Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

bước đầu tìm hiểu kỹ thuật nuôi và nguyên nhân gây chết mực nang trong quá trình sản xuất giống nhân tạo loài sepia pharaonis

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.3 KB, 45 trang )



- 1 -
LỜI MỞ ĐẦU
Với 1 triệu km
2
vùng biển đặc quyền kinh tế, trên 1.7 triệu ha mặt nước có khả
năng phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Việt nam là một trong những có tiềm năng lớn về
khai thác và nuôi trồng thuỷ sản ở khu vực Đông Nam Á. Trong những năm gần đây,
thuỷ sản được coi là ngành kinh tế có mũi nhọn và có vai trò quan trọng trong quá trình
phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, góp phần vào sự nghiệp xoá đói giảm nghèo và
từng bước nâng cao mức sống cho cộng đồng ngư dân.
Động vật thân mềm(ĐVTM) có số lượng khá lớn, đứng thứ hai sau động vật giáp
xác. ĐVTM có giá trò dinh dưỡng tương đối cao, chứa nhiều đạm, hàm lượng mỡ thấp,
nhiều loại axiamin cần thiết cho con người. Những năm gần đây, nghề nuôi trồng Động
vật thân mềm đã phát triển với tốc độ cao, giống loài được nuôi trồng dần dần tăng lên,
diện tích nuôi trồng không ngừng được mở rộng, sản lượng nuôi trồng tăng lên rất lớn.
ĐVTM đã trở thành đối tượng kinh tế quan trọng, góp phần phát triển kinh tế của nhiều
quốc gia có biển ở khu vực châu và thế giới.
ĐVTM có 3 lớp quan trọng: Lớp chân bụng (Gastropoda), lớp hai mảnh vỏ
(Bivalvia) và lớp chân đầu (Cephalopoda). Lớp động vật chân đầu (Cephalopoda) theo
FAO có khoảng hơn 1000 loài thuộc 43 họ, bao gồm các loài mực ống, mực nang, bạch
tuộc, tất cả đều sống ở biển.
Theo thống kê của FAO, sản lượng mực đánh bắt hàng năm đứng hàng thứ ba sau
cá và tôm biển. Thòt mực thơm ngon chứa nhiều chất dinh dưỡng. Mực khô là mặt hàng
hải sản xuất khầu có giá trò, trong thòt mực còn chứa hàm lượng khá cao các loại vitamin
B
12
, B
2
, và PP. Trong công nghiệp, túi mực làm nguyên liệu ấn loát, nang mực chế biến


than hoạt tính. Trong y học, dùng bột nang để chế biến thuốc cầm máu thuốc chữa đau
dạ dày.
Mục tiêu chung của chương trình phát triển giống thuỷ sản là phải đảm bảo đủ
giống cho nhu cầu phát triển nuôi, phải đa dạng các giống, có nhiều loài thuỷ sản cho
nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Trước yêu cầu đó Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ
sản III đã tiến hành nghiên cứu sản suất giống mực nang (Sepia pharaonis) và đã đạt
được một số thành quả nhất đònh. Tuy nhiên trong quá trình sản xuất thử nghiệm có hiện
tượng mực chết rải rác mà chưa rõ nguyên nhân. Vì vậy trong thời gian thực tập tốt
nghiệp này được sự phân công của khoa Nuôi Trồng Thuỷ Sản Trường Đại học Thuỷ


- 2 -
Sản phân công thực hiện đề tài “Bước đầu tìm hiểu kỹ thuật nuôi và nguyên nhân gây
chết mực nang trong quá trình sản xuất giống nhân tạo loài Sepia pharaonis”.
Đề tài được thực hiện từ ngày 08/08/2005 đến ngày 30/11/2005. Với các nội dung
sau:
Tìm hiểu kỹ thuật sản xuất giống.
Theo dõi biến động một số chỉ tiêu môi trường: T
0
; ppt; pH.
Nghiên cứu biến đổi tổ chức mô học của mực nhiễm bệnh.
Tìm hiểu thành phần ký sinh trùng.
Nghiên cứu nấm trên mực giống.
Phân lập và đònh danh vi khuẩn từ cá thể nhiễm bệnh.
Do đây là đối tượng mới, chưa được nghiên cứu nhiều. Do trình độ và thời gian
còn hạn chế, báo cáo không tránh khỏi những sai sót. Kính mong được sự đóng góp ý
kiến của quý thầy cô, các bạn để báo cáo này được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành
cảm ơn!
Nha Trang, tháng 11 năm 2005
Sinh viên thực hiện


Phan Thò Luyến












- 3 -
Phần II: Tổng Luận

2.1. Vài nét về đối tượng nghiên cứu.
2.1.1. Hệ thống phân loại.
Ngành : Mollusca
Lớp: Cephalopoda Cuvier, 1798
Lớp phụ: Coleoidea Bather, 1888
Bộ: Sepiida Naef, 1916
Họ: Sepidae Keferstein, 1866
Giống: Sepia Linnaeus, 1758
Loài: Sepia pharaonis (Enhrenberg, 1831)

- Tên đồng danh: Sepia rouxi Oxigny, 1841; Sepia formosana, Berry, 1912; Sepia
formosano Sasaki, 1929; Sepia tigris Sasaki, 1929.
Tên tiếng Anh: Pharaoh cuttlefish

Tên tiếng Việt: Mực nang Vân Hổ
2.1.2. Đặc điểm hình thái của mực nang:
Mực nang Sepia pharaonis thông thường dài 20-30cm, các xúc tay dài ngắn chênh
lệch không lớn, đôi xúc tay bụng là dài nhất và đôi xúc tay lưng ngắn nhất. Trên xúc tay
các giác bám lớn nhỏ gần bằng nhau. Mỗi xúc tay có 4 hàng giác bám, vòng sừng giác
bám ở góc của xúc tay trơn tru, còn vòng sừng giác bám ở đỉnh xúc tay có nhiều răng
sừng đỉnh nhọn. Ở cá thể đực xúc tay thứ tư bên trái là xúc tay sinh dục, trên xúc tay
sinh dục có 12-15 hàng giác bám. Chiều dài xúc tay bắt mồi gấp đôi chiều dài thân.
Giác bám trên xúc tay bắt mồi chênh lệch không lớn, ở phần giữa có 3-5 giác bám đặc
biệt lớn. Vòng sừng của các giác bám lớn đều trơn tru không răng, vòng sừng của các
giác bám nhỏ đều có răng đầu nhọn. Phần sau của vỏ biến thành gai thô.
Theo Nguyễn Chính (1996), trên mặt lưng của mực nang có nhiều vân hình gợn
sóng giống da hổ vằn nên gọi là mực nang Vân Hổ. Khi còn nhỏ, cơ thể của chúng có


