Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Bước đầu tìm hiểu chính quyền ở Thái Nguyên thời kì Pháp thuộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.29 KB, 39 trang )

Bước đầu tìm hiểu chính quyền ở Thái Nguyên thời kì Pháp thuộc
(1884- 1945)
LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình hình thành và phát triển lịch sử dân tộc mỗi quốc gia, thì
yêu cầu cần có một chính quyền vững mạnh ổn định để duy trì trật tự xã hội,
phát triển kinh tế văn hoá đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Chính quyền có
vững mạnh, thống nhất mới tạo điều kiện cho việc phát triển mọi mặt của đất
nước. Và ngược lại, nếu nền kinh tế, chính trị, văn hoá mà phát triển tốt nó sẽ
tác động trở lại, củng cố thêm hệ thống chính quyền nhà nước trung ương.
Tháng 8-1858, Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, mở đầu cho cuộc xâm
lược Việt Nam. Sau sự đầu hàng từng bước của triều đình nhà Nguyễn, đặc biệt
sau khi kí hiệp ước Harmand, thực dân Pháp bắt tay ngay vào việc thiết lập nên
một hệ thống chính quyền khá chặt chẽ từ trung ương tới địa phương. Chúng
chia nước ta thành ba xứ: Nam kì thuộc địa, Trung kì bảo hộ và Bắc kì nửa bảo
hộ. Mỗi xứ có hình thức tổ chức chính quyền riêng, với những mức độ không
giống nhau để phục vụ cho công cuộc bình định và khai thác thuộc địa của
chúng.
Thái Nguyên với tư cách là một đơn vị hành chính cấp tỉnh được hình
thành từ cải cách Minh Mệnh 1831
1
. Giống như nhiều địa phương khác Pháp đã
thiết lập ở Thái Nguyên nói riêng một bộ máy chính quyền thực dân bên cạnh
việc tiếp tục duy trì bộ máy quan lại địa phương làm công cụ, tay sai cho chúng.
Tuy nhiên, Thái Nguyên với đặc điểm là một tỉnh miền núi, có nhiều dân tộc cư
trú, lại là tỉnh vùng đệm giữa trung du và thượng du, có nguồn tài nguyên phong
phú, đã trở thành một địa bàn quan trọng về các mặt, đặc biệt là về mặt quân sự,
là một vị trí chiến lược mà thực dân Pháp cần nắm giữ. Qua nghiên cứu, chúng
tôi nhận thấy rằng tổ chức chính quyền ở Thái Nguyên thời Pháp thuộc đó cũng
có những nét riêng khác so với một số những địa phương trên những khía cạnh
nhất định. Đồng thời nó cũng thực hiện những chức năng không nhỏ trong việc
duy trì và ổn định trật tự xã hội với tư cách là một hệ thống chính quyền.


1
Nguyễn Minh Tường, Cải cách hành chính dưới triều Minh Mệnh, tr 125
Tài liệu được tải từ website
1
Xuất phát từ nhận thức trên đây, chúng tôi đã quyết định chọn đề tài
“Bước đầu tìm hiểu tổ chức chính quyền ở Thái Nguyên trong thời kì Pháp
thuộc (1884- 1945)” làm đề tài niên luận.
Nội dung của niên luận tập trung vào việc trình bày tổ chức chính quyền
Thái Nguyên thời Pháp thuộc. Trong đó chúng tôi trình bày vị trí chiến lược của
Thái Nguyên, sự thay đổi về cương vực hành chính của Thái Nguyên dưới thời
Pháp thuộc và nhấn mạnh bộ máy cai trị của thực dân ở Thái Nguyên với hai
ngạch quan là Viên chức Pháp và quan lại người Việt. Đồng thời trên cơ sở
nghiên cứu tài liệu chính thống và tài liệu địa phương chúng tôi cũng đưa ra một
vài nhận xét về tổ chức chính quyền này, mối quan hệ giữa hệ thống quan lại
người Pháp và hệ thống quan lại người Việt và vai trò nhất định của chính quyền
Thái Nguyên trong việc giải quyết các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá.
Cho đến nay, tổ chức chính quyền ở Thái Nguyên thời Pháp thuộc đã
được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu: Tiểu chí Thái Nguyên của
Echinard (Bản dịch lưu tại ban tuyên giáo tỉnh Thái Nguyên), Khởi nghĩa Thái
Nguyên 80 năm nhìn lại của Sở văn hoá tỉnh Thái Nguyên- 1997, Chính quyền
thuộc địa ở Việt Nam trước cách mạng tháng 8 của Dương Kinh Quốc, Lịch sử
quân sự chính trị tỉnh Thái Nguyên cũng của Echinard, Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Thái Nguyên (tập 1) của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên…ngoài ra
còn có một số sách chuyên khảo, bài viết trên tạp chí khoa học, những luận văn,
luận án cũng đề cập đến vấn đề này.
Để thực hiện đề tài, chúng tôi đã áp dụng một số phương pháp nghiên cứu
như phương pháp logic, hệ thống hoá tư liệu, phân tích tổng hợp…Ngoài phần
mở đầu, kết luận và phụ lục, báo cáo được chia làm ba phần:
PhầnI. Chính quyền Thái Nguyên trước 1884
Phần II: Chính quyền Thái Nguyên thời Pháp thuộc

