Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại ngân hàng công thương khánh hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (903.77 KB, 108 trang )

1
LỜI MỞ ĐẦU

Ngân hàng là một trong những mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận
động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành kinh tế khác, ngân hàng có
nhiệm vụ tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo công
ăn việc làm cho người lao động, giúp đỡ các nhà đầu tư, phát triển thị trường vốn,
thị trường ngoại hối, tham gia thanh toán và hỗ trợ thanh toán
Trong hoạt động của ngân hàng thì hoạt động tín dụng là một lĩnh vực quan
trọng, quan hệ tín dụng là quan hệ xương sống, quyết định mọi hoạt động kinh tế
trong nền kinh tế quốc dân và nó còn là nguồn sinh lợi chủ yếu, quyết định sự tồn
tại, phát triển của ngân hàng. Nhưng hoạt động tín dụng lại mang đến nhiều rủi ro
nhất ngay cả đối với các khoản vay có tài sản cầm cố, thế chấp cũng được xác định
có hệ số rủi ro là 50%. Trên thực tế, nhiều nhân viên ngân hàng quan niệm cho vay
có tài sản thế chấp và không vượt quá tỷ lệ quy định là an toàn nhất. Thực ra quan
niệm này là hoàn toàn sai lầm, bởi khi cho vay phải chú ý đến tình hình hoạt động
và khả năng tài chính của công ty thì đó mới là vấn đề quan trọng nhất, còn thế chấp
chỉ là một trong những điều kiện cần phải có để đảm bảo khả năng thu hồi khi
khách hàng không trả được nợ cho ngân hàng.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sự quản lý kinh tế,
sự chuyển đổi cơ chế quản lý trong lĩnh vực ngân hàng đang diễn ra hết sức phong
phú và đa dạng. Hoà cùng với sự đổi mới của toàn bộ hệ thống ngân hàng, Ngân
Hàng Công Thương (NHCT) Khánh Hòa trong những năm qua đã rất chú trọng tới
hoạt động tín dụng và đang từng bước hoàn thiện trong hoạt động kinh doanh của
mình, để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế.
Trong quá trình thực tập tại NHCT Khánh Hòa, được sự giúp đỡ và khuyến
khích của các thầy cô giáo trong khoa, các cô chú, anh chị trong ngân hàng, em đã
nghiên cứu, học tập, tìm hiểu và thực hiện đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động tín dụng tại NHCT Khánh Hòa” để viết luận văn tốt nghiệp của mình.
Luận văn tốt nghiệp được chia thành 3 chương:
2


Chương I: Cơ sở lý luận
Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng tại NHCT Khánh Hòa
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại NHCT
Khánh Hòa.
Để hoàn thành đề tài này em đã được các cô chú, anh chị trong ngân hàng,
nhất là mọi người phòng Khách hàng Doanh Nghiệp đã rất nhiệt tình giúp đỡ em
trong suốt khoảng thời gian thực tập, em xin chân thành cảm ơn. Đồng thời em cũng
cảm ơn cô hướng đẫn thực tập: TS.GVC Nguyễn Thị Hiển đã tận tình chỉ dẫn em
trong suốt quá trình làm đề tài.
Tuy vậy, do kiến thức và thời gian thực tập có hạn sẽ khó tránh khỏi những
thiếu sót, em rất mong quý Thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để đề tài này được
hoàn thiện hơn.

Nha Trang, ngày 07 tháng 07 năm 2009
Sinh viên thực hiện


Hồ Bảo Quỳnh Nhung











3



CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1 Khái niệm về tín dụng
Tín dụng, theo tiếng Latinh gọi là creditium tiếng Anh gọi là credit, có nghĩa
là tin tưởng và tín nhiệm. Theo ngôn ngữ dân gian Việt nam, tín dụng có nghĩa là sự
vay mượn. Về mặt tài chính, tín dụng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn
từ người sở hữu sang cho người sử dụng trong một thời hạn nhất định với một
khoản chi phí nhất định. Một quan hệ được xem là quan hệ tín dụng khi nào chứa
đựng đầy đủ ba nội dung:
- Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho người
sử dụng.
- Sự chuyển nhượng này có thời hạn.
- Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí.
1.1.1 Hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng công thương.
Ngân hàng được cấp tín dụng tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay,
chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các
hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Trong các hoạt động cấp tín
dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Cho vay: Ngân hàng cho các tổ chức cá nhân vay vốn dưới các hình thức sau:
 Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và đời sống.
 Cho vay trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống.
Bảo lãnh: Ngân hàng bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện
hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác bằng uy tín
và bằng khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh.
4
Chiết khấu: Ngân hàng chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn

hạn khác đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các thương phiếu và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác.
Cho thuê tài chính: Ngân hàng có hoạt động cho thuê tài chính và đã thành
lập công ty cho thuê tài chính riêng.
1.1.2. Các loại tín dụng ngân hàng
 Dựa vào mục đích của tín dụng:
 Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp
 Cho vay tiêu dùng cá nhân
 Cho vay bất động sản
 Cho vay nông nghiệp
 Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu
 Dựa vào thời hạn tín dụng:
 Cho vay ngắn hạn: khoản cho vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng.
 Cho vay trung hạn: khoản cho vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng
đến 60 tháng.
 Cho vay dài hạn: khoản cho vay có thời hạn cho vay trên 60 tháng.
 Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng:
 Cho vay có bảo đảm:
 Cho vay vốn không có bảo đảm:
 Dựa vào phương thức cho vay
 Phương thức cho vay từng lần
 Phương thức cho vay theo hạn mức cho vay
 Phương thức cho vay theo dự án đầu tư:
 Phương thức cho vay trả góp.
 Dựa vào phương thức hoàn trả nợ vay:
 Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một lần khi
đáo hạn.
5
 Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp.
 Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể mà tùy khả

năng tài chính của mình người đi vay có thể trả nợ bất cứ lúc nào.
1.2 Bản chất và chức năng của tín dụng
1.2.1 Bản chất của tín dụng
Tín dụng thể hiện ra bên ngoài là sự chuyển giao quyền sử dụng tài sản giữa
người cho vay và người đi vay, nhưng thực chất bên trong của nó chứa đựng mối
quan hệ giữa người cho vay và người đi vay. Chính mối quan hệ này quyết định bản
chất của tín dụng.
1.2.2 Chức năng của tín dụng
1.2.2.1 Chức năng phân phối lại vốn
Trong nền kinh tế thị trường, vấn đề hiệu quả tài chính được đặt lên hàng đầu
và việc tính toán sử dụng vốn bao giờ cũng gắn liền với chi phí, kể cả chi phí cơ hội.
Một khi vốn tạm thời nhàn rỗi chưa được sử dụng thì sẽ lãng phí và tốn kém
chi phí cơ hội do vốn chưa được sử dụng vào mục tiêu sinh lời. Khi ấy, vốn cần được
đem cho vay hay phân phối lại vốn từ nơi tạm thời nhàn rỗi sang nơi thiếu hụt vốn.
Ngược lại, khi thiếu hụt vốn, cần có sự bổ sung kịp thời nhằm đảm bảo cho
hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục hoặc tăng trưởng như hoạch
định. Khi ấy, doanh nghiệp cần vay vốn hay điều hòa vốn nhằm đảm bảo vốn cho
nhu cần sản xuất kinh doanh.
Nhờ có tín dụng, việc điều hòa hay phân phối lại nguồn vốn từ nơi thừa sang
nơi thiếu có thể thực hiện được một cách dễ dàng và nhanh chóng.
1.2.2.2 Chức năng thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển
Nhờ có tín dụng mà quá trình chu chuyển tuần hoàn vốn trong từng đơn vị
nói chung được thực hiện một cách bình thường và liên tục. Do đó, tín dụng góp
phần thúc đẩy sự phát triển sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Tín dụng tạo ra nguồn vốn để đầu tư mở rộng phạm vi và quy mô sản xuất.
Tín dụng tạo điều kiện đẩy nhanh tốc độ thanh toán góp phần thúc đẩy lưu
thông hàng hóa bằng việc tạo ra tín tệ và bút tệ.
6
1.3 Vai trò của tín dụng
Chức năng của ngân hàng là đem lại lợi ích cho cả người tiết kiệm và người

