Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

hiện trạng môi trường các ao nuôi cá mú và vực nước liền kề thôn bãi giếng nam – xã cam đức – thị xã cam ranh – tỉnh khánh hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.83 KB, 47 trang )


1

PHẦN I: MỞ ÐẦU

Song song với nghề nuôi tôm biển, nghề nuôi cá Mú chính thức phát triển
ở Việt Nam vào năm 1988 (Edwards & ctv, 2004) [5]. Trong thời gian 1993 -
1996 nghề nuôi tôm có xu hướng phát triển chậm do tôm bị chết bởi dịch bệnh và
tác động của môi trường (Nguyễn Trọng Nho & ctv, 1996) [10] và nhiều ao nuôi
tôm đã được chuyển sang nuôi cá Mú (Lê Anh Tuấn, 2004) [5]. Tuy nhiên cho
đến nay những tài liệu nghiên về chất lượng môi trường trong ao nuôi cá Mú và
vực nước liền kề còn ít. Do đó vấn đề này cần được quan tâm.
Nhằm làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học, củng cố những
kiến thức đã học trong trường, tôi được khoa Nuôi trồng – trường Đại học Thủy
sản phân công thực hiện đề tài: “Hiện trạng môi trường các ao nuôi cá Mú và vực
nước liền kề thôn Bãi Giếng Nam – xã Cam Đức – thị xã Cam Ranh – tỉnh Khánh
Hòa”. Với những nội dung sau:
1. Khảo sát chất lượng môi trường các ao nuôi cá Mú.
2. Khảo sát chất lượng môi trường vực nước ven bờ thuộc địa phận thôn
Bãi Giếng Nam (Đầm Thủy Triều).
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do thời gian có hạn, bước đầu làm quen với
phương pháp nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu còn mới và sự hạn chế về mặt tài
liệu tham khảo nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong được sự
góp ý của thày cô và các bạn đồng nghiệp để báo cáo này được hoàn chỉnh hơn.
Nhân đây tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến cô Lưu Thị Dung, cô
Lê Thị Vinh đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn này.
Xin cảm ơn thày Phạm Văn Thơm cùng các cô chú trong Phòng Thủy Địa Hóa –
Viện Hải Dương Học đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn.
Cảm ơn sự giúp đỡ của gia đình chú Phan Hữu Đông, chủ các ao nuôi cá Mú mà
tôi đã lấy mẫu nghiên cứu, thuộc thôn Bãi Giếng Nam – xã Cam Đức - thị xã Cam
Ranh – tỉnh Khánh Hòa.



Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Huy Tú

2

PHẦN II: TỔNG QUAN

I. Tình hình nuôi cá Mú và xu hướng phát triển
1.1 Tình hình nuôi cá Mú trên thế giới
Cá Mú (miền Bắc còn gọi là cá Song) có hệ thống phân loại như sau:
Ngành: Chordata
Lớp: Osteichthies
Bộ: Perciformes
Họ: Serranidae
Giống: Epinephelus
Loài: E. sp (Lê Trọng Phấn & ctv, 1997) [6].
Cá Mú là một trong những loài cá đáy có giá trị kinh tế cao, sống ở
vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới. Ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương, cá Mú
có 63 loài thuộc giống Epinephelus (Lindbgerg G.U,1969 và FAO,1974) [4] và
được nuôi với sản lượng nuôi khá cao, đặc biệt vào thời gian gần đây (Bảng 1).
Vào năm 1996, nhiều loài trong giống cá này đã trở thành đối tượng nuôi quan
trọng ở khu vực Đông Nam Á (Đào Mạnh Sơn & Đỗ Văn Nguyên, 1998) [4].
Chúng gồm những loài cá phổ biến nhất trong công nghiệp thực phẩm cá rạn ở
khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Cá Mú thường lớn nhanh, khỏe mạnh thích
hợp cho nuôi tăng sản, được nuôi trong lồng nổi hoặc ao đất (SUMA, 2002) [21].

Bảng 1:Sản lượng cá Mú (tấn) nuôi ở một số nước Ấn Độ - Thái Bình Dương



Quốc gia 1993

1994

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

Hồng Kông,
Trung Quốc
632 627 620 1110

1036

312 280 523 910
Indonesia - - - - - - 1759

1159

3818


Kuwait - - - - - - 5 6 20
Malaysia 1006

931 834 857 799 465 948 1217

1101

Philippines 63 18 10 36 158 115 145 151 97
Singapore 147 133 101 93 82 97 94 111 185
Đài Loan 3845

1749

1899

1789

2525

3471

4112

4992

5285

Thái Lan 755 1078


674 774 795 1390

1143

1332

1442

(Nguồn: FAO Fishery Information Data and Statistics Unit 2003) [38]


3

1.2 Tình hình nuôi cá Mú ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nghề nuôi cá mặn lợ như cá đối, cá Măng biển, cá Chẽm đã
phát triển từ những năm của thập kỷ 60 thế kỷ trước. Cá Mú (miền Bắc còn gọi
là cá Song) thỉnh thoảng cũng được nuôi khi người dân có được con giống. Nghề
nuôi cá Mú chính thức phát triển vào năm 1988 (Edwards và ctv, 2004) [5], khi
các doanh nhân Trung Quốc đến Nha Trang đặt vấn đề mua bán cá Mú sống.
Nghề này đã phát triển mạnh từ Bắc vào Nam nhưng tập trung chủ yếu ở Quảng
Ninh - Hải Phòng, Phú Yên - Khánh Hòa và gần đây là Vũng Tàu (Lê Anh Tuấn,
2004) [5].
Hiện nay, cả nước có khoảng 6800 lồng nuôi cá biển (Bộ Thủy Sản, 2003)
[5], trong đó đến 80% là lồng nuôi cá Mú (Quảng, B.H; Thọ, T.V; Ðiệp, N.V;
trao đổi riêng) và khoảng 500 ha ao nuôi cá Mú với sản lượng ước tính khoảng
3000 tấn, trong đó nuôi lồng chiếm 2/3 sản lượng. Các đối tượng nuôi bao gồm
cá Mú Chấm Ðen Epinephelus malabaricus, cá Mú Sông E. coioides, cá Mú
Chấm Ðỏ E. akaara, cá Mú Sỏi E. bleekeri, cá Mú Chấm Tổ Ong E. merra, cá
Mú Mỡ E. tauvina, ngoài ra còn có cá Mú Ðỏ Cephalopholis miniata và cá Mú
Chấm Xanh Plectropomus leopardus thường được lưu tạm để xuất khẩu. Gần

đây cá Mú Hoa Nâu, còn gọi là cá Mú Cọp E. fuscoguttatus đã được nuôi tại các
tỉnh phía Nam. Các lồng và ao nuôi cá Mú tạo ra khoảng 3000 tấn sản phẩm, có
giá bán tại trang trại khoảng trên 300 tỷ đồng (trên 20 triệu Ðô-la Mỹ trong năm
2003 (Lê Anh Tuấn, 2004) [5].
Nghề nuôi cá Mú có tiềm năng lớn để phát triển ở nước ta. Trong tương lai
khi Việt Nam chủ động trong việc cung cấp con giống cá Mú nhân tạo thì nghề
nuôi cá Mú càng có cơ hội để phát triển hơn nữa (Lê Anh Tuấn, 2004) [5].

