Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận xóa đói giảm nghèo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (634.01 KB, 23 trang )

A. Đặt Vấn Đề:
Đói nghèo đang là vấn đề xã hội bức xúc và nóng bỏng của các quóc gia trên
thế giới. vì vây, đây là vấn đề đuợc các chính phủ, các nhà lãnh đạo, các tổ chức
quốc tế quan tâm để tìm các giải pháp hạn chế và tiến tới xoá bỏ nạn đói nghèo
trên phạm vi toàn cầu.
Chính phủ VIỆT NAM coi vấn đề xoá đói giảm nghèo là mục tiêu xuyên suốt
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cũng như VIỆT NAM đã
công bố cam kết thực hiện các mục tiêu phát triển quốc tế đã được nhất trí tại HÀ
NỘI nghị thượng đỉnh các quốc gia năm 2000. công cuộc xoá đói giảm nghèo ở
VIỆT NAM đã đạt được những thành tựu đáng kể và được quốc tế đánh giá cao.
Xoá đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng
bền vững, ngược lại chỉ có tăng trưởng cao, bền vững mới có sức mạnh vật chất để
hổ trợ và tạo cơ hội cho người nghèo vươn lên và thoát khỏi đói nghèo. Do đó,
được coi là một bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển kinh tế -xã hội 10
năm (2001-2010). Và kế hoạch 5 năm (2001-2005) và hành năm của cả nước,các
nghành và các địa phương. Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm
nghèo là văn kiện cụ thể hoá các mục tiêu, cơ chế, chính sách, giải pháp chung của
của chiến lược 10 năm thành các giải phápcụ thể kèm theo tiến độ thực hiện.
B NỘI DUNG:
Công tác xóa đói giảm nghèo trong những năm gần đây đã trở thành một
phong trào rộng lớn trong cả nước, là một trong những công tác trọng tâm và là
nhiệm vụ của tất cả các cấp, các ngành. Ngành nông nghiệp – PTNT lại càng phải
coi đây là một trong những trọng trách của mình. Hiện nay, công tác khuyến nông
đã có sự chỉ đạo, ưu tiên đầu tư hỗ trợ đặc biệt cho các xã nghèo
I THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO Ở VIỆT NAM
Đói nghèo là gì?
- Nghèo đói là trình trạng một số dân không được hưởng và thỏa mãn nhu
cầu của con người đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế _
xã hội và phong tục tập quán của địa phương.
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống tối thiểu không thỏa
mãn nhu cầu về ăn, mặt, ở, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp.


Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống nhỏ hơn mức sống
tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống.
Theo quyết định của thủ tướng chính phủ Việt Nam 170/2005/QĐ-TTg ký
ngày 08 Tháng 07 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn
2006 -2010 :
- Khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000
đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
- Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 260.000
đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Thực trạng đói nghèo:
- Cho đến năm 2009, theo chuẩn nghèo trên, cả nước Việt Nam hiện có
khoảng 2 triệu hộ nghèo, đạt tỷ lệ 11% dân số.
- Cả nước có 3,9 triệu hộ nghèo (22%).
- Trong đó có sự khác nhau giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng với nhau.
Cao nhất: Tây Bắc: 42%
Tây NguyênĐông Nam Bộ: 9%
(Theo Bộ Lao động - Thương binh xã hội : 38%
Thấp nhất: Việt Nam)
Nghèo đói vẫn tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn, hiện nay số người nghèo
sống ở nông thôn là 90% (còn ở thành thị là 10%) trong đó 45% sống ở dưới
ngưỡng nghèo (theo World Bank)
Năm 1998 gần 80% người nghèo nông thôn ở Việt Nam canh tác trên mảnh đất
của họ, khoảng 205 không có đất tập trung ở miền Nam. Ở miền Bắc và miền Trung
Việt Nam, người nghèo nông thôn vẫn có đất và các tài nguyên cơ bản.
Thi ?u
v ?n
Thi ?u
d ?t
Thi ?u


