Môn: Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Giảng viên: ThS. Lưu Tiến Dũng
Danh sách thành viên:
1. Nguyễn Thị Xuân An
2. Nguyễn Thị Hồng Anh
3. Vũ Thị Tuyết Anh
4. Võ Quang Chương
5. Lê Thị Thanh Hằng
6. Nguyễn Thị Ngọc Nhung
7. Trần Thị Dạ Thảo
8. Lê Thị Vinh
9. Lâm Duy Vũ
Nhóm 6 – Lớp 12QT201
Trang 1
Môn: Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Giảng viên: ThS. Lưu Tiến Dũng
MỤC LỤC
1. Cơ sở lý thuyết
1.1. Khái niệm
1.2. Giá của biện pháp tự vệ
1.3. Các biện pháp tự vệ thương mại
1.4. Điều kiện áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại
1.5. Nguyên tắc áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại của
WTO
1.6. Thủ tục áp dụng biện pháp tự vệ
2. Thực trạng hiện nay
2.1. Môi trường pháp lý về tự vệ thương mại tại Việt Nam
2.2. Tác động của việc ban hành Pháp lệnh và nghị định về tự vệ
3. Một số kiến nghị
3.1 Đối với Nhà nước
3.2. Đối với doanh nghiệp
3.3 Một số kiến nghị khác
PHỤ LỤC
Nhóm 6 – Lớp 12QT201
Trang 2
Môn: Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Giảng viên: ThS. Lưu Tiến Dũng
1. Cơ sở lý thuyết
1.1. Khái niệm:
Tự vệ thương mại (safeguard measures ) là hành động của chính phủ các nước nhập
khẩu dưới hình thức tăng mức thuế hiện hành, áp dụng hạn ngạch, cá khoản phụ thu hay các
biện pháp thích hợp khác, áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu trong trường hợp những hàng
hoá này được nhập khẩu một cách quá mức, gây thiệt hại ngiêm trọng đến ngành sản xuất nội
địa.
“Thiệt hại nghiêm trọng” là sự giảm sút đáng kể về vị thế của ngành công nghiệp trong
nước. Để xác định có hay không thiệt hại nghiêm trọng cần phải căn cứ vào các chỉ tiêu như :
lượng hàng hoá nhập khẩu tăng tuyệt đối cũng như tương đối, mức độ tăng thị phần nhập
khẩu của thị trường trong nước, hay sự giảm sút về doanh số, số lượng, hiệu suất, hệ số sử
dụng, công suất, lợi nhuận, lỗ lãi và việc làm của ngành sản xuất nội địa.
Mỗi nước thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đều có quyền áp dụng
biện pháp tự vệ, nhưng khi áp dụng thì họ phải bảo đảm tuân theo các quy định của WTO (về
điều kiện, thủ tục, cách thức áp dụng biện pháp tự vệ).
1.2. Giá của biện pháp tự vệ:
Được thừa nhận trong thương mại quốc tế nhưng lại đi ngược lại mục tiêu “tự do hoá
thương mại”, biện pháp tự vệ là một công cụ “phải trả tiền”. Điều này có nghĩa là các nước
được phép áp dụng nó bảo vệ ngành sản xuất của nước mình nhưng phải “trả giá” cho những
thiệt hại mà biện pháp này gây ra cho các nhà sản xuất nước ngoài (như một hình thức cân
bằng cam kết thương mại với nước khác). Cụ thể, nước áp dụng biện pháp tự vệ phải bồi
thường thương mại cho các nước có hàng hoá bị áp dụng biện pháp tự vệ theo các điều kiện
nhất định. Nếu nước này không tuân thủ, WTO cho phép các nước liên quan được áp dụng
biện pháp trả đũa.
1.3. Các biện pháp tự vệ thương mại:
Theo điều XIX và Hiệp định về các biện pháp tự vệ của WTO, một quốc gia có quyền
lựa chọn 1 trong các biện pháp tự vệ sau:
-Tăng mức thuế đã cam kết vượt lên trên mức thuế trần(biện pháp thuế quan)
-Áp dụng các biện pháp hạn chế định lượng như hạn ngạch(biện pháp phi thuế quan)
1.3.1. Biện pháp thuế quan:
Đây là biện pháp mà WTO cho phép để bảo hộ thị trường trong nước và chủ yếu dưới
dạng tăng thuế nhập khẩu, vì đây là công cụ đảm bảo tính minh bạch và dễ dự doán, được
thực hiện bằng những con số rõ ràng, do vậy người ta có thể thấy được mục đích bảo hộ dành
cho 1 ngành sản xuất của mỗi quốc gia. Ngoài ra, do biện pháp thuế quan chỉ làm tăng giá
sản phẩm nên cũng không làm cho thương mại bị bóp méo và đảm bảo cho “bàn tay vô
hình”của thị trường thực hiện được chức năng của mình. Tuy nhiên khi tham gia vào quá
trình hội nhập, các nước phải cam kết ràng buộc với một mức thuế trần nhất định và phải có
lịch trình cắt giảm cụ thể.
1.3.2. Các biện pháp phi thuế quan:
Trước kia các nước nhập khẩu thường sử dụng biện pháp hạn chế xuất khẩu tự
nguyện(VERs- Voluntary Export Restrains), qua đó lợi dụng ảnh hưởng của mình để qua đó
ép buộc các nước đối tác tự nguyện hạn chế xuất khẩu, đồng thời cơ chế này cũng thể hiện sự
Nhóm 6 – Lớp 12QT201
Trang 3
Môn: Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Giảng viên: ThS. Lưu Tiến Dũng
phân biệt đối xử rất rõ. Vì vậy trrong hiệp định về các biện pháp tự vệ, WTO đã cấm sử dụng
VERs mà thay vào đó là các biện pháp hạn chế định lượng bao gồm:
a) Hạn ngạch:
Hạn ngạch là biện pháp dùng để hạn chế số lượng hay giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu
từ một thị trường nào đó trong một khoảng thời gian nhất định (thường là 1 năm).Có 2 loại
hạn ngạch:
- Hạn ngạch tuyệt đối : là hạn gạch mà khi áp dụng, nếu hàng hoá nhập khẩu vượt quá
môt khối lượng đã qui định thì không được cấp giấy phép XK.
- Hạn ngạch thuế suất thuế quan : là hạn ngạch mag khi áp dụng, nếu khối lượng hàng
hoá nhập khẩu không vượt quá mức đọ qui định thì sẽ đánh thuế suất thông thường, ngược
lại sẽ đánh thuế suất bổ sung hay đánhd thuế tăng lên theo phân tăng lên theo tưng phần tăng
tương ứng của số lượng hàng hoá NK
b) Các công cụ khác:
Một số biện pháp phi thuế quan khác mà các quốc gia có thể áp dụng là cấm NK, cấp
giấp phép nhập khẩu hay phụ thu đối với hàng NK v v Cá biện pháp này thường mang tính
chủ quan của nước NK với mục đích bảo hộ nền sản xuất nội địa nên WTO coi nhữn biện
pháp này làm hạn chế rõ rệt tác dụng của tự do thương mại và yêu cầu xoá bỏ thay vao đó là
các biện pháp hạn ngạch hoặc hạn ngạch thuế quan
1.4. Điều kiện áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại:
WTO trong các văn bản của mình đã đề ra những điều kiện áp dụng các biện pháp tự
vệ thương mại mà theo đó, 1 quốc gia chỉ được quyền áp dụng biện pháp này nếu xét thấy đã
hội dủ các điều kiện sau
1.4.1. Phải có sự gia tăng đột biến về lượng hàng hoá nhập khẩu vào thị trường nội
địa
Sự gia tăng hàng hoá nhập khẩu dẫn đến áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại
được xác định dựa vào 1 số tiêu chí cụ thể : đó là sự gia tăng một cách một cách tương đối
hay tuyệt đối về sản lượng số lượng hay giá trị củ loại hangf hoá đó so với số lượng, khối
lượng hay giá trị của hàng hoá tương tự hay hàng hoá cạnh tranh trực tiếp được sản xuất
trong nước. Mục 1(a) điều XIX hiệp định GATT 1994 đưa ra khái niệm “sự thay đổi không
lường trước - unforeseen development” theo đó sự gia tăng về số lượng hàng hoá nhập khẩu
phải không lường trước được, nghĩa là sự biến đổi đó xảy ra sau khi các bên đã đàm phán và
không có gì để khẳng định rằng các nhà đàm phán, những người đã đưa ra nhượng bộ thuế
quan, có thể hay lẽ ra phải dự đoán được sự biến đổi đó. Thực tiễn xét xử các vụ kiện liên
quan đến tự vệ thương mại cho thấy sự gia tăng nhập khẩu để dẫn đến quyền áp dụng các
biện pháp tự vệ thương mại phải đáp ứng được các tiêu chí cả về định lượng cũng như định
tính. Sự gia tăng này phải vừa mới diễn ra, phải mang tính bất ngờ, phải ở mức độ đủ lớn và
phải gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng.
1.4.2. Việc gia tăng hàng hoá nhập khẩu đó phải gây thiệt hại hay đe doạ gây thiệt hại
nghiêm trọng cho ngành sản xuất nội địa
Việc xác định tổn hại dựa trên kết quả điều tra theo đó cơ quan chức năng đánh giá
những yếu tố kinh tế có liên quan dến tình hình sản xuất của ngành này gồm:
Tốc độ và sản lượng gia tăng nhập khẩu của sản phẩm liên quan một cách tuyệt đối
hay tương đối
Nhóm 6 – Lớp 12QT201
Trang 4
Môn: Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Giảng viên: ThS. Lưu Tiến Dũng
Lượng gia tăng nhập khẩu lấy đi bao nhiêu%thị phần trong nước.
Sự giảm sút thực tế về sản lượng, doanh số, thị phần, lợi nhuận, năng suất, tỉ suất đầu
tư
Tác động đến thị trường lao động.