1.3 Tình hình nuôi cá Mú ở Cam Ranh – Khánh Hòa
Ở Khánh Hòa, cá Mú được nuôi rải rác ở các địa phương như Ninh Hòa,
Cam Ranh, Vạn Ninh, Thành Phố Nha Trang. Tất cả có 110000 m
2
ao và 694
lồng (Lê Trung Toàn, 1998) [7].
Vịnh Cam Ranh - đầm Thủy Triều (Hình 1) là một trong những vực nước
có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế của tỉnh Khánh Hòa: giao

4

thông vận tải, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản (Phạm Văn Thơm et al,
2003) [15]. Đầm Thủy Triều có diện tích 2000 ha, diện tích vùng triều 1500 ha,
diện tích nuôi trồng thủy sản 400 ha tập trung ở phía tây bắc và tây nam của đầm
(Bùi Hồng Long, 1996, và Phạm Văn Thơm, 2003) [1 và 15].

Hình 1: Đầm Thủy Triều –Vịnh Cam Ranh –Khánh Hòa

Cam Ranh có 27 xã phường, trong đó có 10 xã phường nuôi cá Mú đìa với
tổng số 206 hộ, (Phòng Nông Nghiệp thị xã Cam Ranh, 2005) [20]. Cá Mú được
nuôi nhiều ở xã Cam Thịnh Đông, phường Cam Linh, xã Cam Nghĩa, xã Cam
Đức. Các loài cá Mú được nuôi chủ yếu là cá Mú tiêu (Epinephelus malabaricus),

cá Mú cóc (E. merra) và cá Mú sỏi (E. bleekeri) (Nguyễn Văn Tạo, 2001) [11]. Số
liệu thống kê cho thấy cá Mú đìa được nuôi nhiều tại Cam Ranh trong thời gian
gần đây (bảng 2).
Với diện tích nuôi là 70,9 ha ở Cam Ranh, nếu tỷ lệ sống trung bình 70 %
thì thu khoảng 379669,5 kg. Các ao nuôi cá Mú thường có hình chữ nhật, diện
tích dao động từ 1000 đến 7000 m
2
, mật độ thả trung bình 0,7 – 1,0 con/m
2
.
Nguồn giống cung cấp cho nghề nuôi cá Mú đìa hiện nay chủ yếu từ khai thác tự

5

nhiên hoặc giống nhân tạo từ Đài Loan. Thức ăn chủ yếu là các loại cá tạp rẻ tiền.
Khẩu phần thức ăn 8 – 10 % trọng lượng thân khi còn nhỏ và 3 – 5 % khi lớn. Giá
thu mua trực tiếp tại ao từ 120000 đ đến 145000 đ/kg trong khi giá thức ăn chỉ
2000 – 3000 đ/kg (Nguyễn Văn Tạo, 2001) [11].

Bảng 2: Diện tích và sản lượng cá Mú đìa ở Cam Ranh 2000-2004

Năm 2000 2001 2002 2003 2004
Diện tích (ha) 6 70,9 72 108 113
Sản lượng (tấn) 10 150 150 180 212
(Nguồn: Phòng nông nghiệp thị xã Cam Ranh, 2005)

II. Vài nét về kỹ thuật nuôi cá Mú
Để có được sản phẩm cuối cùng là cá Mú đạt tiêu chuẩn cá thương phẩm
người nuôi cần thực hiện các công đoạn lần lượt như sau:
Cải tạo ao: Ao nuôi được người dân tháo và hút cạn nước sau đó dọn rác,

vét bỏ lớp bùn đáy, gia cố lại bờ ao. Đáy ao được phơi 2 tuần hoặc lâu hơn tùy
điều kiện thời tiết nắng nhiều hay mưa nhiều. Lấy nước vào ao khoảng 5 cm rồi
dùng rễ cây diệt cá (Rotenone):40 kg/ha để diệt tạp. Bón vôi với tỷ lệ 1-2 tấn/ha
Calcium carbonate (CaCO
3
) hoặc 200-300 kg/ha Calcium oxit (CaO). Bón phân
hữu cơ (phân chuồng): 2 tấn/ha và phân vô cơ, phân Ure (46-0-0): 25 kg/ha hoặc
Diammonium phosphat (16-20-0): 50 kg/ha. Lấy 30-40 cm nước vào ao (dùng
lưới mịn 24 lỗ/inche ngăn sinh vật tạp vào ao), đợi nước lên màu rồi lại cho thêm
nước vào tới 1,2-1,3 m.
Kỹ thuật chăm sóc: Giống được thả vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát, mật
độ thả 5000-1000 con/ha. Hàng ngày cho ăn cá tạp băm nhỏ với lượng thức ăn
bằng 15% trọng lượng trung bình của thân. Cho ăn 2 lần/ngày vào lúc sáng sớm
hoặc chiều mát. Khi cá đạt 200 g/con thì cho ăn 1 lần/ngày vào lúc sáng sớm,
lượng thức ăn khoảng 5% trọng lượng thân. Thay nước ít nhất 2 lần/tuần, mỗi lần
20-50 % lượng nước trong ao. Chú ý khi cá mắc bệnh phải cách ly và chữa trị kịp
thời. Khi cá lớn khoảng 400 g/con thì phải phân đàn. Sau 3 – 4 tháng nên phân

6

đàn cá 1 lần để tránh tránh hiện tượng cá tàn sát nhau. Thường thì sau 10 - 12
tháng khi cá đạt 1-1,2 kg/con thì rút cạn nước rồi thu hoạch (SUMA, 2002) [21].

III. Những nghiên cứu về cá Mú ở Việt Nam
Ở Việt Nam những tài liệu nghiên cứu về cá Mú nhìn chung còn ít. Sau đây
liệt kê một số nghiên cứu về giống cá này:
Nguyễn Tác An, Nguyễn Duy Toàn và Trương Sỹ Kỳ (1993) trong công
trình nghiên cứu “Kỹ thuật nuôi lồng cá biển” đã có một phần nói về cá Mú.
Lê Trọng Phấn (1993) có “Sơ bộ nghiên cứu họ cá Mú (Serranidae) ở
vùng biển Việt Nam”.

Bắt đầu từ năm 1995, Bộ Thủy sản đã giao đề tài ương giống cá Mú đen
chấm đỏ cho một số đơn vị nghiên cứu hải sản phía Bắc tiến hành tạo giống vì
đây là loài cá có giá trị kinh tế cao, phục vụ chiến lược xuất khẩu [37]. Nguyễn
Văn Trai (1997) nghiên cứu “Tiềm năng của nghề nuôi cá Mú Việt Nam, nghiên
cứu điển hình ở Khánh Hòa”.
Lê Anh Tuấn (1998) nghiên cứu “Tính bền vững của việc cung cấp cá Mú
giống đối với nghề nuôi trồng thủy sản của tỉnh Khánh Hòa – Việt Nam”.
Đào Mạnh Sơn & Đỗ Văn Nguyên (1992 – 1996) nghiên cứu “Đặc điểm
sinh học, nuôi và sản xuất cá Song (Epinephelus sp) ở miền Bắc Việt Nam”.
Tuy nhiên các nghiên cứu trên tập trung nhiều vào phần sản xuất giống
nhân tạo và kỹ thuật nuôi, ít đề cập đến vấn đề chất lượng môi trường ao nuôi cá
Mú và vực nước liền kề do nghề này mới phát triển từ năm 1988. Chất lượng môi
trường khu vực nuôi và vực nước liền kề thường được khảo sát đối với lĩnh vực
nuôi tôm qua một số đề tài như đề tài “Báo cáo kết quả khảo sát môi trường các
khu vực nuôi trồng thuỷ sản tỉnh Khánh Hòa” (Phạm Văn Thơm, 2003) [19],
“Đánh giá ảnh hưởng của các hoạt động công nghiệp và nuôi trồng thủy sản đối
với chất lượng môi trường đầm Thủy Triều” (Phạm Văn Thơm et al, 2003) [15].