Thi ?u
KN
B?nh t ?t T ? n ?n R ?i r o
Ðông
ngu ?i
C? nu ? c
63,69 20,82 11,40 31,12 16,94 1,18 1,65 13,60
Ðông B?c
55,20 21,38 8,26 33,45 7,79 2,03 1,26 12,08
Tây B?c
73,60 10,46 5,56 47,37 5,78 0,58 0,52 9,39
Ð?ng B?ng Sông
H?ng
54,96 8,54 17,50 23,29 36,26 1,46 2,39 7,30
B?c Tr ung B?
80,95 18,96 14,60 50,65 14,42 0,80 1,92 16,61
DH Nam Tr ung B?
50,84 12,59 10,80 17,57 31,95 0,83 1,34 20,71
Tây Nguyên
65,95 26,12 7,76 27,11 9,03 1,22 1,32 13,72
Ðông Nam B?
79,92 20,08 8,64 20,60 17,54 0,37
0,39
9,50
Ð?ng B?ng Sông
C? u Long
48,44 47,73 5,47 5,88 4,22 0,87
1,80
11,95
Hạng mục Giá trị năm

Sản lượng ngô (kg/ha) 4048.5 2000
Đất ở, đất trồng trọt (ha/người) 0.07 1999
Đất ở, đất ruộng 41 1999
Nông nghiệp, giá trị tăng thêm (% GDP) 24 2000
390 2000
Dân số, tổng số
78.522.70
4
2000
Dân số nông thôn (% tổng dân số) 76 2000
Suy dinh dưỡng, chiều cao (% trẻ dưới 5 tuổi) 39 1999
Suy dinh dưởng, cân nặng (% trẻ dưới 5 tuổi) 38 1999
Cân nặng sau khi sinh (% sau sinh) 11 1994
Nghèo đói quốc gia (% dân số) 51 1993
Nghèo đói nông thôn (% dân số) 57 1993
Chỉ số GINI 36 1998
Tỷ lệ tử vong trẻ dưới 7 tuổi (trên 1000 đứa bé sinh ra) 27.5 2000
97 1998
Diện tích bề mặt (km
2
) 331.690 2000
Hệ thống đường (km) 93.300 1999
Giữa miền núi và miền xuôi cũng có sự khác biệt lớn.Tỷ lệ hộ nghèo ở khu
vực miền núi vẫn còn cao, gấp từ 1,7 đến 2 lần tỷ lệ hộ nghèo bình quân của cả
nước.
Năm 2002 tỷ lệ nghèo theo chuẩn quốc gia của Việt Nam là 12.9%, theo
chuẩn thế giới là 29% và tỷ lệ nghèo lương thực là 10.87%.
Việt Nam xếp hạng 41 trên 95 nước năm 2004
II.Nguyên nhân nghèo ở Việt Nam
Có nhiều quan điểm về nguyên nhân gây ra nghèo đói ở Việt Nam nhưng

nói chung nghèo đói ở Việt Nam có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan
như sau[cần dẫ
• Nguyên nhân lịch sử, khách quan:
- Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu vừa trải qua một cuộc chiến
tranh lâu dài và gian khổ, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, ruộng đồng bị bỏ hoang, bom
mìn, nguồn nhân lực chính của các hộ gia đình bị sút giảm do mất mát trong chiến
tranh, thương tật, hoặc phải xa gia đình để tham gia chiến tranh, học tập cải tạo
trong một thời gian dài.
- Chính sách nhà nước thất bại: sau khi thống nhất đất nước việc áp dụng
chính sách tập thể hóa nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp và chính sách giá
lương tiền đã đem lại kết quả xấu cho nền kinh tế vốn đã ốm yếu của Việt Nam
làm suy kiệt toàn bộ nguồn lực của đất nước và hộ gia đình ở nông thôn cũng như
thành thị, lạm phát tăng cao có lúc lên đến 700% năm.
- Hình thức sở hữu: việc áp dụng chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước
và tập thể của các tư liệu sản xuất chủ yếu trong một thời gian dài đã làm thui chột
động lực sản xuất.
- Việc huy động nguồn lực nông dân quá mức, ngăn sông cấm chợ đã làm
cắt rời sản xuất với thị trường, sản xuất nông nghiệp đơn điệu, công nghiệp thiếu
hiệu quả, thương nghiệp tư nhân lụi tàn, thương nghiệp quốc doanh thiếu hàng
hàng hóa làm thu nhập đa số bộ phận giảm sút trong khi dân số tăng cao.
- Lao động dư thừa ở nông thôn không được khuyến khích ra thành thị lao
động, không được đào tạo để chuyển sang khu vực công nghiệp, chính sách quản
lý bằng hộ khẩu đã dùng biện pháp hành chính để ngăn cản nông dân di cư, nhập
cư vào thành phố.
- Thất nghiệp tăng cao trong một thời gian dài trước thời kỳ đổi mới do
nguồn vốn đầu tư thấp và thiếu hệu quả vào các công trình thâm dụng vốn của Nhà
nước.
• Nguyên nhân chủ quan: sau 20 năm đổi mới đến năm 2005 kinh tế đã đạt được một
số thành tựu nhưng số lượng người nghèo vẫn còn đông, có thể lên đến 26% (4,6
triệu hộ) do các nguyên nhân khác như sau:

