Tải bản đầy đủ (.pdf) (150 trang)

nghiên cứu áp dụng nghiệp vụ bao thanh toán trong hoạt động tài trợ thương mại tại ngân hàng vietinbank chi nhánh khánh hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 150 trang )

GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My
LỜI MỞ ĐẦU

Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế, Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại lớn
nhất toàn cầu WTO. Do đó, các doanh nghiệp của Việt Nam có tồn tại và đứng vững trong
môi trường cạnh tranh khốc liệt là do sự nỗ lực của chính bản thân doanh nghiệp quyết
định. Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang dần dần được hình
thành, đứng trước yêu cầu đó đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải nhanh chóng nâng
cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ và đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh, đặc biệt là các
doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tiền tệ- lĩnh vực hết sức nhạy cảm
với nền kinh tế. Với việc sử dụng các công cụ tài chính sẽ giúp ích rất nhiều cho các doanh
nghiệp cũng như các tổ chức tài chính trong quá trình hoạt động, phát triển nhanh chóng và
bền vững nhằm tránh được nguy cơ giảm thị phần trong tương lai. Trong xu thế đó, sự đa
dạng hóa và phát triển các công cụ tài chính, các sản phẩm mới là một trong những chiến
lược để tồn tại và phát triển của bất cứ ngân hàng nào. Muốn đạt mục tiêu đó, các định chế
tài chính Việt Nam không còn con đường nào khác là phải nhanh chóng đưa vào áp dụng
các sản phẩm tài chính mới đã được áp dụng trên thế giới, trong đó có nghiệp vụ bao thanh
toán(factoring).
Bao thanh toán là nghiệp vụ không còn xa lạ gì đối với nhiều quốc gia trên thế giới
và nó đã mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho khách hàng lẫn đơn vị cung cấp dịch vụ.
Hiện nay rất nhiều nước trên thế giới sử dụng bao thanh toán như một giải pháp tối ưu thúc
đẩy quá trình buôn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ diễn ra thuận lợi và hiệu quả hơn.
Những lợi ích mà bao thanh toán đem lại cho thương mại trong phạm vi quốc gia và trên
toàn thế giới ngày càng được khẳng định và công nhận rộng rãi. Vì vậy, bao thanh toán nếu
được triển khai tích cực và hiệu quả, sẽ góp tên vào danh mục các sản phẩm dịch vụ ngân
hàng và góp phần nâng cao tính cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam so với các ngân
hàng nước ngoài.
Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, bao thanh toán vẫn chưa được phát triển rộng rãi
mà một trong những nguyên nhân là do ngân hàng vẫn còn dè dặt với loại hình này. Mặc
khác, bao thanh toán (factoring) còn là một khái niệm khá lạ lẫm với nhiều doanh nghiệp
Việt Nam. Chính vì thế, dù được giới chuyên môn đánh giá cao nhưng nghiệp vụ bao thanh


toán vẫn chưa thực sự phát triển ở Việt Nam. Đây cũng là một thiệt thòi lớn cho các doanh
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My
nghiệp Việt Nam khi bán hàng. Vì vậy, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển,
đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng trong xu thế hội nhập với nền
tài chính quốc tế, các ngân hàng, các tổ chức tài chính của Việt Nam cần mở rộng triển
khai dịch vụ bao thanh toán.
Nhận thức rõ điều đó, một số ngân hàng trên địa bàn thành phố Nha Trang, tỉnh
Khánh Hòa đã nghiên cứu và bước đầu thực hiện nghiệp vụ này. Tuy nhiên, dịch vụ bao
thanh toán vẫn chưa thực sự phát triển , các ngân hàng còn gặp phải nhiều khó khăn khi
thực hiện nghiệp vụ này, nên một số ngân hàng vẫn chưa tiến hành áp dụng vào hoạt động
kinh doanh như một hình thức tài trợ thương mại, trong đó có Ngân hàng VietinBank Chi
nhánh Khánh Hòa
Xuất phát từ quan điểm đó và thực trạng hoạt động của Ngân hàng VietinBank Chi
nhánh Khánh Hòa cùng với tính cấp thiết cũng như những lợi ích mang lại của hoạt động
bao thanh toán, sau một thời gian thực tập, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Nghiên cứu áp
dụng nghiệp vụ bao thanh toán trong hoạt động tài trợ thương mại tại Ngân hàng
VietinBank Chi nhánh Khánh Hòa”
Mục tiêu nghiên cứu là thông qua việc nghiên cứu có hệ thống thực trạng hoạt động
kinh doanh để từ đó tìm kiếm và đề xuất định hướng áp dụng nghiệp vụ bao thanh toán vào
hoạt động tài trợ thương mại tại Ngân hàng VietinBank Chi nhánh Khánh Hòa.
Phạm vi nghiên cứu: Bài viết nghiên cứu các chính sách, các quy định, quá trình triển
khai và áp dụng nghiệp vụ bao thanh toán tại ngân hàng VietinBank Chi nhánh Khánh Hòa.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp thu thập số liệu, phương pháp so sánh,
phương pháp phân tích các hoạt động kinh tế, phương pháp tổng hợp thống kê.
Kết cấu của đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận còn có ba chương:
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về nghiệp vụ bao thanh toán trong hoạt động tài
trợ thương mại tại ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng tình hình hoạt động kinh doanh tại Ngân hàng VietinBank
chi nhánh Khánh Hòa.
Chương 3: Nghiên cứu áp dụng nghiệp vụ bao thanh toán trong hoạt động tài trợ

thương mại tại Ngân hàng VietinBank chi nhánh Khánh Hòa.

GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My
Với những gì thế hiện trong bài khóa luận, em hy vọng có thể đóng góp một số ý
kiến nhằm áp dụng nghiệp vụ bao thanh toán vào hoạt động tài trợ thương mại của ngân
hàng.Tuy nhiên với thời lượng thực tập và kiến thức còn hạn hẹp, chuyên đề không tránh
khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo và ý kiến đóng góp của các thầy
cô giáo, các cô chú, anh chị tại phòng thanh toán xuất nhập khẩu của Ngân hàng
VietinBank Chi nhánh Khánh Hòa.
Qua đây em xin chân thành cảm ơn cô Hiển đã trực tiếp chì dẫn giúp em hoàn thành
chuyên đề và các cô chú, các anh chị trong phòng thanh toán xuât nhập khẩu tại Ngân hàng
VietinBank đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong thời gian thực tập tại ngân hàng.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My
CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN
TRONG HOẠT ĐỘNG TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI TẠI NGÂN HÀNG

