Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch ngân hàng ngoại thương Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.28 KB, 60 trang )


LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất trong nền
kinh tế. Với vai trò là kênh dẫn vốn quan trọng, Ngân hàng là cầu nối trung gian
cung cấp vốn cho mọi hoạt động đầu tư phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Có
thể khẳng định một điều rằng, nếu một nền kinh tế không có hệ thống ngân hàng,
nó sẽ không thể phát triển nhanh và rực rỡ như hiện nay.
Việt Nam đã gia nhập ngôi nhà lớn, WTO được hơn 2 năm, con tàu kinh tế
Việt Nam đang chịu những đợt sóng lớn thử thách đầu tiên. Những áp lực của
quá trình hội nhập đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính đã đặt các ngân hàng Việt
Nam trước những thách thức to lớn. Trong điều kiện phải cạnh tranh mạnh mẽ
với các ngân hàng nước ngoài ngay trên sân nhà, vấn đề hoàn thiện và nâng cao
chất lượng các dịch vụ ngân hàng ngày càng được chú trọng, và công tác quản trị
rủi ro tín dụng luôn là một trong những vấn đề thời sự của các cấp quản lý ngân
hàng. Qua thời gian thực tập tại Sở giao dịch ngân hàng ngoại thương Việt Nam,
tôi rất hứng thú với công tác này, do vậy tôi đã chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả
quản lý rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch ngân hàng ngoại thương Việt Nam”
để hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình, hy vọng qua đó có thể
làm rõ phần nào một số vấn đề tồn tại trong quản trị rủi ro tín dụng, và góp một
phần nhỏ bé giúp nâng cao hiệu quả hoạt động cho các ngân hàng thương mại.
Trong chuyên đề tốt nghiệp này, tôi giới thiệu về công tác quản trị rủi ro tín dụng
và thực trạng vấn đề này hiện nay tại sở giao dịch ngân hàng ngoại thương Việt
Nam.
1

Chuyên đề của tôi gồm 3 phần:
Chương I - Quản lý rủi ro tín dụng của NHTM
Chương II - Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại SGD NHNT VN
Chương III - Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng tại SGD
NHNT VN
Do kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế, chắc chắn chuyên đề của tôi không


tránh khỏi còn nhiều sơ sót, kính mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo và
các bạn để chuyên đề này hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn.
2

Chương I : Những vấn đề cơ bản về hoạt động quản lý rủi ro tín
dụng của ngân hàng thương mại (NHTM)
1.1 Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng của NHTM
1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trung gian tài chính có vai trò vô cùng quan trọng trong
nền kinh tế. Song, người ta vẫn gặp khó khăn trong việc đặt ra khái niệm ngân
hàng và phân biệt nó với các tổ chức tài chính khác. Vấn đề này đã gây ra nhiều
tranh cãi, ở đây, tôi xin đưa ra một định nghĩa trên phương diện những loại hình
dịch vụ mà chúng cung cấp.
Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch
vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán –
và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh
nào trong nền kinh tế. (Peter S.Rose – Quản trị ngân hàng thương mại – NXB
Tài chính 2004 – Trang 7 dòng thứ 4).
Như vậy, ngân hàng thương mại hiện đại được hiểu như một tổ chức tài
chính cung cấp đầy đủ các dịch vụ liên quan đến tài chính. Ở Việt Nam, theo
điều 20 sửa đổi bổ sung của Luật của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam số 20/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004 về sửa đổi bổ sung một
số điều của Luật các tổ chức tín dụng, ngân hàng được định nghĩa là loại hình tổ
chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động của ngân hàng và các hoạt động
kinh doanh khác có liên quan.
Phân loại theo tính chất và mục tiêu hoạt động, ta có các loại hình ngân
hàng như sau: Ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính
3

sách, ngân hàng đầu tư, ngân hàng hợp tác và các loại hình khác… Ngân hàng

thương mại là một loại hình ngân hàng hoạt động với mục tiêu lợi nhuận.
Hệ thống các ngân hàng thương mại có vai trò vô cùng quan trọng trong
quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia. Vai trò này thể hiện ở nhiều khía
cạnh, thứ nhất ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế, ngân hàng là cầu
nối của doanh nghiệp và những nhà đầu tư, thông qua hoạt động tín dụng thu hút
vốn và cung cấp vốn, đồng thời thông qua các hoạt động thanh toán, kinh doanh
ngoại hối, các ngân hàng thương mại điều tiết tài chính trong nước theo sự vận
động của nền tài chính quốc tế, thúc đẩy ngoại thương và nội thương, giúp đẩy
mạnh phát triển kinh tế. Hệ thống các ngân hàng thương mại còn là một kênh
quan trọng giúp Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng các nghiệp vụ thị
trường mở.
1.1.2 Hoạt động tín dụng của NHTM
Tín dụng theo một định nghĩa đơn giản nhất là sự vay mượn lẫn nhau dựa
trên nguyên tắc hoàn trả và sự tín nhiệm. Tín dụng bao gồm 6 loại hình quan hệ:
tín dụng thương mại, tín dụng nhà nước, tín dụng ngân hàng, tín dụng thuê mua,
tín dụng tiêu dùng, tín dụng quốc tế.
Tín dụng là nghiệp vụ quan trọng bậc nhất trong các hoạt động của ngân
hàng. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại là việc NHTM sử dụng
nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng cho các tổ chức cá nhân
dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác,
bảo lãnh, cho thuê tài chính, và các hình thức khác theo quy định của ngân hàng
nhà nước, dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và
khả năng sinh lời.
4