-Sai lệch thống kê: do điều chỉnh chuẩn nghèo của Chính phủ lên cho gần với
chuẩn nghèo của thế giới (1USD/ngày) cho các nước đang phát triển làm tỷ lệ
nghèo tăng lên.
o Việt Nam là nước nông nghiệp đến năm 2004 vẫn còn 74,1% dân sống ở nông thôn
trong khi tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc gia thấp. Hệ số
Gini là 0,42 và hệ số chênh lệch là 8,1 nên bất bình đẳng cao trong khi thu nhập
bình quân trên đầu người còn thấp.
o Người dân còn chịu nhiều rủi ro trong cuộc sống, sản xuất mà chưa có các thiết chế
phòng ngừa hữu hiệu, dễ tái nghèo trở lại như: thiên tai, dịch bệnh, sâu hại, tai nạn
lao động, tai nạn giao thông, thất nghiệp, rủi ro về giá sản phẩm đầu vào và đầu ra
do biến động của thị trường thế giới và khu vực như khủng hoảng về dầu mỏ làm
tăng giá đầu vào, rủi ro về chính sách thay đổi không lường trước được, rủi ro do
hệ thống hành chính kém minh bạch, quan liêu, tham nhũng.
o Nền kinh tế phát triển không bền vững, tăng trưởng tuy khá nhưng chủ yếu là do
nguồn vốn đầu tư trực tiếp, vốn ODA, kiều hối, thu nhập từ dầu mỏ trong khi
nguồn vốn đầu tư trong nước còn thấp. Tín dụng chưa thay đổi kịp thời, vẫn còn ưu
tiên cho vay các doanh nghiệp nhà nước có hiệu quả thấp, không thế chấp, môi
trường sớm bị hủy hoại, đầu tư vào con người ở mức cao nhưng hiệu quả còn hạn
chế, số lượng lao động được đào tạo đáp ứng nhu cầu thị trường còn thấp, nông dân
khó tiếp cận tín dụng ngân hàng nhà nước,
- Ở Việt Nam, sự nghèo đói và HIV/AIDS tiếp tục phá hủy từng kết cấu của
tuổi thơ. Các em không được thừa hưởng quyền có một tuổi thơ được thương yêu,
chăm sóc và bảo vệ trong mái ấm gia đình hoặc được khích lệ phát triển hết khả
năng của mình. Khi trưởng thành và trở thành cha mẹ, đến lượt con cái các em có
nguy cơ bị tước đoạt các quyền đó vì các hiểm họa đối với tuổi thơ lặp lại từ thế hệ
này sang thế hệ khác.
- Sự chênh lệch lớn giữa các vùng miền, thành thị và nông thôn, giữa các
dân tộc cao.
- Môi trường sớm bị hủy hoại trong khi đa số người nghèo lại sống nhờ vào
nông nghiệp.