đầu tư. Các bên tham gia vào quan hệ tín dụng trên cơ sở tự nguyện và cùng có lợi.
Ngoài ra tham gia vào quan hệ này còn đem lại lợi ích cho chính ngân hàng. Không
chỉ có vậy ngân hàng và doanh nghiệp là hai chủ thể quan trọng hàng đầu trong nền
kinh tế quốc dân, do đó việc nâng cao hiệu quả hoạt động của hai chủ thể này góp
phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Ngày nay với sự ra đời và phát triển
mạnh mẽ của các ngân hàng thương mại, ta có thể thấy tín dụng có vai trò quan
trọng như thế nào đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Hoạt động tín dụng
của ngân hàng như là công cụ để khai thác và động viên có hiệu quả nhất lượng tiền
nhàn rỗi trong dân cư phục vụ cho quá trình tái sản xuất xã hội, phù hợp với quá
trình vận động của vốn.
1.3.1 Đối với các doanh nghiệp
- Tín dụng tạo điều kiện cho các doang nghiệp ứng dụng khoa học kỹ thuật
Ngày nay khi mà khoa học kỹ thuật đạt được những thành tựu rực rỡ, đặc
biệt là những thành tựu trong ngành khoa học ứng dụng đã tạo ra thời cơ cũng như
những thách thức đối với sự tồn tài và phát triển của một tổ chức trên thị trường.
Tuy việc ứng dụng này là rất cần thiết, song mọi doanh nghiệp đều gặp phải khó
khăn đó là chi phí bỏ ra ban đầu lớn, bản thân vốn tự có của doanh nghiệp lại có
hạn. Trong hoàn cảnh đó, tín dụng ngân hàng đã có những tác động hổ trợ tích cực
trong việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó
doanh nghiệp không ngừng nâng cao được vị thế trên thị trường, hiệu quả của
doanh nghiệp – qua đó nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của NHTM.
- Ngoài ra tín dụng còn là nguồn tài trợ giúp doanh nghiệp có điều kiện mở
rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường.
Bất cứ doanh nghiệp nào cũng muốn mở rộng sản xuất đi kèm theo đó là mở
rộng thị trường hoạt động của mình. Mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh không
phải là hoạt động mà doanh nghiệp có thể tiến hành nhanh chóng một sớm một
chiều mà còn tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó quan trọng là cần có guồn
7
vốn. Với lợi thế đặc thù tín dụng của ngân hàng được các doanh nghiệp ưa thích để
bổ sung vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh của mình.

- Góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả
Trong thời hạn của khoản vay, ngân hàng thực hiện chức năng giám sát hoạt
động sử dụng vốn với tư cách là chủ sở hữu vốn cho vay đối với các doanh nghiệp.
Ngân hàng căn cứ vào các nguyên tắc tín dụng, hướng các doanh nghiệp sử dụng
vốn đúng mục đích có hiệu quả, đôn đốc khách hàng vay vốn trả gốc và lãi đúng
thời hạn thỏa thuận đã ký trong hợp đồng tín dụng. Khác với vốn tự có là không
phải trả chi phí vốn, vốn vay ngân hàng phải chịu những điều kiện ràng buộc về lãi
suất, thời hạn và mục đích sử dụng tiền vay nên các doanh nghiệp vay vốn phải có
sự tính toán chi phí sản xuất hợp lý, tốc độ vòng quay vốn nhanh. Để đảm bảo trả
nợ ngân hàng đúng hạn và có lợi nhuận giữ lại. Mặt khác, trong quá trình kiểm tra
giám sát sử dụng vốn vay, ngân hàng sẽ giúp doanh nghiệp phát hiện những nhược
điểm, sai sót từ đó có biện pháp khắc phục kịp thời nhằm hạn chế rủi ro có thể xảy
ra đối với doanh nghiệp cũng như rủi ro liên quan đối với ngân hàng. Có thể nói
rằng, tín dụng ngân hàng đã ràng buộc trách nhiệm giữa người sở hữu và người sử
dụng vốn, từ đó nâng cao năng lực quản lý vốn và quá trình sản xuất kinh doanh.
Đó chính là việc giúp cho nguồn vốn đầu tư đem lại hiệu quả cao.
- Tín dụng còn là trợ thủ đắc lực của doanh nghiệp trong việc thỏa mãn và
chớp cơ hộ kinh doanh.
Nhiều doanh nghiệp khi đứng trước các dự án đầu tư khả thi hay các cơ hội
kinh doanh nhưng không có nguồn vốn để đáp ứng mà để cơ hội bị tuột mất. Trong
những trường hợp này tín dụng giúp doanh nghiệp thỏa mãn lượng vốn đầu tư cho
các dự án và chớp cơ hội kinh doanh. Ngoài ra khi các doanh nghiệp đi vay vốn tại
NHTM, họ có thể điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, nghĩa là họ có thể trả nợ sớm hơn thời
gian quy định trong hợp đồng tín dụng khi họ muốn. Ngược lại nếu khi gặp khó
khăn trong việc trả nợ tại một thời điểm nhất định nào đó thì doanh nghiệp có thể
xin ngân hàng điều chỉnh kỳ hạn trả nợ hoặc gia hạn nợ.
8
Việc trả nợ vốn vay cũng được xây dựng theo một sự phân chia ổn định và
hợp lý, do đó doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm các nguồn trả nợ một cách dể
dàng hơn.

1.3.2 Đối với hoạt động của ngân hàng
Hoạt động của NHTM truyền thống là nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay.
Để thực hiện cho vay, NHTM phải tập trung vốn nhàn rỗi trong xã hội và trên cơ sở
nguồn vốn để bổ sung nhu cầu tạm thời thiếu hụt về vốn của các doanh nghiệp, các
tổ chức kinh tế hoặc các cá nhân trong quá trình sản xuất kinh doanh. Trong quá
trình phát triển mặt dù có nhiều thay đổi nhưng hoạt động tín dụng vẫn luôn là hoạt
động cơ bản.
- Tín dụng Ngân Hàng tạo ra lợi nhuận cho NHTM. Không có hoạt động tín
dụng thì không thể có NHTM
Hoạt động chủ yếu của NHTM một mặt thu hút các nguồn vốn tiền tệ nhàn
rỗi trong xã hội, mặt khác phân phối nó dưới hình thức cho vay để thu lợi nhuận.
NHTM hoạt động theo ba nghiệp vụ chính: nghiệp vụ nợ (huy động tạo ra nguồn
vốn), nghiệp vụ có (cho vay đối với nền kinh tế) và nghiệp vụ trung gian. Ba nghiệp
vụ này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và cả ba nghiệp vụ đều rất quan trọng
trong hoạt động của một NHTM. Nhưng nghiệp vụ cho vay vẫn đóng vai trò quan
trọng nhất và đó là nghiệp vụ đem lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng.
- Tín dụng vừa mang lại lợi nhuận đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh
của ngân hàng.
Với những khoảng tín dụng có quy mô lớn, lãi suất cao mang lại lợi nhuận
cao cho ngân hàng, đồng thời thu hút khách hàng đến với ngân hàng thì càng nâng
cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Khi ngân hàng không đa
dạng hóa hoạt động cho vay, không đa hạng hóa khách hàng, thời hạn vay tiền để
thu hút khách hàng thì ngân hàng khó mà đứng vững được trong nền kinh tế thị
trường với sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng khác.
Mặc khác tín dụng còn là cách thức khả thi để giải quyết nguồn vốn huy
động của NHTM, đồng thời là cách để ngân hàng gọi vốn có hiệu quả, thu được lợi
9
nhuận qua đó phát triển hoạt động của mình, tăng cường khả năng cạnh tranh với
các ngân hàng khác.
Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng thực hiện chức năng xã hội của