Phần III: Một vài nhận xét về tổ chức chính quyền Thái Nguyên thời Pháp
thuộc.
Trong quá trình thực hiện niên luận này, chúng tôi đã nhận được sự giúp
đỡ quý báu của thầy cô giáo, bạn bè, người đã hướng dẫn và chỉ bảo tôi trong
Tài liệu được tải từ website
2
quá trình học tập. Nhân đây tôi cũng xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới sự
giúp đỡ quý báu đó. Báo cáo cũng nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của một số tổ
chức, cơ quan địa phương, ban nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Thái Nguyên, Sở
Văn hoá thông tin tỉnh Thái Nguyên, Bảo tàng và thư viện tỉnh Thái Nguyên. Là
sinh viên tập sự nghiên cứu, chúng tôi còn hạn chế về mặt nhận thức và phương
pháp, hơn nữa đây lại là vấn đề lớn đòi hỏi sự dày công nghiên cứu và hệ thống
hoá tư liệu từ nhiều phía. Do vậy báo cáo không tránh khỏi những thiếu sót,
chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp, chỉ dẫn của thầy cô và bạn bè để
niên luận được hoàn thiện và chúng tôi cũng có thêm những kinh nghiệm trong
nghiên cứu và học tập.
Tài liệu được tải từ website
3
PHẦN I: CHÍNH QUYỀN THÁI NGUYÊN TRƯỚC 1884
1. Đôi nét về quá trình hình thành, phát triển của tỉnh Thái Nguyên
đến trước 1884
Thái Nguyên được nhắc đến trong sử sách là mảnh đất có vị trí quan trọng
về mặt địa lý: Trong Dư địa chí, Nguyễn Trãi đã nhận xét “Đấy là nơi phên dậu
thứ 2 về phương bắc vậy”
2
. Năm 981, khi nhà Tống xâm lược nước ta. Vua Lê
Đại Hành đã tổ chức các đạo quân đánh tan quan xâm lược do Hầu Nhân Bảo
cầm đầu, trực tiếp cầm quân truy quét, tiêu diệt tàn quân Tống, bắt sống tướng
giặc Quách Quân Biện trên đất Vạn Nhai (Võ Nhai ngày nay). Kể từ khi nhà Lý
định đô ở Thăng Long, Thái Nguyên trở thành bức tường thành trực tiếp che chở

phía bắc kinh thành. Trong cuộc kháng chiến chống Tống năm 1076-1077, phần
phía nam đất Thái Nguyên từng là địa đầu phòng tuyến sông Cầu, nơi diễn ra
những trận đánh ác liệt giữa quân nhà Lý với giặc Tống. Đến đầu thế kỉ XV, giặc
Minh xâm chiếm nước ta, nhân dân Thái Nguyên liên tiếp đứng dậy chống giặc.
Có thể nói, các triều đình phong kiến đã chọn Thái Nguyên là một trong những
vị trí phòng ngự để chống lại triều đình phương bắc, bảo vệ kinh thành Thăng
Long.
Thái Nguyên giữ vị trí trung tâm của vùng chiến lược phía bắc sông
Hồng. Xung quanh Thái Nguyên là các tỉnh Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Bắc
Kạn, Tuyên Quang, Phú Thọ…cũng nằm trong vùng chiến lược đó. Từ Thái
Nguyên có thể kiểm soát cả những vị trí có tính chất chiến lược quyết định sự
thành bại của chiến cuộc. Phía Bắc của Thái Nguyên là Cao Bằng, Hà Giang với
địa hình hiểm trở là chỗ dựa vững chắc, thuận tiện cho việc ẩn náu, tổ chức địa
bàn hoạt động của nghĩa quân. Còn phía nam là đồng bằng sông Hồng mầu mỡ-
vựa lúa lớn của cả nước. Thái Nguyên có 3 vùng khác biệt nhau: Vùng phía nam
với các phủ Phú Bình, Phổ Yên là một bộ phận của Trung châu. Thị trấn, huyện
Đồng Hỷ và một nửa Phú Lương thuộc vùng Trung du. Vùng phía bắc, nghĩa là
Định Hoá, nửa bắc của huyện Phú Lương và cả huyện Vũ Nhai thuộc miền
thượng du
3
. Tỉnh lỵ Thái Nguyên đặt ở vị trí trung tâm tỉnh, then chốt của tất cả
2
Nguyễn Trãi, Ức trai thi tập- Dư địa chí, NXB. Văn sử học, HN 1960, tr48
3
A. Echinard, Tiểu chí Thái Nguyên, sđd tr 4
Tài liệu được tải từ website
4
con đường thượng du, nơi đây cũng được coi là chìa khoá mở cửa ngõ thượng
du thông với trung du và trung châu, là bàn đạp để tràn về trung châu Bắc Bộ và
là yết hầu để về Hà Nội.