III.Chí .n h sách cho phát triển nông nghiệp nông thôn
Giảm nghèo toàn bộ là mục tiêu của chính sách ở Việt Nam.
Ba việc khẩn trương thực hiện để giảm nghèo:
1. Tạo nhiều cơ hội về việc làm và phát triển sản xuất nhằm tăng thu nhập
cho người nghèo
2. Thông qua sự đo lường để chắc chắn rằng sự phát triển và tiếp cận dịch vụ
là công bằng và hợp lý.
3. Giảm tính dễ bị tổn thương của người nghèo kể cả bệnh tật và mất mùa
Theo nghị định 13 (1993), vai trò của cơ quan khuyến nông như sau :
(i) Phổ biến tiến bộ kỷ thuật trong trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy
sản, công nghiệp hóa, sự tích trử và kỹ thuật sau thu hoạch
. (ii) Phát triển kỹ năng quản lý kinh tế và kiến thức cho nông dân về hiệu quả sản
xuất kinh doanh và
(iii) hợp tác với các tổ chức khác để cung cấp cho nông dân thông tin về giá cả và
thị trường để họ có thể sản xuất và kinh doanh với một phương pháp có hiệu quả
kinh tế.
Hiện tại, cơ quan khuyến nông tập trung chủ yếu phổ biến kỷ thuật cho sản
xuất chính yếu, với 70-80% nguồn tái chính của nó được sử dụng xây dựng mô
hình trình diễn. Các hợp phần khác của chương trình khuyến nông bị giới hạn bởi
sự thiếu hụt kinh nghiệm và khả năng. MARD công nhận văn bản chính sách, tuy
nhiên tổ chức khuyến nông mới chỉ 8 năm, nó vẫn đang phát triển, giử vai trò và
phương pháp làm việc thích hợp. Sự tập trung của khuyến nông được xem như là
sự mở rộng, nhiều vấn đề liên quan đến sinh kế, như kế hoạch kinh doanh, hiệu
quả sử dụng tài chính, phát triển thị trường, phân loại, thu nhập phi nông nghiệp,
những kĩ thuật sau khi thu hoach và quá trình chế biến. Cách làm này thay đổi
trong vai trò cơ quan khuyến nông và cần thiết phải tập trung tập huấn cán bộ
khuyến nông, cả cán bộ hoạt động hiện nay và đào tạo đại học cho cán bộ tương lai
IV. Một số giải pháp :
1. Tạo nhiều cơ hội về việc làm và phát triển sản xuất nhằm tăng thu nhập
cho người nghèo

2. Thông qua sự đo lường để chắc chắn rằng sự phát triển và tiếp cận dịch vụ
là công bằng và hợp lý.
3. Giảm tính dễ bị tổn thương của người nghèo kể cả bệnh tật và mất mùa
→ Để thực hiện được các giải pháp trên cần sự chung tay góp sức của các ban
ngành chức năng, trong đó Khuyến Nông đóng vai trò cực kì quan trọng
Khuyến nông là gì?
• Khuyến nông là một quá trình trao đổi học hỏi kinh nghiệm, truyền bá kiến thức,
huấn luyện tay nghề cho nông dân, trợ giúp những điều kiện vật chất cần thiết
trong sản xuất để họ có đủ khả năng tự giải quyết các vấn đề của họ nhằm phát
triển sản xuất, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho hộ nông dân và cộng đồng
Ở Việt Nam khái niệm xã hội hóa khuyến nông được hiểu rằng khuyến nông
trên thực tế chịu trách nhiệm cho toàn bộ vấn đề xã hội và điều này cho thấy rằng
tất cả các tổ chức có nhiệm vụ góp phần tăng sản phẩm, cải tiến kỹ thuật, mở rộng
kiến thức sản xuất. Trong thực tiễn, chính sách này chủ yếu được thực thi thông
qua tổ chức quần chúng và có những chức năng khuyến nông quan trọng. Một
phần ngân sách nhà nước cho khuyến nông được cấp cho các tổ chức quần chúng
để thực hiện các chương trình liên kết với dịch vụ khuyến nông cấp dưới Bộ
Đội ngủ khuyến nông nhà nước dựa vào kiến thức chuyên ngành và mạng
lưới chuyên nghiệp của họ để cung cấp cho tư nhân những dịch vụ đầu vào. Loại
công việc này có chức năng như các dịch vụ hỗ trợ tư nhân khác, nhưng lúc này có
yếu tố tham nhũng xuất hiện. Cán bộ nhà nước có thể ký kết các hợp đồng khác
nhau để cung cấp trong giới hạn các chương trình nhà nước. Tiền lại quả mà các
cán bộ khuyến nông có dược từ các hoạt động đó thì ít hơn tiền mà nông dân bị
mất khi họ giao dịch trực tiếp, đó là khi người dân sử dụng các nguồn vốn để mua
các yếu tố đầu vào. Nó là một vấn đề nghiêm trọng khi các đầu vào được hỗ trợ bởi
nhà nước hoặc nhà từ thiện.
Đối với dịch vụ tư vấn, người nghèo hướng đến lợi ích nhiều hơn từ sự
truyền thông tin trong giới hạn làng xã, hơn là sự tiếp xúc với cán bộ khuyến nông.
Cán bộ khuyến nông với mục tiêu chính cải thiện đời sống người nông dân là
những người có khả năng lớn cho việc thử nghiệm và phát triển kỷ thuật mới.