mình. Thực hiện nghiệp vụ tín dụng, ngân hàng đã thể hiện vai trò người tài trợ lớn
đối với toàn nền kinh tế, góp phần mở rộng vốn đầu tư, gia tăng sản phẩm xã hội và
cải thiện đời sống nhân dân.
1.3.3 Đối với nền kinh tế
Tín dụng ngân hàng tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát triển kinh tế, thúc
đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ là
công cụ kinh tế phục vụ cho tất cả các mặt hoạt động kinh tế xã hội. Trong lĩnh vực
kinh doanh hàng hóa dịch vụ, mọi chu kỳ đều bắt đầu bằng tiền và kết thúc cũng
bằng tiền, tạo điều kiện để tái mở rộng sản xuất. Có thể nói tín dụng ngân hàng đã
gián tiếp thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường, thúc đẩy kinh tế phát triển.
- Tín dụng có vai trò qua trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, tăng tỷ trọng các ngành sản xuất vật
chất, là nền tảng cho phát triển kinh tế đất nước, đáp ứng nhu cầu trước mắt cũng
như lâu dài. Đầu tư cho vay trực tiếp hay gián tiếp đều góp phần phát triển khoa học
công nghệ, tạo công ăn việc làm, ổn định lạm phát, nâng cao đời sống của dân cư,
phát triển lực lượng lao động giúp nền kinh tế tăng trưởng ổn định.
- Tín dụng ngân hàng còn làm giảm hệ số tiền nhàn rỗi trong lưu thông, đáp
ứng nhu cầu vốn cho tái sản xuất mở rộng. Trong nền kinh tế thường xuyên xuất
hiện các nguồn vốn bằng tiền nhàn rỗi của các thành phần kinh tế, nên thông qua
chức năng phân phối lại vốn theo nguyên tắc có hoàn trả của tín dụng. Các nguồn
vốn đó được đưa vào luân chuyển thông qua hệ thống NHTM, tạo cơ sở thúc đẩy sử
dụng vốn có hiệu quả. Nhu cầu về vốn tăng lên theo mức độ phát triển, sản xuất
kinh doanh đòi hỏi tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu tăng đó. Tín dụng ngân hàng
đóng vai trò tích lũy tập trung vốn, nhờ có công cụ tín dụng doanh nghiệp có thể mở
rộng quy mô sản xuất, nền kinh tế có thể tái sản xuất mở rộng nhanh chóng hơn.
10
Tín dụng còn là đòn bẩy kinh tế quan trọng trong quá trình mở rộng quan hệ
kinh tế quốc tế. Đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa là
hai lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế thông dụng. Vốn là nhân tố quyết định đầu tiên
cho việc thực hiện quá trình này. Lúc này NHTM chính là trợ thủ về vốn cho các

nhà đầu tư và kinh doanh xuất nhập khẩu. Ở các nước đang phát triển như nước ta,
để thực hiện được các chính sách phát triển kinh tế cần thiết phải thu hút và tiếp
nhận các khoản viện trợ ban đầu, vay nợ của các nước phát triển thông qua các hình
thức tín dụng quốc tế. Từ đó tạo môi trường thuận lợi cho việc đầu tư vốn làm động
lực cho sự tăng trưởng kinh tế.
1.4 Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng
Hiệu quả tín dụng là chênh lệch giữa giá trị mà ngân hàng thu được từ hoạt
động tín dụng với giá trị mà ngân hàng phải bỏ ra để có được nguồn vốn đầu vào.
Hiệu quả tín dụng là một trong những căn cứ quan trọng để đánh giá kết quả
hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Hiệu quả tín dụng được thể hiện ở
hai mặt: Hiệu quả tài chính và hiệu quả xã hội.
Dưới gốc độ ngân hàng, hiệu quả tài chính được đánh giá thông qua các chỉ
tiêu sau: khối lượng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tạo ra để phục vụ khách hàng, lợi
nhuận thu được từ hoạt động tín dụng, tỷ suất sinh lời tính trên vốn vay… Thời gian
thu hồi vốn vay và lãi đúng hạn cũng được quan tâm và có những đóng góp cho
việc tăng nguồn thu cho ngân hàng (ngoại tệ) giúp ngân hàng hoạt động an toàn, ổn
định giảm thiểu rủi ro thất thoát do không thu hồi được nợ trong hoạt động tín dụng.
Bên cạnh đó thông qua hiệu quả xã hội, nhà đầu tư có cái nhìn tổng thể về hoạt
động ngân hàng để họ đầu tư vào. Ngân hàng thu được nợ không đồng nghĩa với
chủ thể vay vốn bị thiệt hại mà trên cơ sở cả hai bên cùng có lợi. Chỉ tiêu số lượng
công ăn việc làm cho người lao động như: tăng số lượng nhân viên ngân hàng, tài
trợ vốn cho các cá nhân, doanh nghiệp để đưa ra nhiều loại hình sản xuất kinh
doanh thu hút nhiều lao động từ đó giảm thất nghiệp, giảm tệ nạn xã hội… Nguồn
tín dụng ngân hàng còn thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển là điều kiện để
11
tăng trưởng kinh tế và đóng góp tăng ngân sách quốc gia. Từ đó, cơ sở hạ tầng được
xây dựng hoàn thiện thúc đẩy kinh tế phát triển.
Khả năng mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của ngân hàng phụ
thuộc vào uy tín của ngân hàng đó. Nếu ngân hàng có lượng khách hàng đông đảo
và làm ăn có uy tín thì đó là một dấu hiệu cho thấy hiệu quả đầu tư tín dụng của