1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của nghiệp vụ bao thanh toán
Bao Thanh Toán (BTT) xuất phát từ đại lý hưởng hoa hồng, những người
thực hiện việc mua bán và luân chuyển hàng hóa khoảng 2000 năm trước dưới thời
đế chế La Mã. Do hệ thống thông tin còn sơ khai, đại lý hoa hồng thực hiện chức
năng marketing quan trọng trong giao dịch thương mại giữa nhà sản xuất nước
ngoài và người mua trong nước. Là đại lý, họ nắm giữ quyền sở hữu (chứ không
phải danh nghĩa) của hàng hóa bên ủy nhiệm - nhà sản xuất nước ngoài - rồi giao
hàng hóa đó cho người mua trong nước, ghi sổ doanh thu/thu nợ và thu nợ khi đến
hạn, chuyển dư nợ cho bên uỷ nhiệm thu sau khi đã trừ phần hoa hồng của mình.
Với sự phát triển toàn cầu của ngành công nghiệp Anh vào thế kỷ 14 và thế
kỷ 15 là sự lớn mạnh trong tầm quan trọng của đại lý BTT. Khi họ dần dần tin cậy
vào khả năng trả nợ của người mua trong nước mà họ giao dịch cùng, họ bắt đầu
cấp tín dụng cho người ủy nhiệm mình để lấy hoa hồng cao hơn.Thực tế là, với

khoản hoa hồng nhiều hơn, đại lý BTT bắt đầu bảo đảm khả năng trả nợ của người
mua bằng cách hứa trả cho người ủy nhiệm trong tương lai, nếu người mua không
thể trả nợ đúng hạn do khả năng tài chính không cho phép. Không lâu trước đó, là
kết quả tự nhiên của việc bảo lãnh tín dụng, đại lý thanh toán có đủ vốn bắt đầu trả
trước một phần (tạm ứng) cho người ủy nhiệm của mình dựa trên khoản thanh toán
của người mua trong tương lai hoặc là của đại lý BTT, nếu người mua không trả
tiền và nếu nó bảo lãnh khoản tín dụng đó của người mua. Do có những khoản tạm
ứng này mà đại lý BTT tính thêm phí hoa hồng hay lãi suất. Thông thường, để tránh
khỏi tình trạng không thanh toán hay thanh toán không đủ do những vấn đề không
thuộc phạm trù tín dụng như là người mua khiếu nại nguời bán về số lượng, chất
lượng hàng hóa hay thời gian giao hàng không đúng hạn, đại lý BTT không tạm ứng
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My
toàn bộ số tiền doanh thu bán hàng. Thay vào đó, họ sẽ giữ lại một phần để dự trữ
phải trả cho người bán cho tới khi tất cả những sự việc không thanh toán không còn
tồn tại nữa. Người mua thường được thông báo là đại lý BTT đã mua quyền nhận
thanh toán của họ. Vào thời điểm Columbus phát hiện ra Châu Mỹ năm 1492, đại lý
BTT đã phát triển từ vai trò duy nhất với chức năng marketing thành đóng hai vai
trò vừa có chức năng marketing vừa có chức năng tài chính.
Thế kỷ 16 chứng kiến sự bắt đầu của chế độ thực dân Mỹ, và cùng với nó là
vai trò ngày càng tăng và nhiều cơ hội mới cho BTT - đặc biệt là đối với những
người thiết lập hoạt động kinh doanh ở Mỹ. Khoảng cách giữa Châu Âu và thị
trường thực dân rất lớn và càng trở nên lớn hơn khi Mỹ mở rộng biên giới phía Tây
của nó. Khoảng cách lớn này khiến cho các nhà sản xuất Châu Âu khó quen với thị
trường Châu Mỹ và sự tin cậy về tín dụng của những khách hàng tiềm năng. Điều
này cũng làm cho vòng tuần hoàn từ khi bắt đầu sản xuất đến khi nhận được thanh
toán cuối cùng dài hơn. Kết hợp những yếu tố trên tạo nên sự căng thẳng đáng kể
đối với những nhà sản xuất này. Vì vậy, những đại lý BTT người Mỹ quen thuộc
với thị trường và người mua trong nước họ, được tổ chức để cung cấp cho các nhà
sản xuất Châu Âu những dịch vụ marketing và tài chính tương tự như trước đây
những người anh em của họ ở nước khác đã từng làm.

Đến cuối thế kỷ 19, một sự thay đổi quan trọng trong thế giới thương mại đã
xảy ra. Ở trong nước, Mỹ phát triển thành một quốc gia chủ quyền và trở nên ít bị
phụ thuộc vào hàng hóa nước ngoài. Sự phát triển của ngành công nghiệp trong
nước là do dân số và lực luợng lao động trong nước tăng rất nhanh, tài nguyên thiên
nhiên dư thừa, và sự áp đặt biểu thuế gắt gao đối với hàng hóa nước ngoài. Đồng
thời, những nhà sản xuất Mỹ phát triển đội ngũ kinh doanh (marketing) của mình và
vì vậy, nhu cầu chức năng marketing mà trước đây các đại lý BTT thường thực hiện
giảm đi. Tuy nhiên, môt lần nữa, các đại lý BTT lại phát triển và điều chỉnh theo
nhu cầu của nền kinh tế mới trong nước, tập trung vào tín dụng, thu nợ, kế toán và
các chức năng tài chính (thường là thông báo cho người mua việc bán các khoản
phải thu). Việc giao cho các đại lý BTT thực hiện các chức năng này cho phép các
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My
nhà sản xuất ngành dệt của Mỹ tập trung vào sản xuất và tiếp thị trong thời kỳ phát
triển rất nhanh này. Khi các nhà sản xuất Mỹ mở rộng vào đầu thế kỷ 20 sang các
sản phẩm may mặc và phụ kiện, đồ nội thất và thảm thì các đại lý BTT của Mỹ
cũng mở rộng chuyên môn và dịch vụ sang ngành công nghiệp này.
Đến giữa thế kỷ 20, BTT của Mỹ phát triển sang những ngành công nghiệp
mới đang phát triển như điện, hoá chất, và sợi tổng hợp. Ngày nay, để làm dịu bớt
nhu cầu kiểm soát hàng hóa về mặt vật lý, BTT đã mở rộng sang nhiều ngành nghề
khác như giao nhận, cung cấp nhân sự tạm thời, quảng cáo, thiết kế đồ họa, Tuy
có những tình cảnh đặc biệt này, nhưng chúng ta cũng sẽ thấy một số lượng giới hạn
các đại lý BTT cung cấp những dịch vụ của mình trong những ngành công nghiệp
có ảnh hưởng liên quan.
1.2. Một số định nghĩa về bao thanh toán(factoring)
1.2.1. Bao thanh toán là gì?
Một công ty tài chính cỡ lớn ứng trước cho các nhà xuất khẩu 70-80% tổng
giá trị hóa đơn bán hàng và giành lấy quyền đòi nợ khách mua hàng. Tuy nhiên việc
ứng trước một khoản tiền lớn chứa đựng rất nhiều rủi ro đối với công ty Factoring
vì phải thẩm định khả năng tài chính của nhà xuất khẩu hoặc nhà xuất khẩu buộc
phải thế chấp tài sản trong điều kiện khát vốn. Chính vì vậy, nhà xuất khẩu sẽ mang