Những ý tưởng và kỷ thuật là những thứ có thể liên quan đến người nghèo và thâm
nhập vào các tổ chức cộng đồng và được thảo luận tại cuộc họp làng xã điều này sẽ
tiếp cận nhiều đối với người nghèo
Mặc dù lương của các cán bộ khuyến nông thấp nhưng nói chung sự tận tụy
của họ thì lại rất cao, họ thường làm việc quá giờ để trả lời thắc mắc của nông dân
ngoài các công việc chính thức. Họ thường được ngưỡng mộ trong việc xử lý công
bằng giữa chỉ đạo nhà nước và sự cần thiết của địa phương và tình hình tài chính. Trạm
khuyến nông được tiếp nhận sự hỗ trợ từ các chương trình phát triển tạo ra các nguồn
lực để phân bố thời gian vào các hoạt động khuyến nông trực tiếp tới những nhu cầu
của địa phương và nhu cầu của từng hộ nghèo.
Những hướng hoạt động của khuyến nông vì người nghèo :
Tập trung vào công tác nâng cao năng lực cho người nghèo chủ động trong
sản xuất
→ Để họ tự đối mặt với những khó khăn của chính mình.
Đóng vai trò hỗ trợ và tư vấn, không chỉ đào tạo mà mà còn là sự tự học hỏi,
tập trung hướng đến thị trường, maketting, mở rộng các dịch vụ khuyến nông có sự
tham gia.
Ổn định và tăng thu nhập thực tế từ sản xuất nông nghiệp cho các hộ nghèo.
- Hỗ trợ người nghèo cách làm ăn, thực hiện các mô hình trình diễn trong
thực tiễn sản xuất.
- Thực hiện giải pháp hỗ trợ tín dụng cho người nghèo.
→ Người nghèo tự vươn lên phát triển kinh tế, từng bước thoát nghèo bền vững.
V. Những hoạt động vì người nghèo của khuyến nông:
1. Phổ biến tiến bộ kỷ thuật trong trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy
sản, công nghiệp hóa, sự tích trử và kỹ thuật sau thu hoạch.
- Xây dựng mô hình và chuyển giao khoa học kỹ thuật.
+ Mô hình trình diễn về các tiến bộ khoa học kỹ thuật phù hợp với từng địa
phương.
+Phổ biến kết quả khoa học kỹ thuật từ các mô hình trình diễn ra diện rộng.
2. Phát triển kỹ năng quản lý kinh tế và kiến thức cho người nghèo về hiệu quả sản

xuất kinh doanh
- Tư vấn và dịch vụ.
- Tư vấn hỗ trợ chính sách, pháp luật về đất đai, thị trường, khoa học công
nghệ, quản lý kinh doanh,
-Dịch vụ trong các lĩnh vực như: tập huấn đào tạo, giá cả đầu tư, tín dụng,
cung ứng vật tư kỹ thuật, thiết bị,
- Tư vấn, hỗ trợ, phát triển, ứng dụng công nghệ sau thu hoạch, chế biến
nông lâm thuỷ sản
3. Hợp tác với các tổ chức khác để cung cấp cho nông dân thông tin về giá cả.
VI. Một số mô hình vì người nghèo:
- Đội ngũ khuyến nông nhà nước dựa vào kiến thức chuyên ngành và mạng lưới
chuyên nghiệp của họ để cung cấp cho tư nhân những dịch vụ đầu vào.
Mô hình nuôi gà lông màu theo phương pháp bán công nghiệp, tại xã Cự
Đồng, huyện Thanh Sơn tỉnh Phú Thọ Kết quả: sau 4 tháng nuôi đàn gà rất khỏe,
tỷ lệ sống cao (>90 %, cá biệt có những hộ đạt 100%), sau 4 tháng nuôi, trọng
lượng đạt 2,2 - 2,5 kg/con. Trừ chi phí, các chị đã thu được 14.000 - 16.000
đồng/con
Trà Vinh: Cây hoa nhài xoá đói giảm nghèo cho đồng bào Khmer: trồng xen
với các loại hoa màu khác, vừa ít tốn tiền đầu tư vừa thuận tiện trong việc chăm
sóc mà có hiệu quả cao hơn trồng đơn thuần một cây giống
Chương trình gà thả vườn: có nhiều hộ đã đạt lợi nhuận từ 500.000đ đến
700.000đ cho 100 con gà thịt, trong 3 tháng nuôi.
Mô hình nông – lâm kết hợp: tạo điều kiện cho nuôi trồng thủy sản bền vững
hơn; ngoài ra còn trồng trên 50.000 cây bạch đàn, tràm bông vàng và keo tai tượng
phân tán trong các hộ dân, giúp cho việc bảo vệ môi trường thêm sanh, đẹp.
- Chương trình trồng bắp lai dưới ruộng: đang triển khai thực hiện, gồm 60
ha, cho các xã nghèo.
Mô hình trồng bắp lai trên đất rẫy: thu lợi nhuận bình quân 1.200.000đ cho
1.000m
2