ngân hàng là khả quan. Hiệu quả đầu tư còn được thể hiện ở khả năng đáp ứng tốt
nhu cầu của khách hàng. Ngoài việc đáp ứng nhanh chóng, kịp thời nhu cầu về vốn,
ngân hàng phải thực sự trở thành người bạn của khách hàng, sẵn sàng giúp đỡ, chia
sẽ khó khăn với họ… chủ thể vay vốn thực sự xem tín dụng ngân hàng là đòn bẩy
và tạo được hình ảnh đẹp về ngân hàng.
Hiệu quả tín dụng không những thể hiện bằng con số tuyệt đối về lợi nhuận,
để có kết luận chính xác hơn cần có một hệ thống chỉ tiêu sau:
1.4.1 Doanh số cho vay
Là chỉ tiêu phản ánh tất cả các khoản tín dụng mà ngân hàng đã phát ra cho
vay trong một khoảng thời gian nào đó không kể món cho vay đó đã được thu hồi
về hay chưa. Doanh số cho vay thường được xác định theo tháng, quý, năm.
1.4.2 Dư nợ cho vay
Là chỉ tiêu phản ánh tại một thời điểm xác định nào đó ngân hàng hiện còn
cho vay bao nhiêu và đây cũng là khoản mà ngân hàng cần phải thu về.
- Kết cấu dư nợ cho vay
Dựa vào kết cấu dư nợ cho vay mà ta có thể xác định rủi ro của ngân hàng
cho vay cao hay thấp. Nếu kết cấu dư nợ quá tập trung vào một số doanh nghiệp
hoặc thành phần kinh tế chuyên sản xuất kinh doanh trong một hoặc một số lĩnh vực
nhất định hoặc cho vay tiêu dùng quá nhiều, sẽ có rủi ro lớn do mức độ tập trung
vốn cho vay cao. Như vậy dựa vào kết cấu dư nợ cho vay theo thành phần kinh tế,
đối tượng, nghề nghiệp… kết hợp với việc phân tích các yếu tố liên quan đến khách
hàng có thể đánh giá rủi ro cao hay là thấp.
- Dư nợ / Tổng nguồn vốn
12
Chỉ tiêu này dùng để đánh giá mức độ tập trung vốn tín dụng của ngân hàng.
Nếu chỉ tiêu này càng cao thì mức độ hoạt động của ngân hàng ổn định và có hiệu
quả. Ngược lại, ngân hàng đang gặp khó khăn nhất là khâu tìm kiếm khách hàng.
- Dư nợ / Tổng vốn huy động
Chỉ tiêu này cho biết bao nhiêu đồng vốn huy động tham gia vào dư nợ. Nó
còn cho biết khả năng huy động vốn tại địa phương của ngân hàng. Nếu chỉ tiêu này

lớn hơn một thì vốn huy động tham gia vào dư nợ là không đủ, khả năng huy động
vốn của ngân hàng chưa cao.
1.4.3 Nợ quá hạn / Tổng dư nợ
Là chỉ tiêu phản ánh các khoản nợ đến hạn mà khách hàng không trả được
cho ngân hàng mà không có nguyên nhân chính đáng thì ngân hàng sẽ chuyển từ tài
khoản dư nợ sang tài khoản quản lý khác gọi là nợ quá hạn. Nợ quá hạn là chỉ tiêu
phản ánh chất lượng của nghiệp vụ tín dụng tại ngân hàng.
Hậu quả tất yếu của rủi ro cho vay là nợ quá hạn. Chỉ tiêu này phản ánh tình
trạng an toàn cho vay của ngân hàng và toàn hệ thống ngân hàng. Nếu các chỉ số
này nhỏ thì phản ánh chất lượng đầu tư tín dụng là tốt. Ngược lại, nếu chỉ số này lớn
thì phản ánh chất lượng tín dụng là chưa cao. Khủng hoảng cho vay hay khủng
hoảng nợ xảy ra khi tỷ lệ nợ quá hạn quá cao. Khi đó ngân hàng mất khả năng thanh
toán và lâm vào tình trạng phá sản
Tuy nhiên, nợ quá hạn chưa phải là tổn thất của ngân hàng thương mại, đây
vẫn là chỉ tiêu gián tiếp, bởi vì không phải tất cả các khoản nợ quá hạn này đều dẫn
đến tổn thất.
Tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng tổn thất/dư nợ quá hạn là một chỉ tiêu trực tiếp
phản ánh rủi ro. Nó cho thấy trong một đồng nợ quá hạn thì có bao nhiêu đồng bị
tổn thất. Nói cách khác, chỉ tiêu này phản ánh mức độ có thể gây ra rủi ro trong số
nợ quá hạn của ngân hàng cho vay.
Nợ quá hạn có khả năng tổn thất thường bao gồm những khoản nợ quá hạn
có thời gian quá hạn lớn (từ 6 tháng trở lên). Đối với ngân hàng cho vay việc duy trì
các chỉ tiêu này với tỷ lệ cao trong báo cáo tài chính là điều khó chấp nhận. Ngân
13
hàng cho vay luôn tìm cách giảm chỉ tiêu này xuống và biện pháp duy nhất là tích
cực truy thu các khoản vay này. Những khoản này thực sự không thu hồi được phải
hạch toán vào chi phí hoạt động và lấy quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp tổn thất.
Từ năm 2005, việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo tiêu chuẩn
quốc tế đã được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành theo Quyết định 127/QĐ,
là việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Thay vì chỉ có hai loại là nợ trong hạn và ngoài

hạn như trước thì giờ đây, nợ vay của khách hàng sẽ được phân loại từ nhóm 1 đến
nhóm 5: nhóm 1 được coi là nợ bình thường, nhóm 2 là nợ cần chú ý, nhóm 3 là nợ
dưới tiêu chuẩn, nhóm 4 là nợ khó đòi và nhóm 5 là mất vốn. Cụ thể:
- Nợ nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, đó là các khoản nợ ngân hàng đánh giá là
có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn.
- Nợ nhóm 2: Nợ cần chú ý, là các khoản nợ được ngân hàng đánh giá có
khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm
khả năng trả nợ.
+ Nợ quá hạn dưới 90 ngày
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ
cấu lại
- Nợ nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, là các khoản nợ được ngân hàng đánh giá
có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn và được đánh giá là có khả năng tổn
thất một phần nợ gốc và lãi.
+ Nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn
đã cơ cấu lại.
- Nợ nhóm 4: Nợ khó đòi, là các khoản nợ được ngân hàng đánh giá có khả
năng tổn thất cao
+ Nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày
theo thời hạn đã cơ cấu lại
14
- Nợ nhóm 5: Nợ mất vốn, là khoản nợ được ngân hàng đánh giá không còn
khả năng thu hồi, mất vốn.
+ Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
+ Nợ khoanh chờ Chính Phủ xử lý.
+ Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời
hạn đã cơ cấu lại.
Như vậy, nếu như trước đây, chỉ có nợ ngoài hạn được coi là nợ xấu thì giờ