Vì vậy, Thái Nguyên là một tỉnh có quá khứ lịch sử phong phú về sự kiện
và biên niên, không những về chiến tranh với kẻ địch bên ngoài mà về những
biến cố lịch sử trong nước.
Trong quá trình xâm lược nước ta, thực dân Pháp cũng đã nhận thấy vị trí
chiến lược của Thái Nguyên, chiếm được Thái Nguyên là có thể khống chế được
các tỉnh Bắc Kì. Do vậy, sau khi giành thắng lợi về mặt quân sự, Pháp đã thiết
lập ở đây một bộ máy cai trị từ trên xuống dưới, đặc biệt là số lượng đồn bốt mà
Pháp đặt ở Thái Nguyên đã chứng tỏ tầm quan trọng về vị trí của tỉnh này.
Thái Nguyên cũng có thể coi là một vùng giàu có tài nguyên. Qua các thời
đại trước, tỉnh này vẫn được người Trung Hoa cũng như người Việt coi đây là
nơi giàu khoáng sản các loại. Những người Trung Hoa trước đây đã khai thác
nhiều mỏ ở nơi này. Bước vào những năm đầu thế kỉ XX khi thực dân Pháp tiến
hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, nơi đây đã trở thành trung tâm thăm
dò, khai thác của Pháp, đặc biệt là các mỏ than, sắt để cung cấp cho nền công
nghiệp của chính quốc.
Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi, chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp. Cánh đồng lớn nằm ở phía nam tỉnh thuộc hai phủ Phú Bình và Phổ
Yên, chủ yếu là ruộng bậc thang bị cắt xẻ ngắt quãng nằm trong từng vùng của
huyện miền núi cho nên mang lại sản lượng không đáng kể.
Về thành phần dân tộc thì đây là tỉnh gồm nhiều dân tộc khác nhau. Ở
đồng bằng có người Kinh và người Nùng, người Thổ ở những vùng cao trung
bình, người Mán chiếm các vùng cao. Trong lịch sử đã diễn ra nhiều cuộc khởi
nghĩa của các dân tộc thiểu số chống lại triều đình. Chính từ yếu tố đa tộc ngưòi
này, Pháp cũng đã có những chính sách cai trị riêng, thể hiện sự khôn ngoan của
mình trong việc bình định các tỉnh miền núi, nhất là ở những nơi vùng sâu vùng
xa, những địa bàn trọng yếu mà Pháp không thể không quan tâm.
Về cơ sở vật chất của tỉnh thời kì này phải kể đến hệ thống giao thông
Tài liệu được tải từ website
5
đường thuỷ với hai hệ thống sông- sông Cầu và sông Công. Hệ thống đường bộ

với các tuyến đường thuộc địa số 3, các con đường hàng tỉnh nối các huyện,
châu trong tỉnh và giữa tỉnh Thái Nguyên với các tỉnh giáp gianh. Ngoài ra phải
kể đến hệ thống đường sắt và những phương tiện vận tải khác. Hệ thống giao
thông này được Pháp sử dụng một cách có hiệu quả trong việc bình định và khai
thác tài nguyên thiên nhiên.
Như vậy, Thái Nguyên hội tụ nhiều điều kiện đặc biệt hơn so với các địa
phương khác trong cả nước. Là tỉnh có vị trí đặc biệt quan trọng về quân sự
cũng như chính trị của Bắc Kì, là vị trí chiến lược mà cả triều đình phong kiến
trước đây và thực dân Pháp sau này cần nắm chắc.
1. Chính quyền ở Thái Nguyên trước 1884
Dưới thời Gia Long, Thái Nguyên là một trong 6 ngoại trấn (cùng với
Lạng Sơn, Tuyên Quang, Cao Bằng, An Quảng và Hưng Hoá) thuộc trấn Bắc
Thành
4
.Trấn Thái Nguyên gồm 2 phủ là Phú Bình, Thông Hoá, 9 huyện là Tư
Nông, Bình Tuyền, Phổ Yên, Động Hỉ, Phú Lương, Đại Từ, Văn Lãng, Võ Nhai,
Cảm Hoá, 2 châu là Định Hoá, Bạch Thông. Đứng đầu mỗi trấn thời kì này là
một viên quan võ, chức Trấn thủ, có hai viên quan văn, chức Hiệp trấn và Tham
hiệp phụ tá. Trấn thủ đầu tiên của Thái Nguyên là Lê Văn Niệm, hiệp trấn
Nguyễn Đức Tư và tham hiệp là Hoàng Đường.
Thời Minh Mệnh, tổ chức hành chính các cấp cũng như xếp đặt quan chức
ở Thái Nguyên có một số thay đổi đáng kể. Năm 1821, Minh Mệnh cho đổi châu
Định Hoá thành Định Châu
5
. Việc tuyển lựa quan lại trị nhậm các địa phương
rất được triều Nguyễn quan tâm, trước hết phải là những người có kinh nghiệm
vỗ về, phủ dụ dân chúng, đặc biệt ở những địa phương xa Kinh đô. Năm 1821,
triều thần tâu cử Trương Hảo Hợp làm Tham hiệp trấn Thái Nguyên nhưng
Minh Mệnh cho là trẻ tuổi, thiếu kinh nghiệm nên không chọn. Năm 1828, Trấn
thủ Thái Nguyên là Phan Văn Hài can vào án tham tang của người quan võ