Việc điều tra sẽ do 1 cơ quan chuyên trách ở mỗi quốc gia đảm nhiệm.Tuy nhiên, nếu
như xét thấy bất kì 1 sự trì hoãn nào có thể làm cho tình hình trở nên trầm trọng hơn và khó
phục hồi, các quốc gia có thể áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời mà chỉ dựa vào những dấu
hiệu ban đầu cho thấy có thiệt hại nghiêm trọng bắt nguồn từ gia tăng nhập khẩu, không cần
đợi kết quả điều tra. biện pháp này chỉ kéo dài tối đa 200 ngày và được áp dụng dưới hình
thức tăng thuế suất. Khoảng thời gian áp tự vệ tạm thời cũng sẽ được tính vào tổng thời gian
áp dụng tự vệ thương mại. Nếu sau này kết quả cho thấy không đủ điều kiện áp dụng tự vệ
thương mại thì các bên sẽ phải hoàn trả cho nhau ngay lập tức khoản thuế gia tăng đã thu
được.
1.4.3. Sự gia tăng về số lượng hàng hoá nhập khẩu đó phải là nguyên nhân trực tiếp
gây ra những thiệt hại nói trên
Một quốc gia sẽ không thể áp dụng được các biện pháp tự vệ thương mại nếu như
không chứng minh được rằng có tồn tại bằng chứng rõ ràng về mối quan hệ nhân quả giữa
lượng nhập khẩu gia tăng đột biến của loại hàng hoá có liên quan với thiệt hại nghiêm trọng
gây ra. Việc chứng minh mối quan hệ này có thể dựa trên sự tương quan về thời gian xảy ra
việc tăng lượng hàng hóa nhập khẩu tăng và thời gian xảy ra thiệt hại nghiêm trọng. Tuy
nhiên, nếu có những yếu tố khác không phải là gia tăng nhập khẩu, cùng trong thời gian đó
gây ra tổn hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây ra tổn hại thì không thể suy diễn là thiệt hại đó
là do việc hàng hóa nhập khẩu tăng mạnh. Điều này đồng nghĩa là các nhân tố gây thiệt hại
cần phải được phân biệt và làm rõ, từ đó tạo nên giới hạn cho việc áp dụng tự vệ thương mại.
1.5. Nguyên tắc áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại của WTO
1.5.1. Nguyên tắc không phân biệt đối xử.
Nguyên tắc không phân biệt đối xử là nguyên tắc cơ bản của WTO. Tự vệ thương mại
cũng cần tuân thủ nguyên tắc này; theo đó các biện pháp tự vệ sẽ được áp dụng với mọi sản
phẩm nhập khẩu không phân biệt nguồn gốc xuất xứ hàng hóa. Đối tượng điều tra để áp dụng
tự vệ thương mại cũng phải là toàn bộ hàng nhập khẩu chứ không phải hàng hóa từ một nước
cụ thể.
Hiệp định về tự vệ thương mại của WTO đưa ra một ngoại lệ yêu cầu:Nước nhập khẩu
khi áp dụng biện pháp tự vệ dưới hình thức hạn chế số lượng thì phải tham khảo ý kiến của
các nước thành viên khác có lợi ích đáng kể liên quan đến hàng hóa bị áp dụng tự vệ thương
mại để đưa ra tỷ lệ phân bổ hạn ngạch.
1.5.2. Nguyên tắc áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại trong phạm vi và mức
độ cần thiết:
Mục đích chính của TVTM là để giúp nền công nghiệp trong nước có thời gian để
điều chỉnh cơ cấu, khắc phục thiệt hại và đứng vững trong cuộc cạnh tranh gay gắt với hàng
hóa nước ngoài. Do vậy nước nhập khẩu chỉ được áp dụng tự vệ thương mại ở giới hạn cần
thiết và chỉ nhằm để ngăn cản hay khắc phục những thiệt hại do lượng nhập khẩu tăng đột
biến gây ra và nhằm tạo thuận lợi cho việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nội địa chứ không phải
nhằm bất kỳ mục đích nào khác.
Nhóm 6 – Lớp 12QT201
Trang 5
Môn: Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Giảng viên: ThS. Lưu Tiến Dũng
Áp dụng TVTM không phải để hạn chế cạnh tranh, do vậy nó chỉ được áp dụng trong
một thời gian nhất định. Theo WTO, thời hạn áp dụng tối đa là 4 năm. Trong trường hợp cần
thiết, có thể được gia hạn thêm một lần nhưng không quá 4 năm tiếp theo. Đối với các nước
đang phát triển, có thể được ưu đãi gia hạn với thời gian không quá 6 năm tiếp theo. Tuy
nhiên, ngay cả trong thời hạn áp dụng, nếu những điều kiện cho sự tồn tại của nó không còn
nữa thì nước áp dụng TVTM phải dỡ bỏ ngay hoặc đình chỉ biện pháp tự vệ đang được áp
dụng với hàng hóa đó.
Trong thời gian áp dụng TVTM, nước nhập khẩu phải tiến hành rà soát các biện pháp
tự vệ để đảm bảo quyền lợi cho nước bị áp dụng đồng thời cũng để cho việc luân chuyển
hàng hóa diễn ra bình thường.
1.5.3. Nguyên tắc đảm bảo bồi thường tổn thất thương mại
Khác với các biện pháp chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạh do hành
động bán phá giá hay trợ cấp của Chính phủ, một nước thành viên khi áp dụng biện pháp tự
vệ phải đảm bảo đền bù thỏa đáng cho nước bị áp dụng TVTM. Việc đền bù này thường
thông qua việc giảm thuế cho một số mặt hàng có lợi ích xuất khẩu cho nước bị áp dụng
TVTM. Mức độ đền bù phải tương đương đáng kể.
Nếu các bên không thể thỏa thuận được mức độ bồi thường tương xứng thì các nước
bị áp dụng TVTM có thể áp dụng các biện pháp trả đũa. Tuy nhiên, quyền thực hiện trả đũa
thương mại chỉ có thể tiến hành sau 3 năm kể từ khi biện pháp TVTM thực hiện.
1.5.4. Nguyên tắc ưu tiên cho các nước đang phát triển
WTO thừa nhận cần phải có sự cần thiết phải dành cho những nước đang và chậm
phát triển những điều kiện thuật lợi hơn trong thương mại quốc tế, dành cho các nước này
những chế độ đãi ngộ đặc biệt và khác biệt trong thương mại quốc tế mà không yêu cầu có đi
có lại trong các cam kết.
Điều 9 Hiệp định về TVTM của WTO quy định: Các biện pháp TVTM không được áp
dụng với hàng hóa có nguồn gốc từ một nước thành viên đang phát triển nếu như thị phần
xuất khẩu hàng hóa của nước này tại nước nhập khẩu không vượt quá 3 %. Hoặc nếu có
nhiều nước thành viên đang phát triển có thị phần từng nước dưới 3% và tổng thị phần của
các nước này không lớn hơn 9 % thì không bị áp dụng TVTM.
Về phần mình, một nước thành viên đang phát triển lại có quyền mở rộng thời hạn áp
dụng TVTM với nước khác thêm 2 năm nữa so với thời hạn tối đa được áp dụng TVTM
thông thường là 8 năm.
1.6. Thủ tục áp dụng biện pháp tự vệ
Khác với trường hợp các vụ kiện chống bán phá giá hay chống trợ cấp, WTO không có
nhiều quy định chi tiết về trình tự, thủ tục kiện áp dụng biện pháp tự vệ. Tuy nhiên, Hiệp
định về Biện pháp tự vệ của WTO có đưa ra một số các nguyên tắc cơ bản mà tất cả các
thành viên phải tuân thủ, ví dụ:
Đảm bảo tính minh bạch (Quyết định khởi xướng vụ điều tra tự vệ phải được thông
báo công khai; Báo cáo kết luận điều tra phải được công khai vào cuối cuộc điều tra…)
Đảm bảo quyền tố tụng của các bên (các bên liên quan phải được đảm bảo cơ hội trình
bày các chứng cứ, lập luận của mình và trả lời các chứng cứ, lập luận của đối phương);
Nhóm 6 – Lớp 12QT201
Trang 6
Môn: Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Giảng viên: ThS. Lưu Tiến Dũng
Đảm bảo bí mật thông tin (đối với thông tin có bản chất là mật hoặc được các bên trình
với tính chất là thông tin mật không thể được công khai nếu không có sự đồng ý của bên đã
trình thông tin);
Các điều kiện về biện pháp tạm thời (phải là biện pháp tăng thuế, và nếu kết luận cuối
cùng của vụ việc là phủ định thì khoản chênh lệch do tăng thuế phải được hoàn trả lại cho
bên đã nộp; không được kéo dài quá 200 ngày…)
Trên thực tế, một vụ điều tra áp dụng biện pháp tự vệ thường đi theo trình tự sau đây:
Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ của ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu;
Khởi xướng điều tra;
Điều tra và công bố kết quả điều tra về các yếu tố tình hình nhập khẩu; tình hình thiệt
hại; mối quan hệ giữa việc nhập khẩu và thiệt hại;
Ra quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp tự vệ
Chú ý rằng việc điều tra và áp dụng biện pháp tự vệ, mặc dù có nhiều yếu tố giống một
trình tự tố tụng tư pháp (một vụ kiện tại tòa án) nhưng đây bản chất là một thủ tục hành
chính, do một cơ quan hành chính nước nhập khẩu tiến hành, để xử lý một tranh chấp thương
mại giữa các nhà xuất khẩu nước ngoài (về nguyên tắc là từ tất cả các nước đang xuất khẩu
hàng hóa liên quan vào nước nhập khẩu) và ngành sản xuất nội địa liên quan của nước nhập
khẩu. Việc này được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật nội địa nước nhập khẩu và về
nguyên tắc không phải là công việc giữa các Chính phủ (Chính phủ các nước xuất khẩu và
Chính phủ nước nhập khẩu).
Tuy nhiên, do vấn đề này đã được ràng buộc bởi các nguyên tắc bắt buộc có liên quan
trong Hiệp định SG của WTO nên các thành viên có thể thông qua WTO để xử lý những
trường hợp nước nhập khẩu tiến hành điều tra mà vi phạm WTO.