hối phiếu đã ký phát cho nhà nhập khẩu đến công ty này chiết khấu thu về tiền mặt,
và để lại quyền đòi nợ nhà xuất khẩu cho công ty Factoring bằng cách ký hậu trên
hối phiếu theo lệnh của công ty. Rõ ràng tín dụng factoring mang lại lợi ích cho cả
bên mua vì sớm thu hồi lại vốn, và cả bên tổ chức factoring vì được hưởng chênh
lệch chiết khấu. Tỷ lệ ứng trước cao hay thấp phụ thuộc vào tỷ xuất chiết khấu hối
phiếu trên thị trường và phí nhờ thu cùng với độ rủi ro có thể xảy ra với công ty.
Tuy nhiên tín dụng factoring thường là tín dụng ngắn hạn và không miễn truy đòi.
Điều này có nghĩa là khả năng bao thầu tín dụng thấp, nếu công ty Factoring cầm
hối phiếu trong tay mà không thể đòi nợ được từ người mua thì có quyền truy đòi
lại người bán.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My
Vậy hoạt động factoring là gì? Từ factor bắt nguồn từ factare trong tiếng
Latinh có nghĩa là “thực hiện” hay “làm”.
* Theo Từ điển kinh tế (Dictionary of Economic – Christopher Pass & Bryan
Lones), “Bao thanh toán (factoring) là một sự dàn xếp tài chính, qua đó một công ty
tài chính chuyên nghiệp (công ty mua nợ - factor firm) mua lại các khoản nợ của
một công ty với số tiền ít hơn giá trị của khoản nợ đó. Lợi nhuận phát sinh từ sự
chênh lệch giữa tiền thu được của số nợ đã mua và giá mua thực tế của món nợ đó.
Lợi ích của công ty bán nợ là nhận được tiền ngay thay vì phải chờ đến lúc con nợ
trả nợ, hơn nữa lại tránh được những phiền toái và các chi phí trong việc theo đuổi
các con nợ chậm trả”.
* Còn theo Từ điển thuật ngữ Ngân hàng – Hans Klaus thì “Bao thanh toán
(factoring) là một loại hình tài trợ dưới dạng tín dụng chuyển nhượng nợ. Một công
ty chuyển toàn bộ hay một phần khoản nợ cho một công ty tài chính chuyên nghiệp
(công ty mua nợ, thông thường là một công ty trực thuộc ngân hàng). Công ty này
đảm nhận việc thu các khoản nợ và theo dõi các khoản phải thu để hưởng thủ tục
phí và có lúc ứng trước các khoản nợ. Thông thường công ty mua nợ phải chịu rủi
ro mất khả năng thanh toán của món nợ”.
* Tiến sĩ Edward W. Reed và Edward W.Gill cho rằng : “ Factoring là việc
mua lại các khoản nợ. Các công ty mua nợ mua các khoản nợ của khách hàng trên

cơ sở không truy đòi và tiến hành một số các dịch vụ ngoài việc ứng trước các
khoản nợ. Công ty mua nợ đánh giá tín dụng trong hiện tại và tương lai của khách
hàng (người bán) và xác lập các hạn mức tín dụng ứng trước. Các khách hàng được
yêu cầu gửi trực tiếp cho công ty mua nợ bản sao hóa đơn. Khoản ứng trước thường
từ 80-90% giá trị hóa đơn. Khoản dự trữ 10-20% được công ty mua nợ giữ lại để
phòng ngừa hàng trả lại, hàng giao thiếu, hoặc các yêu cầu khác của người mua.
Thường thường vào cuối tháng, công ty mua nợ tính toán mức phí thu được trên số
dư trên các khoản nợ chưa thu và cấp thêm vốn cho khách hàng.
* Theo định nghĩa của Hiệp hội bao thanh toán thế giới (FCI- Factors Chain
International) thì định nghĩa bao thanh toán là một loại hình dịch vụ tài chính trọn
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My
gói bao gồm sự kết hợp giữa tài trợ vốn hoạt động, bảo hiểm rủi ro tín dụng, theo
dõi các khoản phải thu và dịch vụ thu hộ. Đó là một sự thỏa thuận giữa người cung
cấp dịch vụ bao thanh toán (factor) với người cung cấp dịch vụ hay còn gọi là người
bán hàng trong quan hệ mua bán (seller). Theo như thỏa thuận, factor sẽ mua lại các
khoản phải thu của người bán dựa trên khả năng trả nợ của người mua trong quan
hệ mua bán hàng hóa (buyer) hay còn gọi là con nợ trong quan hệ tín dụng (debtor).
Nếu người mua phá sản hay mất khả năng chi trả vì những lý do tín dụng thì đơn vị
bao toán sẽ thay mặt người mua trả tiền cho người bán. Khi người mua và người
bán ở hai nước khác nhau thì dịch vụ này được gọi là bao thanh toán quốc tế.
* Theo công ước về bao thanh toán quốc tế của UNIDROIT 1988, nghiệp vụ
bao thanh toán được định nghĩa như là một dạng tài trợ bằng việc mua bán các khoản
nợ ngắn hạn trong giao dịch thương mại giữa tổ chức tài trợ và bên cung ứng. Theo
đó, tổ chức tài trợ thực hiện tối thiểu hai trong số các chức năng sau: Tài trợ bên cung
ứng( gồm cho vay và ứng trước tiền), quản lý sổ sách thông qua các khoản phải thu,
thu nợ các khoản phải thu, đảm bảo rủi ro không thanh toán của bên mua hàng.
* Theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ban hành ngày 06/09/2004 của
Thống đốc NHNN, bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng
cho bên bán hàng thông qua việc mua bán các khoản phải thu phát sinh từ việc mua
bán hàng hóa giữa bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng trong

hợp đồng mua bán. Bao thanh toán là sự tổng hợp tính chất của các hoạt động tài trợ
cho người bán, tài trợ dựa trên hóa đơn, tài trợ thương mại hay chiết khấu hóa đơn.
Về cơ bản, bao thanh toán là hình thức cho vay ngắn hạn, trong đó người cho vay
được đảm bảo bằng cách nắm giữ quyền được đòi khoản phải thu của người đi vay.
* Nói tóm lại, bao thanh toán được hiểu là sự chuyển nhượng nợ của người
mua hàng (con nợ) từ người bán hay cung ứng dịch vụ ( chủ nợ cũ) sang đơn vị bao
thanh toán ( chủ nợ mới). Đơn vị bao thanh toán đảm bảo việc thu nợ, tránh các rủi ro
không trả nợ hoặc không có khả năng trả nợ của người mua. Đơn vị bao thanh toán
có thể trả trước toàn bộ hay một phần các khoản nợ của người mua cùng với một
khoản hoa hồng tài trợ và phí thu nợ. Mọi rủi ro không thu được tiền hàng đều do
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My
người tài trợ gánh chịu. Ngoài ra, nghiệp vụ bao thanh toán còn bao gồm một số dịch
vụ như quản lý tài khoản phải thu của khách hàng, cung cấp các thông tin kinh tế, tiền
tệ, tín dụng và thương mại nhằm tăng thu và giữ tốt quan hệ với khách hàng lâu dài.
1.2.2. Chuyển nhượng các khoản phải thu
1.2.2.1 Khoản phải thu là gì?
Khoản phải thu là một dạng tài sản vô hình, có thể chưa tồn tại tại thời điểm
giao kết hợp đồng bao thanh toán, nên người bán hàng hóa, dịch vụ có thể cùng một
lúc bán một khoản phải thu cho nhiều đơn vị bao thanh toán hoặc vừa bán khoản
phải thu, vừa cầm cố khoản phải thu đó để đảm bảo cho một khoản vay tại một tổ
chức tín dụng khác. Vì vậy, việc xác định quyền ưu tiên đối với khoản phải thu là
hết sức quan trọng, để đơn vị bao thanh toán có cơ sở pháp lý nhằm thu khoản phải
thu từ người mua hàng hóa dịch vụ.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, các khoản phải thu là đối tượng được
điều chỉnh phải có những tính chất sau (các khoản phải thu phải không nằm trong
đối tượng bị cấm bao thanh tóan theo quy định tại Điều 19 của Quyết định số
1096/2004/QĐ-NHNN) :
Một là, về tính chất thương mại của các khoản phải thu thì khoản phải thu
được bao thanh toán phải phát sinh từ các hợp đồng mua bán hàng hóa và đã được
các bên thỏa thuận trong hợp đồng mua bán. Do đó, các khoản phải thu gắn liền với

việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng
hóa, trong đó nghĩa vụ giao hàng hóa và chuyển quyền sở hữu hàng hóa của bên bán
cho bên mua có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Hệ quả là khi vi phạm nghĩa vụ này, bên
bán sẽ gánh chịu trách nhiệm bồi hoàn các khoản phải thu đã được bao thanh toán
(ngay cả trong trường hợp bao thanh tóan không có truy đòi), tương tự bên mua
hàng có khả năng từ chối thanh toán cho tổ chức bao thanh toán.
Hai là, về tính thời hạn của các khoản phải thu, do mục đích của quan hệ bao
thanh toán là một hình thức tài trợ vốn lưu động cho bên được bao thanh toán. Theo
quy định của pháp luật hiện hành thì chỉ có các khoản phải thu có thời hạn còn lại
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My
dưới 180 ngày mới đủ điều kiện là đối tượng bao thanh toán. Ngoài ra, các khoản
phải thu đã quá hạn thanh toán theo hợp đồng mua bán hàng hóa cũng không thuộc
đối tượng được bao thanh tóan.
Ba là, về tính hợp pháp của các khoản phải thu, các khoản phải thu phải xuất
phát từ những giao dịch mua bán hàng hóa hợp pháp. Đặc tính này bảo đảm rằng,
việc chuyển nhượng các khoản phải thu là có căn cứ pháp luật, hạn chế những rủi ro
liên quan đến quá trình thực hiện hợp đồng mua bán và thanh toán. Theo đó, các
khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa bị pháp luật cấm hoặc từ
các giao dịch, thỏa thuận bất hợp pháp hoặc giao dịch đang có tranh chấp sẽ không
thuộc đối tượng được bao thanh toán.
Bốn là, về tính độc lập của các khoản phải thu, do quyền lợi của bên bao
thanh toán chỉ có thể được bảo đảm bởi nghĩa vụ thanh toán của người mua hàng,
nên thông thường bên bao thanh toán được xác lập quyền ưu tiên trong việc thu
nhận các khoản phải thu. Để thực hiện mục đích này , pháp luật nước ta quy định
hai điều kiện: các khoản phải thu không thuộc đối tượng của bất kỳ giao dịch nào
khác; và, các khoản phải thu phải được xác định chắc chắn tại thời điểm hợp đồng
bao thanh toán được ký kết. Như vậy, các khoản phải thu đã được gán nợ, cầm cố,
thế chấp hoặc các khoản phải thu phát sinh từ các quan hệ ký gửi sẽ không thuộc
đối tượng được bao thanh toán.
1.2.2.2. Chuyển nhượng là gì?

Khái niệm theo Điều 2 Luật tiêu chuẩn chuyển nhượng khoản phải thu
UNCITRAL (UNCITRAL Model Law on Assignment of Receivables), chuyển
nhượng khoản phải thu là thỏa thuận, trong đó một bên( người chuyển nhượng)
chuyển cho bên kia (người được chuyển nhượng) quyền thu hồi khoản tiền thanh
toán từ bên thứ ba( người vay). Các quyền lợi liên quan đến khoản phải thu được
xem là sự đảm bảo cho khoản nợ và các nghĩa vụ khác cũng được nhìn nhận là sự
chuyển giao.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My
Điều này trong bao thanh toán có nghĩa là thỏa thuận Bao thanh toán (hay
hợp đồng) và người bán đồng ý bán các quyền của anh ta đối với các khoản phải thu
cho người bao thanh toán. Giá mua là giá trị các khoản phải thu được chuyển
nhượng trừ đi phí của người bao thanh toán và các khoản khấu trừ của người mua
(ví dụ như chiết khấu do thanh toán bằng tiền mặt). Người bao thanh toán trở thành
chủ sở hữu các khoản phải thu. Thông thường, người mua được thông báo về việc
chuyển nhượng quyền sở hữu này.
Thủ tục hoàn tất việc chuyển nhượng để có thể có hiệu lực pháp lý đối với tất
cả các bên có thể khác nhau tùy vào từng quốc gia.
1.2.2.3 Tại sao lại có chuyển nhượng?
Bao thanh toán với hình thức đơn giản nhất là việc tài trợ cho người bán mà
không cung cấp bất kỳ dịch vụ nào khác và tác dụng của nó không khác gì so với
việc cho vay có đảm bảo bằng các khoản phải thu. Do đó, việc sở hữu các khoản
phải thu không thực sự cần thiết. Thực ra ở một số nước, thậm chí khi cung cấp các
dịch vụ bao thanh toán khác, một người bao thanh toán cũng không được sỡ hữu các
khoản phải thu hoặc ít nhất không được sở hữu lúc ban đầu. Lý do là để tránh một
số thủ tục pháp lý phức tạp hoặc phải trả một số thuế. Việc chuyển nhượng khoản
phải thu sẽ được áp dụng trong các tình huống này chỉ khi người bao thanh toán cần
phải thực thi quyền của mình đối với các khoản phải thu bằng cách tiến hành hành
động pháp lý.
Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, người bao thanh toán nhận việc
chuyển nhượng từng khoản phải thu ngay khi nó được tạo ra. Quy trình này về mặt

quản lý thì rẻ hơn và thực tế hơn, và người bao thanh toán có thể thực hiện quyền
thu tiền từ người mua một cách dễ dàng và nhanh chóng hơn bằng việc sử dụng các
thủ tục pháp lý để tiến hành các công việc đó nếu cần thiết
1.3. Các chức năng chính của bao thanh toán tương đối
1.3.1. Tài trợ
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My
Một trong những yếu tố chính khiến nhu cầu bổ sung vốn lưu động tăng lên
là do sự tăng trưởng của các khoản phải thu. Trong hợp đồng bao thanh toán, người
bao thanh toán đồng ý trả một phần lớn ( thường là 80%) giá trị của khoản phải thu
hợp lệ ngay khi phát sinh khoản phải thu này. Khoản phải thu hợp lệ phụ thuộc vào
loại hình bao thanh toán sử dụng. Người bán sẽ nhận được số tiền còn lại khi người
bao thanh toán thu được số tiền của người mua.
Người bán không phải chờ đến khi kết thúc thời hạn tín dụng ( và thường lâu
hơn) mới được nhận tiền. Một phần lớn khoản phải thu của anh ta trơ thành vốn lưu
động để sử dụng ngay và nếu anh ta sử dụng hợp lý sẽ góp phần đáng kể cho sự
phát triển của công ty người bán.
Ưu điểm chính của chức năng tài trợ của bao thanh toán:
- Bổ sung vốn lưu động để mở rộng sản xuất.
- Có nguồn tài chính dồi dào hơn so với việc vay ngân hàng thông thường:
đặc biệt hướng tới các khoản phải thu và do đó hướng tới sự tăng trưởng trong
doanh thu bán hàng của người bán.
- Doanh thu nhiều hơn = nhiều khoản phải thu hơn = nguồn tài chính dồi
dào hơn.
- Người bán có thể được thanh toán ngay lập tức và do đó họ có thể nhân
đôi lợi ích từ việc giảm chi phí bằng cách tận dụng khoản giảm giá do trả ngay và
cải thiện độ tin cậy tín dụng của mình với người cung cấp.
- Không bị mất vốn cổ phần- người bán không cần tăng thêm vốn từ những
cổ đông bên ngoài và theo đó sẽ không bị mất đi một số quyền kiểm soát công ty.
- Không giới hạn nguồn vốn chính thức- nguồn vốn tự động bắt nhịp với sự
tăng trưởng.