7

IV. Một số vấn đề môi trường trong hoạt động nuôi trồng thủy sản ven
biển Việt Nam
Theo PGS. TS. Nguyễn Xuân Lý (2003) [12] – Vụ trưởng Vụ Khoa học
Công nghệ - Bộ Thủy sản thời gian qua nuôi trồng thủy sản (NTTS) ven biển đã
có vị trí hết sức quan trọng trong việc cung cấp nguyên liệu cho chế biến thủy sản
xuất khẩu, đóng góp một phần đáng kể vào tăng trưởng ngành thủy sản nói riêng
và kinh tế đất nước nói chung. Bên cạnh những lợi ích kinh tế, các hoạt động

NTTS ven biển cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề môi trường như sau:
Công tác quy hoạch NTTS làm chưa đầy đủ, việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng quá thấp so với nhu cầu, chưa quan tâm nhiều đến việc xử lý chất thải trong
NTTS. Cũng vì thiếu quy hoạch nên NTTS ven biển phát triển khá tự phát và ồ ạt,
quy mô và phương thức nuôi cũng rất đa dạng, chủ yếu là nuôi quảng canh cải
tiến, chú trọng mở rộng diện tích nên đã đẩy môi trường vào tình trạng khắc
nghiệt hơn về mặt sinh thái, tăng nguy cơ gây bệnh cho thủy sản nuôi.
Tại một số vùng NTTS tập trung, do thiếu hệ thống thủy lợi hợp lý hoặc hệ
thống xử lý chất thải làm cho chất lượng nước trong ao nuôi biến đổi theo chiều
hướng xấu, dẫn đến hiện tượng “thối ao”, “lão hóa ao nuôi” và sau một số năm sử
dụng, năng suất nuôi giảm đáng kể.
Nhiều hộ nuôi tôm không chủ động nguồn nước nuôi, chưa có khái niệm
về kiểm soát môi trường và dịch bệnh, thậm chí nước thải từ ao bị nhiễm bệnh lại
là nguồn nước cấp vào ao khác nên đã phát tán mầm bệnh.
Một số ao nuôi sử dụng khá nhiều hóa chất tẩy rửa ao, xử lý nguồn nước
như vôi, KMnO
4
, CuSO
4
…, các loại thức ăn công nghiệp, thức ăn tươi, làm tăng
lượng chất thải trong ao nuôi. Bên cạnh chất thải hữu cơ dễ phân hủy, cũng bắt
đầu xuất hiện dư lượng hóa chất và mật độ các loài vi sinh vật gây hại khá cao.
Khi kết thúc vụ nuôi, một khối lượng lớn bùn ao không qua xử lý được thải ra
ngoài – là nguồn ô nhiễm tiềm tàng cho các khu vực nuôi xung quanh.





8


V. Một số thông số cơ bản để xác định chất lượng môi trường
Chất lượng lượng nước trong nuôi trồng thủy sản được định lượng bằng
các đặc trưng vật lý, hóa học và sinh học có ảnh hưởng đến sản xuất thủy sản.
Chất lượng môi trường là đặc điểm cơ bản để xác định tiềm năng của sự phát triển
nuôi trồng thủy sản. Duy trì chất lượng nước tốt và ổn định suốt chu kỳ nuôi trong
ao nuôi được xem là một trong những yếu tố then chốt phát triển bền vững nghề
nuôi trồng thủy sản (Nguyễn Đình Trung, 2002) [9]. Một số thông số cơ bản xác
định chất lượng môi trường gồm.

5.1 Môi trường nước
5.1.1 Nhiệt độ
Nhiệt độ là một thông số rất quan trọng trong nước biển. Nhiệt độ nước có
ảnh hưởng rất lớn đến các đặc điểm lý hóa của nước biển và các chu trình vật chất
cũng như sự tồn tại và phát triển của sinh vật trong môi trường biển (Phạm Văn
Thơm, 2003) [18].
Nhiệt độ là yếu tố sinh thái quan trọng đối với các loài động vật thủy sinh.
Yếu tố này có mối quan hệ mật thiết với một số yếu tố khác như hàm lượng oxy
hoà tan (DO), các chất khí hòa tan khác, ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới
sinh trưởng, dinh dưỡng, phát triển của các sinh vật (Phạm Khánh Ly, 1999) [13].
Ðối với tôm, cá nhiệt đới sẽ không phát triển tốt khi nhiệt độ nước xuống
dưới 26-28
o
C và có thể chết nếu nhiệt độ giảm xuống dưới 15
o
C ( Nguyễn Ðình
Trung, 2002) [9].

5.1.2 Ðộ trong và màu nước
Trong ao nuôi thủy sản, độ trong và màu sắc nước chịu sự chi phối rất lớn

bởi thành phần và số lượng khối chất cái trong nước. Trong đó tảo là thành phần
hữu sinh quan trọng nhất ảnh hưởng đến độ trong và màu nước của ao nuôi. Độ
trong ở mức thích hợp 20 – 60 cm, tốt nhất 30 – 40 cm, tảo phát triển vừa phải
trong ao, nước màu xanh vàng hoặc màu xanh nâu là tiền đề cho sự ổn định pH,
biên độ dao động oxy ngày đêm vừa phải, tạo điều kiện cho tôm, cá sinh trưởng
tốt, nâng cao năng suất ao nuôi (Nguyễn Đình Trung, 2002) [9].

9

5.1.3 Chỉ số hydro - pH
Trong môi trường biển khơi và đại dương pH thường có giá trị khoảng 8,3.
Các vùng gần cửa sông có pH nhỏ hơn nhưng ít khi có giá trị < 7 (trừ trường hợp
nước ở đây hoàn toàn là nước sông). Trong một số trường hợp đặc biệt giá trị pH
có thể nằm ngoài các giới hạn trên do ảnh hưởng của vật chất ở vùng lục địa liền
kề (Phạm Văn Thơm, 2003) [18].
. Ảnh hưởng mang tính sinh lý của pH đối với tôm, cá là duy trì sự cân bằng
pH của máu trong cơ thể. Khi pH giảm xuống thấp (pH < 5) sẽ làm giảm khả năng
vận chuyển oxy của hemoglobin, hậu quả là mang tiết ra nhiều chất nhầy, da và
phần ngoài cơ thể tiết ra nhiều nhớt, một số vùng da trở nên đỏ, đồng thời làm
giảm khả năng đề kháng của cá, tôm đối với bệnh, nhất là bệnh vi khuẩn. Khi pH
tăng cao (pH > 9) sẽ làm cho các tế bào ở mang và các mô bị phá hủy. Trong ao
nuôi thủy sản, rất hiếm khi pH < 5 và pH > 9.
• Trong ao nuôi thâm canh, hàm lượng amonia thường cao, pH cao sẽ làm
tăng độc tính của NH
3
đối với tôm, cá.
• Trong các ao có độ kiềm thấp, pH không đủ thấp để gây hại đến tôm, cá,
nhưng nó đủ thấp để thiếu CO
2
cho tảo quang hợp.