thuộc quyền, phải giải chức đợi xét. Hoặc như trường hợp Tham trấn Thái
Nguyên là Tô Danh Hoảng, trước ở Thái Nguyên, xét hình tra tấn chết người
4
Nguyễn Minh Tường, Cải cách hành chính dưới triều Minh Mệnh, sđd tr 31
5
Đại Nam hội điển sự lệ Chính biên, tập III, NXB Thuận Hoá 2004, sđd tr 38
Tài liệu được tải từ website
6
đến khi vụ việc bị phát giác, Minh Mệnh giao cho Bắc Thành tra nghị, đều phải
cách chức
6
.
Địa bàn Thái Nguyên được chính thức gọi là tỉnh Thái Nguyên kể từ năm
1831 dưới triều vua Minh Mạng. Từ tháng 10.1831, trên toàn quốc, trừ Thừa
Thiên phủ ra, cả nước có 30 tỉnh. Bỏ các chức Tổng trấn, Trấn thủ, Tham trấn,
thay bằng các chức Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh, Án sát, Lãnh binh. Thái
Nguyên nằm trong liên tỉnh Ninh- Thái (Bắc Ninh- Thái Nguyên), Tổng đốc
Ninh- Thái là Thống chế Nguyễn Đình Phổ đặt tại Từ Sơn- Bắc Ninh. Thự lí
Tuần phủ Thái Nguyên là Hiệp trấn Trần Thiên Tải, Án sát là Tham hiệp
Nguyễn Dư và Lãnh binh Thái Nguyên là Vệ uý Nguyễn Văn Các
7
.
Chức nhiệm cuả quan đầu tỉnh Thái Nguyên được quy định cụ thể:
Bố chính sứ giữ việc thuế khoá, tài chính toàn hạt. Triều đình có ân trạch,
chính lệnh gì ban xuống thì truyền đạt lại cho các người phần việc.
Án sát giữ việc kiện tụng hình án trong toàn hạt, chấn hưng phong hoá, kỉ
cương, trừng thanh các quan lại, kiêm coi công việc chạy trạm trong hạt, khi có
những việc trọng đại, hai ty (Bố chánh và Án sát) hội đồng bàn bạc rồi trình với
Tổng đốc hoặc Tuần phủ mà làm
8

.
Năm 1835 nhà Nguyễn bắt đầu đặt chức Lưu quan ở Thái Nguyên thay
cho Thổ quan địa phương. Chính thức bổ nhiệm quan lại của triều đình lên cai
trị trực tiếp các châu, huyện xa xôi. Đây là chính sách đặc biệt mà Minh Mệnh
thi hành ở “địa thế xa vắng, thổ ty không tốt, dễ hay nổi loạn”, ở địa bàn cư trú
của các dân tộc thiểu số ở phía Bắc, trong đó có Thái Nguyên. Thái Nguyên là
tỉnh mà có đồng bào dân tộc thiểu số tập trung đông, đặc biệt là người Tày,
Nùng, Mán…và vì Thổ trưởng ở vùng này có thế lực rất mạnh, luôn có xu
hướng nổi dậy tách khỏi chính quyền trung ương, nhiều cuộc khởi nghĩa đã diễn
ra do vậy, Minh Mệnh đã cho bổ nhiệm lưu quan ở hầu hết các châu, huyện
thuộc Thái Nguyên
9
.
Thái Nguyên không có quan Đốc học, đến đầu thời Tự Đức (1848), nhà
6
Đại Nam thực lục, tập II, sđd tr 926
7
Nguyễn Minh Tường, Cải cách hành chính dưới triểu Minh Mệnh, sđd tr 131
8
Đại Nam thực lục, tập III, sdd tr 234
9
Xem phần phụ lục 2
Tài liệu được tải từ website
7
Nguyễn mới đặt chức Huấn đạo ở hai huyện Bình Xuyên và Phổ Yên để dạy học
trò. Điều này được lý giải do Thái Nguyên hay trấn Lạng Sơn, Cao Bằng là
những ngoại trấn xa, là vùng biên viễn xa nơi giáo hoá triều đình Nguyễn, học
trò ít nên Gia Long đã không đặt chức Đốc học mà lấy Đốc học Kinh Bắc kiêm
nhiệm. Mãi cho đến năm 1930 Minh Mệnh mới cho đặt chức Đốc học Thái
Nguyên, nhưng sau đó lại bãi bỏ do Thái Nguyên hoc trò ít và chỉ cho đặt chức

