sản, với
tiềm lực tài chính và con người mạnh, họ đang thiết lập một mạng lưới tiêu thụ
rộng khắp và dần dần chiếm lĩnh thị trường. Vì vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp

trong ngành phải không ngừng hoàn thiện và mở rộng kênh phân phối của mình.
 Thị phần
Thị phần là chỉ tiêu phản ánh tổng quát nhất khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Thông qua sự biến động của chỉ tiêu này mà các doanh nghiệp trong ngành
sẽ biết mình đang ở vị trí nào trên thị trường. Có hai cách tính thị phần:

14
Thị phần thể hiện khả năng chiếm lĩnh, khai phá và thâm nhập thị trường,
đồng thời cũng phản ánh sự phát triển quy mô thị trường của doanh nghiệp. Tuy
nhiên, chỉ tiêu này khó đảm bảo tính chính xác do phạm vi nghiên cứu rộng và
thường xuyên biến động. Chỉ tiêu này bao gồm:
Thứ nhất là thị phần so với toàn bộ thị trường: Được tính bằng tỷ lệ giữa
doanh thu của doanh nghiệp trên tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.
Chỉ tiêu này cho biết vị trí, mức độ ảnh hưởng của doanh nghiệp trên thị trường,
doanh nghiệp có khả năng chi phối thị trường hay chịu sự chi phối của thị trường.
Thứ hai là thị phần so với đối thủ cạnh tranh chính: Chỉ tiêu này tính bằng tỷ
lệ giữa doanh thu tiêu thụ của doanh nghiệp trên doanh thu tiêu thụ của đối thủ
cạnh tranh chính. Nó phản ánh vị trí của doanh nghiệp, sức mạnh cạnh tranh của
doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh chính.
 Hoạt động Marketing
Hoạt động Marketing ngày càng được các doanh nghiệp chú trọng đầu tư
nhiều hơn, nó như là một công cụ cạnh tranh quan trọng. Hoạt động marketing bao
gồm các hoạt động nghiên cứu thị trường, các hoạt động xúc tiến bán hàng như:
quảng cáo, khuyến mãi, quan hệ công chúng và các dịch vụ khách hàng…
Doanh nghiệp nào trong ngành đầu tư nhiều cho hoạt động Marketing thì sản
phẩm của họ sẽ được người tiêu dùng biết đến nhiều, tuy nhiên cùng với việc đầu
tư cho hoạt động Marketing thì xây dựng chiến lược Marketing hợp lý sẽ tạo được
thương hiệu mạnh và sản lượng tiêu thụ cũng cao hơn so với đối thủ, từ đó tạo
được vị thế cạnh tranh mạnh hơn trên thị trường.
Để đầu tư cho các hoạt động này đòi hỏi doanh nghiệp phải có nguồn vốn

lớn. Hiện nay một số doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành thủy sản đang trong
tình trạng thiếu vốn, nên hoạt động Marketing không được đầu tư nhiều. Trong khi
đó thì những doanh nghiệp nào có tiềm lực tài chính mạnh thì họ đầu tư rất nhiều
vào các hoạt động này, nên sản phẩm của họ ngày càng được người tiêu dùng biết
đến và ưa chuộng nhiều.



15
1.2.3 Các nhân tố ảnh hƣởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
trong ngành thủy sản
1.2.3.1 Môi trƣờng vĩ mô
 Môi trường kinh tế
Các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp trong ngành, chủ yếu là: lãi suất, chu kỳ kinh tế, cán cân thanh
toán, chính sách tài chính-tiền tệ, tốc độ tăng của GDP và GNP, lạm phát,…
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, ổn định sẽ làm cho thu nhập của người dân
tăng lên, nhu cầu tiêu dùng cũng từ đó mà nâng lên. Đây là cơ hội để cho các
doanh nghiệp có thể nâng cao năng lực cạnh tranh bằng cách đưa ra những sản
phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu của nền kinh tế.
- Tỷ giá hối đoái tăng hay giảm đều ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong ngành, đặc biệt là những doanh nghiệp liên quan
đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng thủy sản, chủ yếu ngành thủy sản hiện nay
thiên về xuất khẩu. Vì vậy khi tỷ giá hoái đối tăng, đồng ngoại tệ tăng giá sẽ kích
thích xuất khẩu, do đó sẽ làm cho môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn, vì
các doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.
- Lãi suất ngân hàng cũng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp vì các doanh nghiệp trong ngành thủy sản sử dụng nguồn vốn vay nhiều, do
đó khi lãi suất tăng cao thì sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến lợi nhuận của công ty. Bên
cạnh đó, khi lạm phát tăng nhanh thì sẽ ảnh hưởng đến giá cả các yếu tố đầu vào.