, sản phẩm dễ tiêu thụ.
- Mô hình trồng các giống tre lấy măng (3 giống: Lục Trúc, Điền Trúc và Mạnh Tông).
Do hộ nghèo thường tập trung ở miền núi, trình độ dân trí còn thấp nên khi
hướng dẫn nên có các mô hình thiên về thực hành như:
- Lớp học trên đồng ruộng
- Phương pháp khuyến nông có sự tham gia : MARD định nghĩa khuyến
nông có sự tham gia như là quá trình mà ở đó nông dân và cán bộ khuyến nông
cùng phân tích điều kiện địa phương và sự cần thiết, vạch rõ hoạt động, phương
tiện và đánh giá chúng và phần chi phí của họ. Các báo cáo tổng kết rằng có sự
thuận lợi về các kết quả kỷ thuật có nhiều thích hợp với điều kiện địa phương và ít
phụ thuộc vào sự tác động bên ngoài. Cái không lợi thế là phương pháp làm tập
trung chủ yếu vào sản xuất mà không chú tâm đến sự cần thiết của hộ dân, đặc biệt
là phụ nữ. Nó được bắt đầu bằng sự cần thiết cải tiến toàn bộ kỷ thuật, vì vậy nhu
cầu của nông dân là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của khuyến nông. Sự chỉ
đạo của nhà nước đối với khuyến nông phải thừa nhận thiếu sự phản hồi từ những
nhu cầu của nông dân Có nhu cầu tập huấn cho cán bộ về phương pháp khuyến
nông, bao gồm phương pháp có sự tham gia. Phần lớn báo cáo của nhiều chương
trình thế giới trong các hoạt động là họ cung cấp nhiều cơ hội cho cán bộ để thử
nghiệm nhiều cách làm mới và hình thành các kinh nghiệm mới sau đó họ thích
ứng và tác động trở lại hệ thống nhà nước. Nhiều tổ chức tập trung chủ yếu xây
dựng khả năng và tập huấn cho cán bộ (xem bảng
3.3). Dự án của ngân hàng thế giới ở miền núi phía Bắc hỗ trợ cho nhà
nước thành lập mạng lưới đào tạo về đào tạo kỹ năng kinh doanh và tổ chức. Làm
tăng khả năng của cán bộ cấp xã và cấp huyện để hoạt động tốt trong quản lý phát
triển dự án.
- Mô hình trình diễn
Trong các năm qua, công tác khuyến nông đã có sự chỉ đạo, ưu tiên đầu tư
hỗ trợ đặc biệt cho các xã nghèo; thể hiện ở những hoạt động như: chương trình
huấn luyện đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng những mô hình kinh tế phù hợp,
chương trình khuyến nông trọng điểm. Qua thức tế chúng tôi nhận thấy việc xóa