1.3.2. Quản lý sổ cái và các khoản phải thu
Người bao thanh toán đưa các tài khoản của người mua vào sổ sách của mình
và cập nhập các tài khoản này khi phát sinh tất cả các giao dịch - hóa đơn, giấy nhận
nợ, các khoản thanh toán… Khi cần, người bao thanh toán gửi sao kê cho người mua,
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My
trong đó nêu rõ phải trả khoản gì cho người bao thanh toán và khoản tiền này phải
được tính toán như thế nào. Người bán nhận được báo cáo thường xuyên về tình trạng
sổ cái và do đó có thể được thông báo đầy đủ về hoạt động của người mua.

Ưu điểm:
- Tiết kiệm chi phí nhân sự: Việc này được áp dụng phần lớn đối với những
công ty tăng trưởng mạnh mẽ. Doanh số tăng trưởng, đồng nghĩa với việc cần thêm
nhân viên và các dịch vụ bao thanh toán có thể giúp giảm thiểu vấn đề này.
- Cắt giảm chi phí quản lý chung như chi phí bưu điện, điện thoại, fax, văn
phòng phẩm…
- Tiết kiệm thời gian quản lý.
1.3.3. Nhờ thu các khoản phải thu
Một trong những vấn đề của phương thức thanh toán tài khoản mở là không
có phương tiện khởi tạo thanh toán từ người mua như trong trường hợp sử dụng Hối
phiếu được chấp nhận thanh toán. Do đó, hệ thống quản lý của người bao thanh
toán được xây dựng nhằm đưa ra cho người mua thư yêu cầu thanh toán một cách
có hệ thống cung cấp cho các nhân viên thực hiện nghiệp vụ nhờ thu các thông tin
cần thiết để đòi tiền thanh toán từ người mua qua điện thoại khi cần thiết.
Trong trường hợp trì hoãn một cách nghiêm trọng, sẽ cần phải tiến hành
hành động pháp lý. Nếu khoản phải thu được bảo hiểm tín dụng thì chi phí của hành
động pháp lý này thường sẽ do người bao thanh toán chịu. Tuy nhiên, không phải
lúc nào cũng như vậy.
Ưu điểm:
- Người bán có thể tập trung vào các nhiệm vụ chính là sản xuất và bán
hàng và không phải bỏ thời gian vào việc thu tiền thanh toán.

- Người bán có thể ẩn sau người bao thanh toán khi có vấn đề phát sinh
liên quan tới việc thanh toán. Sẽ không dễ dàng khi giữ vai trò vừa là người thu nợ,
vừa là người bán hàng.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My
- Quản lý thu nợ tốt đồng nghĩa với việc thanh toán nhanh hơn và như vậy
cũng có nghĩa là giảm thấp chi phí vốn.
- Người bán có thể sử dụng đội ngũ cán bộ thu nợ có chất lượng cao của
người ban thanh toán. Chưa chắc người bán đã có đội ngũ cán bộ thu nợ có trình độ
như vậy trong công ty của mình.
1.3.4. Bảo hiểm rủi ro tín dụng
Nếu người mua không thanh toán, người bao thanh toán sẽ trả cho người bán
thường là 100% trị giá khoản phải thu được bảo hiểm rủi ro tín dụng khi:
- Người mua mất khả năng thanh toán ( theo định nghĩa trong hợp đồng).
- Khoản phải thu đã quá hạn 90 ngày kể từ ngày đến hạn ghi trên hóa đơn.
Thời hạn này có thể thay đổi tùy từng hợp đồng trong nước- một số người bao thanh
toán không có thời gian bảo lãnh trong hợp đồng nhưng họ sẽ thanh toán nếu và khi
người mua bị mất khả năng thanh toán, theo qui định trong hợp đồng bao thanh toán.
Cần phải kiểm tra trong hợp đồng được ký kết để định nghĩa chính xác về
“sự mất khả năng thanh toán”
Không truy đòi: thỏa thuận này thường được đề cập đến là “ không truy đòi”
hay “miễn truy đòi”- nói cách khác người bao thanh toán không thể đòi người bán
trả lại tiền nếu người mua không có khả năng chi trả, mà người bao thanh toán sẽ
phải tự chịu tổn thất. Ngược lại, đối lập với việc này là “có truy đòi trong trường
hợp người bao thanh toán không cấp bảo hiểm rủi ro tín dụng và người bán sẽ phải
tự chịu tổn thất về nợ xấu.
Khoản phải thu được bảo hiểm rủi ro tín dụng: Một khoản phải thu được bảo
hiểm rủi ro tín dụng là khoản nằm trong hạn mức bảo hiểm rủi ro tín dụng hiện tại
mà người bao thanh toán đồng ý cung cấp cho người mua và khoản đó không bị
tranh chấp. Việc cấp hạn mức này không hạn chế người bán khỏi việc giao dịch
vượt ra ngoài hạn mức đó nhưng phần vượt trội đó do anh ta tự chịu rủi ro.

Không phải tất cả người mua đều có thể được bảo hiểm rủi ro tín dụng cho
100% các khoản phải thu của mình. Ngay khi người bán bắt đầu thương lượng với
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My
người mua, người bán cần xin một hạn mức rủi ro tín dụng. Sau đó, phòng tín dụng
sẽ tiến hành đánh giá rủi ro của người mua. Quyết định của họ có thể là cấp toàn bộ
hạn mức theo yêu cầu hoặc trên cơ sở xem xét các thông tin nhận được để phê
chuẩn một giá trị nhỏ hơn hoặc thậm chí từ chối toàn bộ hạn mức đó.
Ưu điểm:
- Chắc chắn được thanh toán ít nhất 90 ngày kể từ ngày đến hạn đối với
những khoản phải thu không có tranh chấp và được bảo hiểm rủi ro tín dụng.
- Hạn chế các tổn thất do nợ xấu.
- Có sự đánh giá của chuyên gia về tình trạng tín dụng của người mua.
1.4. Phân loại bao thanh toán
1.4.1. Dịch vụ trọn gói
Bao thanh toán dịch vụ trọn gói hay còn gọi là bao thanh toán chuẩn hay bao
thanh toán kiểu cũ. Theo tiêu đề thì loại hình bao thanh toán này cung cấp tất cả các
dịch vị liên quan đến bao thanh toán như tài chính, quản lý sổ cái bán hàng, nhờ thu,
bảo hiểm rủi ro tín dụng và sự việc này được thông báo đầy đủ cho người mua.
Người bao thanh toán tiếp quản sổ cái khoản phải thu của người bán và
người bán theo đó chỉ có một con nợ - đó là người bao thanh toán. Mặc dù về
nguyên tắc đây là dịch vụ miễn truy đòi nhưng trong thực tế cũng có một số khoản
phải thu nhất định sẽ có quyền truy đòi đối với người bán. Người bao thanh toán chỉ
chịu rủi ro tín dụng đối với các khoản đã được phê duyệt bảo hiểm rủi ro tín dụng
và không có tranh chấp. Tùy thuộc vào thỏa thuận với người bán, người bao thanh
toán có thể quản lý các khoản phải thu không được bảo hiểm rủi ro tín dụng và các
khoản phải thu có tranh chấp trên sổ sách của mình trên cơ sở “thu hộ” hoặc nếu
không thể thu hộ được thì phải chuyển các khoản mục đó cho người bán.
Trên quan điểm của người bao thanh toán, dịch vụ bao thanh toán đòi hỏi cao
về mặt nguồn lực quản lý và bí quyết cần thiết nhưng nó giúp người bao thanh toán
kiểm soát tốt các rủi ro.


GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My


1.4.2. Bao thanh toán có quyền truy đòi- không có quyền truy đòi
1.4.2.1 Bao thanh toán có quyền truy đòi
Đơn vị bao thanh toán có quyền đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán
hàng khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản
phải thu.
Về bản chất, loại hình này giống bao thanh toán trọn gói nhưng không có bảo
hiểm rủi ro tín dụng. Một số người bao thanh toán không đưa ra đề nghị cung cấp
dịch vụ bao thanh toán trọn gói và bao thanh toán có truy đòi là bộ phận chính trong
công việc của họ. Mặc dù vậy, ở một số nước bao thanh toán có truy đòi được coi là
việc cho vay tiền có đảm bảo bằng các khoản phải thu ( tài trợ các khoản phải thu)-
mặc dù ở các nước khác dịch vụ này vẫn được coi như là việc mua khoản phải thu
mặc dù có yếu tố truy đòi.
Cần phải nhớ rằng đánh giá tín dụng của người mua vẫn được người bao
thanh toán tiến hành cho dù anh ta không chịu rủi ro tín dụng của người mua. “Hạn
mức tín dụng” đối với người mua trong bao thanh toán có truy đòi liên quan tới mức
thanh toán trả trước có thể trả cho người bán. Các mức đó trước hết dựa vào tổng
giá trị các khoản phải thu vào bất kỳ thời điểm nào. Tuy nhiên có thể các khoản
phải thu đối với một người mua cụ thể sẽ vượt mức mà người bao thanh toán coi là
hạn mức tín dụng thận trọng. Trong trường hợp đó, giá trị tối đa của các khoản phải
thu đối với người mua mà người thực hiện bao thanh toán tính đến trong việc tính
toán các khoản ứng trước của mình là hạn mức tín dụng.
Theo hợp đồng đối với người bao thanh toán, thực tế người bán đảm bảo
rằng người mua sẽ thanh toán và theo yêu cầu của người bao thanh toán, người bán
đồng ý mua lại các khoản phải thu từ người bao thanh toán nếu người mua không
thanh toán đầy đủ sau một thời hạn nhất định sau ngày đến hạn.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My

Đối với người bán sự chênh lệch chi phí giữa bao thanh toán có truy đòi và
không có truy đòi thường không lớn. Rủi ro thuần túy chỉ là một phần chi phí dịch
vụ. Chi phí quản lý và yếu tố lợi nhuận đều hiện diện ở cả hai loại hình bao thanh
toán. Rõ ràng sự chênh lệch gần như luôn luôn ít hơn chi phí cho một hợp đồng bảo
hiểm tín dụng.
1.4.2.2. Bao thanh toán không có quyền truy đòi
Đơn vị bao thanh toán chịu toàn bộ rủi ro khi bên mua hàng không có khả
năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản phải thu. Đơn vị bao thanh toán chỉ có
quyền đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng trong trường hợp bên mua hàng
từ chối thanh toán khoản phải thu do bên bán hàng giao hàng không đúng như thỏa
thuận tại hợp đồng mua, bán hàng hoặc vì một lý do khác không liên quan đến khả
năng thanh toán của bên mua hàng.
1.4.3. Bao thanh toán nhờ thu
Đôi khi loại hình này được biết tới như một hình thức bao thanh toán nhờ thu,
mặc dù thuật ngữ bao thanh toán đáo hạn lẫn bao thanh toán nhờ thu đều không miêu
tả đầy đủ loại hình này. Có thể được coi là dịch vụ bao thanh toán trọn gói không có
yếu tố tài trợ. Vì yếu tố tài trợ không được đặt ra nên các yêu cầu đảm bảo của người
bao thanh toán cũng rất khác. Rủi ro chỉ nằm trong mức bảo hiểm tín dụng của người
mua nhất định. Không có rủi ro đối với người bán. Vì một số lý do nên không có lãi
suất tài trợ và người bao thanh toán chỉ lấy tiền công từ phí dịch vụ.
Người bao thanh toán thanh toán cho người bán các khoản phải thu theo một
trong hai cách sau:
1. Sau một thời gian quy định kể từ ngày ghi trên hóa đơn, ví dụ như 60
ngày. Đây được gọi là “thời hạn đáo hạn”. Lợi ích của phương pháp này là người
bán biết chính xác khi nào anh ta được thanh toán và do đó có thể lập phương án
lưu chuyển tiền mặt một cách phù hợp
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My
2. Khi nhận được tiền thanh toán từ từng người mua hoặc khi người mua
mất khả năng thanh toán với điều kiện là người mua được bảo hiểm rủi ro tín dụng.
Điều này được biết đến như một phương pháp “thanh toán khi đòi được tiền”.

Để hưởng lợi từ dịch vụ này, người bán phải có các nguồn tài chính đầy đủ
và sử dụng bao thanh toán để tăng cường việc quản lý yếu kém hoặc có thể giảm
bớt chi phí chung và được phòng ngừa rủi ro.
1.4.4. Bao thanh toán có thông báo- không thông báo
1.4.4.1 Bao thanh toán có thông báo
Bao thanh toán có thông báo là hình thức bao thanh toán trong đó người mua
được thông báo là khoản thanh toán tiền hàng được chuyển nhượng cho đơn vị bao
thanh toán. Trong bao thanh toán có thông báo, người bán có nghĩa vụ phải cung
cấp cho đơn vị bao thanh toán biên lai giao hàng, giấy chuyển nhượng khoản tiền
hàng và hai liên hóa đơn, trong đó nêu rõ đơn vị bao thanh toán và chỉ ra rằng
khoản tiền hàng đã được bán cho đơn vị bao thanh toán.
1 4.4.2 Bao thanh toán không thông báo
Bao thanh toán không thông báo là hình thức bao thanh toán, trong đó người
mua không biết việc khoản tiền hàng mình phải thanh toán đã được chuyển cho đơn
vị bao thanh toán.
Loại hình này đôi khi được đề cập đến như hình thức chiết khấu hóa đơn,
bao thanh toán bí mật và bao thanh toán kín. Người bán thu tiền từ các khoản phải
thu và trả trực tiếp vào tài khoản ngân hàng của người bao thanh toán hoặc vào tài
khoản đứng tên người bán nhưng do người bao thanh toán quản lý. Thông thường
tất cả các khoản phải thu này có thể truy đòi toàn bộ, nhưng một số người bao thanh
toán cũng có thể đưa ra đề nghị thực hiện dịch vụ bao thanh toán miễn truy đòi đối
với một số người bán thích hợp.
Mặc dù không cung cấp dịch vụ nào nhưng người bao thanh toán thường tính
một khoản phí hoa hồng nhỏ ngoài phần lãi suất tài trợ. Phí hoa hồng này về bản
chất là một loại phí cam kết vì người bao thanh toán có cam kết cung cấp tài chính
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My
theo yêu cầu trên cơ sở tổng các khoản phải thu. Khoản phí này cũng sẽ bao gồm
chi phí cho việc thông báo của người bao thanh toán gửi cho người bán liên quan
đến việc kiểm soát tín dụng và chi phí tham quan định kỳ của người bao thanh toán
đến nơi của người bán để kiểm tra sổ ghi chép doanh thu bán hàng và tình hình kinh