Gía cả đầu vào tăng làm tăng giá thành sản phẩm, gây khó khăn cho việc sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất
phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên vật liệu như các doanh nghiệp chế biến nước
mắm, thủy hải sản,…
 Môi trường chính trị-pháp luật
Bao gồm hệ thống các quan điểm, đường lối chính sách của chính phủ, hệ
thống luật pháp hiện hành, các xu hướng chính trị ngoại giao của chính phủ và
những diễn biến chính trị trong nước, trong khu vực và trên toàn thế giới.
Các yếu tố chính trị và pháp luật có ảnh hưởng ngày càng lớn đến hoạt động
của các doanh nghiệp trong ngành thủy sản. Tùy theo chính sách mà tác động tích

16
cực hay tiêu cực đến doanh nghiệp. Có những chính sách tạo thuận lợi cho doanh
nghiệp này nhưng lại bất lợi cho doanh nghiệp khác. Do đó một thể chế chính trị
pháp luật ổn định, rõ ràng sẽ là cơ sở đảm bảo cho sự thuận của doanh nghiệp khi
tham gia vào thị trường và cạnh tranh một cách bình đẳng.
Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải kết hợp những quy định của chính phủ với
sức mạnh của công ty để tạo cơ hội cho doanh nghiệp mình. Các doanh nghiệp cần
phải thường xuyên tìm hiểu một số quy định của Chính phủ về chiến lược phát
triển ngành thủy sản, chẳng hạn như: Nghị định 14/2009/NĐ-CP ngày 13/02/2009
về điều kiện sản xuất, kinh doanh một số ngành nghề thủy sản, Quyết định số
3156/QĐ-BNN-CB, ngày 14/11/2005 về việc phê duyệt "Kế hoạch kiện toàn quản
lý chất lượng chuyên ngành của Cục Chế biến nông lâm sản và nghề muối". Nghị
định 79/2008/NĐ-CP ngày 17/07/2008 Quy định hệ thống tổ chức quản lý, thanh
tra và kiểm nghiệm về vệ sinh an toàn thực phẩm,… để từ đó các doanh nghiệp có
thể đưa ra các chiến lược sản xuất kinh doanh sao cho phù hợp.


 Các yếu tố văn hóa, xã hội
Bao gồm những chuẩn mực và giá trị mà được xã hội hay một nền văn hóa

cụ thể chấp nhận và tôn trọng như: phong tục, tập quán, văn hóa, tôn giáo, lối
sống,…Sự tác động của các yếu tố văn hóa thường có tính dài hạn và tinh tế hơn
các yếu tố khác, thậm chí nhiều lúc khó phân biệt được. Hiểu biết nó là cơ hội rất
quan trọng đối với các nhà quản trị. Đặc biệt các doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh trên nhiều quốc gia khác nhau có thể bị tác động, ảnh hưởng rõ rệt của các
yếu tố văn hóa xã hội. Vì vậy các yếu tố văn hóa xã hội ảnh hưởng rất lớn đến khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nghành thủy sản, chẳng hạn như đối
với nước mắm thì mỗi miền đều có những “gu” dùng nước mắm khác nhau, nhưng
hiện nay người tiêu dùng thường có xu hướng lựa chọn các loại nước mắm có màu
sáng, mùi nhẹ và không nhất thiết phải có hàm lượng đạm cao. Do đó buộc các
doanh nghiệp phải thực hiện những chiến lược kinh doanh thích ứng với từng
vùng, từng quốc gia.
 Các yếu tố tự nhiên
Có thể nói các điều kiện tự nhiên luôn luôn là yếu tố quan trọng trong cuộc
sống của con người, mặt khác nó cũng là yếu tố đầu vào quan trọng của nhiều