Các nguyên tắc tín dụng của NHTM
- Khách hàng phải cam kết sẽ hoàn trả vốn gốc và lãi vay trong thời gian
xác định đúng theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Nguồn vốn của ngân
hàng chủ yếu là từ các khoản tiền gửi và các khoản vay mượn của ngân hàng,
nên người nhận tín dụng cũng phải thực hiện đúng theo cam kết, đây là điều kiện

tiên quyết để ngân hàng tồn tại và hoạt động kinh doanh.
- Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo đúng mục đích đã thỏa
thuận với ngân hàng, không trái quy định của pháp luật và thỏa thuận của ngân
hàng cấp trên.
Các loại tín dụng ngân hàng : Tùy theo tiêu thức phân loại ta có:
- Theo hình thức cấp tín dụng ta có cho vay, bao gồm cho vay thấu chi,
cho vay trực tiếp từng lần. cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay luân chuyển,
cho vay trả góp, cho vay gián tiếp…, ngoài ra còn có chiết khấu thương phiếu,
cho thuê tài sản, bảo lãnh…
- Theo thời gian ta có tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn.
- Theo sự đảm bảo ta có tín dụng không cần tài sản đảm bảo và tín dụng
có tài sản đảm bảo.
- Theo hình thức hoàn trả nợ vay ta có cho vay trả nợ 1 lần và cho vay trả
góp, tức là có nhiều kỳ hạn trả nợ.
-Theo rủi ro ta có các khoản : nợ trong hạn và đã gia hạn, nợ quá hạn có
khả năng thu hồi và nợ có khả năng mất vốn.
Tín dụng là nghiệp vụ đóng góp một phần rất lớn vào doanh thu và thu
nhập của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, do vậy, yêu cầu quản lý
tín dụng một cách khoa học hiện đại và lành mạnh để đạt được lợi nhuận tối đa
từ hoạt động này là một vấn đề thời sự tại bất cứ ngân hàng nào.
5

1.2 Tổng quan về rủi ro trong NHTM
1.2.1 Khái niệm về rủi ro
Rủi ro là những tổn thất có thể xảy ra ngoài dự kiến, là những bất trắc
không thể lường trước được, có khả năng làm các chủ thể không đạt được mục
tiêu chiến lược và mục tiêu hoạt động.
Ngân hàng ra đời đồng thời với nền kinh tế hàng hóa, giải quyết nhu cầu
phân phối điều tiết nguồn vốn trong xã hội, phục vụ cho sản xuất và phát triển.
Hoạt động của ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro, do hoạt động kinh doanh nhạy

cảm, liên quan nhiều ngành nghề đối tượng, nhiều lĩnh vực khác nhau, và có ảnh
hưởng sâu rộng khắp nền kinh tế.
Rủi ro luôn song hành cùng hoạt động của ngân hàng. Bản chất của rủi ro
là khách quan, không thể tránh khỏi.Chúng ta không thể loại trừ hoàn toàn rủi ro
mà chỉ có thể hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất có thể được.
1.2.2 Nguyên nhân rủi ro
1.2.2.1. Do khách hàng
Khách hàng có thể vì nhiều lý do chủ quan và khách quan mà gây ra rủi ro
cho ngân hàng. Những rủi ro chủ quan có thể được ngân hàng dự báo trước hay
nhận thấy trong khi thẩm định tín dụng, song những rủi ro khách quan thường
không thể dự trù, do vậy mỗi ngân hàng đều có một bộ phận dự phòng rủi ro.
Những rủi ro khách quan như khách hàng gửi tiền vì lý do cá nhân có thể rút tiền
trước hạn, gây rủi ro trong hoạt động nhận tiền gửi, khách hàng gặp rủi ro bất
trắc không thể trả nợ đúng hạn. Những rủi ro chủ quan do khách hàng như trình
độ kinh doanh kém, nên thua lỗ không thể trả nợ gốc và lãi, hay khách hàng có
6

mục đích lừa đảo từ đầu, chây ỳ không trả nợ, khách hàng do chạy theo ngành
kinh doanh lợi nhuận cao nên chịu rủi ro cuối cùng không thể trả nợ… Những
rủi ro này đều có thể dự đoán nếu công tác thẩm định tín dụng làm tốt đạt chất
lượng, công tác quản lý tín dụng sâu sát theo đúng yêu cầu đề ra.
1.2.2.2. Do ngân hàng
Ngân hàng cũng thường tự gây ra rủi ro, phần nhiều là do nguyên nhân chủ
quan. Đó là sự kém cỏi trong công tác quản lý, kiểm tra giám sát các hoạt động
của ngân hàng, cùng với đó là do nhân viên kém trình độ nghiệp vụ, hoặc không
tuân thủ quy trình nghiệp vụ, những nhân viên này vì mưu lợi cá nhân nên móc
ngoặc với khách hàng, ví dụ như giúp khách hàng đảo nợ, để khách hàng có thể
trả món vay cũ, vay món mới, còn mình thì đạt khối lượng mục tiêu đề ra.
1.2.2.3. Những nguyên nhân khách quan khác
Đây là nhóm nguyên nhân mà ngân hàng ít khả năng khắc phục nhất, do

việc đánh giá xu hướng của nó và vấn đề dự báo là rất khó khăn. Vấn đề đầu tiên
là nền kinh tế luôn biến động theo chu kỳ, và những thay đổi trên thị trường, đặc
biệt là những thay đổi ngắn hạn, về lãi suất và tỷ giá vượt quá khả năng phán
đoán của ngân hàng, ngân hàng sẽ phải chịu nhiều rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá
nếu xảy ra phán đoán sai lầm.
Những vấn đề chung của cả hệ thống tài chính như khủng hoảng nợ dây
chuyền, hay những thay đổi trong quyết định của chính phủ thường gây áp lực và
thay đổi hoàn toàn hoạt động thường kỳ của ngân hàng. Những rủi ro này thường
xảy ra khi nền kinh tế tài chính thế giới rơi vào khủng hoảng, và gây ra những
thiệt hại vô cùng lớn.
7