- 4 -
màu nâu nhạt, màu trắng vàng hay nâu sẫm và rất khó phân biệt được đực cái. Khi
trưởng thành, ở con cái và con đực có những sai khác phân biệt như sau:
Con đực: Cơ thể luôn dài hơn con cái, màu sắc sặc sỡ hơn ở đầu, các súc tay và
mặt lưng với các vân màu xanh và trắng sáng sặc sỡ sắp xếp theo chiều ngang của cơ
thể tạo nên nhiều vân hình gợn sóng giống da hổ. Dọc theo hai bên mép của vây có một
đường sáng không liền nhau tạo nên những đoạn có màu nâu sáng nối tiếp nhau, màu
sắc này có khi thay đổi thành màu xanh nước biển hay màu sáng nhạt.
Con cái: Phần thân của con cái tương đối rộng, không thuôn dài như con đực.
Phần lưng có màu nâu nhạt với nhiều chấm hoặc nốt màu trắng hoặc với đốm ngang
dạng yên ngựa màu nâu tái gồm các vằn, chấm, đốt hoặc đốm dạng vân hổ nhỏ hơn.
Dọc hai bên mép trong của vây có một đường sáng màu xanh không liên tục của con cái
có nhiều vằn ngang màu sáng.
Nói chung màu sắc cơ thể mực nang rất dễ bò thay đổi sang màu khác: màu trắng
vàng đục, màu nâu đậm. Để chúng thích nghi với điều kiện sống và trốn tránh kẻ thù,

đôi khi biến đổi thành gai nhọn, sù xì nhất là khi chúng cặp đôi giao vó, bắt mồi trốn
tránh kẻ thù, uốn lượn thành những làn sóng đẩy nước về phía sau để đưa cơ thể về phía
trước. Ngoài ra vây có vai trò như bánh lái để chuyển hướng đi, giữ thăng bằng và giảm
tốc độ.
2.1.3. Đặc điểm sinh trưởng.
Theo kết quả nghiên cứu của Lê Thi Thu Thảo (2005), ở giai đoạn còn nhỏ (chiều
dài màng áo nhỏ hơn70 mm) tỷ lệ tăng trưởng về chiều dài nhanh hơn trọng lượng.
Chiều dài màng áo lớn hơn 100 mm tỷ lệ tăng trưởng về chiều dài chậm hơn trọng
lượng.
Kết quả phân tích về tương quan chiều dài màng áo và trọng lượng toàn thân cho
thấy ở nhóm mực có chiều dài màng áo > 100 mm con cái có trọng lượng nặng hơn con
đực, đây có thể là do trong giai đoạn này con cái tích trữ năng lượng cho quá trình sinh
sản.
2.1.4. Môi trường phân bố
Mực nang thường sống cách bờ từ 50-500 km, chúng sống ở đáy cát sỏi, cát pha
lẫn mùn bã hữu cơ hay nơi có các tầng đá ngầm, đá san hô, độ sâu trung bình 15-17 m
phân bố nhiều nhất ở độ sâu từ 20 -40 m.


- 5 -
- Môi trường phân bố:
Độ mặn từ 32 - 36ppt.
pH từ 8.0 - 8.5.
Hàm lượng oxy hoà tan từ 5 –7 mg/lit.
2.1.5 Đặc điểm dinh dưỡng.
Đặc điểm dinh dưỡng của mực nang vân hổ cũng giống như của một số động vật,
thay đổi theo giai đoạn phát triển, mỗi giai đoạn có đặc điểm khác biệt riêng. Khi ở giai
đoạn phát triển trong bọc trứng ấu trùng chủ yếu dinh dưỡng bằng noãn hoàng. Khi ấu
trùng thoát ra khỏi bọc trứng trở thàng mực con, sau 3 – 5 ngày chúng sử dụng thức ăn
bên ngoài. giai đoạn này mực con dùng tay (các xúc tu) để bắt mồi. Thức ăn bao gồm

các thức ăn còn sống: Mysis và Postlarva của tôm, cá hương, giun đỏ, ấu trùng muỗi,
nhưng thức ăn yêu thích là tôm ở giai đoạn Mysis và Postlarva. Một tháng sau, ngoài
thức ăn trên mực con có thể ăn các loại như: thòt tôm, cá…thái nhỏ. Sau đó chúng sử
dụng các loại thức ăn lớn hơn theo thời gian.
2.1.6. Đặc điểm sinh học sinh sản.
- Mực nang là loài phân tính rõ ràng. Cơ quan thụ tinh của con đực là một tua đầu
biến đổi, đó là xúc tay thứ tư, có giác bám ít phát triển và có rãnh ở giữa nằm bên trái,
gọi là xúc tay sinh dục. Tuyến tinh màu trắng đục, có ống dẫn tinh nhưng không có
tuyến tạo vỏ.
Con cái: kết quả giải phẫu cho thấy, buồng trứng nằm giữa khoang áo – bên dưới
túi mực. Không có cơ quan sinh dục, tuyến sinh dục là buồng trứng màu vàng nhạt. Con
cái có tuyến tạo vỏ rất rõ.
Kích thước thành thục lần đầu: mực nang phải đạt chiều dài màng áo ≥ 70 mm
mới có khả năng tham gia sinh sản lần đầu.
* Hoạt động giao vó và thụ tinh
Hoạt động sinh sản của con đực và con cái diễn ra khi chúng kết cặp với nhau tự
1-3 tuần. Con đực lựa chọn con cái để kết cặp còn con cái chấp nhận mọi con đực. Thời
gian kết cặp kéo dài hay ngắn tuỳ thuộc vào qúa trình chọn lựa của con đực. Quá trình
kết cặp và đẻ của con đực và con cái như sau.


- 6 -
Đầu tiên, con đực bơi song song với con cái, sau đó con đực áp phần bụng lên lưng
của con cái, chúng bơi cùng nhau đồng thời kéo dài các xúc tu ra.
Con đực từ từ xoay phần bụng lại và kéo căng các xúc tu tiếp cận với các xúc tu
của con cái. Con đực cũng kéo căng các xúc tu ra để chuyển sản phẩm sinh dục vào cho
con cái.
Quá trình thụ tinh:
Qúa trình thụ tinh được tiến hành bên trong khoang màng áo. Khi thụ tinh con đực
lấy một ít bao tinh từ túi Needham rồi chuyển vào khoang áo của con cái và tinh được