doanh nói chung.
Ai được hưởng lợi? Đối với người bán không cần các yếu tố dịch vụ của bao
thanh toán và chỉ quan tâm tới việc huy động vốn lưu động thì bao thanh toán
không thông báo là cách rất linh hoạt để đạt được mục đích đó. Trên quan điểm của
người bao thanh toán về việc quản lý thì rất rẻ để có thể thực hiện được nhưng cần
có kỹ năng và bí quyết trong việc quản lý rủi ro.
Việc lựa chọn người bán có tính chất quyết định: ngoài việc đáp ứng các tiêu
chí về bao thanh toán thông thường, người bán cần có tình hình tài chính lành mạnh
và khả năng quản lý các khoản phải thu vững vàng. Điểm sau này đặc biệt quan trọng
vì trong thực tế người bán sẽ quản lý tài sản đảm bảo quan trọng của người bao thanh
toán. Do đó, người bao thanh toán phải kiểm tra người bán theo định kỳ thường
xuyên để xem tình hình tài chính và trình độ quản lý đó được bảo đảm không.
1.4.5. Bao thanh toán trong nước- xuất nhập khẩu
Bao thanh toán trong nước là việc bao thanh toán dựa trên hợp đồng mua bán
trong đó bên bán hàng và bên mua hàng đều là người cư trú theo quy định của pháp
luật về quản lý ngoại hối.
Bao thanh toán xuất khẩu (bao thanh toán quốc tế) là việc bao thanh toán dựa
trên hợp đồng xuất nhập khẩu.
1.5. Phương thức bao thanh toán
Bao thanh toán từng lần: Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thực hiện
các thủ tục cần thiết và ký hợp đồng bao thanh toán đối với các khoản phải thu của
bên bán hàng.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My
Bao thanh toán theo hạn mức: Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thỏa
thuận và xác định một hạn mức bao thanh toán duy trì trong một khoảng thời gian
nhất định.
Đồng bao thanh toán: hai hay nhiều đơn vị bao thanh toán cùng thực hiện
hoạt động bao thanh toán cho một hợp đồng mua, bán hàng, trong đó một đơn vị
bao thanh toán làm đầu mối thực hiện việc tổ chức đồng bao thanh toán.
Nếu căn cứ vào cách thức thực hiện:

- Phương thức thực hiện truyền thống( factoring): Bên bán và bên mua sẽ
liên hệ với đơn vị bao thanh toán để biết chắc rằng đơn vị bao thanh toán có mua lại
các khoản phải thu cho bên bán hay không trước khi thực hiện mua bán theo thỏa
thuận trong hợp đồng mua bán.
- Phương thức thực hiện phi truyền thống( reverse factoring): đơn vị bao
thanh toán sẽ tiến hành xây dựng những tiêu chuẩn chung cho bên mua và bên bán
đủ điều kiện thực hiện bao thanh toán sẽ cấp hạn mức bao thanh toán cho cả bên
bán và bên mua. Nếu những quan hệ giao dịch mua bán phát sinh mà bên mua và
bên bán nằm trong tiêu chuẩn chung thì đơn vị này sẽ tiền hành thực hiện bao thanh
toán, miễn là tổng số tiền ứng trước không vượt quá hạn mức bao thanh toán để
được cấp cho bên mua hay bên bán.
1.6. Chủ thể của quan hệ bao thanh toán
1.6.1. Bên bao thanh toán
Bên bao thanh toán là tổ chức tín dụng được cấp phép để tiến hành cấp tín dụng
cho khách hàng của mình dưới hình thức mua lại các khoản phải thu thương mại.
Pháp luật hiện hành quy định về bên bao thanh toán như sau:
Thứ nhất, loại hình tổ chức tín dụng được quyền thực hiện hoạt động bao
thanh toán là: NHTM nhà nước, NHTM cổ phần, NH liên doanh, NH 100% vốn
nước ngoài, chi nhánh NH nước ngoài, công ty tài chính mới được quyền thực hiện
hành vi bao thanh toán. Trên thế giới, do không bị hạn chế bởi quan niệm bao thanh
toán là cấp tín dụng nên hình thức pháp lý của bên bao thanh toán rất đa dạng. Thực
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My
tế, bên bao thanh toán có thể được tổ chức như là một bộ phận trong NH hoặc
doanh nghiệp độc lập chỉ hoạt động trong lĩnh vực bao thanh toán hoặc cho phép
các tổ chức tài chính có thể thực hiện kết hợp hoạt động bao thanh toán với các sản
phẩm tài chính khác như cho thuê tài chính.
Thứ hai, bên bao thanh toán phải được NHNN Việt Nam cho phép thực hiện
hoạt động bao thanh toán. Về bản chất pháp lý, nghiệp vụ bao thanh toán là một
nghiệp vụ kinh doanh có điều kiện. Các điều kiện mà tổ chức bao thanh toán cần
phải đáp ứng được bao gồm: điều kiện về thị trường được thể hiện bởi việc xác định

nhu cầu về hoạt động bao thanh toán; điều kiện về hiệu quả tín dụng thể hiện bằng
tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cho vay tại thời điểm cuối tháng của 3 tháng gần
nhất dưới 5%; điều kiện về tuân thủ pháp luật thể hiện ở việc không vi phạm các
quy định về an toàn hoạt động NH, không có hành vi vi phạm trong lĩnh vực tài
chính NH; điều kiện về ngoại hối trong trường hợp tiến hành hoạt động bao thanh
toán xuất nhập khẩu. Trong pháp luật về bao thanh toán của nhiều nước, vấn đề điều
kiện gia nhập thị trường bao thanh toán và thủ tục xin phép không được đặt ra. Các
tổ chức muốn hoạt động bao thanh toán chỉ cần làm thủ tục thông báo cho cơ quan
có thẩm quyền là đủ. Ví dụ, ở Hoa Kỳ và Canada, tổ chức bao thanh toán là NH
hoặc do NH thành lập chỉ phải làm thủ tục thông báo, tương ứng cho cục dữ liệu
Liên Bang và Bộ Tài chính Liên Bang.
Thứ ba, bên bao thanh toán phải tuân thủ các nguyên tắc để đảm bảo an toàn
hoạt động cấp tín dụng dưới hình thức bao thanh toán. Về khía cạnh giới hạn hoạt
động, tổ chức bao thanh toán, duy trì tổng số dư bao thanh toán cho một khách hàng
không vượt quá 15% vốn tự có và tổng số dư bao thanh toán không vượt quá vốn tự
có của tổ chức bao thanh toán. Về khía cạnh bảo đảm, tổ chức bao thanh toán có thể
thoả thuận với khách hàng để áp dụng các biện pháp bảo đảm sau đây: ký quỹ, cầm
cố, thế chấp tài sản, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba và các biện pháp khác theo
quy định của pháp luật. Ngoài ra, trong trường hợp nhu cầu bao thanh toán của
khách hàng vượt quá các tỷ lệ an toàn, tổ chức bao thanh toán có thể thực hiện việc
cấp tín dụng bao thanh toán theo phương thức đồng tài trợ.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My
1.6.2. Bên được bao thanh toán
Bên được bao thanh toán là bên bán hàng có các khoản phải thu phát sinh và
được thoả thuận theo hợp đồng mua, bán hàng hoá với bên mua.
Pháp luật hiện hành quy định về bên được bao thanh toán như sau:
Thứ nhất, về tư cách pháp lý của bên được bao thanh toán, chỉ có các tổ chức
kinh tế Việt Nam và tổ chức kinh tế nước ngoài cung ứng hàng hoá và được thụ
hưởng các khoản phải thu mới có thể trở thành bên được bao thanh toán. Ý nghĩa
của quy định này là nhằm xác lập tính chất thương mại của các khoản phải thu là