Giáo thụ ở phủ Thông Hoá để cho học trò theo học ở đó.
PHẦN II: CHÍNH QUYỀN THÁI NGUYÊN THỜI PHÁP THUỘC (1984 –
1945)
Tháng 8-1858 liên quân Pháp- Tây Ban Nha nổ súng tấn công Đà Nẵng,
mở đầu cho cuộc xâm lược Việt Nam. Ngày 25-8-1883 Triều đình Huế và cao
Tài liệu được tải từ website
8
uỷ Pháp kí hiệp ước Hardmand chính thức thừa nhận quyền bảo hộ của Pháp.
Đạt được thắng lợi quan trọng này, Pháp bắt tay vào việc bình định các tỉnh Bắc
Kì, trong đó ưu tiên hàng đầu là xây dựng hệ thống chính quyền thực dân trên cả
3 vùng, bao gồm cả Thái Nguyên.
2.1. Sự thay đổi về cương vực hành chính của Thái Nguyên dưới thời
Pháp thuộc
Từ năm 1835 tỉnh Thái Nguyên gồm 3 phủ, 2 châu 9 huyện, được phân bố
như sau:
+ Phủ Phú Bình có 5 huyện: Tư Nông, Phổ Yên, Đồng Hỉ, Vũ Nhai, Bình
Xuyên
+ Phủ Tòng Hoá có 3 huyện và 1 châu: huyện Đại Từ, Văn Lãng, Phú
Lương và châu Định (sau đổi là Định Hoá)
+ Phủ Thông Hoá có 1 huyện và 1 châu: huyện Cảm Hoá và châu Bạch
Thông.
Ở Thái Nguyên, thời kì Pháp thuộc, chính quyền thực dân đã có những
điều chỉnh về mặt hành chính cùng với một số những tỉnh khác ở Bắc Kì để
phục vụ cho chính sách vừa bình định, vừa thống trị và khai thác của chúng.
20-10-1890, huyện Bình Xuyên thuộc phủ Phú Bình bị tách khỏi Thái
Nguyên để nhập vào đạo Vĩnh Yên
9-9-1981 toàn bộ phủ Tòng Hoá và 4 huyện còn lại của phủ Phú Bình tách
khỏi tỉnh Thái Nguyên để sát nhập vào Tiểu khu Thái Nguyên là một trong 3
tiểu quân khu thuộc Đạo Quan binh I Phả Lại.
Cùng ngày, châu Bạch Thông (thuộc phủ Thông Hoá) bị tách khỏi tỉnh

Thái Nguyên để sát nhập vàp tiểu Quân khu Lạng Sơn, đồng thời huyện Cảm
Hoá bị sát nhập vào Tiểu Quân khu Cao Bằng. Cả hai tiểu quân khu này đều
thuộc Đạo Quan binh II Lạng Sơn. Tổ chức Đạo quan binh là hình thức kết hợp
chặt chẽ chính quyền quân sự với chính quyền dân sự. Nó cho phép người đứng
đầu có toàn quyền huy động mọi khả năng của địa phương mình vào việc bình
định, chống lại hành động nổi dậy của mọi lực lượng nổi dậy. Việc sát nhập
nhiều vùng của Thái Nguyên vào các Đạo quan binh khiến cho việc bình định
Tài liệu được tải từ website
9
các vùng này trở nên dễ dàng hơn.
10-10-1892, chính quyền thực dân lấy lại phủ Tòng Hoá, cả phủ Phú Bình
từ Đạo Quan binh I Phả Lại cùng châu Bạch Thông và huyện Cảm Hoá từ Đạo
quan binh II trả cho tỉnh Thái Nguyên. Kết quả là 1-11-1892 tỉnh Thái Nguyên
được lập lại như cũ và dưới quyền một Công sứ như các tỉnh đồng bằng.
11-4-1900, toàn bộ phủ Thông Hoá bị tách khỏi Thái Nguyên để góp phần
tạo nên tỉnh Bắc Kạn.
25-6-1901 tổng Yên Bình thuộc huyện Phú Lương bị sát nhập vào châu
Bạch Thông của Bắc Kạn
Vào cuối 1904-1905, tỉnh Thái Nguyên gồm 7 huyện, 1 châu với 51 tổng
và 199 làng bản:
Huyện, Châu Số tổng Số làng bản
1. huyện Tư Nông 8 45
2. huyện Phổ Yên 6 24
3. huyện Đồng Hỷ 5 28
4. huyện Vũ Nhai 5 15
5. huyện Đại Từ 5 21
6. huyện Văn Lãng 6 12
7. huyện Phú Lương 7 21
8. châu Định Hoá 9 33
Ngoài tỉnh lỵ là Thái Nguyên, và các huyện lỵ, châu lỵ ra, giới cầm