(Nguyễn Đình Trung, 2002) [9].

5.1.4 Ðộ muối (S ‰)
Độ muối ở vùng gần các cửa sông thấp hơn vùng biển khơi (do ảnh hưởng
của nước ngọt từ lục đia), tại các nơi này thường có sự phân lớp độ muối rất rõ
vào mùa mưa. Sự bốc hơi mạnh có thể làm cho độ muối tầng mặt cao hơn lớp
nước ngay bên dưới (Phạm Văn Thơm, 2003) [18].
Ðộ muối ảnh hưởng trực tiếp đến việc điều hòa áp suất thẩm thấu của thủy
sinh vật. Các thay đổi độ mặn vượt ra ngoài giới hạn thích ứng của cá, tôm nuôi
đều gây ra các phản ứng sốc của cơ thể làm giảm khả năng để kháng bệnh của cá,
tôm nuôi (Nguyễn Đình Trung, 2002) [9].




10

5.1.5 Vật lơ lửng (TSS)
Vật lơ lửng (có kích thước >0.45 µm) bao gồm các chất rắn vô cơ (như các
hạt thạch anh, fenspat, khoáng vật nặng, khoáng vật sét…), chất hữu cơ (các hợp
chất có chứa các nguyên tố C, N, P như các mảnh vụn thực vật) và các thể kết
(hoặc kết tủa) được tạo ra bởi các phản ứng hóa học trong môi trường nước biển
như carbonat, oxit và hidroxit của Al, Fe, Mn…Vật lơ lửng có thể là nguồn cung
cấp muối dinh dưỡng cho môi trường nước, nguồn thức ăn cho nhiều sinh vật
nhưng cũng có thể cản trở sự quang hợp (Phạm Văn Thơm, 2003) [18].
Tuy nhiên, vật lơ lửng trong nước đôi lúc lại gây trở ngại cho việc sử dụng
và lưu chuyển nước, làm giảm chất lượng nước, gây trở ngại cho việc nuôi trồng
thủy sản (Lương Ðức Phẩm, 2002) [8].

5.1.6 Oxy hòa tan trong nước (DO)

Hàm lượng oxy hòa tan trong môi trường biển thường dao động trong
khoảng từ vết đến hơn 15 mg/L. Trong một số tai biến môi trường, hiện tượng cá
chết hàng loạt không phải do độc tính của các yếu tố gây nhiễm bẩn mà là do sự
tiêu thụ hết oxy của quá trình phân hủy sinh học các yếu tố này (Phạm Văn Thơm,
2003) [18].
Hàm lượng oxy hòa tan là thông số quan trọng nhất trong nuôi trồng thủy
sản kể cả nước ngọt và nước mặn (Nguyễn Đình Trung, 2002) [9]. Hàm lượng
oxy thay đổi theo thời gian và không gian do hoạt động quang hợp và hô hấp của
thủy sinh vật, quá trình phân giải hữu cơ, sự trao đổi oxy giữa môi trường nước và
khí quyển, trong đó hoạt động sống của vi sinh vật và tảo có vai trò quyết định.
Mức độ oxy được cung cấp cho ao do thực vật nổi tạo ra tùy thuộc vào mật độ tảo
và cường độ ánh sáng mặt trời, mật độ tảo cao và cường độ ánh sáng phù hợp thì
oxy hòa tan càng nhiều. Nếu thực vật nổi phát triển dày đặc ánh sáng sẽ bị che
khuất, làm giảm hiệu quả quá trình quang hợp và tảo có khả năng bị tàn lụi, vi
sinh vật phân giải chất hữu cơ nhiều thì ao có thể bị thiếu oxy (Phạm Khánh Ly,
1999) [13].



11

5.1.7 Nhu cầu oxy sinh hóa (BOD
5
)
BOD
5
là lượng oxy cần thiết để vi sinh vật tiêu thụ trong quá trình phân
hủy các chất hữu cơ trong nước trong điều kiện hiếu khí. Do vậy, BOD
5
càng cao

chứng tỏ lượng chất hữu cơ có khả năng phân hủy sinh học trong nước càng lớn
(Nguyễn Ðình Trung, 2002) [9].

5.1.8 Các muối dinh dưỡng chứa Nitơ
Sự phân bố các hợp chất chứa nitơ quyết định sức sản xuất của thủy sinh
vật nói chung và cơ sở thức ăn của tôm, cá nói riêng (Nguyễn Đình Trung, 2002)
[9].Trong nước hợp chất chứa nitơ thường tồn tại ở ba dạng: hợp chất hữu cơ,
amoniac và dạng oxi hóa (nitrat, nitrit). Các dạng này là các khâu trong chuỗi
phân hủy hợp chất chứa nitơ hữu cơ, thí dụ protein và hợp phần của protein.

Vi khuẩn nitrat hóa

Protein NH
3
NO
2
-
NO
3
-


NO
3
-
NO
2
-
→ NO → N
2

O → N
2

(Lương Đức Phẩm, 2002) [8].

5.1.8.1 Ammonium (NH
4
+
)
Trong nước biển NH
3
và ammonium NH
4
+
là hai dạng có thể trao đổi qua
lại (Phạm Văn Thơm, 2003 [18].Dạng NH
3
là ammonia không ion hóa, dạng
NH
4
+
gọi là ammonia ion hóa, trong đó là ammonia không ion hóa NH
3
là chất
độc đối với thủy sinh vật.
Ammonia không ion hóa NH
3
có tính độc cao hơn ammonia ion hóa NH
4
+


từ 300 đến 400 lần (Nguyễn Đình Trung, 2002) [9]. Với nồng độ 10 μg/L NH
3
đã
gây độ cho cá qua đường máu, nồng độ 200-500 μg/L đã gây độc cấp tính (Lương
Đức Phẩm, 2002) [8]. Lượng khí amoniac NH
3
tăng tỷ lệ thuận chủ yếu với pH
và nhiệt độ (Nguyễn Đình Trung, 2002) [9].



(phân hủy)
Nitromonas


Vi khuẩn phản nitrat hóa




Nitrobacter



12

5.1.8.2 Nitrit (NO
2
-N)

Nitrit (NO
2
-N) là sản phẩm trung gian trong quá trình nitrat hóa hoặc khử
nitrat. Dạng nitrit không ion hóa của yếu tố này có độc tính cao. Trong biển hàm
lượng nitrit thường ở dạng vết. Tuy nhiên, tại các khu vực cửa sông lớn hàm
lượng nitrit có thể lên đến vài chục μg/L (Phạm Văn Thơm, 2003 [18].
Muối Nitrit là muối cần cho hoạt động sống của thực vật đơn bào, ngoài ra
Nitrit còn là chỉ tiêu đánh giá mức độ tự làm sạch nước trong tự nhiên. NO
2
-N
thường tồn tại dạng trung gian và hàm lượng thấp từ 3 -25 μg/L (Phạm Khánh Ly,
1999) [13].
Khi NO
2
-N được cơ thể hấp thụ, kết hợp với hemoglobin thành
methemoglobin không có khả năng kết hợp với với O
2
gây ngạt cho cá, tôm.
Trong ao nuôi ven biển, các ion Ca
+2
và Cl
-
có mặt trong nước với hàm
lượng cao, nên độc tính của NO
2
-N giảm (Nguyễn Đình Trung, 2002) [9].