gắn chặt vào lỗ sinh dục của con cái, quá trình này kéo dài khoảng 5 – 20 phút. Sau khi
quá trình kết cặp xong mực bắt đầu đẻ trứng.
* Quá trình đẻ trứng.
Quá trình đẻ trứng của mực cái xảy ra khi con đực và con cái đã cặp đôi giao vó.
Trước khi đẻ trứng, con cái bơi chậm và quan sát xung quanh giá thể, đồng thời con đực
hộ tống theo cùng con cái. Con cái tiến tới chỗ giá thể dùng các xúc tay ôm lấy giá thể
rồi gắn từng nang trứng vào giá thể, sau đó bơi lùi lại về ø phía sau và bơi quanh quẩn
nơi đẻ. Quá trình sinh sản của con cái diễn ra vào ban đêm.
Trứng được đẻ từng cái một và đính vào giá thể tạo thành chùm giống như chùm
nho. Sau khi đẻ song con cái nằm nghỉ ở sát đáy, con đực bơi xung quanh chùm trứng,
thỉnh thoảng dùng các xúc tay ôm lấy trứng như vuốt ve và làm vệ sinh cho trứng. Trong
chu kỳ vòng đời, mực cái chỉ thành thục một lần và đẻ hết toàn bộ trứng là chết. Chúng
có thể đẻ nhiều kỳ do trứng phát triển thành thục không đồng pha.
* Sức sinh sản của mực nang
- Sức sinh sản tuyệt đối của mực nang ở các nhóm khác nhau thì khác nhau.
- Sức sinh sản tuyệt đối trung bình cho các nhóm kích thước là 474,53 trứng. Sức
sinh sản tương đối trung bình là 2,77 trứng/g trọng lượng toàn thân.
2.1.7. Tập tính bơi lội.
Đối với các loài mực nhờ có vây và lỗ phễu mà chúng có thể vận động được.
Chúng có thể tiến về phía trước hay thụt lùi về phía sau, vận động về phía sau với tốc độ
nhiều khi nhanh hơn về phía trước.
2.2.Tình hình nghiên cứu về mực.


- 7 -
2.2.1. Nghiên cứu về thành phần loài, phân bố và nguồn lợi.
Theo Roper et al., (1984) Lớp chân đầu trên thế giới có khoảng 1000 loài thuộc 43
họ, sống trong điều kiện rất khác nhau: trên rạn đá san hô, bùn, đất đá, sống ở vònh, biển
sâu xa bờ. Vùng biển Ấn Độ Dương có 201 loài (Silas,1986), Vònh Thái Lan và vùng
biển Andaman có 25 loài thuộc 10 giống và 5 họ.

Theo Nabhitabhata và Nilaphat (1999). Loài mực nang phân bố ở vùng nhiệt đới
từ 35
o
Bắc đến 30
o
Nam và từ 30
o
đến 140
o
Đông ở Ấn Độ Dương.
Theo Norman và Reid, (2002) tuỳ thuộc vào hình dạng vân hổ trên cơ thể mực và
đòa lý phân bố mà loài mực nang này được xếp vào 3 nhóm:
- Nhóm I thuộc những loài tìm thấy ở phía Tây của vùng biển n Độ (bao gồm
biển Đỏ và vònh Arabian).
- Nhóm II, phân bố từ Nhật Bản đến vònh Thái Lan,phía bắc nước c và Pilippin.
- Nhóm III, từ Maldives đến biển Adaman thuộc vùng biển Thái Lan. Trong đó
nhóm I và II trên cơ thể của con đực vân hổ rất rõ ràng, trong khi đó nhóm III, ở xúc tay
thứ III lại xuất hiện các đốm.
Trong khi đó ở nước ta, các vùng biển đều có các loài động vật chân đầu phân bố,
nhiều loài có số lượng lớn, hiện là đối tượng khai thác hải sản quan trọng. Các loài động
vật thân mềm lớp chân đầu có khả năng vận động mạnh, dễ dàng di chuyển đến nơi có
điều kiện sống thích hợp, theo từng thời kỳ.
Theo Nguyễn Xuân Dục (1999) cho đến nay vùng biển Việt Nam đã phát hiện có
69 loài động vật thân mềm thuộc lớp chân đầu, trong đó vònh Bắc bộ có 33 loài, biển
miền Trung 65 loài và biển miền Nam có 40 loài. Có 4 loài quý hiếm đã được vào sách
đỏ Việt Nam cần được bảo vệ trong đó có mực nang vân hổ.
Họ mực nang có 15 loài thuộc 3 giống trong đó vùng biển vònh Bắc bộ có 10 loài,
vùng biển phía Nam có 14 loài.
Theo Nguyễn Xuân Dục ở vònh Bắc Bộ trong thời kỳ mùa khô (tháng1, 2, 3) các
loài mực nang kích thước lớn như Sepia pharaonis; S. lycida; S. essculenta thường tập

trung ở gần các đảo Cô Tô (Quảng Ninh), Bạch Long Vó, Cát Bà (Hải Phòng). Các
tháng khác các loài S .latimanus; S. madokai; S. aculeata… phân bố rải rác ở các khu vực
phía Bắc, Tây Bắc và phía Tây vònh Bắc Bộ.


- 8 -
Vùng biển phía Nam, vào mùa khô mực nang phân bố từ Nam Phan Rang, Phan
Thiết và khu vực gần bờ Đông và Tây Cà Mau. Còn vào mùa mưa thường tập trung từ
Phan Thiết đến Cà Mau và Tây bắc đảo Phú Quốc, nhưng có xu hướng dòch chuyển ra
xa bờ.
Ở vùng biển vònh Bắc Bộ và vùng cửa sông Nam Bộ, mực ống (Loliginidae) và
mực nang (Sepiidae) tập trung phân bố chủ yếu ở độ sâu dưới 50 m nước vùng biển miền
Trung ở độ sâu từ 100 – 200 m có mực ống và mực nang phân bố nhiều nhất.
Kết qủa nghiên cứu của đề tài KT.0309 (1991-1995) phân tích trên hàng nghìn
mẻ lưới đánh bắt ở các vùng biển Việt Nam của các tàu điều tra của Liên Xô (cũ) các
năm 1977 – 1988, tàu Biển Đông các năm 1978 –1980; các tàu Thái Lan năm 1992 –
1993; các tàu của Hàn Quốc năm 1991; đã tính toán chi tiết nguồn lợi mực phân bố theo
độ sâu ở các vùng biển nước ta.
Bảng 1: Trữ lượng và khả năng khai thác mực nang theo độ sâu ở biển Việt Nam
(nguồn: đề tài KT.039).
Vùng
biển
Trữ lượng và
khả năng khai
thác
< 50m 50-
100m
100-
200m
>200m Cộng


Vònh
Bắc Bộ
-Trữ lượng
-KN khai thác
1.498,0

599,2

394,9

158,0

-

-

1.892,9

757,2

Biển
M.Trung
-Trữ lượng
-KN khai thác
3.900,4

1.560,2

3.835,7


1.534,3

4.504,6

1.801,8

1.300,5

520,2

13.541,2

5.416,5

Biển
Nam Bộ
-Trữ lượng
-KN khai thác
24.933,3

9.973,3

10.755,9

4.302,4

7.404,1

2.961,6


5.612,5

2.245,0

48.705,8

19.482,3

Cộng -Trữ lượng
-KN khai thác
30.331,7

12.132,7

14.986.5

5.994,6

11.908,7

4.763,5

6.913,0

2.765,2

64.140,0

25.656,0



Theo Khromov (1996) ở độ sâu từ 250 – 300 m bắt gặp các loài Sepia madokai,
S.lorigera, S.vietnamic nhưng số lượng ít. Các loài mực thuộc các họ Ommastrephidae,
Onychoteuthidae, và Cycloteuthidae phân bố chủ yếu ở độ sâu từ 300 – 500 m. Ở độ