quyền thực dân còn đặt thêm 3 trung tâm hành chính là Chợ Chu, Phương Độ và
Hùng Sơn để dễ bề thống trị
10
.
Cho tới đầu năm 20 của thế kỉ trước, tỉnh Thái Nguyên được chia thành 2
phủ, 3 huyện, 3 châu, với 51 tổng, gồm 227 làng như sau:
Phủ, Huyện, Châu Số tổng Số làng bản
1. phủ Phú Bình 7 44
2. phủ Phổ Yên 8 36
3. huyện Đồng Hỷ 6 34
4. huyện Đại Từ 5 23
5. huyện Phú Lương 7 21
10
Sở văn hoá thông tin tỉnh Thái Nguyên, Khởi nghĩa Thái Nguyên 80 năm nhìn lại, sđd tr 37
Tài liệu được tải từ website
10
6. châu Vũ Nhai 6 29
7. châu Văn Lãng 4 13
8. châu Định Hoá 8 27
Trong những năm 20, châu Văn Lãng bị sát nhập vào huyện Đại Từ
11
. Cho
tới trước cách mạng tháng Tám, Thái Nguyên gồm 2 phủ, 3 huyện và 2 châu
12
Phủ, Huyện, Châu Số tổng Số làng bản
1. phủ Phú Bình 8 48
2. phủ Phổ Yên 7 38
3. huyện Đồng Hỷ 6 34
4. huyện Đại Từ 9 38
5. huyện Phú Lương 7 21

6. châu Vũ Nhai 6 23
7. châu Định Hoá 8 30
1.2. Bộ máy cai trị thực dân ở Thái Nguyên
Bộ máy cai trị thực dân Pháp ở Thái Nguyên được thiết lập theo tinh thần
Hiệp ước 1884. Cụ thể là vào những năm đầu thế kỉ, bộ máy cai trị ở Thái
Nguyên được phân làm hai ngạch: Viên chức Pháp và quan lại người Việt.
a. Hệ thống quan lại người Pháp
- 1 Công sứ, thuộc ngạch quan cai trị bậc 3, làm chủ tỉnh
13
- 1 Phó công sứ, thuộc ngạch quan cai trị hạng 4
- 2 Tham tá
- 3 Thanh tra lính khố xanh
- 8 Trưởng trại lính khố xanh
- 1 Trưởng đồn lính sen đầm
- 2 Nhân viên thuế quan và độc quyền
- 1 Nhân viên ngành công chính
- 1 Nhân thuộc ngạch viên bưu điện
- 1 Viên chức quan cai trị hạng 5 đại diện Công sứ tại chợ Chu
- 1 Tham tá bậc nhất đại diện Công sứ tại Phương Độ, chủ đồn điền
Văn Giá phụ tá.
11
A. Echinard, Tiểu chí Thái Nguyên, sđd tr 49
12
A. Echinard, Tiểu chí Thái Nguyên, sđd tr 44-51
13
Xem phụ lục 2
Tài liệu được tải từ website
11
Công sứ đứng đầu tỉnh trực tiếp thuộc quyền lãnh đạo của Thống sứ Bắc
Kì (28.1.2886). Là người thay mặt cho Thống sứ nắm tình hình cấp tỉnh về mọi

mặt, thông qua hệ thống quan lại người Việt.
Ở Thái Nguyên, viên Công sứ Pháp nắm quyền giám sát và kiểm soát tối
cao về nhân sự “bộ phận quyết nghị cấp xã”. Việc này được thể hiện qua những
quy định: Hạn chế số thành viên của bộ phận quyết nghị cấp xã; nắm quyền lựa
chọn cuối cùng những thành viên của chính quyền cấp xã; theo dõi mọi biến
chuyển về nhân sự; ràng buộc bằng hình thức khen thưởng, khống chế bằng hình
thức kỉ luật hành chính từ khiển trách bãi miễn, cách chức cá nhân đến giải tán
tập thể. Ông ta cũng có quyền kiểm soát, điều khiển và thi hành luật pháp. Ở
Thái Nguyên viên Công sứ có phó sứ kiêm phó án giúp việc là chánh án toà án
đệ nhị cấp, có quyền hạn giải quyết mọi việc trong phạm vi tỉnh từ việc dân sự
đến việc hình sự. Viên Công sứ cũng là giám đốc nhà tù, ông ta có một chánh và
một phó Đề lao giúp việc.
Để phục vụ cho hệ thống này về nhiều mặt, Pháp đã từng bước xây dựng
các tổ chức phụ tá phục vụ đắc lực trong việc bình ổn trật tự xã hội và đẩy mạnh
quá trình khai thác bóc lột.
* Toà công sứ:
Giúp việc cho Công sứ Pháp có Toà Công sứ. Toà công sứ Thái Nguyên là
lỵ sở của cơ quan cai trị cao nhất của tỉnh do một viên công sứ đứng đầu. Toà
công sứ thường xuyên có các toán lính khố xanh bảo vệ bên ngoài. Bảo vệ bên
trong là một số lính Pháp và giúp việc là các nhân viên toà Công sứ.
* Hội đồng hàng tỉnh:
Được thành lập chính thức theo nghị định của Toàn quyền Đông Dương
ngày 19.3.1913
14
. Hội đồng hàng tỉnh ở Thái Nguyên có trách nhiệm góp ý kiến
với chính quyền các vấn đề như: chi phí các vấn đề có tính chất kinh tế, xã hội
về việc phân chia các khu vực hành chính của cấp phủ, huyện, châu, xã…song
mọi “thỉnh nguyện” có tính chất chính trị đều tuyệt đối cấm.
* Hệ thống toà án:
14