đây, nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 đều được coi là nợ xấu, thậm chí nợ trong nhóm 2
cũng phải trích lập dự phòng rủi ro. Những đánh giá về nợ sẽ khác hoàn toàn, chẳng
hạn, trước đây, nếu khách hàng không có khả năng trả nợ đúng kỳ hạn nợ gốc
và/hoặc lãi vốn vay trong phạm vi thời hạn vay, ngân hàng sẽ gia hạn nợ và khoản
nợ này vẫn được coi là nợ trong hạn. Tuy nhiên, với quy định mới, số nợ trên sẽ được
phân vào từ nhóm 2 đến nhóm 4, tuỳ theo khả năng trả nợ trong tương lai của khách
hàng. Theo đó, ngân hàng sẽ phải trích thêm một khoản vào quỹ dự phòng rủi ro.
- Nợ nhóm 1: Trích 0% tổng dư nợ
- Nợ nhóm 2: Trích 5% tổng dư nợ
- Nợ nhóm 3: Trích 10% tổng dư nợ
- Nợ nhóm 4: Trích 50% tổng dư nợ
- Nợ nhóm 5: Trích 100% tổng dư nợ
1.5 Rủi ro tín dụng
1.5.1 Quan niệm rủi ro trong hoạt động tín dụng
Có rất nhiều quan niệm về rủi ro như: “Rủi ro là bất trắc gây ra mất mát, thiệt
hại” hay “rủi ro là sự bất trắc cụ thể liên quan đến một hay nhiều biến cố không
mong đợi”… Nhưng nói chung, mọi quan niệm đều đi đến thống nhất: “rủi ro là
biến cố xảy ra ngoài ý muốn, sự hiểu biết, dự tính của chủ thể và đem lại những hậu
quả xấu”. Rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong mọi lĩnh vực cuộc sống, nhất là
trong lĩnh vực tín dụng.
15
Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng rủi ro trong hoạt động tín dụng là
nhiều nhất trong hoạt động kinh doanh tài chính tiền tệ. Nó xảy ra dưới nhiều hình
thức, mức độ khác nhau là do các nguyên nhân:
 Tiền là nguyên liệu chính tạo ra sản phẩm tín dụng. Tiền được dùng để
giao dịch giữa khách hàng và NHTM. Mặt khác tiền là thứ nguyên liệu độc tôn
không thể thay thế, nguyên liệu nay chịu tác động rất nhiều yếu tố như kinh tế,
chính trị xã hội, chiến tranh, thiên tai… một trong các yếu tố này thay đổi thì hoạt
động tín dụng của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng.
 Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng chịu sự quản lý vĩ mô của nhà

nước theo hành lang pháp lý quy định. Nhà nước can thiệp vĩ mô vào nền kinh tế thị
trường. Trong đó lĩnh vực tài chính tiền tệ thì chịu nhiều sự quản lý lớn của chính
phủ thông qua các công cụ chính sách của nhà nước, những quy định, nghị định,
pháp lệnh của ngân hàng nhà nước. Do vậy mỗi khi có sự điều chỉnh của chính phủ
hoặc của ngân hàng nhà nước làm cho các ngân hàng thương mại gặp không ít khó
khăn trong hoạt động kinh doanh, thậm chí có thể phải ngánh chịu những tổn thất
trong hoạt động kinh doanh của mình.
 Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính có quan hệ mật thiết với nhiều
lĩnh vực, thành phần kinh tế của nền kinh tế quốc dân. Bất cứ một sự thay đổi nào
của các lĩnh vực, thành phần kinh tế cũng đều tác động gây phản ứng dây truyền đối
với các ngân hàng.
Do những đặc điểm trên, rủi ro trong hoạt động tín dụng là rất lớn. Vì vậy
nhận thức đúng đắn và đầy đủ rủi ro tín dụng là rất quan trọng để từ đó đưa ra các
biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Rủi ro tín dụng là rủi ro về sự tổn thất tài chính trực tiếp hoặc gián tiếp xuất
phát từ người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo cam kết hoặc
mất khả năng thanh toán.
Chúng ta biết rằng tín dụng là quan hệ vay mượn dưới dạng tiền tệ có hoàn
trả gốc và lãi giữa người đi vay và người cho vay. Cho vay hoàn trả khác với nghiệp
vụ tài trợ cấp vốn của nhà nước cho các thành phần kinh tế… Hoạt động cho vay là
16
hoạt động rất đa dạng, là một hoạt động kinh doanh hàng hoá phức tạp. Tính phức
tạp của nó chính là đối tượng kinh doanh tức là tiền tệ, ở đây tiền tệ được tách rời
giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng khi cho vay.
Người ta cho rằng quyền cho vay là của người cho vay và quyền trả nợ thực
tế là của người đi vay. Chính vì vậy đòi hỏi người cho vay phải tìm mọi cách để
kiểm soát được khả năng trả nợ của người đi vay, dự tính, phán đoán khả năng, mức
độ rủi ro. Quan hệ cho vay là quan hệ kinh tế bình đẳng giữa người đi vay và người
cho vay, là sự cam kết thoả thuận bằng các điều khoản thi hành thể hiện trong các
hợp đồng cho vay. Sự cam kết này chính là cơ sở pháp lý cơ bản để thực hiện nghĩa

vụ của hai bên tham gia hoạt động cho vay. Nó là cơ sở pháp lý để đảm bảo tín
dụng. Bên cạnh đó còn có các cam kết khác bằng các hành vi hay năng lực kính tế,
thể hiện bằng vật chất, uy tín như tài sản thế chấp, cầm cố, ký quỹ bảo lãnh.
Trong cho vay một bên là người cho vay vốn, một bên là người đi vay vốn và
một bên là cho vay giữa hai bên là hợp đồng tín dụng. Vốn ở đây được thể hiện
bằng tiền chứ không bằng tài sản hay bất cứ gì khác. Rủi ro vẫn xẩy ra mặc dù bên
đi vay cam kết sẽ trả đầy đủ và đúng hạn cho bên cho vay theo các điều khoản của
đồng cho vay. Nhưng tình trạng vi phạm cam kết đó xảy ra khá phổ biến kể cả trong
trường hợp người đi vay có đủ năng lực tài chính.
Mặt khác rủi ro cho vay còn có thể xảy ra ngay cả khi bên đi vay hiện
nghiêm các điều khoản cam kết trong hoạt động cho vay, thanh toán đầy đủ tiền vay
(gốc và lãi) cho bên cho vay nhưng do biến động của lãi suất, rủi ro trong trường
hợp mà số tiền cho vay thu về không bằng chi phí cơ hội của khoản vay đó ở thời
điểm cho vay.
Rủi ro tín dụng vốn là loại rủi ro phức tạp, để đánh giá rủi ro tín dụng là việc
làm rất khó khăn đối với ngân hàng. Rủi ro tín dụng có thể xảy ra với bất kỳ món
tiền nào, bất cứ nơi nào. Chính vì vậy rủi ro tín dụng đòi hỏi các ngân hàng thương
mại có cách nhìn cụ thể về rủi ro, có những giải pháp đồng bộ, hửu hiệu mới có thể
ngăn ngừa bớt rủi ro.

17
1.5.2 Các loại rủi ro thường gặp trong hoạt động tín dụng.
Ở nước ta vấn đề rủi ro trong kinh doanh ngân hàng và vấn đề quản lý nó
không còn mới mẻ. Với sự non yếu về nghiệp vụ ngân hàng đồng thời hoạt động
trong môi trường đầy rủi ro, vấn đề nhận thức rủi ro đặc thù và quản lý nó đang là
vấn đề cấp bách trong hệ thống ngân hàng cả nước. Bộ máy quản lý ngân hàng kém
năng động, rủi ro càng dể phát sinh. Khiến nó không thể hiện được hết khả năng
vốn có của mình, thiệt hại cho nền kinh tế sẽ xảy ra.
Rủi ro ngân hàng không những là nổi ám ảnh của hệ thống ngân hàng một
nước mà còn là nổi ám ảnh chung của hệ thống ngân hàng trên thế giới. Những bất