- 9 -
sâu 500 – 700 m có thể gặp các loài Ornithoteuthir volatilic và Symplectoteuthir
oualaniensis.
Độ sâu từ 50 – 100 m là vùng phân bố chủ yếu của các loài thuộc họ
Histioteuthis. Còn vùng sườn lục đòa tới độ sâu 100m gặp các loài Histioteuthis
mirandae và Cycloteuthis sirventi. Với độ sâu hơn 100 m gặp các loài thuộc hai họ
Octopodidae và Bolitaenidae.
2.2.2 Nghiên cứu về đặc điểm sinh thái học và sinh sản của mực.
Theo Lu. (1998), Nabhitabhata. (1999), Minton và cộng sự (2001), loài mực nang
là đối tượng thuỷ sản thích hợp bởi chúng phân bố rộng khắp, có kích thước lớn và tốc
độ sinh trưởng nhanh. Chúng thích nghi tốt với chế độ dinh dưỡng khác nhau, dễ dàng
chuyển tính ăn từ mồi sống sang mồi chết. Loài này thích nghi với ngưỡng nhiệt độ và
độ mặn rộng, hoạt động nhiều trong quá trình nuôi nhưng không sinh sản liên tục. Sự
sinh sản xuất hiện ngay trong điều kiện nuôi nhốt.
Theo Nabhitabhita và Nilaphat (1999) mực nang cặp đôi giao vó khi đạt 90 ngày
tuổi. Một con cái có thể đẻ 50-3000 trứng. Thời gian sinh sản kéo dài từ 1-24 ngày phụ
thuộc vào kích thước của con cái cũng như số lượng trứng và kích thước của chúng.
Trứng được ấp trong bọc trứng, ở nhiệt độ 28
o
C mực con nở ra sau khoảng 9-25 ngày
(trung bình 14 ngày). Thời giản trứng nở khoảng 3-10 ngày. Con đực hộ tống và bảo vệ
cho con cái suốt thời gian sinh sản. Sau khi sinh sản khoảng 1-3 tuần cả con đực và con
cái đều chết.

Sau khi trứng nở, mực con dinh dưõng bằng noãn hoàng từ 3-7 ngày. Sau đó
chuyển sang sống đáy, và ăn ấu trùng tôm ở giai đoạn Mysis. Sau 30 ngày (chiều dài
thân đạt 2 - 3 cm) chúng có thể bắt mồi chết. Thức ăn là những loài co kích thước nhỏ
hơn chúng. Mực nang có thể ăn thòt nhau trong môi trường thiếu thức ăn, chúng thường
bơi và bắt mồi về ban đêm.
Theo Dunning và et al., (1994) cho rằng kích thước của loài mực này khác nhau ở
các vùng biển khác nhau. vùng biển phía Bắc nước c, con đực trưởng thành đạt
chiều dài máng áo 192 mm, con cái là 173 mm; ở vùng biển Nhật Bản kích thước trung
bình của con cái là 420 mm; ở vùng biển Đài Loan là 370 mm; vùng biển Philippin là
262 mm. Tuy nhiên các tác giả đều cho rằng loài mực này ở ngoài tự nhiên có kích
thước và trọng lượng lớn hơn nhiều trong điều kiện nuôi giữ. Mực con và mực trưởng


- 10 -
thành có tập tính vùi mình trong cát hoặc sỏi. Tập tính kết đàn thỉnh thoảng được quan
sát khi chạy trốn kẻ thù và săn đuổi mồi.
Việt Nam các công trình nghiên cứu về đặc điểm sinh học sinh sản của đối
tượng này chưa nhiều. Như nghiên cứu của một số tác giả:
Nguyễn Lâm Anh, Nguyễn Văn Long (1996 – 1997) nghiên cứu sinh trưởng của
một số loài mực ở vùng biển Việt Nam. Tác giả đã nghiên cứu thành phần, kích thước
của mực nang cho kết quả sau: chiều dài đo dược từ 60 – 260 mm. Kích thước cá thể
lớn thường tập trung vào các tháng đầu năm (200 – 240 mm) và giảm dần vào các tháng
giữa năm (60 – 160 mm) sau đó lại tăng dần vào các tháng cuối năm (100 – 200 mm).
Con cái có khối lượng lớn hơn con đực, khối lượng của con đực trung bình từ 111 –
1118g và con cái là 103 – 1223g.
Nghiên cứu khai thác mực nang bằng lưới rê ba lớp của Nguyễn Long và Phan
Huy Sơn (2000). Kết quả cho thấy dùng lưới rê ba lớp khai thác mực nang có hiệu qua
từ tháng 1 đến tháng 5 hàng năm.
Theo Trần Đònh (1998) mực ống đại dương có thân hình ống (Loligo spp) thon
dần đến vây. Vây hình thoi, khoẻ, chiều dài vây bằng 44- 48% chiều dài thân. Mặt lưng

của thân phủ các chấm sắc tố nhỏ sắp xếp tương đối đều nhau. Có 1 đốm sáng lớn hình
oval ở dưới daphần giáp phía trên mặt lưng áo. Khi kích thước màng áo đạt 165 – 175
mm thì có khả năng tham gia sinh sản.
Theo kết quả nghiên cứu của Lê Thò Thu Thảo (2005). Ở giai đoạn còn nhỏ (chiều
dài màng áo nhỏ hơn 70 mm) tỷ lệ tăng trưởng về chiều dài nhanh hơn trọng lượng. Chiều
dài màng áo lớn hơn 100 mm tỷ lệ tăng trưởng về chiều dài chậm hơn trọng lượng.
Kết quả phân tích về tương quan chiều dài màng áo và trọng lượng toàn thân cho
thấy ở nhóm mực có chiều dài màng áo > 100 mm con cái có trọng lượng nặng hơn con
đực.
Khả năng sinh sản ở các nhóm kích thước khác nhau thì khác nhau.
Nhóm kính thước từ 59 – 70 mm có sức sinh sản tuyệt đối dao động từ 52 – 221
trứng/ cá thể.
Nhóm kích thước 71 – 90 mm có sức sinh sản tuyệt đối dao động từ 146 – 418
trứng/ cá thể.