Dương Kinh Quốc, Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước cách mạng tháng Tám năm 1945, NXB KH&XH,
1988, sđd tr 135
Tài liệu được tải từ website
12
Tư pháp của người Pháp gồm có: Toà án vi cảnh, Toà án trị an có quyền
mở rộng, Toà án thương sự (thương mại pháp đình). Các toà án này có Công sứ
kiêm chánh án chủ toạ, và phó sứ kiêm phó Chánh án giúp việc. Các toà án này
có trách nhiệm trong phạm vi tỉnh và giải quyết các sự việc liên quan đến người
Pháp trong phạm vi thẩm quyền, không có biện lý (công tố uỷ viên). Viên Chánh
án có quyền nới rộng làm luôn việc của biện lý trong các vụ án hình sự và
chuyển giao hồ sơ cho phòng luận tội (công tố viên) khép án
15
.
Tư pháp bản xứ gồm có: Toà án cấp nhất, viên Công sứ có phó sứ kiêm
phó án giúp việc, là chánh án toà án đệ nhị cấp có quyền hạn giải quyết mọi việc
trong phạm vi tỉnh, từ việc dân sự đến hình sự.
Trong mỗi huyện cũng đặt một toà án đệ nhất cấp, tương tự như toà án vi
cảnh của Pháp, quyền xét xử được giao cho ông huyện, có một Thừa phán lục sự
giúp việc.
* Lực lượng cảnh sát:
Một lực lượng cảnh sát được đặt dưới quyền hành trực tiếp của Công sứ.
Lực lượng này gồm 305 lính, dưới quyền chỉ huy của một giám binh, dưới
quyền giám binh có 4 viên chức khố xanh và một kế toán.
Quân lực được phân bố như sau:
Thái Nguyên vùng trung tâm: 195
Bốt chợ Chu: 55
Bốt Phấn Mễ: 30
Bốt Hà Châu: 25
* Hệ thống nhà tù:
Nhà tù Thái Nguyên được xây dựng từ 1903- 1904. Đây là một công trình

hình chữ nhật có 4 dãy nhà bên trong, có sân chính giữa và có tường cao 3m bao
xung quanh, song song với một con đường tuần tra một khoảng rộng từ 3- 4 m
16
.
Viên Công sứ là giám đốc nhà tù, ông ta có một Chánh và một phó đề lao người
Pháp giúp việc cùng với 6 nhân viên cai ngục người bản xứ trong đó có 1 là y tá.
Ở chợ Chu có một nhà tù hàng tỉnh (1916) nhốt từ 80 đến 100 tù, đặt dưới
15
A. Echinard, Tiểu chí Thái Nguyên, sđd, tr 14
16
A. Echinard, Tiểu chí Thái Nguyên, sđd tr 37
Tài liệu được tải từ website
13
quyền kiểm soát của viên xếp bốt và viên Đại lý cai trị
17
. Các nhà tù này đã trở
thành nơi giam giữ nhiều chiến sĩ yêu nước đã tham gia cuộc khởi nghĩa Binh
lính Thái Nguyên (1917) và khởi nghĩa Yên Bái (1930). Hệ thống nhà tù, một
công cụ thực dân Pháp để đàn áp, tra tấn những người nổi dậy, nhưng những
người tù binh cũng luôn chứa đựng tinh thần phản kháng. Ngày 27- 28/8/1922,
tại nhà tù chợ Chu nổ ra cuộc nổi dậy của những người tù, họ phá nhà lao, chiếm
bưu điện và cướp vũ khí giặc, gây cho giặc nhiều tổn thất.
* Hệ thống lô cốt:
Cùng với hệ thống nhà tù, ngay ở thời điểm đầu thế kỉ XX, giới cầm
quyền thực dân đã cho xây dựng nhiều lô cốt, mà chủ yếu là ở địa bàn Chợ Chu
và Chợ Mới. Tư liệu cho biết
18
, ở địa bàn Chợ Chu và Đại Từ đã có 5 lô cốt đặt
tại các điểm: Chợ Chu, Hùng Sơn, Cù Vân, Hà Lam, Quảng Nạp. Ở Chợ Mới có
4 lô cốt đặt tại: Chợ Mới, Đồn Du, Giang Tiên, Ban Mua. Các lô cốt này nằm