17
ngành kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp trong ngành thủy sản mà hoạt động sản
xuất kinh doanh phụ thuộc nhiều vào tự nhiên như: các doanh nghiệp chế biến
nước mắm, thời tiết ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng nước mắm làm ra. Trong
nhiều trường hợp, chính các điều kiện tự nhiên trở thành một yếu tố rất quan trọng
để hình thành lợi thế cạnh tranh của các sản phẩm dịch vụ.
 Các yếu tố công nghệ
Ít có ngành công nghiệp và doanh nghiệp nào lại không phụ thuộc vào công
nghệ. Ngày nay công nghệ ngày càng hiện đại, sẽ còn nhiều công nghệ tiên tiến
tiếp tục ra đời tạo ra những cơ hội cũng như nguy cơ đối với tất cả doanh nghiệp
trong ngành.
Đối với các doanh nghiệp chế biến trong ngành thủy sản trước đây, việc vận
dụng máy móc thiết bị vào trong sản xuất còn hạn chế nên đã ảnh hưởng nhiều đến
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, chất lượng của sản phẩm chưa cao,

chưa tạo ra được những sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Nhưng dần dần các
doanh nghiệp đã áp dụng máy móc, khoa học công nghệ hiện đại vào trong sản
xuất nên đã giúp cho các doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, giảm bớt các
khoảng chi phí không cần thiết, tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt, góp phần
nâng cao khả năng cạnh tranh trước các đối thủ.
Nếu trong chiến lược kinh doanh không thể hiện được chiến lược công nghệ
trong từng thời kỳ thì nguy cơ có thể làm cho vòng đời sản phẩm của doanh
nghiệp bị suy thoái trực tiếp hay gián tiếp, khi đó sản phẩm sản xuất ra sẽ không
đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong từng thời kỳ, đó sẽ là một sai lầm rất
lớn ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2.3.2 Môi trƣờng vi mô
Môi trường vi mô bao gồm các yếu tố trong ngành và là các yếu tố ngoại cảnh đối
với doanh nghiệp, quyết định tính chất và mức độ cạnh tranh trong ngành sản xuất
kinh doanh đó. Có 5 yếu tố cơ bản sau:





18
Hình 1.1 : Mô hình năm áp lực cạnh tranh của Micheal Porter


Đe dọa của đối
thủ chưa xuất hiện




Quyền lực Quyền lực

đàm phán đàm phán

Thách thức của
sản phẩm thay thế


 Áp lực cạnh tranh nội bộ
Các doanh nghiệp trong ngành sẽ cạnh tranh trực tiếp tạo ra sức ép trở lại
trong ngành, vì vậy các đối thủ cạnh tranh hiện tại chính là lực lượng tác động trực
tiếp và mạnh mẽ lên hoạt động của doanh nghiệp. Sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong nội bộ ngành sẽ làm cho lợi nhuận cận biên ngày càng giảm dần, tức
giá bán chỉ đủ bù đắp các chi chí sản xuất kinh doanh.
Vì vậy nhiệm vụ chủ yếu của các doanh nghiệp là phải tìm kiếm thông tin,
phân tích đánh giá đối thủ cạnh tranh trong ngành để xây dựng cho mình chiến
lược cạnh tranh phù hợp.
 Áp lực từ đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn
Theo Micheal Porter, đối thủ tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện chưa có mặt
trên thị trường nhưng có thể ảnh hưởng tới các doanh nghiệp trong ngành trong
tương lai. Bởi vì trong quá trình vận động của thị trường thì sẽ có những đối thủ
mới gia nhập thị trường, đặc biệt là đối với những ngành có nhiều lợi nhuận và dễ
gia nhập (như các doanh nghiệp chế biến) thì khả năng gia nhập càng cao. Những
đối thủ tiềm ẩn này có những lợi thế của người đi sau như học hỏi được những sai
lầm và thành tựu của người đi trước, tạo ra sự khác biệt hóa sản phẩm,… Chính
những đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn sẽ đe dọa đến hoạt động kinh doanh của các
Cạnh tranh nội bộ ngành


Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
đang có mặt trên thị trường
Đối thủ tiềm ẩn