5.1.8.3 Nitrat (NO
3
-N)

Nitrat (NO
3
-N) là dạng được sử dụng rộng rãi nhất của các muối dinh
dưỡng chứa nitơ. Hàm lượng của yếu tố này có thể lên đến 50 – 100 μg/L tại các
vực nước ven bờ (Phạm Văn Thơm, 2003) [18].
NO
3
-N là một muối dinh dưỡng cần thiết cho thực vật thủy sinh. Hàm
lượng NO
3
-N trong thủy vực tự nhiên hiếm khi vượt quá 100 μg/L NO
3
-N
(Deborah Chapman, 1996) [31].

5.1.9 Phosphat (PO
4
-P)
Phosphat là một yếu tố rất cần thiết cho các chức năng thông thường của
tất cả các sinh vật (Phạm Văn Thơm, 2003) [18]. Nó cũng có thể là một trong
những chất dinh dưỡng giới hạn cho sự phát triển của tảo do đó điều khiển năng
suất sơ cấp của thủy vực (Deborah Chapman, 1996) [31]. Lớp nước biển trên bề
mặt thường có hàm lượng phosphat-P thấp (vết – vài μg/L) do sự hấp thụ của thực
vật nổi trong đới ưu quang, các vực nước ven bờ có thể có hàm lượng phosphat-P
lên đến vài chục μg/L (Phạm Văn Thơm, 2003) [18].


13

5.1.10 Silicat (SiO

3
-Si)
Ngoài các muối dinh dưỡng chứa nitơ và phosphat, silicat cũng là một hợp
chất rất cần thiết cho sự phát triển của đa số các thực vật nổi. Nguồn cung cấp
silicat chính cho môi trường biển vẫn là các silicat hòa tan trong nước sông. Do đó
hàm lượng silicat ở vùng ven bờ có phạm vi biến động theo không gian và thời
gian rất rộng. Thông thường hàm lượng silicat ở đây vào khoảng vài trăm μg/L
nhưng vào mùa khô hàm lượng silicat có thể thấp đến dưới 20 μg/L (Phạm Văn
Thơm, 2003) [18].
Hàm lượng SiO
3
-Si trong nước cần thiết cho sự phát triển của tảo khuê là
130 μg/L, mà trong nước hàm lượng SiO
3
thường vượt quá con số này. Do đó
không cần bón phân Silic cho ao nuôi thủy sản (Nguyễn Đình Trung, 2002) [9].

5.1.11 Chỉ thị chất lượng vi sinh của nước (coliform)
Nước là một phương tiện lan truyền các nguồn bệnh và trong thực tế các
bệnh lây lan qua môi trường nước là nguyên nhân chính gây ra bệnh tật và tử
vong. (Trần Văn Nhân & Ngô Thị Nga, 2001) [23]. Nguy cơ phổ biến nhất đối
với sức khỏe con người liên quan tới nước bắt nguồn từ sự hiện diện của dịch
bệnh gây ra bởi vi sinh vật. Nhiều loài vi sinh vật có nguồn gốc từ nước bị ô
nhiễm do hoạt động của con người. Cống nước thải nông nghiệp (bao gồm cả
nước thải nuôi trồng thủy sản), khu vực sản xuất thành thị và thủy vực chứa nước
xả thải có thể chứa 10 – 10 triệu tế bào/100 mL (Deborah Chapman, 1996) [31].
WHO đưa ra tiêu chuẩn nước uống là 0 tế bào/100 mL.
Chất lượng về mặt vi sinh của nước thường được biểu thị bằng nồng độ của
vi khuẩn chỉ thị, đó là những vi khuẩn không gây bệnh và về nguyên tắc đó là
nhóm trực khuẩn (Coliform) (Trần Văn Nhân & Ngô Thị Nga, 2001) [23].


5.2 Môi trường trầm tích
Các chất hữu cơ được tích tụ nhiều trong trầm tích biển. Các hạt có kích
thước nhỏ (còn gọi là phần bùn sét có kích thước hạt < 0,062 mmm) ) trong trầm
tích là các hạt có hoạt tính cao và có khả năng tích tụ nhiều chất hữu cơ từ khối
nước do bề mặt hấp thụ lớn (Artemyev, V.E, 1996) [29]. Vì vậy, tỉ lệ chất hữu cơ

14

trong trầm tích phụ thuộc vào độ hạt: độ hạt càng nhỏ thì tỉ lệ chất hữu cơ càng
cao. Các trầm tích bùn – sét trong biển ven bờ (vũng vịnh) có thể có hàm lượng
chất hữu cơ lên đến khoảng 2 % (Phạm văn Thơm, 2003) [18].
Môi trường trầm tích trong ao nuôi cũng giữ vai trò quan trọng trong việc
quản lý các ao nuôi. Bởi vì sự trao đổi vật chất giữa đất và nước ảnh hưởng đến
chất lượng nước và sản lượng cá nuôi, chẳng hạn như khi lớp bề mặt của trầm tích
ở điều kiện kỵ khí, một số khí độc như NO
2
-N, NH
3
-N, H
2
S sẽ được tạo thành và
được đưa vào môi trường nước, gây độc cho cá. (Hillary S. Egna & Claude E.
Boyd, 1997) [34].
























15

PHẦN III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

I. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu
1.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hiện trạng môi trường các ao nuôi cá Mú và vực nước liền kề.
1.2 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trong thời gian từ ngày 08/08/2005 đến ngày
19/11/2005 tại 3 trong 6 ao nuôi cá Mú của chú Phan Hữu Đông và khu vực đầm
Thủy Triều thuộc thôn Bãi Giếng Nam – xã Cam Đức – thị xã Cam Ranh – tỉnh
Khánh Hòa. Đây là thôn duy nhất của xã Cam Đức nằm tiếp giáp với đầm Thuỷ
Triều.


II. Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu về chất lượng môi trường được thu bằng cách đo đạc, phân tích
mẫu và sử dụng số liệu của các nghiên cứu khoa học đã công bố hoặc chưa công
bố . Số liệu về điều kiện kinh tế xã hội được thu bằng các phỏng vấn trực tiếp
người dân địa phương và các cấp chính quyền.

2.1 Vị trí thu mẫu

2.1.1 Mẫu nước
Khu vực đầm Thủy Triều được định ra 4 trạm thu mẫu, trong đó 3 trạm 1,
2 và 3 đặt dọc theo các ao nuôi cá Mú, cách bờ 150 – 200 m, vùng này chịu ảnh
hưởng nhiều nhất của nước thải ao nuôi thôn Bãi Giếng Nam, trạm 4 được đặt xa
tác động của nguồn thải từ ao (về phía giữa đầm).
Gia đình chú Đông có tất cả 6 ao nuôi cá Mú nằm dọc từ bờ ra phía đầm
Thủy Triều. Do hạn hẹp về thời gian và kinh phí nên tôi đã chọn 2 trạm tại 2 đầu
ra của mương dẫn nước chính (trạm 5 và 6), nơi chịu ảnh hưởng nước thải của các
ao nuôi; 3 ao (trạm 7, 8 và 9) có nuôi 1 loài cá Mú tiêu ở ba mức trọng lượng thả
(0,4 - 0,7; 0,7 - 0,9 và 0,8 - 1,0 kg/con) với 2 mốc thời gian thả (mốc tháng 05 và
tháng 06/2005 đã thả, mốc tháng 09/2005 theo dự tính của chủ hộ nuôi).