Ngoài ra còn có một nhóm các rủi ro mà bất kỳ cá nhân tổ chức nào cũng
gặp như thiên tai, hỏa hoạn, hay rủi ro bị cướp tiền, thậm chí chỉ bị mất điện
cũng có thể gây hậu quả nghiêm trọng với ngân hàng,…
Cuối cùng là những rủi ro nhầm lẫn trong xử lý giấy tờ tài liệu, vấn đề lỗi
công nghệ, phần mềm cũng là những nguyên nhân thường gặp.
1.2.3. Các loại rủi ro
1.2.3.1 Phân loại theo nguyên nhân
Phân loại theo nguyên nhân ta có bốn loại chính. Thứ nhất là rủi ro tín
dụng, xảy ra khi người vay không trả đủ gốc và lãi cho ngân hàng, hay đã trả
không đúng thời hạn đề ra. Rủi ro thứ hai là rủi ro lãi suất, xảy ra khi lãi suất
thay đổi không đúng dự đoán của ngân hàng, gây thiệt hại cho ngân hàng. Tương
tự đó là rủi ro tỷ giá, khi tỷ giá thay đổi không theo dự báo của ngân hàng, những
hoạt động thanh toán và kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng lớn,
có thể dẫn tới thiệt hại lớn về lợi nhuận. Cuối cùng là rủi ro do các nguyên nhân
khác như do thiên tai hỏa hoạn, do bị cướp,…
1.2.3.2 Phân loại theo tài sản
+ Rủi ro trong quản lý và kinh doanh ngân quỹ
Ngân hàng có thể gặp rủi ro thậm chí khi tiền ở tại quỹ. Trên thế giới những

vụ cướp ngân hàng không phải hiếm, ở VN vừa xảy ra 1 vụ tại tp HCM. Song
quản lý ở đây không chỉ hiểu theo nghĩa đen. Tiền tại quỹ của ngân hàng không
bao giờ cố định, nó luôn vận động để sinh lợi trong ngắn hạn, một mặt vẫn đảm
bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng, như nghiệp vụ cho vay qua đêm…
Song những nghiệp vụ này không phải không bao hàm rủi ro. Đơn cử một ví dụ
8

dễ thấy, đó là kinh doanh ngoại tệ, sử dụng khe hở tỷ giá để thu lợi nhuận Acbit,
một nghiệp vụ rất rủi ro.
+ Rủi ro tín dụng : sẽ trình bày chi tiết ở phần sau.
+ Rủi ro trong quản lý và kinh doanh chứng khoán
Chứng khoán là một lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro rất lớn. Tuy ngân hàng chủ yếu
chỉ kinh doanh những chứng khoán ít rủi ro như trái phiếu và tín phiếu song
không phải không chịu rủi ro từ đây, điển hình là cho vay đầu tư chứng khoán và
cầm cố bằng cổ phiếu..
+ Rủi ro đối với các tài sản khác của ngân hàng: ngân hàng còn có những
tài sản khác như tài sản cố định, tài sản đi thuê, tài sản cầm cố, …
1.2.3.3 Một số rủi ro thường gặp
+ Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng được chấp nhận như một thực tế mà ngân hàng phải đối
mặt, bởi rủi ro tín dụng đến từ mọi phía và ta không thể lường trước hết. Do vậy,
ngân hàng luôn xác định tỷ lệ tổn thất dự kiến và trích lập quỹ dự phòng rủi ro,
và nếu thực tế đạt dưới mức này thì có nghĩa ngân hàng đã làm tốt công tác quản
trị rủi ro tín dụng.
+ Rủi ro hối đoái
Tỷ giá luôn luôn thay đổi hàng ngày hàng giờ do nhiều nguyên nhân, bởi tỷ
giá định theo quan hệ cung cầu trên thị trường. Khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt
quá dự tính, ngân hàng có thể bị thặng dư hay thâm hụt tạm thời, và cũng có thể
ngân hàng sẽ chịu tổn thất. Đây là rủi ro hối đoái.
+ Rủi ro lãi suất

9

Lãi suất, cũng như tỷ giá, luôn biến động trên thị trường. Khi lãi suất thay
đổi, ngân hàng luôn phải đối mặt với tình trạng giá trị hiện tại của các khoản
mục tài sản và nguồn vốn đều thay đổi, thậm chí thay đổi toàn bộ bảng cân đối
kế toán. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến chi phí và thu nhập của ngân hàng.
+ Rủi ro thanh khoản
Nhu cầu thanh khoản lớn hơn hay nhỏ hơn dự kiến làm gia tăng chi phí,
thậm chí làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán. Đây là một loại rủi ro
không thể xem nhẹ bởi nó có thể gây mất tín nhiệm cho ngân hàng.
1.3 Rủi ro tín dụng của NHTM
1.3.1 Khái niệm và bản chất của rủi ro tín dụng
Ngân hàng thương mại từ khi ra đời luôn gắn với một nghiệp vụ cơ bản có
quy mô lớn nhất, đó là nghiệp vụ tín dụng.Nghiệp vụ tín dụng luôn đi liền với rủi
ro tín dụng.Vậy rủi ro tín dụng là gì?
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra thiệt hại mà ngân hàng phải chịu khi
không thu hồi được nợ.
Theo suy nghĩ bình thường, ngân hàng luôn là người nắm đằng cán trong
mọi giao dịch, đặc biệt là nghiệp vụ tín dụng, ngân hàng luôn yêu cầu những
điều kiện khắt khe, những bảo đảm bằng uy tín, cam kết hay tài sản. Thế nhưng,
trong nhiều trường hợp, ngân hàng cũng có khả năng không thu hồi được nợ.
Bản chất của rủi ro tín dụng là khách quan. Dù với nguyên nhân nào đi nữa,
ngân hàng cũng phải chấp nhận một thực tế rằng có một tỷ lệ phần trăm nhất
định ngân hàng sẽ không thu hồi được nợ, từ đó, trong các chiến lược quản trị
ngân hàng thì quản lý rủi ro tín dụng luôn được đưa lên hàng đầu.
10