Khách hàng
Nhà phân
phối
Nhà
cung
cấp
Sản phẩm thay thế

19
doanh nghiệp hiện tại, vì vậy các doanh nghiệp cần phải ngăn chặn sự gia nhập
ngành của các đối thủ tiềm ẩn, bằng cách tạo ra các rào cản gia nhập như sự khác
biệt hóa và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm
 Áp lực từ nhà cung cấp
Ngành sản xuất nào cũng đòi hỏi phải có nguyên vật liệu, lao động và các
yếu tố đầu vào khác. Đối với các doanh nghiệp chế biến thủy sản thì nguyên vật
liệu là yếu tố đầu vào quan trọng nhất, nếu không có nguồn nguyên vật liệu thì
doanh nghiệp không thể hoạt động được. Từ các yêu cầu đó buộc doanh nghiệp
phải thiết lập mối quan hệ với các nhà cung cấp mà ở đó có sự mặc cả về giá bán,
khối lượng, chất lượng, số lượng Nếu nhà cung cấp có lợi thế hơn trong đàm
phán thì có thể có những tác động quan trọng vào ngành sản xuất như việc ép giá
nguyên vật liệu, không cung cấp đầy đủ kịp thời nguyên vật liệu,… để khắc phục
tình trạng này doanh nghiệp cần phải xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp với nhà
cung cấp, tìm kiếm thông tin về nhà cung cấp khác nhau và các nguồn nguyên liệu
mới.
 Áp lực từ khách hàng
Khách hàng là một phần của công ty, khách hàng trung thành là một lợi thế
lớn của công ty. Sự trung thành của khách hàng được tạo dựng bởi sự thỏa mãn
những nhu cầu mong muốn của khách hàng.
Một vấn đề liên quan đến khách hàng là khả năng mặc cả giá của họ, khách
hàng là người luôn muốn mua những sản phẩm có chất lượng tốt, giá rẻ và có

nhiều dịch vụ giá trị gia tăng còn người bán thì luôn muốn bán với giá cao. Nếu
người mua có ưu thế thì họ sẽ đạt được cái mà họ mong muốn là mua được sản
phẩm tốt với giá rẻ. Hiện nay số lượng các doanh nghiệp tham gia vào ngành thủy
sản nhiều, nên người mua sẽ có nhiều ưu thế hơn trong việc lựa chọn sản phẩm,
điều này là nguy cơ đối với các doanh nghiệp, có thể sẽ làm cho lợi nhuận giảm
ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó thì nhu cầu của khách hàng luôn luôn thay đổi và khi nền kinh
tế phát triển, thu nhập tăng cao thì yêu cầu của khách hàng ngày càng cao. Do đó
các doanh nghiệp phải không ngừng tìm hiểu nhu cầu khách hàng để thõa mãn tối

20
đa nhu cầu đó mà lợi nhuận vẫn tăng, có như thế thì doanh nghiệp đó mới có khả
năng cạnh tranh trên thị trường được.
 Áp lực từ sản phẩm thay thế
Theo Micheal Porter “Những sản phẩm, dịch vụ thay thế làm hạn chế tiềm
năng lợi nhuận của ngành do mức giá cao nhất bị khống chế”. Bởi vì đối với các
nhà kinh tế học, nguy cơ của sự thay thế xuất hiện khi nhu cầu về một sản phẩm bị
tác động bởi những thay đổi về giá của sản phẩm thay thế đó, độ co giãn giá của
một sản phẩm bị tác động bởi sản phẩm thay thế. Sự thay thế càng đơn giản thì
khách hàng càng có nhiều sự lựa chọn hơn, sản phẩm thay thế phụ thuộc vào khả
năng tăng giá của doanh nghiệp trong cùng một ngành.
Các sản phẩm trong ngành thủy sản thường có tính thay thế cho nhau như:
nước mắm, các đồ hải sản,…Vì vậy các doanh nghiệp cần phải không ngừng
nghiên cứu và kiểm tra các mặt hàng thay thế tiềm ẩn, nếu không chú ý tới sản
phẩm thay thế tiềm ẩn thì doanh nghiệp có thể bị tụt lại với thị phần nhỏ bé. Đồng
thời doanh nghiệp cần phải không ngừng đổi mới sản phẩm để phù hợp với nhu
cầu của người tiêu dùng.
1.2.4 Tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực cạnh tranh:
Trong nền kinh tế thị trường, năng lực cạnh tranh là yếu tố quyết định sự tồn
tại và phát triển, là yếu tố quyết định để doanh nghiệp có thể vươn tới một vị thế

mà tại đó doanh nghiệp có khả năng tác động đến các lực lượng cạnh tranh một
cách hiệu quả. Khi tốc độ hội nhập càng nhanh, mức độ cạnh tranh càng gia tăng
thì sự quan tâm đến vấn đề năng lực cạnh tranh càng cần thiết. Việc nâng cao năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của
toàn ngành, góp phần giúp cho nền kinh tế hoạt động một cách có hiệu quả hơn,
tạo ra sản phẩm tốt hơn, giá rẻ hơn, dịch vụ tốt hơn… làm cho đời sống xã hội
ngày càng phong phú hơn.
1.2.5 Các chiến lƣợc cạnh tranh chủ yếu
Micheal Porter đã đề xuất ba chiến lược cạnh tranh chung để giành được lợi
thế cạnh tranh.