16

Các mẫu nước trong khu vực đầm được thu tại tầng mặt vào lúc triều
xuống nhằm đánh giá chất lượng nước thải ra từ các ao nuôi cá Mú. Các mẫu
nước tại ao nuôi (giữa ao) và mương dẫn nước cũng được thu tại tầng mặt.

2.1.2 Mẫu trầm tích
Các mẫu trầm tích được thu tại 6 trạm (trạm 7, 8, và 9 trong ao nuôi; trạm
1, 2 và 3 trong đầm Thủy Triều). Vị trí các trạm thu mẫu được trình bày trong

hình 2.

Hình 2: Sơ đồ khu vực nghiên cứu và các trạm thu mẫu


17

2.2 Thu mẫu
Mẫu nước được thu bằng xô nhựa và chứa trong lọ thủy tinh hoặc can PE
đã được xử lý bằng dung dịch HNO
3
PA và nước cất 2 lần, được tráng kỹ bằng
nước mẫu. Mẫu trầm tích thu bằng cuốc chuyên dùng.

2.3 Các yếu tố phân tích
Mẫu nước: pH, Độ mặn, Độ trong, Nhiệt độ, Độ sâu, Màu nước, Vật lơ
lửng , DO, BOD
5
, Phosphat, Silicat, Nitrit và Nitrat, tổng ammoniac - ammonium
và Coliform.
Mẫu đất: Cấp hạt (<0,062 mm), Carbon hữu cơ (C hc), Nitơ hữu cơ (N hc)
và Phospho tổng (P tổng).

2.4 Tần suất thu mẫu.
Mẫu nước được thu 2 lần vào tháng 8 và tháng 10 tại 9 trạm. Riêng mẫu
Coliform chỉ được thu tại 2 trạm (trạm 9 trong ao nuôi cá Mú và trạm 3 trong đầm
Thủy Triều).
Mẫu trầm tích thu một lần (tháng 8).
Tất cả có 18 mẫu nước và 6 mẫu trầm tích được thu và phân tích.


III. Phương pháp thu thập số liệu

3.1 Mẫu nước.
Mẫu nước được bảo quản và phân tích theo các phương pháp tiêu chuẩn hiện
hành mô tả trong Standard Methods for Examination of Water and Wastewater
(Andrew D. Eaton, Lenore S. Clesceri & Arnold E. Greenberg, 1995) [28]:
Ø pH được đo tại hiện trường bằng máy đo chuyên dùng.
Ø Độ mặn được đo bằng Sali kế có độ chính xác đến 1‰.
Ø Độ trong xác định bằng đĩa secchi, có độ chính xác đến 1 cm.
Ø Nhiệt độ đo bằng nhiệt kế thủy ngân có độ chính xác đến 1
0
C.
Ø Độ sâu đo bằng thước dây có độ chính xác đến 1 cm.
Ø Màu nước xác định bằng thị giác.

18

Ø Vật lơ lửng: phương pháp trọng lượng.
Ø Oxy hòa tan: chuẩn độ theo phương pháp Winkler.
Ø BOD
5
: mẫu phân tích oxy hòa tan được thu vào 2 loạt chai Winkler, hàm
lượng oxy hòa tan trong loạt 1 được phân tích ngay, loạt 2 được giữ ở nhiệt độ 20-
0
C, sau 5 ngày hàm lượng oxy hòa tan được phân tích, hiệu số giữa hai hàm lượng
oxy hòa tan là giá trị của BOD
5
.
Ø Phosphat: phương pháp xanh molybden.
Ø Silicat: phương pháp xanh molybden.

Ø Nitrit và Nitrat: Nitrit được phân tích phương pháp trắc quang phức màu
hồng của Nitrit với α-naphthylamine và acid sulfanilic; Nitrat được khử thành
Nitrit qua cột khử Cd mạ đồng và phân tích theo phương pháp trên.
Ø Ammonia: phương pháp xanh indophenol.
Ø Coliform được xác định bằng phương pháp đổ đĩa.

3.2 Mẫu trầm tích
Mẫu trầm tích được bảo quản ở nhiệt độ -4
o
C (CNEXO, 1983) [30] và phân
tích theo các phương pháp mô tả trong Manual of Methods in Aquatic Environment
Research (FAO, 1975) [32].
Ø C hữu cơ: phương pháp oxid hóa dùng bicromat K.
Ø N hữu cơ: được phân hủy bằng phương pháp Kjeldahn và ammonia tạo ra
được xác định bằng phương pháp chuẩn độ.
Ø P tổng số được phân hủy thành dạng phosphat, yếu tố này được xác định
bằng phương pháp xanh molibden.
Cấp hạt (< 0,062 mm) trong trầm tích được xác định bằng phương pháp rây
(Quy phạm điều tra tổng hợp biển, 1983) [25].







19


PHẦN IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN


I. Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội thôn Bãi Giếng Nam – xã Cam Đức
1.1 Điều kiện tự nhiên
Bãi Giếng Nam là một trong 6 thôn của xã Cam Đức, có diện tích 200 ha,
nằm ở phía Đông của xã. Cách thành phố Nha Trang 35 km về hướng Nam. Phía
Bắc giáp xã Cam Hải Tây, phía Nam giáp xã Cam Thành Bắc, phía Đông giáp
đầm Thuỷ Triều và phía Tây giáp quốc lộ 1A (UBND xã Cam Đức, 2005).
Là một thôn thuộc xã Cam Đức huyện Cam Ranh nên khí hậu ở đây giống
khí hậu của huyện nói chung đó là nhiệt đới gió mùa. Một năm chia làm hai mùa
rõ rệt, mùa khô từ tháng 01 đến tháng 08, mùa mưa từ tháng 09 đến tháng 12.
Lượng mưa cả năm là 1758.1mm, dao động từ 15.2 mm (tháng 7) đến 441.8 mm
(tháng 12). Nhiệt độ trung bình năm 27.5
o
C. Vào tháng 01 - tháng 02 nhiệt độ
xuống thấp 23.7 - 24
o
C. Nhiệt độ cao nhất vào các tháng 07 - 08 - 09 trước khi
vào mùa mưa, có khi lên đến 37.3
o
C vào tháng 09 (Đài khí tượng thủy văn Phú
Khánh,1982) [3].

1.2 Đặc điểm kinh tế xã hội
Năm 2005 thôn Bãi Giếng Nam có 575 hộ tương ứng với 2750 nhân khẩu.
Thu nhập bình quân 2 triệu đồng/người/năm. Ngành nghề chính là nông nghiệp
(60%), ngoài ra thương mại dịch vụ (30%), nuôi trồng thuỷ sản (10%). Toàn thôn
hiện có 8 hộ nuôi cá Mú với diện tích 3 ha. Trình độ văn hóa của dân địa phương
khá cao: tiểu học 100%, trung học cơ sở 85%, trung học phổ thông 70%, đại học
5% (Ủy Ban Nhân Dân xã Cam Đức, 2005).