Ngân hàng không thể loại trừ rủi ro tín dụng, song có thể hạn chế nó bằng
nhiều cách, và tỉ lệ rủi ro dự kiến luôn được đưa ra trong các kế hoạch, đồng thời
trích lập các quỹ dự phòng rủi ro. Nếu thực tế ít hơn con số này, thì ngân hàng đã

đạt thành công trong quản trị rủi ro.
1.3.2. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng đến từ rất nhiều nguyên nhân:
+ Rủi ro do nguyên nhân bất khả kháng
Trong thời gian vay, người vay có thể gặp một số trở ngại khách quan dẫn
đến việc sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, bị đình trệ, dẫn đến trả chậm hoặc
không thể trả nợ : Thiên tai, chiến tranh, vấn đề chính trị tôn giáo, những chính
sách của chính phủ, an ninh, môi trường pháp lý …
Những nguyên nhân này khó có thể phòng tránh hay dự báo, vượt quá tầm
kiểm soát của người vay và cho vay. Do vây, ngân hàng và khách hàng thường
cùng nhau giải quyết hậu quả những rủi ro này, và thường đi đến sự nhất trí.
+ Rủi ro do nguyên nhân chủ quan người vay
Khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vay không đúng mục đích, chủ
định lừa đảo, chây ỳ không trả nợ ngân hàng. Đây là một thực tế, và loại khách
hàng này không phải là hiếm, nhưng nếu làm tốt công tác thẩm định và kiểm tra
giám sát từ khâu đầu tiên, số lượng khách hàng này có thể được nhận thấy và
ngăn ngừa. Ngoài ra, còn có khách hàng yếu kém trong quản lý, khả năng dự báo
bất trắc kém, dẫn đến kinh doanh thua lỗ, không thể trả nợ, và khách hàng ưa
thích mạo hiểm,kinh doanh những ngành rủi ro cao, có nguy cơ phá sản. Những
11

loại khách hàng trên cần phải được nhận biết và ngăn chặn ngay trong những
quan hệ tiếp xúc đầu tiên với ngân hàng.
+ Rủi ro do nguyên nhân từ phía ngân hàng
Ngân hàng quản lý nội bộ lỏng lẻo, hệ thống kiểm tra giám sát không hiệu
quả, trong khi đó nhân viên kém đạo đức, thiếu tinh thần trách nhiệm, mưu lợi
riêng, gây tổn hại cho ngân hàng bằng nhiều cách như bắt tay với khách hàng lừa
đảo ngân hàng, giúp khách hàng đảo nợ, cho vay mà không tuân thủ quy trình
nghiệp vụ. Ngoài ra còn có nhân viên kém về trình độ nghiệp vụ, không tuân thủ
quy trình, khả năng đánh giá kém.

1.3.3. Chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng
+ Chỉ tiêu nợ quá hạn
Ngân hàng phân chia dư nợ tín dụng làm 5 loại, trong đó có 3 loại nợ xấu,
đó là nợ có vấn đề (nợ có nguy cơ, có dấu hiệu kém lành mạnh), nợ khó đòi (nợ
đã qua 1 lần gia hạn, hay không có tài sản đảm bảo..) và nợ quá hạn (nợ không
trả được). Chỉ tiêu này có thể bị biến dạng vì nhiều nguyên nhân như định kỳ hạn
nợ không đúng, không phù hợp chu kỳ thu nhập của người vay, hay khoản nợ bị
đảo nợ, giãn nợ, và cũng có thể do chính sách, ngân hàng cho vay theo chỉ thị
của chính phủ, nên trở thành khoản nợ khó thu hồi.
+ Chỉ tiêu tính đa dạng tài sản : đa dạng hóa khách hàng, lĩnh vực và sản
phẩm dịch vụ của ngân hàng cung cấp sẽ hạn chế rủi ro.
+ Độ tín nhiệm của khách hàng: Chỉ tiêu này bao gồm tình hình tài chính và
phương án sử dụng vốn của người vay, đảm bảo tiền vay, và lịch sử quan hệ tín
dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Đây là những nhân tố cơ bản để chấm điểm
12

tín dụng và xếp hạng cho khách hàng, giúp xác định rủi ro tiềm ẩn, qua đó tính
giới hạn tín dụng và thẩm định rủi ro món vay, ra quyết định cho vay.
+ Ngoài ra còn 1 chỉ tiêu nữa đó là những vấn đề khách quan ảnh hưởng tới
món vay như môi trường hoạt động của người vay, nền kinh tế vĩ mô mất ổn
định, chính sách hay thay đổi, lạm phát..
1.4 Quản lý rủi ro tín dụng trong NHTM
1.4.1 Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng
Hoạt động tín dụng là một hoạt động chiếm vai trò quan trọng và chiếm tỷ
trọng lớn trong cơ cấu thu nhập của ngân hàng thương mại, do vậy, vấn đề quản
lý rủi ro tín dụng luôn được quan tâm chú ý và đặt lên hàng đầu, bởi hậu quả của
rủi ro tín dụng có thể ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh thường kỳ của
ngân hàng, gây thiệt hại cho ngân hàng.
Vậy, quản lý rủi ro tín dụng là việc sử dụng các biện pháp nghiệp vụ để
kiểm soát chất lượng tín dụng, hạn chế hậu quả xấu trong hoạt động tín dụng,

giảm thiểu sự tổn thất cho ngân hàng.
1.4.2. Các phương pháp quản lý rủi ro tín dụng
1.4.2.1 Hạn chế các khoản nợ có vấn đề, nợ quá hạn, nợ khó đòi
Các ngân hàng đều thực hiện nhiều biện pháp để hạn chế các khoản nợ có
vấn đề, và thực tế ngân hàng nhà nước đã đưa ra nhiều quy định về an toàn tín
dụng trong luật các tổ chức tín dụng (1997) và trong các nghị định của ngân
hàng nhà nước : QĐ 457/2005/QĐ-NHNN về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong
hoạt động của các TCTD (19/4/2004) và QĐ 03/2007/QĐ-NHNN sửa đổi bổ
sung một số điều trong quyết định 457 (19/1/2007).
13