2. Thực trạng hiện nay
Việt Nam đã và đang trở thành thành viên của nhiều tổ chức thương mại quốc tế và
khu vực như ASEAN, AFTA, APEC và đặc biệt là WTO, có quan hệ kinh tế với trên 170
nước. Chương trình cát giảm thuế nhập khẩu và dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan để thúc
đẩy hoạt động thương mại và đầu tư là không thể tránh khỏi trong quá trình hội nhập. Trong
cam kết WTO về thuế quan , Việt Nam đã có kết quả dàm phán cho toàn bộ biểu thuế nhập
khẩu (10.600 dòng thuế), và cam kết cắt giảm 22% thuế nhập khẩu so với mức hiện hành,
thực hiện chủ yếu trong 5 năm kể từ khi gia nhập WTO. Trong số 10.600 dòng thuế nhập
khẩu sẽ có 36% phải cắt giảm, lộ tình cắt giảm kéo dài bình quân 5-7 năm. Mức thuế bình
quân cho nông nghiệp là 21%, công nghiệp là 12.6%, so với mức bình quân hiện hành là
23,5% và 16.6% … Ngoài ra trong các cơ chế hợp tác, tự do hoá ASEAN-Trung Quốc,
ASEAN-Ấn Độ, ASEAN-Nhật, ASEAN-Hàn Quốc…. mà Việt Nam tham gia cũng quy định
tiến trình cụ thể về cắt giảm thuế và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan.
Tất cả những điều này sẽ khiến cho môi trường kinh doanh ở nước ta ngày cành cạnh
tranh do sức ép mạnh mẽ từ luồng hành hoá nhập khẩu chủ yếu là từ Trung Quốc và
ASEAN, đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phỉa nỗ lực để vượt qua thách thức.
Trong bối cảnh ấy, việc đặt ra nhu cầu bảo hộ nói chung và tự vệ nói riêng nhằm giúp
đỡ các doanh nghiệp trong nước có điều kiện điều chỉnh cơ cầu và nâng cao sức cạnh tranh là
cần thiết. Đã đến lúc chúng ta đứng lên bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, các doanh
nghiệp Việt Nam cần kiện ngược lại chứ không chỉ loay hoay bị động với các vụ khởi kiện từ
nước ngoài. Lâu nay, chúng ta chỉ lo lắng đối phó với việc nước ngoài kiện sản phẩm của
Nhóm 6 – Lớp 12QT201
Trang 7
Môn: Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Giảng viên: ThS. Lưu Tiến Dũng
mình bán phá giá vào thị trường họ hoặc sản phẩm của mình đựơc nhập khẩu tràn lan đe doạ
đến ngành sản xuất trong nước họ. Đã đến lúc doanh nghiệp Việt Nam khởi kiện hàng hoá
của nước ngoài được trợ cấp, bán phá giá hay nhập khẩu quá mức đang đe doạ nhiều ngành
công nghiệp non yếu của mình
2.1. M ôi trường pháp lý về tự vệ thương mại tại Việt Nam
Cho đến thời điểm này, hai văn bản pháp luật trực tiếp điều chỉnh vấn đề tự vệ thương
mại là Pháp lệnh số 42/2002/PL-UBTVQH10 của Uỷ ban thường vụ quốc hội ngày 25 tháng
5 năm 2002 về tự vệ trong nhập khẩu hàng nước ngoài vào Việt Nam và nghị định số
150/2003/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2003 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh nói trên.
Trước đó, Việt Nam chưa có một văn bản pháp luật nào quy định hay giải thích về các biện
pháp tự vệ; bởi vạy, sự hiểu biết về các vấn đề liên quan đến vấn đề này ngay trong các cơ
quan và công chức hoạch định chính sách thương mại còn rất hạn chế.
Về cơ bản, nội dung của hai văn bản pháp luật này được xây dựng trên cơ sở tuân thủ
các quy định của Điều XI GATT năm 1947 về tự vệ khẩn cấp đối với hàng nhập khẩu và
hiệp định tự vệ của WTO nhưng được chuyển hoá, điều chỉnh cho phù hợp với hệ thống pháp
luật của Việt Nam.
Pháp lệnh số 42/2002/PL-UBTVQH10 về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài
vào Việt Nam gồm 8 chương, 33 điều quy định về các biện pháp tự vệ, điều kiện và thủ tục
áp dụng các biện pháp đó trong trường hợp hàng hoá nhập khẩu quá mức vào Việt Nam gây
ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất troaing nước. Nghị định
150/2003/NĐ-CP hướng dẫn thi hành gồm 4 chương, 17 điều, quy định chi tiết hơn về các
biện pháp tự vệ, thủ tục điều tra áp dụng các biện pháp này.
Ngoài ra, Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11 ngày 14 tháng 06
năm 2005 và nghị định số 149/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2005 nêu rõ nếu hàng hoá
nhập khẩu quá mức vào Việt Nam thì bị áp dụng biện pháp tăng mức thuế nhập khẩu theo
quy định của Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam. Hai
nghị định 04/NĐ-CP và 06/NĐ-CP cùng ban hành ngày 09/01/2006 quy định cụ thể các
nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu của Hội đồng xử lý vụ việc chống bạn phá giá, chống trợ cấp
và tự vệ.
2.2 . Tác động của việc ban hành Pháp lệnh và nghị định về tự vệ
2.2.1. Những tác động tích cực
- Nước ta có một công cụ bảo hộ hợp pháp, ngăn chặn hoặc hạn chế những diễn biến
bất lợi do việc nhập khẩu hàng hoá gia tăng thất thường gây ra.
- Sản xuất trong nước được bảo vệ, tránh khỏi nguy cơ bị đảo lộn, thậm chí phá sản do
nhập khẩu hàng hoá quá mức gây ra.
- Góp phần xây dựng một hệ thống chính sách quản lý thương mại rõ ràng và ổn định
hơn, cũng như nâng cao kiến thức của các doanh nghiệp về vấn đề tự vệ thương mại.
- Là một bước chủ động chế định hoá các định chế của WTO vào luật pháp Việt Nam
và điều chỉnh luật pháp của ta phù hợp với các chuẩn mức của thế giới, tạo điều kiện cho
việc gia nhập WTO.
2.2.2. Những tác động tiêu cực
Nhóm 6 – Lớp 12QT201
Trang 8
Môn: Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Giảng viên: ThS. Lưu Tiến Dũng
- Việc áp dụng các biện pháp tự vệ cũng có thể làm giảm cơ hội của các ngành sản
xuất sử dụng hàng hoá nhập khẩu đầu vào cho sản xuất với giá thấp hoặc chất lượng tốt hơn,
hạn chế người tiêu dùng có được những hàng hoá tương tự với giá rẻ hơn.
- Trong một số trường hợp, việc áp dụng các biện pháp tự vệ có thể làm thay đổi đáng
kể các cơ hội thị trường mà các đối tác nước ngoài có được và do vậy có thể dẫn đến sự
khiếu nại từ phía chính phủ nước ngoài, thậm chí khi tham vấn liên chính phủ không thành
công có thể bị trả đũa.
- Nếu lạm dụng các biện pháp tự về sẽ làm nảy sinh sự ỷ lại của các doanh nghiệp vào
sự bảo hộ quá mức của Nhà nước.
3. Một số kiến nghị
3.1 Đối với Nhà nư ớc (ở tầm vĩ mô)
3.1.1 Hoàn thiện hệ thống luật pháp điều chỉnh thương mại đặc biệt là Pháp lệnh
về tự vệ thương mại
Đây là một kiến nghị không mới, mặc dù chúng ta đã hết sức cố gắng trong việc xây
dựng và ban hành ra một khung pháp lý phù hợp với pháp luật quốc tế trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ song như thế chưa đủ. Hệ thống pháp luật điều
chỉnh thương mại của chúng ta còn chưa đầy đủ và cha đồng bộ, đôi khi còn chồng chéo lên
nhau gây khó hiểu và hoạt động còn chưa có hiệu quả rõ rệt. Do đó, Nhà nước ta cần phải
hoàn thiện hơn nữa hệ thống luật pháp này thông qua quá trình rà soát, sửa đổi, bổ sung, thay
thế, loại bỏ hay làm mới các quy định có liên quan Quá trình này phải được tiến hành một
cách đồng bộ và thống nhất giữa các Bộ, ngành, cơ quan hữu quan. Ngoài ra để xây dựng
một môi trờng cạnh tranh lành mạnh cần nhanh chóng ban hành Luật về cạnh tranh và chống
độc quyền, về chống gian lận thơng mại và các yếu tố pháp lý quan trọng khác của nền kinh
tế thị trường. Quan trọng nhất tạo ra sự thuận tiện và cũng phải đảm bảo tính minh bạch
trong nội dung các văn bản đó. Cũng để có ưu thế về cạnh tranh trên bình diện quốc gia,
chúng ta cũng phải tạo ra một hành lang pháp lý thuận lợi, an toàn, ổn định, cần phải công
khai minh bạch hoá chính sách pháp luật về hoạt động kinh doanh, nhất là các chính sách về
xuất nhập khẩu và tài chính. Bên cạnh đó cần xây dựng và công bố lộ trình cụ thể các danh
mục cắt giảm thuế quan và phi thuế quan hàng năm để thực hiện các cam kết quốc tế của
chúng ta, xây dựng các phơng án giảm và ràng buộc thuế quan ở mức trần để đàm phán gia
nhập WTO, đồng thời cũng chú trọng xây dựng và hoàn thiện các biện pháp bảo hộ phi thuế
quan hữu hiệu phù hợp với thông lệ quốc tế tạo điều kiện bảo hộ hợp lý cho các nhà sản xuất
trong nớc khi chúng ta buộc phải cắt giảm thuế quan.
Đó là về hệ thống pháp luật điều chỉnh thơng mại nói chung còn đối với pháp luật về tự
vệ thương mại nói riêng mà cụ thể ở đây là Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá n-
ước ngoài vào Việt Nam thì tôi xin có một vài kiến nghị sau đây:
Thứ nhất, Pháp lệnh về tự vệ chỉ quy định về quyền tự vệ của Việt Nam mà chưa đề
cập đến các quy định trong trờng hợp nào thì Việt Nam sẽ áp dụng biện pháp trả đũa một n-
ước nếu như nước đó đã áp dụng biện pháp tự vệ không có căn cứ hoặc điều kiện áp dụng
trái với nguyên tắc và quy định trong các Hiệp định song phương giữa nớc đó với Việt Nam.