ngờ luôn xẩy ra ngay cả đối với các ngân hàng có đội ngũ nhân sự giỏi nhất, nhiều
kinh nghiệm nhất cũng khó lường trước được rủi ro. Vì thế nhận thức được rủi ro
trong tín dụng là những vấn đề thời sự cho hệ thống ngân hàng. Có các loại rủi ro
chính thường xẩy ra trong hoạt động tín dụng như:
+ Rủi ro thanh toán tiền vay: Khi người đi vay không thanh toán hoặc không
thanh toán đầy đủ tiền vay khi đến hạn do tình hình kinh doanh gập khó khăn, dẫn
đến mất khả năng thanh toán tạm thời hoặc vĩnh viễn hay người đi vay cố ý không
trả tiền vay do ý đồ chiếm dụng hoặc lừa đảo.
+ Số tiền thu về (cả gốc và lãi) không bù đắp được số vốn mà ngân hàng cho
vay đó bỏ ra để cho vay.
+ Rủi ro khi có sự thay đổi tỷ giá hối đoái: Do các khoản cho vay bằng
ngoại tệ ngày càng tăng, cùng với các nghiệp vụ khác nên các ngân hàng phải trực
tiếp tham gia vào thị trường hối đoái. Từ lúc ký hợp đồng cho vay đến khi giải ngân
xong nên ngân hàng cần có một khoảng thời gian nhất định. Do đó khó tránh khỏi
những rủi ro xảy ra khi tỷ giá hối đoái thay đổi.
+ Rủi ro khi có sự thay đổi lãi suất bình quân trên thị trường ảnh hưởng đến
mức lãi suất ngân hàng đang áp dụng trong các giao dịch cho vay. Lãi suất cho vay
của các ngân hàng thương mại được xác định trên lãi suất bình quân trên thị trường
và chính sách lãi suất của ngân hàng. Mức lãi suất này được áp dụng cho người đi
vay trong suốt thời gian vay (hợp đồng vay lãi suất cố định). Vì vậy trong thời gian
18
đó, nếu có sự biến động lớn về lãi suất sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động
của ngân hàng đặc biệt là khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Rủi ro
về tài sản đảm bảo biến động về giá cả. Rủi ro này xảy ra khi các tài sản đảm bảo bị
thay cốt lõi hoặc bị chiếm đoạt hay mất trộm… điều này gây cho ngân hàng tổn thất
khi thanh lý để bù đắp khoản vay.
Để thực hiện việc cho vay một cách cho vay có hiệu quả, điều không thể
không làm là phòng ngừa và hạn chế rủi ro xuống mức thấp nhất, vừa đảm bảo cho
vay có điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh trong khi bên cho vay vẫn thu hồi
được gốc và có lãi.

1.5.3 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
1.5.3.1 Nguyên nhân bất khả kháng
Đây là những nguyên nhân gây nên rủi ro cho hoạt động kinh doanh của
ngân hàng cho vay không xuất phát từ cán bộ cho vay hay ý thức trả nợ của khách
hàng mà do môi trường bên ngoài tác động vào. Nguyên nhân này xuất hiện đột
ngột, khó đoán, khó kiểm soát, nó thường gây ra những thiệt hại lớn cho khách hàng
và ngân hàng cho vay. Bao gồm các nguyên nhân cụ thể sau.
Do sự thay đổi chính sách của Chính Phủ
Nước ta đang thực hiện quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế
thị trường. Do đó phải tuân thủ và chấp nhận sự biến động theo quy luật của nền
kinh tế thị trường. Mỗi khi nền kinh tế biến động lên, xuống thì lập tức chính phủ
phải đưa ra các chính sách kinh tế mới phù hợp với điều kiện hiện hành nhằm hạn
chế ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế đất nước. Các chính sách của Chính Phủ thường
xuyên quan tâm và có sự thay đổi kịp thời là:
+ Chính sách tài chính: Chính sách này liên quan đến cơ chế thu chi ngân
sách chính phủ.
+ Chính sách tiền tệ: Chính phủ sử dụng các công cụ như: lãi suất chiết khấu,
dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở… Để điều chỉnh mức cung ứng tiền tệ khi
có biến động xảy ra.
19
+ Chính sách đầu tư phát triển: Đây là những chính sách mà khi chính phủ
điều chỉnh sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp cho các ngân hàng thương mại, thường là
những ảnh hưởng không tích cực cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương
mại. Tuy nhiên nếu ngân hàng thương mại nắm bắt được thông tin kinh tế kịp thời
thì sẽ hạn chế được rủi ro xảy ra.
Nguyên nhân từ phía môi trường pháp lý.
Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại liên quan đến nhiều
lĩnh vực của nền kinh tế, mang tính xã hội cao, khi hệ thống pháp luật ổn định và
lành mạnh thì môi trường kinh doanh của ngân hàng thương mại sẽ có nhiều thuận
lợi. Ngược lại nếu môi trường pháp lý thiếu đồng bộ, có nhiều khe hở thì rất rể bị

lợi dụng gây ra tình trạng tham ô, chiếm đoạt tài sản… Kinh tế xã hội kém ổn định
dẫn đến kinh doanh gặp nhiều khó khăn, ngân hàng cho vay gặp rủi ro.
Môi trường tự nhiên.
Những biến động lớn về thời tiết, khí hậu gây ảnh hưởng hoạt động sản xuất
kinh doanh đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, điều kiện tự nhiên là yếu tố
khó dự đoán, nó thường xảy ra bất ngờ với thiệt hại lớn ngoài tầm kiểm soát của
con người. Vì vậy khi có thiên tai dịch hoạ xảy ra khách hàng cùng các ngân hàng
cho vay sẽ có nguy cơ tổn thất lớn, phương án, dự án kinh doanh không có nguồn
thu… Điều đó đồng nghĩa với các ngân hàng cho vay phải cùng chia sẻ rủi ro với
khách hàng của mình. Ở Việt Nam do thời tiết diễn biến phức tạp nên môi trường tự
nhiên đươc coi là nguyên nhân gây ra rủi ro cho hoạt động kinh doanh của các ngân
hàng cho vay khi đầu tư phát triển các thành phần kinh tế.
Môi trường kinh tế xã hội.
Môi trường kinh tế xã hội trong một nước biến động chịu ảnh hưỏng của
những biến động từ nền kinh tế thế giới, đó là nguyên nhân làm phát sinh rủi ro
trong hoạt động kinh doanh của nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng tới các lĩnh vực kinh
tế trong đó hoạt động kinh doanh tiền tệ chứa nhiều nguy cơ rủi ro lớn nhất.
Sự thay đổi các mối quan hệ quốc tế, các quan hệ ngoại giao của chính phủ
cũng là nguyên nhân gây ra rủi ro lớn cho hoạt động cho vay của ngân hàng cho vay.
20
Bên cạnh đó hoạt động cho vay phụ thuộc rất nhiều thói quen, truyền thống,
tập quán của ngươi dân. Những yếu tố đó nhiều khi gây khó khăn và hạn chế mở
rộng hoạt động cho vay của các ngân hàng cho vay.
Tất cả những nguyên nhân khách quan trên nếu không được dự báo và có
biện pháp phòng ngừa kịp thời sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường kinh doanh
và điều kiện kinh doanh của ngân hàng cho vay và khách hàng vay vốn.
Khi khách hàng gặp phải rủi ro do nguyên nhân khách quan gây nên, họ
không còn đủ khả năng thực hiện cam kết trong hợp đồng cho vay thì việc tốt nhất
ngân hàng cho vay có thể làm là giúp đỡ hỗ trợ khách hàng để họ khôi phục lại hoạt
động kinh doanh tạo nguồn trả nợ cho ngân hàng cho vay.