- 11 -
Nhóm kích thước 91 – 130 mm có sức sinh sản tuyệt đối dao động từ 89 – 441
trứng/ cá thể.
Nhóm kích thước 131 – 150 mm có sức sinh sản tuyệt đối dao động từ 385 – 1269
trứng / cá thể.
Nhóm kích thước > 150 mm có sức sinh sản tuyệt đối dao động từ 397 - 1938
trứng/ cá thể.
2.2.3. Nghiên cứu về bệnh
Phần lớn nghiên cứu về phân bố và nguồn lợi, đặc điểm sinh học sinh sản, trữ lượng
và khả năng khai thác của các đối tượng thân mềm. Nghiên cứu về bệnh học còn hạn chế,
còn ít tài liệu. Chủ yếu tập trung nghiên cứu trên các đối tượng lớp chân bụng
(Gastropoda): các loài ốc nước ngọt và lớp hai mảnh vỏ (Bivalvia): hầu, bào ngư, vẹm,
ngọc trai, điệp. Còn nghiên cứu về bệnh của các đối tượng thuộc lớp chân đầu
(Cephalopoda) nói chung và mực nói riêng còn nhiều hạn chế. Đặc biệt mực nang là đối

tượng mới nên các vấn đề nghiên cứu về bệnh chưa nhiều như những đối tượng khác.
Theo C. R. Sangster and R. M. Smolowitz, 2003. Những cá thể mực thuộc giống
Sepia (S. officinalis, S. apama, and S. pharaonis) đã đựơc nuôi thử nghiệm tại phòng thí
nghiệm sinh học biển của Trung tâm Nguồn lợi biển (MRC – Hoa Kỳ) từ năm 1992.
Mục đích của nghiên cứu này đã xác đònh được những nguyên nhân gây ra tỷ lệ chết và
dòch bệnh trong quá trình nuôi. Khi nghiên cứu mô học đã phát hiện ra những thương tổn
trong tổ chức tế bào nhờ những thông tin này có thể ứng dụng những phương pháp có
hiệu quả trong chuẩn đoán, ngăn ngừa và trò bệnh.
Vi khuẩn có trong các cơ quan và chúng phá vỡ những tổ chức này như: tuyến
tiêu hoá, thận và ở tuyến sinh dục. Nhiều trường hợp khi kiểm tra vết loét của loài mực
Sepia spp, khi phân lập vi khuẩn phát hiện loài Vibrio alginolyticus. Loài vi khuẩn này
còn tác nhân gây chết ở ấu trùng bào ngư Haliotis ruescens. Chúng có trên mai, giác bám
của Copepoda, Crustaceans và đây là con đường quan trọng để truyền nhiễm những tác
nhân gây bệnh cho đối tượng nuôi. Khi so sánh mật độ vi khuẩn trong điều kiện nuôi và
ngoài tự nhiên đối với loài mực ống Lolliguncula brevis thấy rằng số lượng vi khuẩn trong
điều kiện nuôi cao hơn ngoài tự nhiên. Vi khuẩn còn có trong nước biển, trong những chất
cặn đáy, và trong hệ thống nuôi. Vì thế rất dễ nhiễm trong hệ thống nuôi.
Ngoài ra kết quả nghiên cứu mô học đã cho thấy, dựa trên những đặc tính của
mô, sự xuất hiện của vi khuẩn V. aginolyticus xảy ra ở một trong 3 phần riêng biệt. Đầu


- 12 -
tiên do hoại tử, những thương tổn giống như u lồi (có đường kính 0,95 – 1,4 mm) hầu hết
gặp ở những mô sinh sản như ở trong các ống tinh hoàn, ống thận. Thứ 2 là những hoại
tử, những u hạt giống như bò viêm mà những thương tổn này rất khó thấy (có đường kính
0,1 – 0,25mm) ở bên trong tế bào, phần lớn thấy ở mang của động vật. Cuối cùng là
những tiêu điểm, những hoại tử giống như là bò viêm ở dạng trung gian của tế bào đã
tìm thấy phần nhiều ở mang, tim (có đường kính từ 0,2 – 0,7 mm).
Những nghiên cứu này đã chỉ ra rằng V. alginolyticus là tác nhân gặp thông
thường trong nuôi mực nang Sepia spp tại MRC. Cũng giống với các tác nhân gây bệnh

cơ hội trên động vật thuỷ sản, stress và quản lý đóng một vai trò quan trọng trong việc
xuất hiện bệnh. Phương pháp quản lý có thể giúp đỡ làm giảm hoặc ngăn chặn sự xuất
hiện của những bệnh này. Thêm vào đó những kết quả tìm thấy trong nghiên cứu chỉ ra
rằng khi ta nghi ngờ mực mắc bệnh vi khuẩn ở nhánh mang, tim, có thể kiểm tra bằng
phương pháp mô học.
Theo John W. Forsythe et al.,(…) trong quá trình nuôi quảng canh, bắt gặp nhiều
những thương tổn bên trong cũng như bên ngoài cơ thể của những loài thuộc lớp chân
đầu. Nguyên nhân do và kí sinh của động vật đơn bào. Nhờ vào những thông tin để có
thể xác đònh đưa ra những phương pháp thích hợp để xử lý vấn đề trên. Những loại
kháng sinh được sử dụng ở các nồng độ khác nhau bằng các phương pháp khác nhau như
tắm, nhúng, tiêm. Nghiên cứu ban đầu đã chỉ ra rằng Choloramphenicol, Nitrofurazone,
có nồng độ thấp nhất và Oxytetracyline không có hiệu quả. Không tìm thấy phương
pháp xử lý có hiệu quả đối với nguyên sinh động vật. Trứng của loài bạch tuộc có thể
được giữ an toàn khi nhúng vào Malachite Green (0.05 mg/lit) trong khi đó trứng của
loài mực ống có thể nhúng vào trong Iodine (100 mg/lit).
Nghiên cứu về bệnh mực ở Việt Nam hầu như chưa có. Tuy nhiên chúng ta thấy
rằng mực là đối tượng thuỷ sản có giá trò kinh tế. Trên thê giới một số nước như Thái
Lan, Nhật Bản mực đã được nuôi phổ biến và cho sản lượng cao. Việt Nam là một trong
những nước có tiềm năng phát triển nuôi trồng thuỷ sản nói chung và động vật thân
mềm nói riêng. Tại Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản III đã và đang tiến hành
nghiên cứu sản xuất giống loài mực nang và đã thu được một số kết quả khả quan. Tuy
nhiên trong quá trình sản xuất có hiện tượng chết rải rác mà chưa rõ nguyên nhân. Cũng
như những đối tượng khác để có thể tiến hành nuôi công nghiệp, nghiên cứu về bệnh
đóng vai trò quan trọng để phát triển và duy trì nguồn lợi mực.