đói giảm nghèo đã đạt được một số thành tựu :
- Nghèo ở Việt Nam đã giảm trong suốt thập kỷ trước từ 58% năm 1993 xuống
còn 37% năm 1998, theo số liệu thống kê của ngân hàng thế giới. Thu nhập nông
nghiệp tăng hơn 60% trong cùng kỳ, tiêu chuẩn sống đang tăng, điều này phản ánh chỉ
số phát triển của con người. Tỷ lệ số lượng học sinh được cải thiện, chỉ số tài sản của
nông hộ tốt hơn ví dụ như ti vi, xe đạp (Word Bank 1999).
- Bắt đầu từ thiếu ăn trong đầu thập kỷ sau chiến tranh với Mỷ, đến nay đã
có sự thay đổi một cách tương đối bảo đảm an ninh lương thực cho phần lớn người
dân và xuất khẩu sản phẩm một cách đáng kể. Sản xuất lúa bảo đảm an ninh lương
thực cho hầu hết ở vùng nông thôn, nhưng lợi ích của nó giảm đi dẫn đến sự công
nhận rằng việc tăng sản xuất lúa không nên là nhân tối chính để giảm nghèo. Chính
sách quan trọng từ 2000 – 2010 về định hướng thị trường và tăng tiêu chuẩn sống
cho nhóm dể bị tổn thương trong vùng dân tộc thiểu số.
- Tốc độ tăng trưởng khu vực nông thôn cho đến nay là đáng kể. các hướng
đi chính để xóa đói giảm nghèo tổng thể được hiểu là đang được mở rộng dựa trên
tăng trưởng kinh tế cộng với cải cách cơ cấu được mong đợi để thúc đẩy việc làm
và xuất khẩu. Sự phân phối tương đối các nguồn vốn là cơ sở xác thực mối quan hệ
giữa phát triển kinh tế chung và giảm nghèo. Tỷ lệ người nghèo, tính theo chuẩn
nghèo quốc tế, đã giảm liên tục từ hơn 60% vào năm 1990, xuống 58% vào năm
1993, 37% vào năm 1998, 32% vào năm 2000, 29% vào năm 2002 và còn 18,1%
vào năm 2004
- Năm (2006) có khoảng 10,8% số hộ được xếp vào loại thiếu ăn (nghèo
lương thực) theo chuẩn nghèo quốc tế.
- Căn cứ vào chuẩn nghèo quốc gia do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
ban hành, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ hơn 30% năm 1990, 30% vào năm 1992,
15,7% năm 1998 xuống xấp xỉ 17% vào năm 2001(2,8 triệu hộ) và 10% năm 2000.
Từ năm 1992 đến 2004, tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam đã giảm từ 30% xuống
còn 8,3%. Tính đến tháng 12-2004, trên địa bàn cả nước có 2 tỉnh và thành phố cơ
bản không còn hộ nghèo theo tiêu chuẩn; có 18 tỉnh tỷ lệ nghèo chiếm 3-5%; 24
tỉnh có tỷ lệ nghèo chiếm 5-10% Đáng kể trong chương trình Xóa đói giảm

nghèo là những xã nằm trong diện 135 (xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn) đã có
những thay đổi biến chuyển rõ nét. Nếu năm 1992, có tới 60-70% số xã nghèo
trong diện 135, thì đến năm 2004 giảm xuống còn khoảng 20-25%.
- Số hộ nghèo của năm 2004 là 1,44 triệu hộ, tỷ lệ nghèo là 8,3%, đến cuối
năm 2005 còn khoảng dưới 7% với 1,1 triệu hộ. Như vậy tỷ lệ hộ nghèo năm 2005
đã giảm khoảng 50% so với năm 2000.
 Số hộ nghèo giảm từ 58,1% năm 1990 xuống còn 14,5% năm 2008 và 11% vào
cuối năm 2009( Dựa vào tiêu chuẩn Việt Nam)
 Năm 2009, tỷ lệ nhập học tiểu học là 97% và 88,5% trẻ em đi học đã hoàn
thành 5 năm tiểu học.
 Tỷ lệ phụ nữ tham gia hoạt động kinh tế năm 2010 ước đạt 83%, trong khi của
nam giới là 85%.
 Tỷ lệ tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi giảm từ 58/1.000 ca đẻ sống năm 1990 xuống
còn 24,4 năm 2009.
 Tỷ lệ tử vong mẹ đã giảm từ 233 ca chết trên 100.000 ca sinh sống vào năm 199
xuống còn 69 ca vào năm 2009.
 Diện tích rừng bao phủ tăng từ 27,8 % năm 1990 lên khoảng 40% năm 2010. Ngày nay
có khoảng 83% dân số vùng nông thôn có thể tiếp cận nước sạch.
Mặc dù đã đạt được một số thành tựu đáng nhưng công tác khuyến nông còn
gặp phải một số khó khăn như:
- Mặt bằng dân trí đối với các xã nghèo còn thấp. nên khó khăn cho việc
chuyển giao các TBKT.
- Do đời sống kinh tế còn khó khăn, bận rộn làm ăn mưu sinh, nên khi tập
huất kỹ thuật ít tham gia, kể cả những lớp có hỗ trtợ tiền ăn; hoặc có tham gia
cũng ít tập trung tư tưởng để nghe giảng, ít tham gia phát biểu, thảo luận.
- Vốn ít, hoặ0c không có vốn đầu tư cho sản xuất, nên ngoài nguồn vốn được
hỗ trợ, không đầu tư thêm, hoặc đầu tư không đầy đủ, nên dễ bị rủi ro và hiệu quả
thấp.
- Ít quan tâm đến việc hạch toán hiệu quả kinh tế, không ghi chép tỉ mỉ
các khoản chi, khoản thu, nên khó đánh giá chính xác hiệu quả của mô hình.