21

Ba chiến lược cạnh
tranh chung có liên quan
mật thiết tới quy mô hoạt
động của doanh nghiệp
cũng như mức độ khác biệt
sản phẩm mà doanh nghiệp
đang tìm kiếm




1.2.5.1 Chiến lƣợc khác biệt hóa
Là chiến lược tạo ra sự khác biệt hóa cho sản phẩm hay dịch vụ mà công ty
cung cấp ra ngoài thị trường. Có nhiều hình thức khác biệt hóa như: đặc trưng của
thiết kế, uy tín của nhãn hiệu, hệ thống phân phối, thái độ phục vụ của nhân viên,
quảng cáo ấn tượng…Tức là công ty phải làm cho mình khác người ở một phương
diện nào đó. Chính tính khác biệt của sản phẩm mà các đối thủ không thể nào bì

kịp cho phép doanh nghiệp chủ động tăng giá bán, thu lợi nhuận cao hơn. Tuy
nhiên việc áp dụng chiến lược này cần quan tâm đến vấn đề chi phí, mức chênh
lệch về giá phải lớn hơn các chi phí nhằm tạo ra sự khác biệt như các chi phí tăng
lên do tăng cường công tác nghiên cứu và phát triển (R&D)…. Không phải tất cả
khách hàng đều có khả năng và sẵn lòng thanh toán cho mức giá cao hơn. Một số
ưu điểm của chiến lược này:
Thứ nhất, sự khác biệt hóa giúp doanh nghiệp tăng sự cách biệt, có được vị
thế thuận lợi hơn các đối thủ khi đương đầu với các sản phẩm thay thế đồng thời
lợi nhuận cũng tăng
Thứ hai, khác biệt hóa làm giảm bớt quyền lực của người mua vì họ không
có điều kiện so sánh những sản phẩm tương đương nên giá cả ít biến động hơn và
tỷ lệ lợi nhuận cao hơn. Lợi nhuận cao còn giúp doanh nghiệp dễ dàng giải quyết
vấn đề quyền lực của nhà cung cấp.
Hình 1.4. Các chiến lƣợc cạnh tranh chung
(Nguồn: M. Porter,Chiến lược cạnh tranh,
NXB KHKT, 1996)






22
Đặc biệt khi sử dụng chiến lược này đòi hỏi chi phí phải rất lớn nên cần chú
ý đến độ lớn của giá thành và hàng hóa, dịch vụ đồng thời phải đè phòng những
sản phẩm nhái.
1.2.5.2 Chiến lƣợc dẫn đầu về chi phí
Đây là chiến lược dựa trên cơ sở chi phí thấp, với chiến lược này, mục tiêu là
trở thành nhà sản xuất có chi phí thấp nhất trong ngành. Các doanh nghiệp sử dụng
chiến lược này phải tạo ra được sản phẩm có chất lượng ngang bằng với đối thủ