chủ yếu bảo vệ các tuyến đường giao thông nội tỉnh và liên tỉnh.
Hệ thống quan lại thực dân ở Thái Nguyên bao gồm cả Công sứ và phó
Công sứ chứng tỏ đây là một tỉnh quan trọng. Chính quyền thực dân đã đặt thêm
ở đây chức phó Công sứ để cùng Công sứ nắm quyền cai trị trong tỉnh. Công sứ
có quyền quyết định và điều hành mọi hoạt động của các cơ quan trực thuộc và
các cơ quan chính quyền cấp dưới, kể cả lực lượng quân sự đồn trú trong tỉnh.
Trên tất cả những hệ thống công sở, trong đó có trại lính, sở công chính,
bưu điện, tài chính, kinh tế (đồn điền) đều có sự có mặt của người Pháp cai quản
và đứng đầu. Đặc biệt Pháp thiết lập ở đây một hệ thống toà án ở các cấp để chủ
yếu xét xử những người phạm tội.
Trong số những vị trí mà Pháp cài người của mình, thì quan Pháp ở Trại
lính khố xanh là nhiều nhất (8 viên). Điều này chứng tỏ Thái Nguyên là tỉnh có
số lượng đồn lính khố xanh vào loại nhiều nhất và lớn nhất Bắc Kì tại đây, Pháp
cũng cử những tướng giỏi để nắm giữ trách nhiệm chỉ huy những trại lính khố
xanh này.
17
A. Echinard, Tiểu chí Thái Nguyên, sđd tr 38
18
Dương Kinh Quốc, Vài nét về Thái Nguyên những năm tháng trước cuộc khởi nghĩa của Đội Cấn (8.1917) ,
trong sách Khởi nghĩa Thái Nguyên 80 năm nhìn lại, Thái Nguyên 1997, sđd 39.
Tài liệu được tải từ website
14
Trại lính được thiết lập tại 7 điểm: Phương Độ, Chợ Chu, Hùng Sơn, Đình
Cả, Đồn Đu, Lang Dang, Quảng Nạp. Ngoài ra ở tỉnh lỵ còn có một trại lính bộ
binh thuộc địa, một đồn lính sen đầm; ở Chợ Chu và Phương Độ mỗi nơi còn có
một đồn lính dân vệ. Trước đây, phụ trách về mặt quân sự trong tỉnh là những
Lãnh binh do người Việt đứng đầu (như Nguyễn Văn Các, Lê Tuân, Nguyễn
Cáp, Nguyễn Hạp..), nhưng trong thời kì Pháp thống trị thì chức Lãnh binh lại
do người Pháp nắm, đồng thời cử thêm những quan chức Pháp giữ vai trò là
Tham tá và Thanh tra cho những hoạt động quân sự của Pháp, người Việt chỉ

nắm chức phó Lãnh binh. Năm 1898, Quân lính khố xanh của tỉnh Thái Nguyên
là 800, có 17 giám binh hay lãnh binh phụ trách chỉ huy lực lượng khố xanh
19
.
Sang đến những năm 1903-1904, quân số lính khố xanh rút xuống còn 530
người, và chỉ có 12 giám binh và lãnh binh cho tất cả các đồn bốt và trại trung
tâm.
Tại những trung tâm hành chính như Phương Độ, Chợ Chu, Hùng Sơn, do
vị trí quan trọng của các trung tâm này Pháp đã đặt ở đây những quan chức có
quyền đại diện cho Công sứ, đó là những vị Đại lý có quyền thay mặt cho Công
sứ điều hành mọi công việc. Ở Phương Độ, ông Gernard nắm quyền kiểm soát
chính trị ở huyện Tư Nông, sau thành phủ Phú Bình; Ở Chợ Chu, ông Metaireau
nắm quyền kiểm soát chính trị châu Định Hoá, lãnh địa của Lương Tam Kì và
một số tổng thuộc huyện Phú Lương, tổng Chợ Mới, ít lâu sau chuyển sang Bắc
Kạn; Ở Hùng Sơn, ông Leger nắm quyền kiểm soát chính trị các huyện Đại Từ
và Văn Lãng, sau thành huyện Đại Từ. Những trung tâm hành chính này có thể
coi là những đơn vị hành chính cấp trung gian giữa tỉnh và huyện (có một viên
quan mang hàm Tri phủ, có Giáo thụ, Thông ngôn, Lại mục). Pháp chia ra
những trung tâm hành chính để dễ bề cai trị, đồng thời Pháp cũng muốn tăng
cường sự có mặt của mình tại những cấp độ hành chính dưới tỉnh ở những địa
bàn quan trọng về mặt chiến lược, từ đây có thể dễ dàng cai quản hay mở rộng
quyền kiểm soát trực tiếp ở Thái Nguyên cũng như các vùng xung quanh.
b. Hệ thống quan lại người Việt
19
Xem phụ lục số 2
Tài liệu được tải từ website
15

×