- Khó tuyên truyền nhân ra diện rộng, do qui mô nhỏ, hiệu quả thấp.
Để khắc phục những khó khăn trên cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
- Cần xây dựng những dự án khuyến nông qui mô nhỏ, đầu tư hỗ trợ đồng
bộ, vốn vừa phải, chu kỳ sản xuất ngắn và chọn những đối tượng cây trồng, vật
nuôi không yêu cầu kỹ thuật quá cao.
- Kết hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các ngành, các cấp trong việc thực hiện
cách iảm ngdự án xóa đói giảm nghèo, nhất thiết khi cho vay vốn phải được trang
bị về công tác kỹ thuật.
- Không nên đầu tư dàn trải, nên đầu tư trọng tâm theo chương trình, dự án,
xây dựng mô hình, có chỉ đạo diểm và sơ kết, tổng kết kịp thời và tổ chức tuyên
truyền nhân ra diện rộng.
Như vậy vai trò của khuyến nông đối vơí công tác giảm nghèo đó là:
- Nâng cao năng lực và nhận thức cho người nghèo
- Giúp người nghèo tiếp cận với các chính sách hỗ trợ từ phía Nhà nước
- Chuyển giao những tiến bộ kỹ thuật mới kết hợp với kinh nghiệm bản địa
Như vậy xoá đói giảm nghèo không chỉ là công viêc trước mắt mà còn là
nhiệm vụ lâu dài. Trước mắt là xoá hộ đói, giảm hộ nghèo; lâu dài là xoá sự nghèo,
giảm khoảng cách giàu nghèo,phấn đấu xây dựng một xã hội giàu mạnh,công bằng
dân chủ văn minh.
Xoá đói giảm nghèo không đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một
cách thụ động mà phải tạo ra động lực tăng trưởng tại chổ, chủ động tự vươn lên
thoát nghèo. Xoá đói giảm nghèo không đơn thuần là sự giúp một chiều của tăng
trưởng kinh tế đối với các đối tượng có nhiều khó khăn mà còn là nhân tố quan
trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho phát triển, tạo thêm một lực
lượng sản xuất dồi dào và bảo đảm sự ổn định cho giai đoạn “cất cánh”.
Do đó xoá đói giảm nghèo là một trong những mục tiêu của tăng trưởng kinh
tế (cả trên góc đọ xã hội và kinh tế), đồng thời cũng là một điều kiện ( tiền đề) cho
tăng trưởng nhanh và bền vững .
C. KẾT LUẬN:
Khuyến nông đã chứng tỏ được bản thân của mình trong việc thu thập thông

tin và sử dụng hiệu quả chi phó trong việc làm cẩu nối giữa nông dân với các đối
tác liên quan. Bên cạnh đó, khuyến nông còn đóng góp 1 phần có í nghĩa về kinh tế
đối với nông dân và có tác dụng tích cực thông qua kiến thức, chấp nhận và nâng
cao hiệu quả sản xuất. Nghiên cứu về hiệu quả của khuyến nông chỉ ra rằng, tỷ lệ
có thể tăng từ 13-500%. Nghiên cứu gần đây giải thích rằng, ít nhất một lần thăm
viếng của khuyến nông sẽ tăng tỷ lệ sinh kế của nông hộ nghèo khoảng 10% và
tăng trưởng khoảng 7%. Vì vậy, khuyến nông là một công cụ hiệu quả có thể đóng
vai trò quan trong trong việc xử lí các vấn đề biến đổi khí hậu và cùng thời gian đó,
nó có thể giúp nông dân tăng năng suất và giảm nghèo.

×