cạnh tranh thậm chí có thể cao hơn nhưng giá bán phải thấp hơn hẳn. Chiến lược
này có hai ưu điểm sau:
Thứ nhất, Vì chi phí thấp nên doanh nghiệp có thể định giá bán sản phẩm
thấp hơn các đối thủ cạnh tranh nhưng vẫn thu lợi nhuận ngang bằng họ. Trong
trường hợp có cuộc chiến tranh về giá thì doanh nghiệp vẫn thu được lợi nhất định
trong khi lợi nhuận của đối thủ bằng không.
Thứ hai, Doanh nghiệp có vị trí thuận lợi hơn so với các đối thủ cạnh tranh
trước sức ép của khách hàng nếu cuộc chiến tranh về giá xảy ra. Hơn nữa, lợi thế
về chi phí hay tính kinh tế nhờ quy mô cũng là một trong các rào cản ngăn chặn
đối thủ mới gia nhập ngành.
Tuy nhiên khi sử dụng chiến lược này doanh nghiệp phải hết sức thận trọng
vì chiến lược này rất dễ bị đối thủ làm theo.
1.2.5.3 Chiến lƣợc tập trung vào trọng điểm
Đây là chiến lược mà doanh nghiệp dồn toàn bộ nguồn lực của mình tập
trung vào một hoặc một số phân khúc thị trường nào đó mà doanh nghiệp có lợi
hơn so với đối thủ cạnh tranh. Trong chiến lược tập trung vào trọng điểm, doanh
nghiệp hướng tới sự khác biệt về nhu cầu trong một hoặc một vài phân đoạn thị
trường mục tiêu.
Vấn đề quan trọng đối với bất kỳ doanh nghiệp nào là khi áp dụng chiến lược
này, phải đảm bảo rằng các khách hàng thật sự có những nhu cầu và mong muốn
khác biệt mà sản phẩm của những đối thủ cạnh tranh hiện tại không thể đáp ứng
những nhu cầu và mong muốn đó.
Với chiến lược này công ty sẽ phục vụ nhóm khách hàng của mình tốt hơn so
với những đối thủ cạnh tranh phải phục vụ trong một thị trường rộng lớn.

23
 Một số yêu cầu phổ biến với các chiến lƣợc chung
Bảng 1.1 Một số yêu cầu phổ biến với các chiến lược chung:
Chiến lƣợc
Những yêu cầu chung

về kỹ năng và nguồn lực
Những yêu cầu chung
về tổ chức

Chi
phí
thấp
- Nguồn đầu tư vốn lâu dài và khả
năng tiếp cận nguồn vốn ổn định.
- Kỹ năng chế tạo, thiết kế.
- Tinh thần nhiệt tình của người
lao động
- Sản phẩm thiết kế sao cho dễ sản
xuất
- Hệ thống phân phối chi phí thấp.
- Kiểm soát chặt chẽ chi phí.
- Báo cáo thường xuyên, liên tục
và chi tiết.
- Tổ chức có cơ cấu và phân rõ
trách nhiệm.
- Các động lực dựa vào việc đạt
được các mục tiêu định lượng
nhất định.





Khác
biệt

hóa
- Khả năng Marketing cao.
- Thiết kế lắp đặt sản phẩm.
- Khả năng nhạy bén, sáng tạo.
- Khả năng mạnh về nghiên cứu.
- Nổi tiếng về chất lượng hoặc đi
đầu về công nghệ.
- Có truyền thống ngành nghề
hoặc sự kết hợp độc đáo các kỹ
năng có được từ các ngành kinh
doanh khác.
- Giữa các kênh phân phối có sự
hợp tác tốt.
- Sự phối hợp tốt giữa các chức
năng về nghiên cứu và phát triển,
phát triển sản phẩm và Marketing.
- Đo lường chủ quan và khuyến
khích thay vì những biện pháp
định lượng.
- Những thuận tiện để thu hút lao
động kỹ thuật cao, các nhà khoa
học, hoặc những người có khả
năng sáng tạo.
Tập trung vào
trọng điểm
- Kết hợp giữa các yêu cầu trên và
hướng vào thị trường chiến lược
cụ thể.
- Kết hợp giữa yêu cầu trên và
hướng vào thị trường chiến lược

cụ thể.
(Nguồn: M. porter, chiến lược cạnh tranh, NXB KHKT, 1996)








24
CHƢƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
THỦY SẢN 584 NHA TRANG
2.1 Tổng quan về Công ty Cổ phần Thủy sản 584 Nha Trang
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Công ty Cổ phần Thủy sản 584 Nha Trang tiền thân là Xí nghiệp Thủy sản
Nha Trang được Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa ra quyết định thành lập vào
năm 1977. Sau ngày thống nhất đất nước 30/4/1975 Nhà nước tiếp quản hệ thống
kho chứa hàng hình thành trạm trung chuyển của bộ nội thương. Năm 1978 ra đời
trạm thủy sản của bộ Thủy Sản. Hai trạm này có chức năng khác nhau, cũng làm
nhiệm vụ trong thời gian bao cấp
Năm 1986 theo quyết định của Chủ tịch hội đồng bộ trưởng, hai trạm thủy
sản sáp nhập thành một trực thuộc bộ thủy sản, vẫn thực hiện nhiệm vụ như cũ
Năm 1987, Ủy ban kế hoạch Nhà nước quyết định lấy tên trạm là: Xí nghiệp
Thủy sản Nha Trang có nhiệm vụ phân bổ, đổi xăng dầu, lưới, ngư cụ cho ngư
dân, hợp tác xã khai thác của địa phương để đổi lấy các sản phẩm của địa phương
như nước mắm, cá khô,… phân phối đi các tỉnh không có nguồn lợi thủy sản như
Đăklăk, Gia lai,…
Năm 1990 do nhu cầu thị trường về các loại thủy sản còn hạn chế, xí nghiệp