Mặc dù thực tiễn cho thấy Việt Nam chỉ là một đối tác nhỏ bé với lượng hàng hoá chiếm một
tỷ lệ rất khiêm tốn trong thơng mại quốc tế, trong các tranh chấp thơng mại thì bao giờ xu
hướng bất lợi cũng nghiêng về phía Việt Nam song việc bổ sung quy định này vào Pháp lệnh
trong thời gian tới hoặc xây dựng riêng một văn bản về trả đũa trong thương mại là vô cùng
cần thiết để bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam.
Nhóm 6 – Lớp 12QT201
Trang 9
Môn: Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Giảng viên: ThS. Lưu Tiến Dũng
Thứ hai, Pháp lệnh của ta quy định rằng các biện pháp tự vệ sẽ đợc rút ngắn trên cơ sở
kết quả rà soát của Bộ Thương mại. Việc rà soát này chỉ đợc thực hiện sau một nửa thời gian
áp dụng biện pháp tự vệ đó là 3 năm. Trong khi đó theo tinh thần của Hiệp định về các biện
pháp tự vệ thì biện pháp tự vệ sẽ đợc áp dụng nhng theo hướng giảm dần mức độ áp dụng mà
không cần dựa trên kết quả rà soát nếu nh biện pháp tự vệ có thời hạn áp dụng trên 1 năm và
dới 3 năm. Còn trong trường hợp trên 3 năm thì phải tiến hành rà soát biện pháp tự vệ đó trớc
khi nới lỏng theo như quy định trong Pháp lệnh. Theo tôi, việc nới lỏng mức độ áp dụng biện
pháp tự vệ theo thời gian áp dụng là cần thiết cho phù hợp với luật pháp quốc tế chứ không
nên quy định một cách cứng nhắc như ở trong Pháp lệnh của ta.
Thứ ba theo quy định của Pháp lệnh tự vệ thì các biện pháp tự vệ được áp dụng không
phân biệt đối xử và không phân biệt xuất xứ hàng hoá trừ trờng hợp ngoại lệ là các biện pháp
tự vệ có thể không áp dụng đối với hàng hoá có xuất xứ từ những nước kém phát triển. Về
mặt lý luận, quy định này phù hợp với các quy tắc và thông lệ của các nước trên thế giới
cũng như của WTO. Tuy nhiên trên thực tế việc áp dụng quy định này lại nảy sinh ra một số
khó khăn nhất định chẳng hạn như trong số các nước có lượng hàng hoá nhập khẩu vào Việt
Nam thì chỉ có một số nước có lượng nhập khẩu tăng mạnh trong khi thị phần nhập khẩu của
các nước khác không tăng thậm chí còn giảm đi. Việc áp dụng biện pháp hạn ngạch dựa trên
tỷ lệ hàng hoá nhập khẩu sẽ gây bất lợi đối với một số nớc có lợng nhập khẩu vaò Việt Nam
giảm đi trong khi những nớc có lượng nhập khẩu tăng mạnh thì sẽ ít bị ảnh hưởng hơn bởi
quyết định của nước áp dụng biện pháp tự vệ, Chúng ta cần thiết phải nghiên cứu bổ sung
thêm ngoại lệ này bằng cách đa thêm vào Pháp lệnh quy định việc phân bổ hạn ngạch, thoả
thuận áp dụng hạn ngạch chỉ đối với một số nước có thị phần nhập khẩu tăng lên một cách
tuyệt đối hay tương đối so với lượng nhập khẩu trung bình trong khoảng thời gian 3 năm tr-
ước đó. Hơn nữa chúng ta cũng nên quy định bổ sung thêm vào khoản 2 điều 21 Pháp lệnh
về tự vệ năm 2002 trường hợp nếu thị phần nhập khẩu từ các nớc kém phát triển vợt quá bao
nhiêu phần trăm thì có thể vẫn áp dụng một biện pháp tự vệ nhằm mục đích kiểm soát được
lượng hàng hoá nhập khẩu từ những nước này.
3.1.2. Nâng cao nhận thức của cơ quan nhà nước và doanh nghiệp về công tác tự vệ
thương mại
Vấn đề tự vệ thương mại là một vấn đề còn rất mới mẻ trong nhận thức của các cơ
quan từ cấp Nhà nước xuống cấp doanh nghiệp của Việt Nam. Từ trước khi ban hành Pháp
lệnh về tự vệ năm 2002 trở về trớc, ở Việt Nam cha hề có một văn bản bản nào quy định hay
giải thích về vấn đề này. Sự hiểu biết về vấn đề liên quan đến các biện pháp tự vệ ngay trong
các cơ quan và công chức hoạch định chính sách thương mại cũng còn rất hạn chế huống chi
là cấp doanh nghiệp địa phương. Kể từ khi ban hành Pháp lệnh tự vệ tháng 5 năm 2002 đến
nay thì tình hình đã đợc cải thiện đôi chút. Chúng ta đã biết được những khái niệm cơ bản
nhất về các biện pháp tự vệ. Tuy nhiên sự nhận thức về vấn đề này còn cha phổ biến và cha
thực sự có chiều sâu. Việc nhầm lẫn hay đồng nhất giữa các biện pháp tự vệ với các biện
pháp bảo hộ khác như biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp…vẫn còn thường xuyên
và phổ biến. Do đó trong bối cảnh hội nhập mạnh mẽ như hiện nay việc nâng cao nhận thức
của các cơ quan nhà nước nói chung và các doanh nghiệp nói một cách cụ thể là hết sức cần
thiết. Các cơ quan nhà nớc có thẩm quyền của chúng ta như Bộ Thơng mại, Bộ Tài chính và
các Bộ liên quan khác đã nhận thức được tầm quan trọng cũng nh là sự cần thiết phải xây
dựng và ban hành một chính sách tự vệ thương mại của riêng Việt Nam để chuẩn bị cho tiến
trình hội nhập quốc tế một cách phù hợp và an toàn. Song như thế cha đủ, thực tế thương mại
rất phong phú đa dạng và luôn luôn biến động, các vấn đề mới phát sinh ngày càng tinh vi và
phức tạp hơn. Những gì chúng ta đã có sẽ sớm trở nên lạc hậu cứng nhắc. Do vậy cùng với
Nhóm 6 – Lớp 12QT201
Trang 10
Môn: Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Giảng viên: ThS. Lưu Tiến Dũng
việc nâng cao nhận thức của các cơ quan nhà nước để góp phần làm cho hệ thống chính sách
thơng mại nói chung và tự vệ nói riêng của chúng ta trở nên linh hoạt, hiệu quả và ngày càng
hoàn thiện hơn, thì việc nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp cũng cần phải đợc chú
trọng nhằm làm cho các doanh nghiệp hiểu rõ hơn, hiểu toàn diện hơn bản chất của vấn đề
trên cơ sở đó có thể tự hoạch định ra cho mình hớng đi và cách làm phù hợp nhất để vừa
không trái với nguyên tắc luật lệ chung vừa tận dụng đợc nhiều cơ hội và thuận lợi nhất.
Để nâng cao nhận thức của các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp về công tác tự
vệ thương mại thì chúng ta phải xúc tiến tổ chức nhiều hơn nữa các chương trình, hội thảo
bàn về công tác này, học tập và nghiên cứu các kinh nghiệm áp dụng và tiến hành tự vệ của
các nớc bạn, tổ chức các khoá đào tạo cho các quan chức chính phủ và cho các cá nhân trong
ngành thơng mại và công nghiệp để giúp họ làm quen hoàn toàn với yêu cầu về điều kiện,
trình tự, thủ tục điều tra và các trình tự tiến hành tự vệ…vv
3.1.3. Xây dựng và kiện toàn bộ máy Nhà nước chuyên trách trong lĩnh vực tự vệ th-
ương mại
Để có thể áp dụng các biện pháp tự vệ cần có một cơ quan chuyên trách chịu trách
nhiệm các khâu từ khâu nhận hồ sơ, tiến hành các công việc điều tra, ra quyết định liên quan
đến việc áp dụng các biện pháp tự vệ và các công tác khác như thu thập thông tin, tổ chức
các buổi tham vấn, nghiên cứu…vv. Theo quy định của Pháp lệnh về tự vệ thì Bộ Thơng mại
là cơ quan đầu mối thực hiện các công việc trên, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của Bộ Thương mại đã đợc Chính phủ giao. Trên thực tế đa số các nước đều theo mô
hình này nhưng cũng có nớc chọn mô hình cơ quan chịu trách nhiệm là một cơ quan liên
ngành. Nếu theo mô hình cơ quan liên ngành thì tổ chức bộ máy sẽ cồng kềnh dẫn đến việc
điều phối sẽ khó khăn hơn. Còn ở Việt Nam, tuy Bộ Thương mại là cơ quan đầu mối chuyên
trách có thẩm quyền điều tra và áp dụng biện pháp tự vệ song Bộ này cũng cần phải phối hợp
chặt chẽ với một số Bộ ngành hữu quan khác đặc biệt là Bộ Tài chính, các Bộ chuyên ngành
phụ trách các ngành sản xuất, Tổng cục Hải quan, Tổng cục Thống kê… Trên cơ sở đó, Bộ
Thương mại sẽ phải lập ra một Nhóm chuyên trách hoặc Nhóm đặc trách theo vụ việc gồm
các thành viên đại diện của các Bộ ngành nói trên. Nhóm này sẽ thực hiện chức năng điều
tra, đề xuất biện pháp áp dụng và thực thi các công việc liên quan đến việc áp dụng các biện
pháp tự vệ.