II. Một vài dữ liệu thu thập được từ các ao nuôi nghiên cứu
Ao nuôi đặt trạm 7: Diện tích 4000 m
2
, thả 1100 con cá Mú tiêu, trung bình
0,8 – 1 kg/con. Cá được chuyển sang ao này ngày 28/05/2005. Một ngày cho 60
kg thức ăn (cá tạp), một ngày ăn một ngày nghỉ. Ngày 15/09/2005 thu hoạch, sau
đó cào đáy, xử lý vôi sò 200 kg, phơi đáy, lấy nước đợi lên màu tự nhiên ngày

20

30/09/2005 thả 1065 con cá Mú tiêu, trung bình 0,7-0,9 kg/con, một ngày cho 60
kg thức ăn (cá tạp), một ngày cho ăn một ngày nghỉ.
Ao nuôi đặt trạm 8: Diện tích 3400 m
2
, thả 1100 con cá Mú tiêu
(Epinephelus malabaricus), 0,4 – 0,7 kg/con, thả ngày 06/06/2005. Hai ngày cho
ăn một ngày nghỉ, một ngày cho 70 kg thức ăn (cá tạp).
Ao nuôi đặt trạm 9: Diện tích 3800 m
2
thả 1100 con cá Mú tiêu 0,7 – 0,9
kg/con vào ngày 29/05/2005. Một ngày cho ăn 60 kg thức ăn, một ngày cho ăn
một ngày nghỉ. Kết quả được trình bày trong.

III. Chất lượng môi trườngg nước

3.1 Hiện trạng môi trường nước

3.1.1 Tháng 08/2005
Kết quả phân tích cho thấy trong đợt khảo sát 8/2004, phạm vi dao động và
giá trị trung bình của các thông số tại khu vực đầm và ao nuôi được trình bày

trong bảng 3 và 4.

3.1.1.1 Khu vực đầm
Nhìn chung giá trị của BOD
5
, pH, nhiệt độ, độ mặn và hàm lượng của các
yếu tố vật lơ lửng, NH
3,4
-N, NO
2
-N, PO
4
-P và SiO
3
-Si tại các trạm trong khu vực
đầm không khác nhau nhiều. Tuy nhiên, hàm lượng của NO
3
-N tại trạm 1 cao hơn
nhiều so các trạm khác.
Độ sâu: 0,6 – 1,8 m, trung bình 0,9 m.
pH: 7,8 – 8,0, trung bình 7,9.
Nhiệt độ tại tất cả các trạm khảo sát là 33
o
C .
Độ mặn tại tất cả các trạm là 34 ‰.
Oxy hòa tan: 5,2 – 7,3 mg/L, trung bình 6,4 mg/L.
BOD5:1,7 – 4,4 mg/L, trung bình 3,0 mg/L.
Vật lơ lửng: 26 – 44 mg/L, trung bình 33,8 mg/L.
Các trạm có màu vàng chanh, riêng trạm 3 có màu vàng nâu.


21

Tổng NH
3,4
-N: 0-20 μg/L
Hàm lượng nitrit (NO
2
-N):1,6 -3,2 μg/L, trung bình 2,2μg/L
Hàm lượng nitrat (NO
3
-N): 49 - 131 μg/L, trung bình 75,8 μg/L
Hàm lượng phosphat (PO
4
-P): 3,3 – 13,8 μg/L, trung bình 6,4 μg/L.
Hàm lượng silicat (SiO
3
-Si): 280 – 426 μg/L, trung bình 351 μg/L.
Mật độ Coliform tại trạm 3 : 3200 tế bào/100 mL.

3.1.1.2 Khu vực ao nuôi
Nhìn chung, trong 3 ao nuôi giá trị BOD5 cao hơn so với 2 trạm đặt tại
mương nước trong khi vật lơ lửng thấp hơn. Các yếu tố khác như độ muối, nhiệt
độ, DO, pH, NH
3,4
-N, NO
2
-N, PO
4
-P và SiO
3

-Si không có sự thay đổi đáng kể
giữa 3 ao. Tuy nhiên, hàm lượng NO
3
-N tại 1 ao nuôi (trạm 8) cao hơn so với 2 ao
còn lại .
Độ sâu: trong ao nuôi 1,3 – 1,5 m; mương nước 0,5 – 0,7 m.
pH: 7,9 – 8,0, trung bình 8,0.
Nhiệt độ: 33
o
C - 34
o
C, trung bình 33
o
C.
Độ mặn tại tất cả các trạm là 34 ‰.
Oxy hòa tan : 4,6 – 6,3 mg/L, trung bình 5,6 mg/L.
BOD
5
: 4,4- 9,3 mg/L, trung bình 6,6 mg/L.
Vật lơ lửng:17 - 38 mg/L, trung bình 26,8 mg/L.
Các trạm trong 3 ao có màu xanh lá chuối trong khi 2 trạm ở mương có
màu đen đục.
Tổng NH
3,4
-N: 0-35 μg/L
Hàm lượng nitrit (NO
2
-N): 4,4 – 7,2 μg/L, trung bình 6,1 μg/L.
Hàm lượng nitrat (NO
3

-N): 99 - 378 μg/L, trung bình 174,4 μg/L.
Hàm lượng phosphat(PO
4
-P):7,5 – 16,9 μg/L, trung bình 12,4 μg/L.
Hàm lượng silicat (SiO
3
-Si): 280 - 775 μg/L, trung bình 420 μg/L.
Mật độ Coliform tại trạm 9: 3000 tế bào/100 mL.




22


Bảng 3: Một số thông số cơ bản (8/2005)

Độ
sâu
Độ
trong
pH Nhiệt
độ
Độ
mặn
DO BOD Vật lơ
lửng
Khu
vực
Giá trị

(m) (m) (
o
C) (‰) (mg/L)

(mg/L)

(mg/L)

Trung bình
0,8
7,9
33,0
34 6,4 3,0 33,8
Cực đại
1,8 1,3
8,0
33,0
34 7,3 4,4 44,0
Cực tiểu
0,6 0,6
7,8
33,0
34 5,2 1,7 26,0

Đầm
liền
kề
n (số mẫu) 4 4 4 4 4 4 4 4
Trung bình
0,7

8,0
33,0
34 5,6 6,6 26,8
Cực đại
1,3 0,9
8,0
34,0
34 6,3 9,3 38,0
Cực tiểu
0,5 0,5
7,9
33,0
34 4,6 4,4 17,0
Ao
nuôi

n (số mẫu) 5 5 5 5 5 5 5 5



Bảng 4: Hàm lượng các muối dinh dưỡng và coliform (8/2005)

NH
3,4
-N NO
2
-N NO
3
-N PO
4

-P

SiO
3
-Si Coliform Khu
vực
Giá trị
(μg/L) (μg/L) (μg/L) (μg/L)

(μg/L) (tb/100mL)
Trung bình
5,0
2,2 75,8 6,4 351 3200
Cực đại
20,0 3,2 131,0 13,8 426 -
Cực tiểu
0 1,6 49,0 3,3 280 -

Đầm
liền
kề
n (số mẫu)
4 4 4 4 4 4
Trung bình
10,6
6,1 174,4 12,4 420 3000
Cực đại
35,0
7,2 378,0 16,9 776 -
Cực tiểu

0
4,4 99,0 7,5 280 -
Ao
nuôi

n (số mẫu)
5 5 5 5 5 5



3.1.2 Tháng 10 năm 2005

3.1.2.1 Khu vực đầm
Cũng giống như đợt tháng 08, giá trị của pH, nhiệt độ, độ mặn và hàm lượng
của các yếu tố vật lơ lửng, NO
2
-N, PO
4
-P và SiO
3
-Si tại các trạm trong khu vực
đầm không khác nhau nhiều. Chỉ có hàm lượng NH
3,4
-N và giá trị BOD
5
tại trạm
3 là cao hơn các trạm khác.