Ngân hàng xác định danh mục các khoản tín dụng với mức độ rủi ro khác
nhau, dựa trên điểm của khách hàng. Đối với khách hàng doanh nghiệp, ngân
hàng tìm kiếm thông tin về khách hàng và dự án kinh doanh, cả trong quá khứ và
định hướng kế hoạch phát triển trong tương lai. Ngân hàng sử dụng các chỉ tiêu
định tính và định lượng để tính điểm rồi xếp loại mức độ rủi ro cho khách hàng.
Tương tự như vậy, đối với khách hàng cá nhân, cho vay tiêu dùng, ngân hàng
cũng sử dụng phương pháp này để sắp xếp định lượng thông tin về người vay
như thu nhập, chi tiêu,.. qua đó ra quyết định về khoản tín dụng. Ngoài ra, đối
với các trung gian tài chính khác, ngân hàng dùng độ tín nhiệm để xếp hạng tổ
chức đi vay, cuối cùng là cho vay đối với Nhà nước, tuy rất an toàn song lợi
nhuận thu được không đáng kể.
Ta có thể lượng hóa rủi ro tín dụng bằng cách sử dụng nhiều mô hình, ở đây
tôi chỉ xin giới thiệu một số mô hình đang được sử dụng.
* Mô hình định tính: Tiêu chuẩn chất lượng 6C
. Character Tư cách khách hàng
Tiêu chuẩn này thể hiện tinh thần trách nhiệm, sự trung thực, mục đích vay
và thiện chí trả nợ của người vay. Vấn đề cán bộ thẩm định phải đánh giá đó là
mục đích xin vay của khách hàng có đơn thuần hợp lý và đúng theo thỏa thuận
hay không, đồng thời xem xét hồ sơ lịch sử vay và trả nợ của khách hàng. Tổng

hợp từ nhiều nguồn thông tin và quá trình đánh giá kiểm nghiệm của bản thân,
nhân viên thẩm định sẽ đưa ra kết luận về tư cách khách hàng, đây là điều kiện
cơ bản đầu tiên, cơ sở cho mọi quyết định cũng như thỏa thuận sau này, do vậy
cần được những nhân viên có kinh nghiệm, trung thực đảm nhận, và quá trình
kiểm tra giám sát cũng cần bắt đầu từ khâu đầu tiên này.
14

. Capacity Năng lực khách hàng
Cán bộ thẩm định cần đảm bảo người xin vay có đủ năng lực hành vi cũng
như năng lực pháp lý để ký kết hợp đồng. Người đó phải được ủy quyền, có thể
đại diện doanh nghiệp,.. Khách hàng là doanh nghiệp cần đủ giấy tờ hợp lệ để
hoạt động. Đó là bề nổi, ngoài ra, cán bộ thẩm định cũng cần chú ý năng lực
kinh doanh và quản lý của khách hàng, tránh rủi ro do khả năng kém cỏi mà kinh
doanh thua lỗ không thể trả nợ.
. Cash Thu nhập của khách hàng
Thu nhập của khách hàng cá nhân cần được bảo đảm xác nhận bởi công ty
người đó làm việc hoặc hợp đồng lao động, giấy sức khỏe,… Thu nhập của
khách hàng doanh nghiệp cũng cần xác định trước, bằng nhiều phương pháp như
từ định hướng kinh doanh, những dự án và những kế hoạch tương lai, từ đó đưa
ra dự báo về thu nhập của khách hàng, và đánh giá khả năng trả nợ đúng hạn
trong tương lai.
. Collateral Bảo đảm tiền vay
Những tài sản đảm bảo cho khoản vay thường không được bỏ qua và là một
trong những điều kiện đầu tiên của khoản vay. Bởi, tài sản bảo đảm không chỉ là
một vật dùng để thanh lý thu hồi vốn khi cần thiết mà nó còn là một biện pháp
gắn chặt trách nhiệm và nghĩa vụ trả nợ của người đi vay. Khi xảy ra rủi ro tín
dụng, đây sẽ là nguồn thu hồi tài sản của ngân hàng, do vậy cán bộ thẩm định
cần chú ý tới những yếu tố như tuổi thọ, điều kiện và mức độ chuyên dụng của
tài sản, đặc biệt là những khía cạnh nhạy cảm như vấn đề lạc hậu về công nghệ,
cũng như tình hình thị trường của tài sản bảo đảm, ví dụ thị trường bất động sản,