Vấn đề thành lập cơ quan trực thuộc Bộ Thương mại chuyên quản lý và điều tra, giám
sát việc thực hiện các biện pháp tự vệ cần phải đợc xúc tiến nhanh và phải đảm bảo hoạt
động của các cơ quan này không bị chi phối từ phía Chính phủ cũng như các doanh nghiệp,
không bị chồng chéo về thẩm quyền với các cơ quan khác và quan trọng là phải đảm bảo đư-
ợc tình hình nhân sự trong hoàn cảnh hiện nay khi chúng ta đang cải cách bộ máy nhà nước
sao cho gọn nhẹ mà hoạt động vẫn có hiệu quả. Nh vậy vấn đề này cần được Chính phủ sớm
quy định cụ thể trong văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này.
3.1.4 Tư vấn và hỗ trợ các doanh nghiệp những thông tin về tự vệ thương mại
Vấn đề thông tin trong thời đại hiện nay không còn là một vấn đề nan giải như trớc
đây. Ngày nay nhờ vào các phương tiện thông tin đại chúng phổ biến như truyền thanh,
truyền hình, mạng Internet…chúng ta có thể có được bất kỳ thông tin cần thiết vào bất kỳ lúc
nào và bất cứ ở đâu. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để có đợc những thông tin chuẩn xác,
cụ thể, thiết thực và hữu ích cho vấn đề mà chúng ta đang nghiên cứu. Cụ thể ở đây là vấn đề
tự vệ thương mại. Vì đây là một chủ đề còn rất mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam
nên thông tin về vấn đề này ở Việt Nam còn rất hạn chế và sơ sài. Do đó các cơ quan nhà nư-
ớc có thẩm quyền cần sớm ban hành những văn bản thông tin có liên quan đến vấn đề tự vệ
Nhóm 6 – Lớp 12QT201
Trang 11
Môn: Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Giảng viên: ThS. Lưu Tiến Dũng
thương mại trong nớc và quốc tế để nâng cao sự hiểu biết cho các doanh nghiệp về vấn đề
này đồng thời cũng để hướng dẫn, tư vấn các doanh nghiệp trong việc nhận biết các nguy cơ,
điều kiện để áp dụng biện pháp tự vệ cũng như các thủ tục cần thiết để yêu cầu áp dụng tự vệ
và các nghĩa vụ cần phải làm để trợ giúp các cơ quan chức năng trong quá trình điều tra áp
dụng biện pháp tự vệ đó. Ngoài ra việc thông tin đầy đủ, tư vấn kịp thời cho các doanh
nghiệp cũng sẽ góp phần làm cho các doanh nghiệp nâng cao nhận thức của mình về chính
sách cơ chế tự vệ thương mại ở Việt Nam cũng như thực tiễn áp dụng trên thế giới để từ đó
hoạt động có hiệu quả hơn, tận dụng được những cơ hội ưu đãi, trợ giúp đồng thời tránh đợc
những thiệt hại đáng tiếc cho doanh nghiệp mình.
3.2. Đối với doanh nghiệp ( ở tầm vi mô)
3.2.1 Tham gia vào các Hiệp hội Doanh nghiệp để tăng cường sức mạnh trong tự
vệ thương mại
Hiện nay ở Việt Nam, Hiệp hội các doanh nghiệp cùng ngành nghề đã ra đời. Việc
thành lập này có ý nghĩa rất quan trọng khi xảy ra tranh chấp thương mại với các doanh
nghiệp nước ngoài vì rằng các doanh nghiệp của chúng ta thường hoạt động một cách độc
lập, không dựa trên cơ sở liên kết ngành nghề do đó việc tương trợ lẫn nhau khi xảy ra tranh
chấp với bên nớc ngoài là rất khó khăn. Thực trạng hiện nay là tuy các doanh nghiệp đã hợp
tác với nhau trong các hoạt động thơng mại quốc tế nhng sự hợp tác này chỉ dựa trên mức độ
nhất định, còn nặng về quản lý hành chính và mang tính “câu lạc bộ” chứ chưa thực sự là nơi
các chủ doanh nghiệp có thể tin tưởng trao cho nó những thẩm quyền nhất định. Qua các vụ
kiện về bán phá giá cá tra, cá ba sa với Hoa Kỳ, vụ bán phá giá bật lửa ga với Hàn quốc, vụ
giầy dép với Canada chúng ta hơn lúc nào hết ý thức được rằng việc thành lập các Hiệp hội
cùng ngành nghề hay Hiệp hội doanh nghiệp là rất cần thiết, trước là để cung cấp các thông
tin pháp lý và tập quán thương mại của thị trường nớc ngoài cho các doanh nghiệp trong n-
ước để họ có đợc những điều chỉnh phù hợp, tránh được những tranh chấp thơng mại bất lợi
cho chúng ta, sau là tham gia bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp Việt Nam khi xảy ra
tranh chấp với đối tác nước ngoài. Đặc biệt yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ thường do tập
hợp các doanh nghiệp cùng ngành nghề yêu cầu nên cũng cần xây dựng các quy tắc pháp lý
chặt chẽ để tránh trường hợp các doanh nghiệp lợi dụng kẽ hở pháp luật để thủ tiêu cạnh
tranh và gây ra cản trở thương mại, ảnh hởng đến quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam.
3.2.2 Chủ động tiếp cận và chuẩn bị đầy đủ kiến thức về tự vệ thương mại để sử
dụng khi cần thiết tiến hành tự vệ
Việc tiếp cận và tự tranh bị cho mình những kiến thức về tự vệ thơng mại ở các doanh
nghiệp Việt Nam chưa thực sự đợc quan tâm và chú trọng đúng mức. Thực tế ở Việt Nam
trong thời gian qua cho thấy tuy chúng ta cha thực sự tiến hành bất cứ biện pháp nào dới
danh nghĩa tự vệ thương mại nhng đã có một số ngành nghề xuất khẩu của chúng ta bị phía
nớc ngoài áp dụng biện pháp tự vệ và gây ra không ít khó khăn cho các doanh nghiệp xuất
khẩu của ta, và chỉ trong doanh nghiệp xuất khẩu nào bị ảnh hởng, tác động bất lợi bởi việc
áp dụng biện pháp tự vệ của phía nước ngoài thì mới có nhu cầu tìm hiểu và trang bị cho
mình những kiến thức về tự vệ thương mại. Đây thực sự là một nhược điểm của các doanh
nghiệp Việt Nam cần sớm được khắc phục. Các doanh nghiệp nên sớm tạo cho mình thế chủ
động trong mọi tình huống. Bên cạnh sự trợ giúp của các cơ quan nhà nước hay các Hiệp hội
cùng ngành nghề thì các doanh nghiệp cũng cần phải tự tìm hiểu và tự chuẩn bị cho mình đầy
đủ các thông tin kiến thức về chủ trương chính sách tự vệ thương mại của nớc ta nói riêng và
tình hình tự vệ thương mại của thế giới nói chung để trên cơ sở đã hiểu sâu bản chất, nắm bắt
kịp thời vấn đề thì các doanh nghiệp có thể chủ động đối phó lại với những tình huống khi bị
nước khác áp dụng biện pháp tự vệ cũng như khi cần thiết phải yêu cầu Nhà nước ta sử dụng
Nhóm 6 – Lớp 12QT201
Trang 12
Môn: Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Giảng viên: ThS. Lưu Tiến Dũng
biện pháp tự vệ để bảo vệ quyền và lợi ích của doanh nghiệp nói riêng, của quốc gia nói
chung.
3.2.3 Khẩn trương tìm hiểu, chuẩn bị đầy đủ hồ sơ, bằng chứng để yêu cầu tiến hành
áp dụng biện pháp tự vệ hay biện pháp trả đũa
Các doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng trong việc điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ
bởi vì đây là những đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp của việc hàng hoá nhập khẩu gia tăng
hay chịu tác động bất lợi trực tiếp bởi việc áp dụng các biện pháp tự vệ của các nước khác.
Doanh nghiệp là những nhân tố chính trong cuộc điều tra và đa ra những bằng chứng trong
quá trình điều tra, chính vì vậy các doanh nghiệp cần thiết phải có những hành động sau:
Phải giám sát thường xuyên tác động của hàng nhập khẩu đối với ngành công nghiệp
nội địa. Phải thông báo ngay lập tức khi có sự thiệt hại nghiêm trọng hay sự đe dọa gây ra
thiệt hại nghiêm trọng xuất phát từ việc gia tăng của lượng hàng nhập khẩu. Các doanh
nghiệp phải tiếp xúc với cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước mà cụ thể ở đây là Bộ Th-
ương mại để đưa đơn kiến nghị và yêu cầu điều tra, áp dụng biện pháp tự vệ.
Khi công việc điều tra bắt đầu các doanh nghiệp chịu trách nhiệm chính trớc ngành sản
xuất nội địa về việc khẩn trơng tìm hiểu, chuẩn bị đầy đủ và cung cấp các bằng chứng liên
quan đến thiệt hại nghiêm trọng và mối quan hệ nhân quả giữa việc gia tăng nhập khẩu và sự
tổn hại nghiêm trọng cho Bộ Thương mại.
Để đề phòng việc áp dụng biện pháp tự vệ của một nước khác, các doanh nghiệp cũng
nên thiết lập một hệ thống thu thập, thống kê định kỳ về việc sản xuất và buôn bán các sản
phẩm nhạy cảm ở các nước khác. Việc theo dõi những mặt hàng và thông tin đăng tải trên
báo chí cũng rất hữu ích. Tất cả những thông tin đó có thể cảnh báo trước cho họ về một
cuộc điều tra áp dụng biện pháp tự vệ sắp được tiến hành. Khi công việc điều tra được tiến
hành, các doanh nghiệp phải trình bày vấn đề trước các cơ quan có thẩm quyền cho nên họ
cần chuẩn bị đầy đủ bằng chứng, chứng cứ, thông tin, ý kiến đóng góp…để sử dụng khi cần
thiết. Những thông tin thu thập được theo cách trên rất hữu ích trong trờng hợp này.
3.3 Một số kiến nghị khác
Thứ nhất là Pháp lệnh về tự vệ trong việc nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt
Nam ra đời được hơn một năm nhng vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thi hành của Chính phủ
và cơ quan chuyên trách về lĩnh vực tự vệ thương mại chịu sự quản lý của Bộ Thương mại
cũng chưa ra đời cho đến thời điểm hiện nay. Do đó việc sớm ban hành Nghị định hướng dẫn
thi hành Pháp lệnh sẽ cụ thể hoá được các quy định trong Pháp lệnh, tránh được việc áp dụng
không đúng với tinh thần chung của pháp luật Việt Nam về tự vệ thương mại.