23


Độ sâu: 0,6 – 1,2 m.
Các trạm có màu vàng chanh, riêng trạm 3 có màu vàng nâu.
Độ trong: 0,6 - 1 m, trung bình 0,8 m.
pH: 7,7 – 8, trung bình 7,9.
Nhiệt độ: 31 – 32
o
C, trung bình 31
o
C.
Độ mặn: 29 – 30 ‰, trung bình 30 ‰.
DO: 5,3 – 8 mg/L, trung bình 6,3 mg/L.
BOD
5
: 1,7 – 4,4 mg/L, trung bình 2,8 mg/L.
Vật lơ lửng: 16 – 25 mg/L, trung bình 20,8 mg/L.
Tổng NH
3,4
-N: 0-10,4 μg/L, trung bình 2,9 μg/L.
Hàm lượng nitrit (NO
2
-N):3,6 -5,2 μg/L, trung bình 4,4 μg/L.
Hàm lượng nitrat (NO
3
-N): 34,8 – 48,9 μg/L, trung bình 40,6 μg/L
Hàm lượng phosphat (PO
4
-P): 6,9 – 11,6 μg/L, trung bình 9 μg/L.
Hàm lượng silicat (SiO
3
-Si): 320 – 470 μg/L, trung bình 398 μg/L.

Mật độ Coliform tại trạm 3 : 3600 tế bào/100 mL.
3.1.2.2 Khu vực ao nuôi
Giá trị BOD
5
và hàm lượng NH
3,4
-N tại các trạm trong 3 ao nuôi cao hơn
2 trạm đặt tại mương nước. vật lơ lửng, DO, pH, NO
3
-N khá đồng đều giữa các
trạm. NO
2
-N cao nhất tại mương nước trong lúc các trạm còn lại không có sự
khác biệt. PO
4
-P có giá trị cao nhất tại trạm 8.
Độ sâu: trong ao nuôi 1,2 - 1,8 m; mương dẫn nước 0,3 – 0,4 m.
Trạm 7 có màu xanh lá chuối, trạm 8 và 9 có màu xanh trong, trạm 5 màu
trắng đục, trạm 6 màu vàng chanh.
Độ trong: 0,3 - 1 m, trung bình 0,7 m.
pH: 7,7 – 8,1 trung bình 7,9.
Nhiệt độ: 30 – 32
o
C, trung bình 31
o
C.
Độ mặn: 27 – 30 ‰, trung bình 29 ‰.
DO: 4,6 – 8,1 mg/L, trung bình 6,4 mg/L.
BOD
5

: 4,3 – 6,2 mg/L, trung bình 5,4 mg/L.
Vật lơ lửng: 11 – 25 mg/L, trung bình 19,8 mg/L.
Tổng NH
3,4
-N: 27 - 62 μg/L, trung bình 44,6 μg/L.

24

Hàm lượng nitrit (NO
2
-N): 4,8 – 12,4 μg/L, trung bình 7,9 μg/L.
Hàm lượng nitrat (NO
3
-N): 45,1 – 78,6 μg/L, trung bình 61,8 μg/L
Hàm lượng phosphat (PO
4
-P): 7,5 – 50 μg/L, trung bình 26,7 μg/L.
Hàm lượng silicat (SiO
3
-Si): 400 – 892 μg/L, trung bình 670 μg/L.
Mật độ Coliform tại trạm 9 : 5100 tế bào/100 mL.
Số liệu thống kê các yếu tố khảo sát (10/2005) được trình bày trong bảng 5 và
bảng 6.

Bảng 5: Một số thông số cơ bản (10/2005)

Độ
sâu
Độ
trong

pH Nhiệt
độ
Độ
mặn
DO BOD Vật
LL
Khu
vực
Giá trị
(m) (m) (
o
C) (‰) (mg/L)

(mg/L)

(mg/L)

Trung bình 0,8 7,9 31 30 6,3 2,8 20,8
Cực đại 1,2 1 8 32 30 8 4,4 25
Cực tiểu
0,6 0,6 7,7 31 29 5,3 1,7 16
Đầm
liền
kề

n (số mẫu)
4 4 4 4 4 4 4 4
Trung bình 0,7 7,9 31 29 6,4 5,4 19,8
Cực đại 1,8 1 8,1 32 30 8,1 6,2 25
Cực tiểu 0,3 0,3 7,7 30 27 4,6 4,3 11

Ao
nuôi
n (số mẫu) 5 5 5 5 5 5 5 5


Bảng 6: Hàm lượng các muối dinh dưỡng và coliform (10/2005)

NH
3,4
-N

NO
2
-N NO
3
-N PO
4
-P SiO
3
-Si Coliform Khu
vực
Giá trị
(μg/L) (μg/L) (μg/L) (μg/L) (μg/L) (tb/100mL)
T.bình
2,9
4,4 40,6 9 398 3600
Cực đại
10,4
5,2 48,9 11,6 470 -
Cực tiểu

0
3,6 34,8 6,9 320 -
Đầm
liền
kề

n (số mẫu)
4
4 4 4 4 1
T.bình
44,6
7,9 61,8 26,7 670 5100
Cực đại
62
12,4 78,6 50 892 -
Cực tiểu
27
4,8 45,1 7,5 400 -

Ao
nuôi
n (số mẫu)
5 5 5 5 5 1


Biến động của một số yếu tố tại các trạm qua 2 đợt khảo sát được trình bày ở hình 3.


25


Giá trị độ muối tại các trạm
0
10
20
30
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Trạm
%o
8/2005 10/2005
Giá trị nhiệt độ tại các trạm
0
10
20
30
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Trạm
oC
8/2005 10/2005

Hàm lượng vật lơ lửng tại các trạ
m
0
10
20
30
40
50
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Trạm
mg/L

8/2005 10/2005
Hàm lượng oxy hoà tan tại các trạ
m
0
2
4
6
8
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Trạm
mg/L
8/2005 10/2005


Giá trị BOD
5
tại các trạm
0
2
4
6
8
10
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Trạm
mg/L
8/2005 10/2005

Giá trị pH tại các trạm
0

2
4
6
8
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Trạm
8/2005 10/2005

Hàm lượng NH
3,4
-N tại các trạm
0
20
40
60
1 2 3 4 5 6 7 8 9
Trạm
µ
g/L
8/2005 10/2005
Hàm lượng NO
2
-N tại các trạm
0
3
6
9
12
15
1 2 3 4 5 6 7 8 9

Trạm
µ
g/L
8/2005 10/2005

Trạm 1,2,3,4: khu vực đầm; Trạm 5,6, 7,8,9: khu vực ao nuôi.
Hình 3: Biến động của một số yếu tố tại các trạm theo 2 đợt khảo sát

×