thị trường chứng khoán, thị trường vàng…
15

. Conditions Các điều kiện khác
Các điều kiện này bao gồm những điều kiện bên trong như chính sách tín
dụng từng thời kỳ của ngân hàng, việc mua sắm, đầu tư, chính sách lương
thưởng, những điều kiện ràng buộc trong hợp đồng tín dụng. Ngoài ra còn có
những điều kiện bên ngoài như định hướng phát triển kinh tế xã hội của Nhà
nước, chính sách thuế, và tiêu chuẩn về công nghệ môi trường.
. Control Kiểm soát
Ngân hàng cho vay đối với khách hàng nhưng không có nghĩa là ngân hàng
từ bỏ hoàn toàn các quyền đối với khoản tiền đó. Ngân hàng vẫn có những cơ
chế kiểm tra kiểm soát nhất định để có thể phát hiện những dấu hiệu làm cho
khoản vay trở thành khoản vay có vấn đề để có những điều chỉnh phù hợp. Đồng
thời, nếu phát hiện khách hàng có những vi phạm với hợp đồng tín dụng, ngân
hàng có thể hủy hợp đồng và thu hồi khoản tín dụng. Đây là một cơ chế và là
một điều kiện mà ngân hàng sử dụng để quản trị rủi ro tín dụng.
* Mô hình định lượng: Mô hình điểm số Z - sử dụng với các doanh nghiệp
Mô hình này do E.I.Alman dùng đo điểm tín dụng đối với các doanh nghiệp
vay vốn. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp qua đó phân loại rủi ro tín
dụng đối với người vay, Z phụ thuộc vào trị số các chỉ số tài chính của người vay
và tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của
người vay trong quá khứ. Mô hình này như sau
Z = 1,2 X1 +1,4X2 +3,3X3 + 0,6X4 + 1,0X5
Trong đó X1 là hệ số Vốn lưu động / Tổng tài sản
X2 là hệ số Lãi chưa phân phối / Tổng tài sản
16

X3 là hệ số Lợi nhuận trước thuế và lãi vay / Tổng tài sản
X4 là hệ số Giá trị thị trường của tổng vốn sở hữu/ Giá trị hạch toán

của tổng nợ
X5 là hệ số Doanh thu / Tổng tài sản
Trị số Z càng cao người có xác suất vỡ nợ càng thấp. Vậy khi trị số Z thấp
hay đạt giá trị âm thì khách hàng sẽ có nguy cơ vỡ nợ cao. Mô hình cho điểm
của Alman như sau:
Z>2,675  Mức độ rủi ro tín dụng thấp
1,8<Z<2,675  Mức độ rủi ro tín dụng trung bình
Z< 1,8  Mức độ rủi ro tín dụng cao
Mô hình này giúp ngân hàng nhanh chóng định lượng rủi ro tín dụng cho
khách hàng, từ đó ra quyết định rất nhanh, tiết kiệm thời gian. Tuy nhiên mô
hình này cũng còn nhiều hạn chế. Thứ nhất đó là việc chỉ chia khách hàng làm 2
loại vỡ nợ hay không có rủi ro vỡ nợ, trong khi đó rủi ro tín dụng có nhiều loại,
như chậm trễ trả lãi, không trả lãi, hay chậm trả gốc. Thứ hai, công thức không
tính tới nhiều nhân tố quan trọng và ảnh hưởng đáng kể tới rủi ro của món vay
như độ tín nhiệm và quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng,..
+ Một nội dung trong quản trị tín dụng đó là xây dựng chính sách tín dụng
và quy trình phân tích tín dụng hợp lý chất lượng: chia thành những thời kỳ như
trước trong và sau khi cho vay…Đồng thời ngân hàng cần nâng cao chất lượng
công tác kiểm sát nội bộ đối với hoạt động tín dụng. Hiệu quả của vấn đề này
quyết định lớn đến vấn đề rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng, do vậy
nó cần luôn được chú trọng hoàn chỉnh và quan tâm đúng mức
17

+ Một công tác cần được hoàn thành đó là xác định dấu hiệu các khoản cho
vay có vấn đề, giới hạn các khoản tín dụng và đa dạng hóa khách hàng, sản
phẩm, thị trường. Đây là một vấn đề có tính định hướng chiến lược với hoạt
động của ngân hàng, và có thể hạn chế rủi ro tín dụng ở mức tối đa có thể, cùng
với các hoạt động như mua bảo hiểm tiền gửi, tiền vay và tham gia trung tâm
thông tin tín dụng (CIC), ngân hàng có thể tối thiểu hóa các khoản nợ có vấn đề.
1.4.2.2 Quản lý nợ quá hạn – nợ khó đòi, các khoản nợ có vấn đề

Dù các ngân hàng có đạt hiệu quả cao trong vấn đề hạn chế nợ có vấn đề,
thì nợ quá hạn vẫn sẽ là một thực tế tồn tại khách quan, luôn luôn đi kèm với
hoạt động của ngân hàng. Do vậy, chúng ta không chỉ cần tìm cách hạn chế nó,
mà cần quản lý và xử lý nó một cách có hiệu quả.
+ Công việc đầu tiên cần phải làm đó là phân loại nợ vay có vấn đề, phân
tích nguyên nhân của tình trạng này và tìm phương án giải quyết. Mỗi khoản nợ
có vấn đề đều có nguyên nhân riêng và do vậy cũng cần có phương án xử lý phù
hợp. Nếu vấn đề là do khách quan, ngân hàng và khách hàng sẽ cùng bàn bạc và
đưa ra biện pháp tốt nhất cho cả hai bên, đảm bảo lợi ích của ngân hàng song
cũng có những nhượng bộ hợp tình hợp lý với khách hàng, giữ được một mối
quan hệ tốt. Song nếu nguyên nhân là do chủ quan, thì vấn đề lại khác hẳn. Dù
cho khách hàng do thiếu khả năng hay thiếu đạo đức thì xử lý triệt để khoản vay
luôn là sự lựa chọn chính xác nhất. Như vậy từ nguyên nhân của khoản nợ có
vấn đề ta sẽ đưa ra hai biện pháp giải quyết. Thứ nhất là ngân hàng sử dụng
chính sách hỗ trợ khách hàng đang gặp khó khăn để giúp khách hàng vượt qua
giai đoạn khó khăn, còn nếu khách hàng lừa đảo chây ỳ, ngân hàng sẽ lập tức kết
thúc hợp đồng tín dụng, thanh lý tài sản, và thu hồi khoản nợ vay.
18