1.5.3.2 Nguyên nhân từ phía khách hàng.
Các yếu tố chủ quan từ phía bên đi vay chính như: Khả năng kinh doanh yếu
kém hay bên đi vay có hành vi lừa đảo, vi phạm pháp luật… Cũng gây nên các tổn
thất cho các ngân hàng cho vay. Trường hợp này nếu bên cho vay (ngân hàng cho
vay) phát hiện ra sớm thì rủi ro có thể được ngăn chặn.
Hiện nay cùng với chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bên đi vay thường
gặp rủi ro sau:
- Thiệt hại từ phía thị trường đầu vào: Giá cả của các yếu tố đầu vào tăng cùng
với các chi phí phục vụ cho sản xuất tăng làm giảm đi nguồn dự thu, dự tính của
khách hàng, như vậy việc trả nợ cho các ngân hàng cho vay sẽ gặp nhiều khó khăn.
- Do thị trường đầu ra: Thị trường đầu ra nếu có biến động phức tạp, giá cả
giảm thấp cũng làm nguồn thu của khách hàng không đảm bảo. Ngoài ra, sự thay
đổi thị hiếu tiêu dùng, cung vượt quá cầu, hoạt động maketing yếu kém… cũng gây
nên tình trạng ứ đọng sản phẩm làm ảnh hưởng tới nguồn trả nợ cho các ngân hàng
cho vay.
- Rủi ro về khả năng tài chính của khách hàng: Nguồn vốn tự có hay thu
nhập của khách hàng nhỏ, khách hàng sẽ không có khả năng tự vực dậy khi gặp khó
khăn vì vậy cũng sẽ mất khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng cho vay.
21
Ngoài những nguyên nhân trên còn phải kể đến ý thức trả nợ của bên đi vay
nhiều khi chưa tốt, nhiều đối tượng khách hàng sau khi nhận được tiền vay rồi bỏ
trốn gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngân hàng cho vay.
Những tiêu chí trên cùng với những tiêu chí định lượng để ngân hàng xếp
hạng khách hàng.
1.5.3.3 Nguyên nhân từ phía ngân hàng.
- Do chính sách của ngân hàng cho vay không phù hợp, thiếu sự kiểm soát
chặt chẽ hoặc đặt mục tiêu lợi nhuận quá cao. Chúng ta đều biết đặc điểm của kinh
doanh tiền tệ là: Lợi nhuận cao luôn đi cùng với rủi ro cao, các ngân hàng cho vay
phải biết lựa sức mình để xác định lợi nhuận hợp lý cho ngân hàng của mình
- Trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ cho vay yếu kém

dẫn đến cán bộ cho vay không đánh giá chính xác về khách hàng và phương án vay
vốn, từ đó làm phát sinh những hợp đồng cho vay kém an toàn. Mức độ rủi ro trong
trường hợp này sẽ ngày càng tăng dần trong suốt quá trình kể từ khi xét duyệt đến
khi giám sát và cuối cùng là thu nợ. Cùng với sự hạn chế về trình độ là vấn đề phẩm
chất đạo đức của cán bộ cho vay. Đặc thù nghề nghiệp buộc một cán bộ tín dụng
không những có trình độ mà còn phải có đạo đức tốt. Trước sự cám dỗ của vật chất,
nhiều cán bộ cho vay đã xa ngã, có thể hành động vô nguyên tắc, vô tổ chức, làm trái
quy định, móc ngoặc với khách hàng, ngây tổn thất to lớn với ngân hàng cho vay.
Ngoài ra còn các nguyên nhân gây rủi ro từ vấn đề bảo đảm tiền vay.
Trong hoạt đông cho vay, việc đảm bảo tài sản cho các khoản vay được định
giá gốc và ký kết giữa ngân hàng cho vay và khách hàng vay. Rủi ro có thể xảy ra
do ngân hàng cho vay không đánh giá đúng giá trị tài sản đảm bảo hoặc giá trị tài
sản thế chấp có biến động theo chiều hướng xấu.
Tóm lại: Việc nghiên cứu các guyên nhân gây nên rủi ro cho vay có ý nghĩa
rất quan trọng giúp các ngân hàng cho vay đưa ra được những giải pháp hữu hiệu
nhằm ngăn chặn rủi ro xảy ra cho hoạt động kinh doanh của mình.
1.5.4 Tác động của rủi ro trong hoạt động tín dụng.
1.5.4.1 Rủi ro làm phát sinh tăng chi phí giảm lợi nhuận.
22
Khi các ngân hàng cho vay xuất hiện những khoản nợ quá hạn, việc đầu tiên
là các ngân hàng cho vay phải tìm cách thu hồi nợ. Việc thu hồi nợ quá hạn vừa làm
mất thời gian của cán bộ cho vay, vừa làm tăng khoản chi phí về đi lại để lấy nợ.
Nếu các khoản nợ này có liên quan đến nhiều bên thì ngân hàng cho vay phải chi
phí về cả thời gian lẫn tiền cho công việc thương lượng, gặp gỡ các bên trong quá
trình xử lý nợ. Đây là những chi phí trước mắt mà các ngân hàng cho vay phải bỏ
ra. Bên cạnh đó các ngân hàng cho vay phải bỏ ra chi phí cơ hội rất lớn: Các khoản
nợ quá hạn làm chậm lại vòng quay vốn tín dụng, làm mất đi các khoản đầu tư khác
của mình, đó là chưa kể đến sự ảnh hưởng lớn của nợ qúa hạn với tâm lý cuả cán bộ
cho vay. Nợ quá hạn phát sinh làm cho cán bộ tín dụng phải mất thời gian xử lý nợ,
không tiếp cận được những món vay mới đồng thời còn làm cho cán bộ cho vay

ngần ngại mở rộng hoạt động cho vay… Tất cả những vấn đề này làm giảm thu
nhập tiềm ẩn và làm tăng chi phí cho các ngân hàng cho vay, từ đó làm ảnh hưởng
tới kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng cho vay.
1.5.4.2 Rủi ro làm giảm uy tín của các ngân hàng
Các ngân hàng cho vay khi gặp rủi ro, kinh doanh kém hiệu quả, uy tín sẽ bị
giảm sút trên thị trường. Đây là sự thiệt hại vô hình mà không thể lường được giá trị.
1.5.4.3 Rủi ro trong hoạt động cho vay còn gây ra tổn thất gián tiếp cho
các ngân hàng khác
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nó liên quan
đến mọi ngành, mọi thành phần kinh tế, là khâu cốt yếu cung cấp vốn cho nền kinh
tế. Vì vậy, ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến chính sách tiền tệ, đến công cụ điều tiết
vĩ mô của nhà nước. Nếu có sự thất thoát lớn trong hoạt động tín dụng dù chỉ ở một
ngân hàng cho vay trực thuộc, không khắc phục kịp thời thì có thể gây nên “phản
ứng dây truyền” đe doạ đến an toàn và ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng, gây
hậu quả rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế.
Hiện nay ở Việt Nam, dư nợ cho vay chiếm phần lớn trong dư nợ tín dụng
của ngân hàng thương mại và phi ngân hàng, đây sẽ là hoạt động kinh doanh chính
của ngân hàng thương mại là điều kiện cần phát triển trong cho nền kinh tế, việc các
23
ngân hàng thương mại gặp rủi ro, bị tổn thất sẽ gây ảnh hưởng lớn đến hệ thống
ngân hàng và gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế.
1.5 Những bài học kinh nghiệm về quản lý tín dụng tại các ngân hàng
trong và ngoài nước
1.5.1 Bài học từ ngân hàng ngoài nước
Khủng hoảng nợ dưới chuẩn tại Mỹ (sub-prime) năm 2007, đã gây thiệt hại
nặng nề cho nền kinh tế Mỹ, tạo ra các khoản lỗ lên tới hàng trăm tỷ USD cho các
ngân hàng đầu tư lớn trên thế giới. Kết quả kinh doanh của các ngân hàng đầu tư
lớn tại phố Wall được công bố trong những tháng đầu năm 2008 lần lượt cho thấy
các khoản tổn thất khổng lồ (write-down) trong năm 2007. Và ảnh hưởng của cơn
bão tín dụng nợ dưới chuẩn còn tiếp tục kéo dài trong năm 2008.