tìm hướng đi mới là cắt giảm, loại bỏ những sản phẩm không có hiệu quả, chỉ đầu
tư vào sản xuất mặt hàng nước mắm để phù hợp với qui mô, năng lực sản xuất, sản
phẩm bán ra có giá trị và lợi nhuận không cao. Với tinh thần vượt khó, sự nổ lực
không ngừng của đội ngũ cán bộ, công nhân viên, hoạt động sản xuất của công ty
từng bước đi vào ổn định, tiếp tục trụ vững và ngày càng phát triển mạnh.
Năm 1991, xí nghiệp bắt đầu sản xuất các loại sản phẩm như cá khô, mắm
nêm, nước mắm… nhưng do nhu cầu thị trường về các loại sản phẩm mắm nêm,
mắm ruốc, cá khô hạn chế, thêm vào đó là sự hữu hạn về năng lực cũng nhu quy
mô nên xí nghiệp không đủ khả năng để tiếp tục phát triển sản phẩm này. Do đó,
công ty đã cắt giảm, loại bỏ những sản phẩm không có hiệu quả, chỉ sản xuất duy
nhất mặt hàng nước mắm.

25
Nhờ sự nổ lực không ngừng mà sản phẩm của xí nghiệp đã có mặt trên nhiều
tỉnh thành trong cả nước như: Thái Nguyên, Hải Phòng, Nam Định, Đà Nẵng,…
Ngày 01/2/2004 Xí nghiệp Thủy sản Nha Trang chính thức được chuyển giao
từ công ty thủy sản khu vực II về Công ty Xuất nhập khẩu Thủy sản miền Trung.
Tháng 3/2006 do sự thay đổi lộ trình kinh tế thế, Nhà nước đã chủ trương
“rao bán khoán, cho thuê, giải thuê, sát nhâp”. Công ty Thủy sản khu vực II không
còn phù hợp với điều kiện mới nên Xí nghiệp Thủy sản Nha Trang đã chính thức
được cổ phần hóa và đổi tên là Công ty Cổ phần Thủy sản 584 Nha Trang.
Ngoài tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, đổi mới mẫu mã, nâng
cao chất lượng sản phẩm, đơn vị luôn luôn năng động và linh hoạt trong việc mở
rộng thị trường. Và cho đến nay công ty đã đạt được nhiều thành tựu như: sản
phẩm mắm nhĩ của công ty đạt danh hiệu “hàng việt nam chất lượng cao” từ năm
2000-2009; “chất lượng vàng” tại hội chợ triển lãm du lịch và thương mại khánh
hoà;

“thực phẩm chất lượng và an toàn”; “cúp vàng” hội chợ triển lãm Festival Tây
Nguyên ; “sản phẩm chất lượng vì sức khoẻ cộng đồng” tại hội chợ triển lãm vì

sức khoẻ cộng đồng;…
Tên công ty: Công Ty Cổ Phần Thủy Sản 584 Nha Trang.
Địa chỉ trụ sở chính: 584 Lê Hồng Phong, Nha Trang, Khánh Hoà.
Số điện thoại (giao dịch kinh doanh) : 058.3881176 - 3883184
Số điện thoại (giao dịch hành chính) : 058.3731156 - 3880951
Số máy fax : 058.3884442
Email:

Website: www.584nhatrang.vn
www.584nhatrang.com.vn
Hình thức sở hữu vốn: Vốn điều lệ của
công ty là 2.500.000.000 đồng. Trong đó
vốn nhà nước là: 625.000.000 đồng chiếm 25%, số còn lại là cổ phần của các cổ
đông khác, tất cả là cổ đông phổ thông.
Trong suốt thời gian hoạt động vừa qua, tuy không thể không tồn tại những
khó khăn nhất định nhưng thành công đạt được của công ty là rất lớn. Nhưng với

×