- 13 -
Phần III: Phương Pháp Nghiên Cứu


3.1. Đối tượng, thời gian và đòa điểm nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: mực nang vân hổ Sepia pharaonis.
- Thời gian: từ 08/08/2005 – 30/11/2005.
- Đòa điểm nghiên cứu: Tại Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản III
Và phòng thí nghiệm bệnh Khoa Nuôi trồng Thuỷ sản – Trường Đại học Thuỷ sản.
3.2. Phương pháp nghiên cứu.
• Phương pháp tiếp cận:




















Tìm hiểu kỹ thuật nuôi và nguyên nhân gây chết
mực nang trong quá trình sản xuất giống
Tìm hiểu kỹ

thuật nuôi

Xác đònh sự biến
động một số yếu tố
môi trường.
Mẫu bệnh

Hình
thức
nuôi
Chế
độ
chăm
sóc
Dấu
hiệu
bệnh

Phân
lập vi
khuẩn

bệnh
học
Nấm

Quan
sát
KST
Đánh giá, nhận xét và đề xuất ý kiến




- 14 -
3.2.1 Phương pháp tìm hiểu kỹ thuật nuôi.
* Phương pháp tiếp cận:
Trực tiếp tham gia sản xuất, nghiên cứu và phỏng vấn cán bộ kỹ thuật.
* Phương pháp thu thập thông tin:
Thông qua phỏng vấn cá bộ kỹ thuật, công nhân ở viện nghiên cứu và trực tiếp
tham gia sản xuất
3.2.2. Phương pháp thu thập xử lý và phân tích mẫu.
* Phương pháp thu mẫu:
- Mẫu bệnh là những cá thể có dấu hiệu bệnh lý như: bỏ ăn, yếu, bơi chậm hay
nằm yên tại chỗ. Hoặc có những hoạt động bất thường như: đầu cúp xuống, bơi nhanh
không đònh hướng, va đầu vào thành bể.
Mẫu bình thường: là những cá thể bình thường không có dấu hiệu bệnh lý. Thu
mẫu từ 3 – 5 cá thể.
Mẫu thu còn sống và được vận chuyển về phòng thí nghiệm để tiến hành xử lý mẫu.
* Phương pháp xử lý mẫu.
Mẫu được ghi rõ các đặc điểm chiều dài và khối lượng, ngày thu và đòa điểm thu mẫu.
Mẫu được lấy nhớt để quan sát ký sinh trùng (KST). Quan sát KST bên ngoài và
bên trong.
Cố đònh mô bệnh học: các bộ phận của mẫu được cố đònh bằng dung dòch
Formalin 10%. Cố đònh mẫu trong 18 – 36h, sau đó chuyển sang cồn etylic 70%. Mẫu
mô cho vào lọ riêng, dán nhán ghi đầy đủ chi tiết: thời gian, đặc điểm, đòa điểm thu
mẫu.
- Phân lập vi khuẩn.
- Nghiên cứu nấm.
3.2.3. Phương pháp nghiên cứu vi khuẩn.
Dựa trên phương pháp nghiên cứu vi khuẩn ở cá và động vật thuỷ sản của

Mussenlin (1983); Plumb (1983) và Freich (1984),



- 15 -
















* Phân lập vi khuẩn:
- Môi trường phân lập :Môi trường TCBS, NA
- Môi trường nuôi cấy thuần chủng: NA.
* Đònh danh vi khuẩn.
- Bằng các phản ứng sinh hoá và API20 NE Tets kit (hãng Biomerieux).
-Dựa vào sách: FADDIN
3.2.4. Phương pháp nghiên cứu KST.
* Phương pháp soi tươi: áp dụng phương pháp nghiên cứu KST trên cá của V.A
Dogiel (1960), sau đó phương pháp này được cải tiến bởi Buchocoskaja, Hà Ký (1968)

và A.V Gusster (1983).
* Phương pháp xử lý mẫu:
Mẫu bệnh phẩm

Phân lập trên môi
trường chọn lọc
Nuôi tăng sinh

Thực hiện các
phản ứng sinh hóa
Nuôi cấy thuần
chủng
Nhuộm Gram

Đònh danh vi
khuẩn


- 16 -
- Thu mẫu KST ngoại ký sinh: Dùng dao cạo nhớt để lấy nhớt ở da mực cho lên
một lam sạch, nhỏ nước muối sinh lý lên lam, đạy lamen lên lam rồi quan sat dưới kính
hiển vi với độ phóng đại 4X hoặc 10X.
- Thu mẫu KST nội ký sinh: Tiến hành giải phẫu mực, rồi dùng dao cạo nhớt lấy
nhớt ở các bộ phận cần nghiên cứu như:ruột, gan, dạ dày, mang. Cho nhớt lên lam rồi
nho nước muối sinh lý tiến hành quan sát như đối với KSTngoại ký sinh.
- KST thu được tiến hành đònh danh, không tiến hành cố đònh hay làm tiêu bản,
nhuộm mẫu.
* Phương pháp đònh danh KST:
- Đònh danh KST dựa vào đặc điểm hình thái cấu tạo và tài liệu để phân loại.
- Bài giảng bệnh học thuỷ sản của TS.Đỗ Thò Hoà

3.2.5. Phương pháp nghiên cứu mô bệnh học.
- Mẫu mô cố đònh formalin 10%. Đúc parafin, cắt lát và nhuộm Hematoxylin và
Eosin (H $ E). Theo phương pháp thông dụng hiện hành và quan sát dưới kính hiển vi
quang học.
3.2.6. Phương pháp nghiên cứu nấm.












Cấy trên môi trường Bloot

Lấy khuẩn lạc

Quan sát dưới kính
hiển vi vật kính 40X
Đònh danh nấm

Mẫu bệnh phẩm

Cấy trên môi trường nấm

Lấy khua

ån ty



- 17 -
* Phương pháp đònh danh nấm:
- Dựa vào đặc điểm của bào tử, khuẩn lạc, màu sắc, dường kính khuẩn lạc, thời
gian phóng bào tử và thời gian nảy mầm để phân loại nấm.
Chú ý: các dụng cụ dùng trong nghiên cứu vi khuẩn và nấm đều phải lau qua cồn.
3.2.7. Theo dõi môi trường:
Đo các yếu tố môi trường vào lúc trước khi thay nước và sau khi thay nước :7h
sáng và 17h chiều.
+ Nhiệt độ: đo bằng nhiệt kế thủy phân có độ chính xác 0.1
o
C
+ PH: Dùng Test pH
+ Độ mặn: Dùng khúc xạ kế có độ chính xác 1 ppt
3.3. Phương pháp sử lý số liệu:
Theo phương pháp thống kê sinh học.
3.4. Các công thức sử dụng:
Tính tần số bắt gặp của vi khuẩn:
A =
%100×
C
B

Trong đó: +A là tần số bắt gặp của vi khuẩn %
+B là lần lặp lại của vi khuẩn
+ Tổng số mẫu thu
- Sử dụng phương pháp tính giá trò trung bình:



=
=
n
i
i
x
n
X
1
____
1

Trong đó: n – Số lần kiểm tra của một yếu tố nào đó (n = 1,2,3 )
X
i
– Giá trò của lần kiểm tra thứ i.
X – Giá trò trung bình của một yếu tố nào đó.