Nợ dưới chuẩn được hiểu là các khoản cho vay các đối tượng có mức tín
nhiệm thấp. Những đối tượng đi vay này thường là những người nghèo, không có
công ăn việc làm ổn định, vị thế xã hội thấp hoặc có lịch sử thanh toán tín dụng
không tốt trong quá khứ. Những đối tượng này tiềm ẩn rủi ro không có khả năng
thanh toán nợ đến hạn và do đó rất khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng
truyền thống, vốn chỉ dành cho những đối tượng trên chuẩn.
Chính vì vậy, nợ dưới chuẩn có mức độ rủi ro tín dụng rất cao song bù lại có
mức lãi suất cũng rất hấp dẫn. Tại Mỹ, nợ dưới chuẩn được thực hiện đối với các
sản phẩm cho vay thế chấp mua nhà (mortgage), thế chấp mua trả góp ô tô, thẻ tín
dụng Các đối tượng tín dụng dưới chuẩn phần nhiều là dân nhập cư vào Mỹ.
- Nguyên ngân khủng hoảng
Sự bùng nổ của cho vay nợ dưới chuẩn bắt nguồn sâu xa từ sự bất cân đối về
nguồn vốn tín dụng toàn cầu trong những năm gần đây.
Trong khi nguồn vốn tín dụng gia tăng từ các chính sách tiền tệ mở thì nhu
cầu huy động vốn của các doanh nghiệp sau các bê bối tài chính tại Mỹ như Enron,
Worldcom và khủng hoảng các công ty công nghệ thông tin từ năm 2001 lại suy
giảm. Các chính phủ cũng ngày càng kiểm soát thâm hụt ngân sách để tránh việc
vay nguồn vốn bên ngoài.
24
Sự bất cân đối cung cầu về vốn dẫn đến việc thừa các nguồn vốn mà thị
trường không sử dụng hiệu quả. Cho vay nợ dưới chuẩn là một giải pháp để giải
quyết bài toán thừa vốn nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Việc cho vay nợ dưới chuẩn một
cách thái quá trong một thời gian ngắn dẫn đến việc mất kiểm soát chất lượng tín
dụng, chính là nguyên nhân tạo nên cuộc khủng hoảng tín dụng 2007.
- Hậu quả nặng nề
Hậu quả của cuộc khủng hoảng tín dụng cho nước Mỹ và thế giới là rất lớn.
Thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán bị ảnh hưởng nặng nề. Thị
trường trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa bị mất khả năng thanh khoản.
Ngành xây dựng Mỹ đóng góp 15% GDP có thể phải cắt giảm một nửa sản lượng
và cắt 1-2 triệu công việc.

Các khoản cho vay thế chấp không có khả năng thu hồi và giá trị tài sản đảm
bảo từ những ngôi nhà bị sụt giảm là nguyên nhân giá trị đánh giá lại (mark to
market) của các gói trái phiếu phát hành bị giảm giá không phanh, đặc biệt là các
gói trái phiếu có rủi ro cao (gói Z). Các nhà đầu tư nắm giữ trái phiếu hình thành từ
chứng khoán hóa nợ dưới chuẩn là người chịu hậu quả nặng nề. Dự báo số tổn thất
do giảm giá trị trái phiếu cho toàn thị trường lên tới khoảng 220 tỷ – 450 tỷ USD.
Hàng loạt ngân hàng đầu tư trót nắm giữ các gói trái phiếu rủi ro mà chưa
kịp chuyển giao cho thị trường đã phải ghi nhận các khoản tổn thất lên đến hàng
trăm tỷ USD như Citi (21 tỷ USD), Merrill Lynch (25 tỷ USD), UBS (18 tỷ USD),
Morgan Stanley (10 tỷ USD), JP Morgan (2,2 tỷ USD), Bear Stearns (2 tỷ USD),
Lehman Brothers (1,5 tỷ USD), Goldman Sachs (1,3 tỷ USD). Tổng thiệt hại tài
chính của các ngân hàng đầu tư trong năm 2007 ước tính lên tới gần trăm tỷ USD.
Citi và Merrill Lynch phải cầu viện tăng vốn khẩn cấp từ các quỹ đầu tư Châu Á.
Hàng ngàn nhân viên phố Wall bị sa thải.
Không chỉ thiệt hại về giảm giá trái phiếu, mảng kinh doanh béo bở từ chứng
khoán hóa của các ngân hàng đầu tư cũng bị tạm ngưng hoạt động. Cổ phiếu các
ngân hàng đầu tư rớt thảm hại trong 6 tháng cuối năm 2007. Với tổn thất nặng nề
25
này, các ông chủ phố Wall lần lượt phải ra đi, cụ thể là các ông chủ UBS, Citigroup,
Merrill Lynch và Bear Stearns.
- Kết luận
Cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn 2007 của Mỹ bắt nguồn từ sự quản lý lỏng
lẻo trong cho vay tín dụng dưới chuẩn và từ lòng tham của thị trường. Chứng khoán
hóa là một công cụ tài chính thông minh song đã bị lợi dụng vào việc xấu gây nên
hậu quả khôn lường. Các nhà đầu tư cần thấu hiểu các rủi ro trước khi mua các sản
phẩm tài chính phức tạp nhằm tránh những tổn thất nặng nề. Đây là những bài học
không thừa cho bất cứ quốc gia nào trong quá trình hội nhập và phát triển.
1.5.2 Bài học từ ngân hàng trong nước
Thị trường thế giới vẫn chưa ổn định, bất chấp sự can thiệp mạnh mẽ của
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ - FED (phối hợp với ngân hàng trung ương các nước G7

khác) trong thời gian qua, kéo theo khả năng xảy ra một cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu lớn hơn.
Những gì được coi là căn bệnh tín dụng của riêng nước Mỹ nay đã xuất hiện
ở nhiều nơi: khủng hoảng về cho vay dưới chuẩn của Mỹ đã lan sang châu Âu và
các thị trường đang phát triển; khủng hoảng tín dụng đã biến hình thành khủng
hoảng niềm tin của người tiêu dùng và nhà đầu tư vào khả năng của các cơ quan
điều hành chính sách tiền tệ trên thế giới.
Không dừng ở đó nó cũng đã ảnh hưởng đối với Việt Nam:
Trong ngắn hạn, ảnh hưởng trực tiếp của khủng hoảng toàn cầu đối với nước
ta là không lớn do nước ta chịu tác động gián tiếp hơn tác động trực tiếp, hệ thống
ngân hàng Việt Nam chưa có nhiều hoạt động giao thương trực tiếp với các trung
tâm tài chính và các luồng chuyển dịch tiền thế giới.
Nhưng xét về mặt dài hạn, những tác động này có thể trở nên sâu rộng hơn.
Cuộc khủng hoảng hiện nay có thể biến thành một sự vỡ vụn tín dụng nghiêm trọng
của nền kinh tế Mỹ, nơi mà: các ngân hàng lo sợ không dám cho các ngân hàng
khác vay do chưa xác định được rõ rủi ro tín dụng trong bản thân các ngân hàng

×