+ Cùng với các biện pháp trên, việc xây dựng quỹ dự phòng bù đắp tổn thất,
dựa trên tỷ lệ rủi ro chấp nhận và danh mục các khoản cho vay rủi ro, theo quy
định của luật pháp và các quyết định của Ngân hàng Nhà nước là vấn đề ngân
hàng nào cũng tuân thủ, đây là công cụ tự bảo vệ hữu hiệu và an toàn nhất với
chi phí thấp nhất của ngân hàng.
1.4.2.3 Sử dụng các nghiệp vụ ngoài bảng cân đối kế toán
+ Chứng khoán hóa các khoản cho vay
Ngân hàng có thể chứng khoán hóa các khoản cho vay của mình, bán ra thị
trường để thu hồi vốn, khi đến hạn ngân hàng có thể chuyển gốc và lãi cho
những người chủ thực sự của khoản vay này.
Ngân hàng, những người khởi tạo chuyển những khoản cho vay cho tổ chức

phát hành. Tổ chức này là người bảo lãnh và cam kết hoàn trả nợ, do vậy trong
trường hợp ngân hàng phá sản, các chứng khoán này vẫn được thanh toán.
Một tổ chức được ủy thác sẽ giám sát tổ chức phát hành hoàn thành các
dịch vụ đã cam kết, bảo lãnh và quản lý các khoản thế chấp đề phòng không thu
hồi được nợ.
Người mua có quyền bán lại các khoản này cho ngân hàng phát hành trong
trường hợp không thu hồi được nợ.
Một ví dụ: Trái phiếu có bảo đảm bằng các khoản cho vay thế chấp(CMO),
trái phiếu được đảm bảo bằng nợ.
19

+ Bán các khoản cho vay
Khi ngân hàng cần thu hồi vốn, hay ngân hàng muốn “rũ bỏ” các khoản nợ
quá hạn, ngân hàng không muốn tốn chi phí và thời gian cho công việc thanh lý
tài sản…
Ngân hàng sẽ chọn lựa giải pháp bán các khoản cho vay này. Những công
ty chuyên thu hồi nợ sẽ mua những khoản này với một giá hợp lý, làm sao có lợi
nhuận. Công việc này có lợi cho cả hai bên.
Nghiệp vụ này không những giải quyết được vấn đề rủi ro tín dụng, mà còn
tăng khả năng thanh khoản cho tài sản của ngân hàng, ngân hàng có thể đa dạng
hóa các khoản cho vay.
1.4.2.4 Sử dụng những hợp đồng tín dụng phái sinh để quản lý rủi ro tín
dụng
+ Hợp đồng trao đổi tín dụng (Credit SWAP)
Hai ngân hàng thông qua một tổ chức tín dụng trung gian, ký một hợp đồng
trao đổi toàn bộ thu nhập từ một danh mục các khoản cho vay có giá trị như
nhau. Hợp đồng này cho phép ngân hàng đa dạng hóa danh mục đầu tư, ngành
hàng, giảm sự phụ thuộc vào một thị trường truyền thống duy nhất.
+ Hợp đồng quyền tín dụng (Credit OPTIONS)
Ngân hàng ký hợp đồng với một tổ chức kinh doanh quyền, đảm bảo thanh

toán toàn bộ khoản cho vay nếu khoản cho vay giảm giá đáng kể hoặc không thể
được thanh toán. Nếu rủi ro không xảy ra, ngân hàng chỉ mất phí mua quyền.
20

+ Hợp đồng trao đổi các khoản tín dụng rủi ro
Thông qua môi giới, ngân hàng mua một hợp đồng quyền bán với một bộ
phận của danh mục đầu tư hay cho vay. Nếu xảy ra rủi ro, ngân hàng có tiền bán
này trừ đi trị giá thanh lý của tài sản thế chấp.
+ Trái phiếu ràng buộc
Đây là một công cụ kết hợp một khoản nợ và hợp đồng quyền tín dụng. Trái
phiếu phát hành trên cơ sở tài trợ cho một hay một nhóm các khoản cho vay của
ngân hàng. Công cụ này cho phép tổ chức phát hành có đặc quyền trong việc
giảm mức thanh toán, nếu các khoản cho vay từ trái phiếu này có tỷ lệ tổn thất
tín dụng là quá lớn.
Các công cụ phái sinh tuy để dự phòng rủi ro song cũng hàm chứa không ít
rủi ro. Thị trường này còn nhỏ hẹp và mới ra đời nên hệ thống pháp lý chưa rõ
ràng, có khả năng một bên ký hợp đồng không muốn thực hiện hợp đồng. Thị
trường này chưa phát triển bằng thị trường các công cụ phái sinh của tiền tệ và
lãi suất.
21

Chương II : Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại
Sở giao dịch Ngân hàng ngoại thương Việt Nam
2.1. Khái quát về sở giao dịch ngân hàng ngoại thương Việt Nam
2.1.1. Lịch sử và phát triển
Ngày 01 tháng 04 năm 1963, NHNT chính thức được thành lập theo
Quyết định số 115/CP do Hội đồng Chính phủ ban hành ngày 30 tháng 10 năm
1962 trên cơ sở tách ra từ Cục quản lý Ngoại hối trực thuộc Ngân hàng Trung
ương (nay là NHNN). Theo Quyết định nói trên, NHNT đóng vai trò là ngân
hàng chuyên doanh đầu tiên và duy nhất của Việt Nam tại thời điểm đó hoạt