Thứ hai là để thực hiện tốt công tác tự vệ thương mại trong thời gian tới thì không chỉ
Bộ Thương mại- là cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm điều tra, áp dụng biện pháp tự vệ và
các doanh nghiệp trong ngành sản xuất nội địa chịu tác động của việc gia tăng hàng nhập
khẩu là có liên quan và có trách nhiệm thực hiện tốt vấn đề này mà các Bộ ban ngành khác
có thẩm quyền đối với ngành sản xuất bị ảnh hưởng như: Bộ Tài Chính, Bộ Công nghiệp, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thônh, Bộ Thuỷ Sản…cũng có trách nhiệm phối hợp chặt
chẽ, tạo điều kiện giúp đỡ, hỗ trợ hay trực tiếp tham gia cùng với các cơ quan chức năng
chuyên trách và các đối tượng chính của vụ việc.
Thứ ba là cơ chế tự vệ thương mại này chỉ nên sử dụng trong trường hợp thực sự cần
thiết và chỉ nên áp dụng cho một số ngành nhạy cảm và quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân. Đó phải là những ngành mà nếu bị thiệt hại thì sẽ gây ra những tác động xấu đến toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Do đó khi thu nhận hồ sơ yêu cầu điều tra áp dụng biện pháp tự vệ của
Nhóm 6 – Lớp 12QT201
Trang 13
Môn: Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Giảng viên: ThS. Lưu Tiến Dũng
một ngành sản xuất thì Bộ Thương mại phải suy xét và cân nhắc cẩn thận về việc có thật sự
cần thiết phải tiến hành điều tra, áp dụng biện pháp tự vệ đối với ngành sản xuất đó không
hay chỉ cần sử dụng một số hạn chế đơn giản hoặc chỉ cần đàm phán, sửa đổi một số cam
kết… Bởi một khi đã tuyên bố áp dụng biện pháp tự vệ thì nguy cơ bị trả đũa thương mại là
rất cao. Và trong một số trờng hợp thì thiệt hại do bị trả đũa thương mại khi áp dụng biện
pháp tự vệ còn lớn hơn và nghiêm trọng hơn thiệt hại gây ra bởi việc gia tăng hàng nhập
khẩu. Trong bối cảnh Việt Nam là một nớc nhỏ bé, tiềm lực kinh tế chưa mạnh, lượng hàng
hoá lưu thông trên thị trờng quốc tế là không đáng kể, lại mới tiến hành mở cửa được hơn 10
năm nay với vị thế trên trờng quốc tế còn rất khiêm tốn thì vấn đề này lại càng phải được các
cơ quan có thẩm quyền quan tâm, xem xét đến nhiều hơn.
Nhóm 6 – Lớp 12QT201
Trang 14
Môn: Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Giảng viên: ThS. Lưu Tiến Dũng
PHỤ LỤC
Hiệp định về các biện pháp tự vệ
Đi ề u 1 : Quy định chung
Hiệp định này thiết lập các quy tắc áp dụng các biện pháp tự vệ được hiểu theo
nghĩa các biện pháp được quy định tại Điều 19 của GATT 1994.
Điều 2 : Các điều kiện
1. Một Thành viên có thể áp dụng một biện pháp tự vệ cho một sản phẩm chỉ khi
Thành viên đó đã xác định được, phù hợp với những quy định dưới đây, là sản phẩm đó
được nhập vào lãnh thổ của mình khi có sự gia tăng nhập khẩu, tương đối hay tuyệt đối so
với sản xuất nội địa, và theo đó có thể gây ra hoặc đe dọa gây ra tổn hại nghiêm trọng cho
ngành công nghiệp nội địa sản xuất ra các sản phẩm tương tự hoặc các sản phẩm cạnh tranh
trực tiếp.
2. Các biện pháp tự vệ sẽ được áp dụng đối với một sản phẩm nhập khẩu bất kể từ
nguồn nào.
Điều 3 : Điều tra
1. Một Thành viên có thể áp dụng biện pháp tự vệ chỉ sau khi cơ quan có thẩm quyền
của Thành viên đó tiến hành điều tra theo thủ tục được xây dựng và công bố phù hợp với
Điều 10 của Hiệp định GATT 1994. Việc điều tra sẽ bao gồm việc thông báo công khai cho
tất cả các bên liên quan, thẩm vấn công khai hoặc các biện pháp thích hợp khác để nhà nhập
khẩu, nhà xuất khẩu, và các bên có liên quan có thể đưa chứng cứ, quan điểm của họ, bao
gồm cả cơ hội được phản biện lý lẽ của bên kia và đưa ra quan điểm của mình nhằm xem xét
việc áp dụng biện pháp này có phù hợp với lợi ích chung không. Cơ quan có thẩm quyền sẽ
công bố báo cáo kết quả điều tra của mình và các kết luận thỏa đáng trên cơ sở các vấn đề
thực tế và pháp lý.
2. Mọi thông tin có tính chất bí mật hoặc được cung cấp trên cơ sở bí mật phải được
các cơ quan có thẩm quyền bảo quản tuyệt mật, dựa trên nguyên nhân được đưa ra. Thông tin
này không được tiết lộ nếu không được phép của bên cung cấp thông tin. Theo yêu cầu, các
bên cung cấp thông tin bí mật có thể đưa ra bản tóm tắt không bí mật những thông tin này,
hoặc nếu không đáp ứng được yêu cầu này thì phải đưa ra lý do. Tuy nhiên, nếu cơ quan có
thẩm quyền thấy yêu cầu tuyệt mật không được đảm bảo và nếu bên liên quan cũng không
muốn tiết lộ hoặc cho phép tiết lộ công khai dưới dạng khái quát hoặc tóm tắt thông tin này,
thì cơ quan chức năng có thể không xem xét đến thông tin này trừ khi nó thể hiện được tính
đúng đắn của thông tin.
Điều 4 : Xác định tổn hại nghiêm trọng và đe dọa gây ra tổn hại nghiêm trọng
1. Theo Hiệp định này:
(a)"tổn hại nghiêm trọng" được hiểu là sự suy giảm toàn diện đáng kể tới vị trí của
ngành công nghiệp nội địa.
(b)"đe dọa gây ra tổn hại nghiêm trọng" được hiểu là tổn hại nghiêm trọng rõ ràng sẽ
xảy ra, phù hợp với các quy định tại khoản 2. Việc xác định nguy cơ tổn hại nghiêm trọng
phải dựa trên cơ sở thực tế chứ không phải là phỏng đoán, viện dẫn hoặc khả năng xa; và
Nhóm 6 – Lớp 12QT201
Trang 15
Môn: Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Giảng viên: ThS. Lưu Tiến Dũng
(c) trong khi xác định thiệt hại hay đe dọa gây thiệt hại, một "ngành sản xuất nội địa"
được hiểu là toàn bộ các nhà sản xuất sản phẩm tương tự hoặc các sản phẩm trực tiếp cạnh
tranh trong phạm vi lãnh thổ một Thành viên, hoặc tập hợp các nhà sản xuất mà đầu ra của
sản phẩm tương tự hoặc trực tiếp cạnh tranh của họ chiếm phần lớn trong tổng số sản xuất
nội địa của loại sản phẩm này.
2. (a)Trong khi điều tra để xác định xem hàng nhập khẩu gia tăng có gây ra hoặc
đe dọa gây ra tổn hại nghiêm trọng đối với sản xuất trong nước theo các quy định của Hiệp
định này không, cơ quan chức năng sẽ đánh giá tất cả các yếu tố liên quan tới đối tượng và
có thể định lượng dựa trên tình hình sản xuất của ngành này, đặc biệt là tốc độ và số lượng
gia tăng nhập khẩu của sản phẩm có liên quan một cách tương đối hay tuyệt đối, thị phần
trong nước của phần gia tăng nhập khẩu này, sự thay đổi mức bán hàng, sản xuất, năng suất,
công suất sử dụng, lợi nhuận, lỗ và việc làm.
(b)Việc xác định được đề cập tại điểm (a) sẽ không được thực hiện, trừ khi việc
điều tra này, trên cơ sở những chứng cứ khách quan, cho thấy có mối liên hệ nhân quả giữa
việc gia tăng nhập khẩu một loại hàng hóa có liên quan và tổn hại nghiêm trọng hoặc đe dọa
gây ra tổn hại nghiêm trọng. Khi có các yếu tố khác không phải là sự gia tăng nhập khẩu,
xuất hiện cùng một thời gian, gây ra tổn hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây ra tổn hại nghiêm
trọng đối với ngành công nghiệp trong nước thì những tổn hại này sẽ không được coi là do
sự gia tăng nhập khẩu.
(c)Phù hợp với quy định tại Điều 3, các cơ quan có thẩm quyền sẽ công bố ngay
lập tức một bản đánh giá chi tiết về vụ việc được điều tra cũng như trình bày các nhân tố liên
quan được xem xét.
Điều 5 : Áp dụng biện pháp tự vệ
1. Một Thành viên sẽ chỉ áp dụng biện pháp tự vệ trong giới hạn cần thiết để ngăn cản
hay khắc phục tổn hại nghiêm trọng và để tạo thuận lợi cho việc điều chỉnh. Nếu một biện
pháp hạn chế định lượng được sử dụng, thì biện pháp này sẽ không làm giảm số lượng nhập
khẩu dưới mức nhập khẩu trung bình của 3 năm đại diện gần nhất có số liệu thống kê, trừ khi
có sự biện minh rõ ràng rằng cần có một mức khác để ngăn ngừa hoặc khắc phục thiệt hại
nghiêm trọng. Các Thành viên sẽ chọn biện pháp thích hợp nhất để thực hiện được các mục
tiêu này.