- 18 -
Phần IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.

4.1. Kỹ thuật sản xuất giống mực nang vân hổ (sepia pharaonis)
4.1.1. Nguồn mực bố mẹ
Mực bố mẹ được mua từ lồng nuôi giữ trên biển tại khu vực Trí Nguyên hoặc mua
trực tiếp của ngư dân khai thác ở biển
* Chọn mực bố mẹ :

+ Hình dạng :
Chọn những cá thể khoẻ mạnh, không bò xây xát, còn nguyên phần tua, vây bơi,
màu sắc tươi sáng, mập và to về chiều ngang, bơi lội bình thường. Nếu mua được những
mực đã kết cặp rồi thì càng tốt.
+Về kích thước :
Chọn con cái co ùtrọng lượng hơn 700g, con đực có trọng lượng hơn 1kg.
Bên cạnh mua mực bố mẹ về cho sinh sản, thì ở viện còn tiến hành mua trứng mực
về ấp và cho nở ra mực con.Trứng được mua từ những nơi có mực bố mẹ nuôi ở trong
lồng.
* Chọn trứng:
Chọn những trứng mới, không bò bẩn, màu trắng, phôi đang phát triển. Loại bỏ
những trứng lép, trứng không thụ tinh.
Sau khi mua tiến hành vận chuyển mực bố mẹ về trại bằng thùng xốp, dùng đá để
hạ nhiệt độ xuống khoảng 22-24
0
C, dùng xôâ để vận chuyển trứng.
* Điều kiện nuôi và ấp trứng :
+ Mực bố mẹ được nuôi trong bể ximăng có đáy cát. Thể tích bể là 2m
3
. Mực nước
khoảng 50-60 cm. Nguồn nước biển tự nhiên đã qua lọc cơ học Sục khí liên tục.
Khẩu phần thức ăn: Cho ăn từ 5-7% khối lượng thân . Thức ăn là tôm đất, cá, ghẹ
Hàng ngày tiến hành vớt thức ăn thừa bằng vợt. Thay thể tích nước trong bể 50 –
100%
Trứng mực được ấp trong bể composit có thể tích 1m
3
, mực nước là 50-60 cm, sục
khí liên tục và được thay nước tư ø50 – 100 % hàng ngày.



- 19 -
4.1.2 Ương nuôi mực con từ khi mới nở tới 1 tháng
+ Điều kiện bể ương: Ương trong bể composit hình tròn thể tích 1m
3
. Nguồn nước
biển tự nhiên qua lọc cơ học.
Khẩu phần ăn: Từ 20-25% khối lượng thân, cho ăn 3 – 4 lần một ngày
Thức ăn: Ấu trùng postlavar của tôm su,ù Artemia sinh khối, cá giống nước ngọt
tép nhỏ
Mật độ nuôi: 100 – 150 con /m
3
.
+ Các biện pháp chăm sóc và quản lý
- Thay thể tích nước trong bể : 50-100% mỗi ngày. Khi thay nước kết hợp với dùng
khăn lau thành bể, sục khí.
- Tiến hành siphong sau mỗi bữa cho ăn, dung vớt vớt thức ăn thừa và những màng
bẩn trên mặt bể.
giai đoạn này mực còn nhỏ rất dễ bò kích động, khi bò kích thích sẽ phun mực
gây ô chiễm môi trường vì vậy mọi thao tác phải tiến hành nhẹ nhàng tránh gây sốc cho
mực
4.1.3. Nuôi mực nang từ 1 tháng tuổi trở lên
Mực hơn 1 tháng tuổi được nuôi ở bể xi măng trong nhà, mực hơn 2 tháng có thể
nuôi ở bể xi măng có cát ở đáy.
+ Mật độ nuôi: 50– 80 con/ m
3
. Khi mực hơn 2 tháng tuổi giảm mật độ xuống 20 – 30
con /m
3

+ Điều kiện bể nuôi:

- Bể có hình vuông, thể tích là 2m
3
bể được rữa sạch, xử lý formon trước khi đưa
vào sử dụng. Nguồn nước được qua lọc cơ học cho cấp vào trong bể với mực nước là 0,6
–0,7 m, được sục khí liên tục.
- Thức ăn là cá cơm, tôm cho ăn ngày 3 – 4 lần với khẩu phần thức ăn là 15 – 20
% khối lượng thân/ngày
+ Các biện pháp chăm sóc và quản lý:
- Thay thể tích nước trong bể từ 50 –100% mỗi ngày và tiến hành siphong sau mỗi
bữa cho ăn


- 20 -
- Các yếu tố môi trường: T
o
: 25 - 31
o
C
Ph: 7.6 - 8.6
Độ mặn: 28 – 35 ppt
Môi trường nước trong bể nuôi Mực rất dễ bò bẩn. Phải tiến hành thay nước mỗi
ngày. Nếu mực phun mực làm bẩn nước thì phải tiến hành thay nước ngay. Kết hợp
dùng khăn lau sạch thành bể và dây sục khí. Tiến hành Siphong loại bỏ thức ăn thừa
phải tiến hành Siphong hạng chế các chất lắng đáy và khí độc hình thành ở đáy bể.
Trong quá trình cho ăn kết hợp theo dõi hoạt động bắt mồi, sức khoẻ của mực. Từ
đó có thể tăng hay giảm lượng thức ăn. Cho ăn theo nhu cầu chứ không nhất đònh phải
theo lượng khẩu phần thức ăn
Chú ý là trong mọi thao tác phải tiến hành nhẹ nhàng và tránh gây sốc cho mực,
hạn chế phun mực làm mực yếu.
Trong thời gian thực tập tham gia quá trình sản xuất mực nang, theo dõi bể mực

ngoài trời và bể trong nhà, tốc độ tăng trưởng chiều dài và trọng lượng của mực thể hiện
ở hình 1 và hình 2.
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
3.5
1 2 3 4 5
Tháng tuổi
Chiều dài ( cm/tháng)

0
10
20
30
40
50
60
70
1 2 3 4 5
Tháng tuổi
Khối lượng (g/tháng)