động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bao gồm cho vay tài trợ xuất nhập khẩu và
các dịch vụ kinh tế đối ngoại khác (vận tải, bảo hiểm...), thanh toán quốc tế, kinh
doanh ngoại hối, quản lý vốn ngoại tệ gửi tại các ngân hàng nước ngoài, làm đại
lý cho Chính phủ trong các quan hệ thanh toán, vay nợ, viện trợ với các nước xã
hội chủ nghĩa (cũ)... Ngoài ra, NHNT còn tham mưu cho Ban lãnh đạo NHNN
về các chính sách quản lý ngoại tệ, vàng bạc, quản lý quỹ ngoại tệ của Nhà nước
và về quan hệ với Ngân hàng Trung ương các nước, các Tổ chức tài chính tiền tệ
quốc tế.
Ngày 21 tháng 09 năm 1996, được sự ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ,
Thống đốc NHNN đã ký Quyết định số 286/QĐ-NH5 về việc thành lập lại
NHNT theo mô hình Tổng công ty 90, 91 được quy định tại Quyết định số
90/QĐ-TTg ngày 07 tháng 03 năm 1994 của Thủ tướng Chính phủ.
22

Trải qua gần 45 năm xây dựng và trưởng thành, tính đến thời điểm cuối
năm 2006, NHNT đã phát triển lớn mạnh theo mô hình ngân hàng đa năng với
58 Chi nhánh, 1 Sở Giao dịch, 87 Phòng Giao dịch và 4 Công ty con trực thuộc
trên toàn quốc; 2 Văn phòng đại diện và 1 Công ty con tại nước ngoài, với đội
ngũ cán bộ gần 6.500 người. Ngoài ra, NHNT còn tham gia góp vốn, liên doanh
liên kết với các đơn vị trong và ngoài nước trong nhiều lĩnh vực kinh doanh khác
nhau như kinh doanh bảo hiểm, bất động sản, quỹ đầu tư... Tổng tài sản của
NHNT tại thời điểm cuối năm 2006 lên tới xấp xỉ 170 nghìn tỷ VND (tương
đương 10,4 tỷ USD), tổng dư nợ đạt gần 68 nghìn tỷ VND (4,25 tỷ USD), vốn
chủ sở hữu đạt hơn 11.127 tỷ VND, đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% theo
chuẩn quốc tế.
Trong định hướng phát triển của Vietcombank, để trở thành một tập đoàn
tài chính mạnh có nhiều công ty con, chiếm thị phần lớn trên thị trường tài chính,
kinh doanh ngày càng hiệu quả, thì vấn đề cơ cấu lại tổ chức là cấp thiết. Hệ
thống Vietcombank liên tục phát triển, số chi nhánh càng ngày càng lớn, chỉ
riêng năm 2007 số chi nhánh đã tăng lên gấp đôi so với 2006 (lên 59 chi nhánh),

nguồn vốn huy động và cho vay tăng mạnh từng năm, VCB lại vừa cổ phần hóa
và thực hiện đợt IPO đầu tiên, tạo điều kiện thuận lợi để tăng vốn chủ sở hữu.
Cùng lúc đó, các công ty con của VCB liên tục ra đời và phát triển, như công ty
chứng khoán VCB, công ty cho thuê tài chính VCB, công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản VCB, công ty TNHH cao ốc VCB 198… Trong điều kiện đó, việc để
Hội sở chính vừa thực hiện chức năng kinh doanh và chức năng quản lý là không
còn phù hợp nữa, VCB đã tách bộ phận kinh doanh của HSC và thành lập sở
23

giao dịch NHNT VN với chức năng hoạt động như một chi nhánh cấp 1, từ đầu
năm 2006.
Năm 2007, SGD đã chuyển địa điểm từ 198 Trần Quang Khải sang đóng tại
31-33 Ngô Quyền, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. SGD có phạm vi hoạt động lớn,
bao gồm cả thành phố Hà Nội và các tỉnh lân cận. Sau khi tách khỏi HSC, và đặc
biệt từ khi chuyển địa điểm, SGD đã rất cố gắng mở rộng phạm vi, thâm nhập
tìm kiếm khách hàng, và có được những thành công nhất định, đặc biệt huy động
vốn của SGD chiếm khoảng 16% địa bàn Hà Nội, là mũi nhọn phát triển cho
NHNT phía Bắc.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức
Bảng 2.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức các phòng ban trong SGD
24

SGD NHNT VN xây dựng theo mô hình hiện đại, có những đổi mới tiên
tiến với quy mô phù hợp.
Lãnh đạo cấp cao nhất của SGD là Ban giám đốc gồm 4 người, 1 giám đốc
và 3 phó giám đốc. Phía dưới là các phòng nghiệp vụ, mỗi phòng có chức năng
và nhiệm vụ riêng:
- Phòng quan hệ khách hàng: phòng này là đầu mối quan hệ với khách
hàng, có nhiệm vụ duy trì và không ngừng mở rộng mối quan hệ với các khách
hàng, sâu sát trong tất cả các quy trình các giai đoạn hoạt động, các sản phẩm

kinh doanh…
- Phòng đầu tư dự án: phòng đáp ứng những nhu cầu vay vốn trung và dài
hạn của khách hàng, chức năng bao gồm cả phân tích rủi ro, thẩm định dự án,
đánh giá tính khả thi, tính hiệu quả của các dự án.
- Phòng quản lý rủi ro tín dụng: chức năng ngiên cứu và phân tích, đồng
thời quản lý rủi ro, cả rủi ro chung (rủi ro hệ thống, rủi ro thị trường) và rủi ro
riêng (rủi ro của từng khách hàng, từng dự án kinh doanh) nhằm đảm bảo mở
rộng phát triển tín dụng an toàn hiệu quả, giảm thiểu rủi ro.
- Phòng quản lý nợ: phòng quản lý nợ quản lý trực tiếp các tác nghiệp liên
quan đến các nghiệp vụ giải ngân, thu hồi nợ, đảm bảo số liệu trên hệ thống
khớp số liệu trên hồ sơ và trên thực tế, lưu giữ hồ sơ vay an toàn và đầy đủ, đảm
bảo tuân thủ quy trình tín dụng.
- Phòng doanh nghiệp vừa và nhỏ: phụ trách quan hệ với khách hàng là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, có những món vay không lớn, phòng có thể tự đánh
25

×