2. (a)Trong trường hợp hạn ngạch được phân bổ giữa các nước xuất khẩu, Thành viên
áp dụng hạn chế này có thể tìm kiếm một thỏa thuận liên quan tới việc phân bổ hạn ngạch
cho tất cả các Thành viên có lợi ích cung cấp chính yếu đối với sản phẩm. Trong trường hợp
không áp dụng được phương pháp này, Thành viên nhập khẩu sẽ phân bổ cho các Thành viên
có lợi ích cung cấp chủ yếu đối với sản phẩm này theo thị phần, tính theo tổng giá trị hay số
lượng sản phẩm được nhập từ các Thành viên này trong một thời gian đại diện trước đó và có
tính đến bất cứ một yếu tố đặc biệt nào đã hoặc có thể ảnh hưởng đến thương mại hàng hóa
này.
(b)Một Thành viên có thể không thực hiện các quy định tại điểm (a), với điều kiện
việc tham vấn theo khoản 3 Điều 12 đã được thực hiện dưới sự giám sát của Uỷ ban về các
biện pháp tự vệ được quy định tại khoản 1 Điều 13 và chứng minh rõ ràng cho Uỷ ban
rằng (i) nhập khẩu từ một số Thành viên xác định gia tăng với một tỷ lệ không tương ứng với
gia tăng tổng kim ngạch nhập khẩu của sản phẩm đó trong thời kỳ đại diện, (ii) lý do của việc
không thực hiện các quy định tại điểm (a) được giải thích chính đáng, (iii) điều kiện không
thực hiện các quy định này là công bằng cho tất cả các nước xuất khẩu sản phẩm liên quan.
Thời hạn thực hiện bất kỳ biện pháp nào không được vượt quá thời hạn quy định ban
Nhóm 6 – Lớp 12QT201
Trang 16
Môn: Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Giảng viên: ThS. Lưu Tiến Dũng
đầu nêu tại khoản 1 Điều 7. Việc không thực hiện này sẽ không được chấp nhận trong
trường hợp đe dọa gây ra tổn hại nghiêm trọng.
Điều 6 : Biện pháp tự vệ tạm thời
Trong trường hợp nghiêm trọng mà sự chậm trễ có thể gây ra thiệt hại khó có thể
khắc phục được, một Thành viên có thể áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời dựa trên xác định
sơ bộ rằng có chứng cứ rõ ràng chứng tỏ gia tăng nhập khẩu đã gây ra hoặc đe dọa gây ra
tổn hại nghiêm trọng. Thời hạn áp dụng biện pháp tạm thời không được quá 200 ngày và
trong suốt thời hạn đó các yêu cầu từ Điều 2 đến 7 và Điều 12 phải được tuân thủ. Các biện
pháp này được áp dụng dưới hình thức tăng thuế và sẽ được hoàn trả ngay nếu điều tra sau
đó, như quy định tại khoản 2 Điều 4 xác định rằng sự gia tăng nhập khẩu không gây ra hoặc
đe dọa gây ra tổn hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất nội địa. Thời gian áp dụng bất kỳ
biện pháp tạm thời nào sẽ được tính vào thời gian ban đầu và được gia hạn theo quy định tại
khoản 1, khoản 2, khoản 3 của Điều 7.
Điều 7 : Thời hạn và rà soát các biện pháp tự vệ
1. Một Thành viên sẽ chỉ áp dụng các biện pháp tự vệ trong tời hạn cần thiết để ngăn
chặn hay khắc phục tổn hại nghiêm trọng và tạo điều kiện điều chỉnh. Thời gian này không
được vượt quá 4 năm, trừ khi được gia hạn theo khoản 2.
2. Thời hạn nêu tại khoản 1 có thể kéo dài với điều kiện cơ quan có thẩm quyền của
Thành viên nhập khẩu xác định, phù hợp với các thủ tục được nêu tại điều 2, Điều 3, Điều 4
và Điều 5, rằng biện pháp này vẫn cần thiết để ngăn chặn hay khắc phục tổn hại nghiêm
trọng và có chứng cứ rằng ngành công nghiệp này đang được điều chỉnh, với điều kiện phải
tuân thủ các quy định của Điều 8 và Điều 12.
3. Toàn bộ thời gian áp dụng một biện pháp tự vệ kể cả thời gian áp dụng biện pháp
tạm thời, thời gian bắt đầu áp dụng và bất kỳ sự gia hạn nào không được vượt quá 8 năm.
4. Nhằm tạo điều kiện điều chỉnh trong trường hợp thời hạn áp dụng một biện pháp tự
vệ theo các quy định khoản 1 Điều 12 vượt quá 1 năm, Thành viên áp dụng sẽ từng bước nới
lỏng biện pháp này trong khoảng thời gian áp dụng. Nếu thời gian áp dụng vượt quá 3 năm,
Thành viên áp dụng biện pháp này sẽ rà soát thực tế trong thời hạn không muộn hơn trung
kỳ của biện pháp, và nếu thích hợp, có thể loại bỏ hoặc đẩy nhanh tốc độ tự do hóa. Một biện
pháp, khi được gia hạn thêm theo khoản 2 không được hạn chế hơn và phải tiếp tục được
nới lỏng.
5. Không biện pháp tự vệ nào được áp dụng lại đối với việc nhập khẩu một sản phẩm
đã bị áp dụng một biện pháp này sau khi Hiệp định WTO có hiệu lực trong thời hạn
bằng thời hạn mà biện pháp đó đã được áp dụng trước đây, với điều kiện thời hạn không áp
dụng phải ít nhất là 2 năm.
6. Cho dù có các quy định tại khoản 5, có thể áp dụng lại một biện pháp tự vệ đối với
việc nhập một sản phẩm trong thời hạn 180 ngày hay ít hơn nếu:
(a) ít nhất 1 năm sau khi biện pháp tự vệ này đã được áp dụng đối với việc nhập khẩu
của sản phẩm đó; và
(b) biện pháp tự vệ này chưa được áp dụng hơn hai lần cho cùng một sản phẩm trong
vòng 5 năm ngay trước ngày áp dụng biện pháp này.
Điều 8 : Mức độ nhượng bộ và các nghĩa vụ khác
Nhóm 6 – Lớp 12QT201
Trang 17
Môn: Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Giảng viên: ThS. Lưu Tiến Dũng
1. Phù hợp với các quy định tại khoản 3 Điều 12, một Thành viên đề xuất áp dụng
biện pháp tự vệ hay tìm cách mở rộng biện pháp này sẽ cố gắng duy trì một mức độ nhượng
bộ và các nghĩa vụ khác tương đương với các nhượng bộ và nghĩa vụ được quy định trong
GATT 1994 giữa nước đó với các Thành viên xuất khẩu bị ảnh hưởng của biện pháp này. Để
đạt được mục đích này, các Thành viên có liên quan có thể thoả thuận về một hình thức đền
bù thương mại thoả đáng đối với những tác động tiêu cực của biện pháp này tới thương mại
của họ.
2. Nếu không đạt được một thoả thuận trong vòng 30 ngày của quá trình tham vấn
theo khoản 3 Điều 12, không quá 90 ngày sau khi biện pháp được áp dụng, thì các Thành
viên xuất khẩu bị ảnh hưởng sẽ được tự do đình chỉ việc áp dụng các nhượng bộ và các nghĩa
vụ khác tương đương theo GATT 1994, trong vòng 30 ngày kể từ ngày Hội đồng thương mại
hàng hóa nhận được văn bản thông báo việc đình chỉ đó và Hội đồng thương mại hàng hóa
không phản đối việc đình chỉ này, đối với thương mại của Thành viên áp dụng biện pháp tự
vệ.
3. Quyền đình chỉ nêu tại khoản 2 không được thực hiện trong ba năm đầu kể từ
khi biện pháp tự vệ có hiệu lực, với điều kiện biện pháp tự vệ đã được áp dụng khi có sự gia
tăng nhập khẩu tuyệt đối và biện pháp này được áp dụng phù hợp với các quy định của Hiệp
định này.
Điều 9 : Các Thành viên đang phát triển
1. Các biện pháp tự vệ không được áp dụng để chống lại hàng hóa có xuất xứ từ một
Thành viên đang phát triển, nếu thị phần hàng hóa có liên quan được nhập từ Thành viên
này không vượt quá 3%, với điều kiện là tổng số thị phần nhập khẩu từ các Thành viên đang
phát triển, có thị phần nhập khẩu riêng lẻ nhỏ hơn 3%, không vượt quá 9% tổng kim ngạch
nhập khẩu nhập khẩu của hàng hóa liên quan[2].
2. Một Thành viên đang phát triển có quyền kéo dài thời hạn áp dụng biện pháp tự vệ
trong thời hạn không quá 2 năm sau khi hết thời hạn tối đa quy định tại khoản 3 Điều 7.
Cho dù có các quy định tại khoản 5 Điều 7, một Thành viên đang phát triển có quyền áp
dụng lại một biện pháp tự vệ đối với việc nhập khẩu hàng hóa đã chịu sự áp dụng của biện
pháp này, sau khi Hiệp định WTO có hiệu lực, sau thời gian bằng một nửa thời gian mà biện
pháp này được áp dụng trước đây, với điều kiện là thời gian không áp dụng ít nhất là 2 năm.
Điều 10 : Các biện pháp tồn tại trước trong Điều XIX
Các Thành viên phải chấm dứt việc áp dụng tất cả các biện pháp tự vệ quy định tại
Điều XIX GATT 1947 đã áp dụng cho tới khi Hiệp định WTO có hiệu lực không muộn hơn
8 năm sau khi áp dụng lần đầu tiên hoặc 5 năm kể từ khi Hiệp định WTO có hiệu lực, tuỳ
thuộc thời hạn nào đến sau.
Điều 11 :
Cấm và hạn chế một số biện pháp cụ thể
1. (a)Một Thành viên sẽ không áp dụng hoặc tìm kiếm bất cứ hành động khẩn cấp nào
trong việc nhập khẩu hàng hóa cụ thể theo quy định tại Điều XIX GATT 1994 trừ khi hành
động này phù hợp với những quy định của Điều này được áp dụng phù hợp với Hiệp định
này.