đối tượng của hoạt động bao thanh toán. Bên cạnh đó, tuỳ thuộc vào hình thức của
bao thanh toán, tư cách pháp lý của bao thanh toán cũng xác định gắn với các tiêu
chí pháp lý nhất định. Ví dụ: trong bao thanh toán trong nước, tổ chức kinh tế được
bao thanh toán được xác định gắn với tiêu chí là người cư trú theo quy định về quản
lý ngoại hối.
Thứ hai, về quyền sở hữu và quyền chuyển nhượng các khoản phải thu của
bên được bao thanh toán, pháp luật hiện hành không có quy định trực tiếp nào đề
cập đến vấn đề này, tuy nhiên, căn cứ vào quy định về khái niện bao thanh toán và
quy định về quyền, nghĩa vụ của bên được bao thanh toán có thể rút ra một số khía
cạnh pháp lý sau: Một là, bên được bao thanh toán phải là bên bán hàng trong hợp
đồng mua, bán hàng hoá; Hai là, bên được bao thanh toán phải là chủ sở hữu hợp
pháp của các khoản phải thu này, không bị giới hạn bởi hợp đồng mua, bán hàng
hoá cũng như bởi pháp luật; Ba là, bên được bao thanh toán chưa chuyển nhượng
các khoản phải thu này cho bất kỳ ai trước đó.
1.7. Quy trình hoạt động của bao thanh toán
Hoạt động bao thanh toán được thực hiện theo các bước chính như sau:
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My

1. Bên bán hàng đề nghị đơn vị bao thanh toán thực hiện bao thanh toán các
khoản phải thu.Đơn vị bao thanh toán thực hiện phân tích các khoản phải thu, tình
hình hoạt động và khả năng tài chính của bên bán hàng và bên mua hàng.Đơn vị bao
thanh toán và bên bán hàng thỏa thuận và ký kết hợp đồng bao thanh toán.
2. Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng đồng ký gửi văn bản thông báo về hợp
đồng bao thanh toán cho bên mua hàng và các bên liên quan, trong đó nêu rõ việc bên
bán hàng chuyển giao quyền đòi nợ cho đơn vị bao thanh toán và hướng dẫn bên mua
hàng thanh toán trực tiếp cho đơn vị bao thanh toán.
3. Bên mua hàng gửi văn bản cho bên bán hàng và đơn vị bao thanh toán xác
nhận về việc đã nhận được thông báo và cam kết về việc thực hiện thanh toán cho
đơn vị bao thanh toán.
4. Bên bán hàng giao hàng cho bên mua.

5. Đơn vị bao thanh toán chuyển tiền ứng trước cho bên bán hàng theo thỏa
thuận trong hợp đồng bao thanh toán.
6. Đơn vị bao thanh toán tất toán tiền với bên bán hàng theo quy định trong hợp
đồng bao thanh toán.
7. Ngân hàng thu phần ứng trước và thanh toán phần còn lại cho bên bán
hàng.Giải quyết các vấn đề tồn tại phát sinh khác.
Đối với hoạt động bao thanh toán xuất nhập khẩu: quy trình nghiệp vụ bao thanh
toán có thể thực hiện theo các bước trên hoặc được thực hiện thông qua đơn vị bao
thanh toán xuất nhập khẩu.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My


1. Nhà xuất khẩu ký kết hợp đồng bao thanh toán xuất khẩu với đơn vị bao
thanh toán xuất khẩu
2. Nhà xuất khẩu thông báo cho nhà nhập khẩu về việc chuyển nhượng
khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán xuất khẩu.
3. Nhà xuất khẩu giao hàng cho nhà nhập khẩu
4. Nhà xuất khẩu giao bộ chứng từ liên quan đến khoản phải thu cho đơn vị
bao thanh toán xuất khẩu
5. Ngân hàng thanh toán xuất khẩu ứng trước cho nhà xuất khẩu.
6. Nhà nhập khẩu thanh toán khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán xuất
khẩu khi đến hạn thông qua đơn vị bao thanh toán nhập khẩu- đối tác của đơn vị
bao thanh toán xuất khẩu.
7. Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu thu phần ứng trước và chuyển phần còn
lại cho nhà xuất khẩu.
1.8. Các cấu phần chi phí của bao thanh toán
1.8.1. Lãi suất tài trợ
Phí này còn được coi như chi phí trả lãi. Phí này thường được tính hằng ngày
theo tỷ lệ phần trăm theo năm trên số tiền tài trợ. Tỷ lệ thực tế là phần chênh lệch
trên chi phí vốn của người bao thanh toán. Chi phí vốn tại bất kỳ thời điểm nào đều

phụ thuộc vào tình hình kinh tế/chính trị của nước đó. Phần chênh lệch là vấn đề
được quyết định theo chính sách kinh doanh của người bao thanh toán.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hiển SVTH: Dương Hoài My
Lãi phù hợp với lãi suất thị trường, có thể căn cứ theo lãi suất cho vay ngắn
hạn tại thời điểm bao thanh toán.
1.8.2. Phí bao thanh toán
Phí này được tính cho yếu tố dịch vụ và thường được tính theo một tỷ lệ
phần trăm cố định trên tổng doanh thu được chiết khấu (có nghĩa là không tính đến
các giấy nhận nợ). Một số người bao thanh toán tính một mức phí cố định cộng
thêm một số tiền cố định tính trên mỗi hóa đơn/ giấy nhận nợ, ví dụ như 0,85% +10
EUR/một hóa đơn/ giấy nhận nợ. Điều này trở nên thông dụng hơn trong hoạt động
bao thanh toán quốc tế khi người bao thanh toán nhập khẩu không chắc chắn về
khối lượng công việc.
Phí dịch vụ bao thanh toán theo thông lệ quốc tế : 0,5-1,1% giá trị khoản
phải thu còn tại một số ngân hàng trong nước: 0,5-0,8% giá trị khoản phải thu.
Một số người bao thanh toán sẽ tính một khoản phí tối thiểu hoặc một khoản
tiền cố định hằng tháng để đảm bảo trong trường hợp doanh thu chiết khấu ít hơn số
tiền tối thiểu có thể chấp nhận được.
Có một số hệ thống tính phí hiện đang sử dụng để tính toán chính xác mức phí
bao thanh toán và thông thường các hệ thống này xem xét tới các yếu tố sau đây:
- Khối lượng giao dịch: số lượng hóa đơn, giấy nhận nợ và người mua.
- Doanh thu( doanh số bán hàng) : thông thường doanh thu càng lớn,
nghiệp vụ kinh doanh càng hấp dẫn và tỉ lệ phần trăm càng thấp. Nhưng nếu có
nhiều người mua và nhiều hóa đơn có giá trị nhỏ thì có thể dẫn đến giá quá cao và
công việc kinh doanh không hấp dẫn đối với cả người bao thanh toán và người bán.
Ngược lại doanh thu phải hợp lý. Hầu hết những người bao thanh toán đặt ra một
mức doanh thu tối thiểu dưới mức tạo ra lợi nhuận khi tiến hành kinh doanh.
- Rùi ro tín dụng người mua: phòng tín dụng sẽ đánh giá danh mục đầu tư
của người mua và ấn định giá( phần trăm doanh thu) bao gồm cả tổn thất tín dụng
kỳ vọng cộng với chênh lệch chi phí quản lý. Đánh giá này dựa vào lĩnh vực ngành,

×