Hình 1: Biểu đồTốc độ tăng trưởng chiều dài của Mực

Hình 2: Biểu đồ tốc độ tăng trưởng khối lượng của Mực




- 21 -
Qua hình ta thấy Theo thời gian nuôi thì khối lượng và chiều dài của mực đều
tăng:
- Tháng thứ 1: Chiều dài tăng nhanh hơn trọng lượng có thể ở giai đoạn này sự
phát triển về chiều dài nhanh để mau chóng vượt tích cỡ bắt mồi của kẻ thù (ngoài tự
nhiên) giúp chúng nâng cao tỷ lệ sống.
- Tháng thứ 2: Trọng lượng và chiều dài của mực vẫn tăng đều, nhưng tăng trưởng
về chiều dài vẫn cao hơn tăng trương về trọng lượng.
- Tháng thứ 3: Ở giai đoạn này bắt đầu có sự thay đổi về tốc độ tăng trưởng giữa
chiều dài và trọng lượng. Chiều dài vẫn tăng nhưng có giá trò thấp hơn so với tháng thứ
2. Trọng lượng tăng cao hơn so với hai tháng trước và so với chiều dài của tháng thứ 3.
Có thể ở giai đoạn này chúng thích nghi với điều kiên sống, khả năng bắt mồi tốt hơn và
trong quần thể mực sự phân đàn thể hiện rất rõ.
- Tháng 4: Ở giai đoạn này thì khối lượng và chiều dài mực vẫn tiếp tục tăng
nhưng trong lượng cao hơn.
4.2. Theo dõi biến động một số yếu tố môi trường môi trường.
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã theo dõi các yếu tố như: T
o
C, pH, S
o
/
oo
.
Biến động nhiệt độ và pH theo ngày của bể nuôi mực được thể hiện ở hình 3 và hình 4.
25.5
26.0
26.5

27.0
27.5
28.0
28.5
29.0
29.5
30.0
30.5
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Tuần
Nhiệt độ
Bể trong nhà
Bể ngoài sân

Hình3: Biến động nhiệt độ trong bể nuôi ( buổi sáng)



- 22 -
25.5
26.0
26.5
27.0
27.5
28.0
28.5
29.0
29.5
30.0
30.5

1 2 3 4 5 6 7 8 9
Tuần
Nhiệt độ ( độ/tuần)
Bể trong nhà
Bể ngoài sân

8.0
8.1
8.2
8.3
8.4
8.5
8.6
8.7
1 2 3 4 5 6 7 8 9
tuần
pH
bể ngoài sân
bể trong nhà

Hình5: biến động pH buổi sáng của bể nuôi mực.
Hình4: Biến
động nhiệt độ trong bể nuôi ( buổi chiều)



- 23 -
8.0
8.1
8.2

8.3
8.4
8.5
8.6
8.7
1 2 3 4 5 6 7 8 9
tuần
pH
bể ngoài sân
bể trong nhà

Hình 6: biến động pH buổi chiều của bể nuôi mực.
Nói chung các yếu tố môi trường biến động trong ngày không lớn lắm. Sự sai khác
không nhiều. Điều này có thể không ảnh lớn đến tình trạng sức khỏe của mực mà có thể
do lý do khác. Tuy nhiên vào những ngày có mưa, độ mặn giảm thấp, pH cũng giảm
điều này ít nhiều cũng ảnh hưởng tới hoạt động sống của mực.
4.3. Ghi nhận về hiện tượng mực chết rải rác trong quá trình sản xuất giống.
Trong quá trình nghiên cứu, hàng ngày có số lượng mực chết rải rác trong hai hệ
thống bể nuôi mực ở trong nhà và ngoài sân. Số lượng mực chết được nghi nhận và trình
bày tại hình dưới.
0.00
0.50
1.00
1.50
2.00
2.50
3.00
30/8 10/9 11/9 13/9 16/9 29/9 5/10 17/10 25/10
ngày tuổi
tỷ lệ chết hàng ngày (%)


Hình 7: Tỷ lệ chết của mực trong ngày (bể trong nha)ø.


- 24 -
0
5
10
15
20
25
30
35
25/8 30/8 12/9 21/9 22/9 5/10 13/1021/1024/1026/1030/10
ngày tuổi
tỷ lệ chết hàng ngày(%)

Hình 9: tỷ lệ chết trong ngày của mực bể ngoài sân.

Qua hình ta thấy, mực chết rải rác không nhiều. Bể ngoài trời có số mực chết
nhiều hơn bể trong nhà. Ngày 22/9/2005 bể ngoài trời có tỷ lệ chết cao nhất chiếm 29%.
Hiện tượng này có thể do các thao tác chăm sóc, thay nước, thức ăn, mặt khác do trời
mưa làm độ mặn hạ thấp ảnh hưởng tới sức sống của mực.
4.4. Dấu hiệu bệnh lý.
Trong quá trình nghiên cứu thấy những cá thể yếu thường có những biểu hiện như:
bỏ ăn, bơi chậm, hoạt động không bình thường như bơi nhanh. Màu sắc thay đổi từ thẫm
sang trắng hay đen sậm lại. Đầu cúp xuống, thi thoảng va mạnh vào thành bể.
Chúng tôi thu mẫu những cá thể mực có dấu hiệu trên và tiến hành nghiên cứu các
dấu hiệu bên trong.
4.5. Kết quả nghiên cứu mô bệnh học.

Ngoài việc quan sát các dấu hiệu bệnh lý bên ngoài. Việc quan sát những biến
đổi trong tổ chức tế bào: gan, thận, tim, mang, dạ dày…cũng hết sức quan trọng.Trong
thời gian nghiên cứu chúng tôi đã tiến hành làm mô bệnh học một số tổ chức của mực và
đã thu được một số kết quả như sau.
Khi quan sát các tiêu bản mô bệnh học nhận thấy có một số những biến đổi
trong tổ chức tế bào. Hiện tượng này xuất hiện nhiều nhất trên những mô gan. Một số
những thể vùi bắt màu tím của Hematocylin và màu hồng của Eosin. Những thể vùi bắt
màu tím đẩy vách tế bào tạo khoảng trống


- 25 -



Hình mô mực yếu (bất màu hồng) Hình mô mực yếu (bắt màu tím)
Một số tiêu bản có hiện tượng hoại tử phá vỡ liên kết tế bào, nhân tế bào phình
to, hạch của nhân tế bào bò lệch sát vào màng nhân



Hình mô mực yếu Hình mô mực bình thường
Hiện tượng này cũng quan sát thấy ở các tổ chức như thận nhưng rất ít, phần lớn
bắt gặp nhiều ở mô gan. Như vậy cùng với nghiên cứu về vi khuẩn cho thấy ở gan có tỷ
lệ nhiễm khuẩn cao nhất. Điều này có thể nói rằng gan là tổ chức dễ bò xâm nhập bởi
các tác nhân gây bệnh khi cơ thể mực yếu hay bò bệnh.
Trong quá trình nghiên cứu mô bệnh học, tiến hành thu mẫu cá thể yếu và
những cá thể bình thường. Ngoài việc quan sát thấy các hiện tượng nói trên ở tất cả cá
thể yếu, ở một số cá thể bình thường (38.4%) khi quan sát tiêu bản mô học cũng thấy có
những hiện tượng các thể vùi bắt màu tím của Hematocyline và màu hồng của Eosin và
hiện tượng phá vỡ liên kết tế bào. Điều đó có thể giải thích rằng trong cơ thể mực đã

nhiễm tác nhân gây bệnh nhưng chưa biểu hiện ra bên ngoài rõ rệt.

×