(b)Hơn nữa, một Thành viên sẽ không tìm kiếm, áp dụng hay duy trì bất cứ một hạn
chế xuất khẩu tự nguyện nào, thoả thuận phân chia thị trường hay bất cứ biện pháp tương tự
nào khác đối với việc xuất khẩu và nhập khẩu[3],[4]. Những biện pháp này bao gồm những
Nhóm 6 – Lớp 12QT201
Trang 18
Môn: Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Giảng viên: ThS. Lưu Tiến Dũng
hành động do một Thành viên đơn phương áp dụng cũng như là những hành động theo các
thoả thuận, hiệp định hay hiểu biết giữa hai hay nhiều Thành viên. Bất cứ một biện pháp nào
như thế được áp dụng vào thời điểm Hiệp định WTO có hiệu lực phải được thực hiện phù
hợp với Hiệp định này hay từng bước loại bỏ theo quy định tại khoản 2.
(c)Hiệp định này không áp dụng đối với những biện pháp do Thành viên tìm kiếm,
áp dụng hay duy trì theo các quy định của GATT 1994 mà không phải Điều XIX, và các
Hiệp định thương mại đa biên trong Phụ lục 1A mà không phải là Hiệp định này, hay tuân
thủ theo những nghị định thư và hiệp định, hay những thoả thuận được nêu ra trong khuôn
khổ GATT 1994.
2. Việc từng bước loại bỏ các biện pháp nêu tại điểm 1(b) sẽ được thực hiện theo lịch
trình do Thành viên có liên quan đệ trình cho Uỷ ban về các biện pháp tự vệ không muộn
hơn 180 ngày sau khi Hiệp định WTO có hiệu lực. Lịch trình này sẽ thể hiện tất cả các biện
pháp được loại bỏ từng bước hay đưa vào các nguyên tắc của Hiệp định này nêu tại khoản
1 trong thời hạn không quá 4 năm sau ngày Hiệp định WTO có hiệu lực, tuỳ thuộc vào không
quá một biện pháp cụ thể cho mỗi Thành viên nhập khẩu[5]. Thời gian thực hiện sẽ không
kéo dài qúa ngày 31/12/1999. Bất kỳ ngoại lệ nào phải được các Thành viên có liên quan
trực tiếp nhất trí với nhau và thông báo cho Uỷ ban về các biện pháp tự vệ để Uỷ ban rà soát
và chấp thuận trong vòng 90 ngày tính từ ngày Hiệp định WTO có hiệu lực. Phụ lục của Hiệp
định này chỉ ra rằng một biện pháp đã được chấp nhận nằm trong ngoại lệ này.
3. Các Thành viên không được khuyến khích hay ủng hộ việc thông qua hay duy trì
các biện pháp phi chính phủ do các doanh nghiệp công cộng hay tư nhân đưa ra tương tục
với những biện pháp nêu tại khoản 1.
Điều 12 : Thông báo và tham vấn
1. Một Thành viên sẽ thông báo ngay lập tức cho Uỷ ban về các biện pháp tự vệ về:
(a) việc tiến hành điều tra liên quan tới tổn hại nghiêm trọng hay đe dọa gây ra tổn hại
nghiêm trọng và các nguyên nhân;
(b) kết luận về tổn hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây ra tổn hại nghiêm trọng do sự gia
tăng nhập khẩu; và
(c)quyết định áp dụng hoặc mở rộng biện pháp tự vệ.
2. Khi đưa ra thông báo nêu tại các điểm 1(b) và 1 (c), Thành viên dự kiến áp dụng
hay mở rộng biện pháp tự vệ phải cung cấp tất cả thông tin cần thiết cho Uỷ ban về các biện
pháp tự vệ, bao gồm các chứng cứ về sự tổn hại nghiêm trọng hay đe dọa gây ra tổn hại
nghiêm trọng do sự gia tăng nhập khẩu, mô tả rõ ràng loại sản phẩm liên quan, biện pháp dự
kiến, thời điểm áp dụng dự kiến và tiến độ thực hiện tự do hóa biện pháp này. Trong trường
hợp gia hạn biện pháp tự vệ thì phải chứng minh được ngành công nghiệp liên quan đang
được điều chỉnh. Hội đồng thương mại hàng hóa hay Uỷ ban có thể yêu cầu Thành viên dự
định áp dụng hay mở rộng biện pháp tự vệ cung cấp thêm thông tin nếu thấy cần thiết.
3. Một Thành viên dự định áp dụng hoặc mở rộng một biện pháp tự vệ phải dành
những cơ hội thích hợp để tham vấn trước với các Thành viên có quyền lợi cung cấp chủ yếu
như nhà xuất khẩu sản phẩm có liên quan, nhằm rà soát thông tin được cung cấp tại khoản
2, trao đổi các quan điểm về biện pháp áp dụng và đạt được một sự hiểu biết về những
phương thức nhằm đạt được mục tiêu đề ra tại khoản 1 Điều 8.
Nhóm 6 – Lớp 12QT201
Trang 19
Môn: Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Giảng viên: ThS. Lưu Tiến Dũng
4. Một Thành viên sẽ thông báo cho Uỷ ban về các biện pháp tự vệ trước khi áp dụng
một biện pháp tự vệ tạm thời nêu tại Điều 6. Việc tham vấn phải được bắt đầu ngay sau khi
biện pháp này được áp dụng.
5. Kết quả tham vấn nêu tại khoản này, cũng như các kết quả rà soát trung kỳ nêu
tại khoản 4 Điều 7, bất kỳ hình thức bồi thường nào theo khoản 1 Điều 7, và các đề xuất
đình chỉ nhượng bộ và các nghĩa vụ khác tại khoản 2 Điều 8 sẽ được các Thành viên có liên
quan thông báo ngay lập tức cho Hội đồng thương mại hàng hóa.
6. Các Thành viên sẽ thông báo ngay lập tức cho Uỷ ban về các biện pháp tự vệ về
pháp luật, quy định và thủ tục hành chính của mình có liên quan tới các biện pháp tự vệ này
cũng như những sửa đổi của chúng.
7. Các Thành viên đang duy trì các biện pháp được nêu tại Điều 10 và khoản 1 Điều
11 còn tồn tại khi Hiệp định WTO có hiệu lực sẽ phải thông báo các biện pháp đó cho Uỷ
ban về các biện pháp tự vệ không chậm hơn 60 ngày sau khi Hiệp định WTO có hiệu lực.
8. Một Thành viên có thể thông báo cho Uỷ ban về các Biện pháp Tự vệ về pháp luật,
quy chế, thủ tục hành chính và bất kỳ một biện pháp hay hành động nào như trong Hiệp định
này mà các Thành viên khác, theo Hiệp định này, đáng lẽ phải thông báo nhưng lại chưa
thông báo.
9. Một Thành viên có thể thông báo cho Uỷ ban về các biện pháp tự vệ về bất cứ một
biện pháp phi chính phủ nào được nêu tại khoản 3 Điều 11.
10. Uỷ ban về các biện pháp tự vệ có trách nhiệm thông báo thông tin được quy định
trong Hiệp định này cho Hội đồng thương mại hàng hóa.
11. Các quy định về thông báo theo Hiệp định này không đòi hỏi bất kỳ Thành viên
nào phải tiết lộ thông tin bí mật mà việc tiết lộ này có thể ngăn cản việc thực thi pháp luật
hay nói cách khác là đi ngược lại lợi ích chung và lợi ích thương mại của các doanh nghiệp
nhà nước hay tư nhân cụ thể.
Điều 13 : Giám sát
1. Uỷ ban về các biện pháp tự vệ được thành lập, trực thuộc Hội đồng thương mại hàng
hóa, sẽ để ngỏ cho bất kỳ Thành viên nào có nguyện vọng tham gia vào Uỷ ban này. Uỷ ban
có các chức năng như sau :
(a)theo dõi và báo cáo hàng năm cho Hội đồng về tình hình thực hiện Hiệp định này và
đưa ra các kiến nghị nhằm cải thiện tình hình;
(b)theo yêu cầu của Thành viên bị ảnh hưởng, điều tra sự tuân thủ của biện pháp tự vệ
với các yêu cầu về mặt thủ tục của Hiệp định này và báo cáo kết quả cho Hội đồng;
(c)hỗ trợ các Thành viên, nếu họ yêu cầu, trong quá trình tham vấn theo các quy định
của Hiệp định;
(d)kiểm tra các biện pháp nêu tại Điều 10 và khoản 1 Điều 11, giám sát tiến độ thực
hiện của các biện pháp này và báo cáo khi thích hợp cho Hội đồng thương mại hàng hoá;
(e)theo yêu cầu của Thành viên áp dụng biện pháp tự vệ, rà soát xem liệu các đề nghị
đình chỉ các nhượng bộ hay các nghĩa vụ khác có phải "cơ bản tương đương" không và khi
thích hợp báo cáo cho Hội đồng thương mại hàng hoá;
(f)thu thập và xem xét lại tất cả các thông báo quy định tại Hiệp định này và khi thích
hợp báo cáo cho Hội đồng thương mại hàng hoá;
Nhóm 6 – Lớp 12QT201
Trang 20
Môn: Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Giảng viên: ThS. Lưu Tiến Dũng
(g)thực hiện chức năng khác có liên quan tới Hiệp định này do Hội đồng thương mại
hàng hóa quyết định.
2. Để hỗ trợ Uỷ ban thực hiện chức năng giám sát của mình, Ban Thư ký sẽ chuẩn bị
báo cáo hàng năm về thực tế thực hiện Hiệp định này dựa trên các thông báo và các thông tin
tin cậy.
Điều 14 : Giải quyết tranh chấp
Các quy định của Điều 22 và Điều 23 Hiệp định GATT 1994 được Bản Diễn giải về
giải quyết tranh chấp chi tiết hóa và áp dụng sẽ được áp dụng cho việc tham vấn và giải
quyết tranh các chấp phát sinh theo Hiệp định này.
Nhóm 6 – Lớp 12QT201
Trang 21
Môn: Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế Giảng viên: ThS. Lưu Tiến Dũng
Tài liệu tham khảo:
Nhóm 6 – Lớp 12QT201
Trang 22