Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

các loại hình du lịch (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.8 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP.HCM
KHOA MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN
BÁO CÁO MÔN: TỔNG QUAN DU LỊCH
CÁC LOẠI HÌNH DU LỊCH
Danh sách nhóm “Hải đường”
1. Nguyễn Văn Chiến 10157022 DH10DL
2. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh 10157057 DH10DL
3. Võ Châu Việt Khuê 10157080 DH10DL
4. Nguyễn Thị Cẩm Lệ 10157085 DH10DL
5. Bùi Hữu Long 10157095 DH10DL
6. Lê Thị Kim Ngân 10157119 DH10DL
7. Lê Thị Mỹ Nhung 10157137 DH10DL
8. Nguyễn Thị Thu Thân 10157175 DH10DL
9. Huỳnh Thị Huyền Trân 10157212 DH10DL
DU LỊCH SINH THÁI
I. Định nghĩa:
Năm 1991, đã xuất hiện khái niệm về Du lịch sinh thái. "Du lịch sinh thái là
loại hình du lịch diễn ra trong các vùng có hệ sinh thái tự nhiên còn bảo tồn khá
tốt nhằm mục tiêu nghiên cứu, chiêm ngưỡng, thưởng thức phong cảnh, động
thực vật cũng như các giá trị văn hoá hiện hữu" (Boo, 1991).
Nhưng gần đây, người ta cho rằng nội dung căn bản của Du lịch sinh thái là
tập trung vào mức độ trách nhiệm của con người đối với môi trường. Quan
điểm thụ động cho rằng Du lịch sinh thái là du lịch hạn chế tối đa các suy thoái
môi trường do du lịch tạo ra, là sự ngăn ngừa các tác động tiêu cực lên sinh
thái, văn hoá và thẩm mỹ. Quan điểm chủ động cho rằng Du lịch sinh thái còn
phải đóng góp vào quản lý bền vững môi trường lãnh thổ du lịch và phải quan
tâm đến quyền lợi của nhân dân địa phương. Do đó, người ta đã đưa ra một
khái niệm mới tương đối đầy đủ hơn: “Du lịch sinh thái là chuyến du hành có
trách nhiệm, đến những khu vực tự nhiên, gìn giữ bảo vệ môi trường và góp
phần cải thiện phúc lợi xã hội cho người dân địa phương”( Theo Tổ chức du
lịch sinh thái quốc tế).


Ngoài ra còn nhiều định nghĩa khác về du lịch sinh thái như:
Ủy ban chiến lược du lịch sinh thái Australa cho rằng: “Du lịch sinh thái là
chuyến du lịch tự nhiên bao gồm việc giáo dục giải thích về môi trường tự
nhiên và quản lí bền vững về phương diện sinh thái”.
Định nghĩa về du lịch sinh thái ở Việt Nam: “Du lịch sinh thái là loại hình
du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn với giáo dục môi trường,
có đóng góp cho nổ lực bảo tồn và phát triển bền vững, với sự tham gia tích
cực của cộng đồng địa phương”.
 Bản chất của Du lịch Sinh thái:
Là một hình thức du lịch tự nhiên mang tính khai sáng, góp phần bảo tồn hệ
sinh thái mà vẫn tôn trọng sự hoà nhập của các cộng đồng địa phương.
Là một lĩnh vực đặc biệt của du lịch nói chung có đặc trưng là qua những
chuyến đi, du khách được tiếp xúc với thiên nhiên bằng phương tiện quan sát
đơn giản hay những nghiên cứu có tính hệ thống.
II. Đặc điểm của loại hình du lịch sinh thái:
1) Những địa điểm du lịch tự nhiên:
Những địa điểm du lịch sinh thái thường là vùng sâu vùng xa, có thể là hoặc
không phải là nơi định cư của một cộng đồng nào đó và thuộc một khu vực tự
nhiên được bảo vệ ở cấp quốc tế, quốc gia, cộng đồng hay do một cá nhân
đứng ra.
2) Hạn chế những tác động tiêu cực tới môi trường:
Khác với các loại hình du lịch thông thường, du lịch sinh thái cố gắng hạn
chế những tác động tiêu cực gây ra từ việc xây dựng cơ sở hạ tầng như khách
sạn, đường đi, và các công trình khác bằng việc tái sản xuất những chất liệu dồi
dào có sẵn trong tự nhiên, những nguồn năng lượng và tài nguyên có khả năng
tái tạo, rác tái chế và không gian kiến trúc mang tính tự nhiên, văn hóa. Việc
này cũng đòi hỏi phải kiểm soát số lượng và hành vi của khách du lịch để đảm
bảo việc hạn chế các tác hại đối với hệ sinh thái.
3) Xây dựng nhận thức về môi trường:
Du lịch sinh thái khác với loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên hay giáo

dục khác ở chỗ nó có mức độ giáo dục cao về môi trường và sinh thái thông
qua sự giao tiếp trực tiếp giữa con người và tự nhiên, và những hướng dẫn viên
hiểu biết từ đó có thể chuyển khách du lịch thành những người tích cực bảo vệ
môi trường.
4) Cung cấp lợi ích tài chính trực tiếp cho việc bảo tồn:
Du lịch sinh thái giúp gây quỹ cho công tác bảo tồn thiên nhiên, nghiên cứu
và giáo dục thông qua phí vào cửa công viên hay khu vực bảo tồn vườn quốc
gia, và những đóng góp từ thiện.
5) Cung cấp lợi ích tài chính và quyền hợp pháp cho người dân địa phương:
Các vườn quốc gia và khu bảo tồn chỉ tồn tại khi có được những “ cư dân
hạnh phúc” trong vùng lõi và vùng đệm của nó.
Điều này có nghĩa cộng đồng địa phương cần phải được tham gia, phải có
thu nhập và những lợi ích thiết thực từ khu vực được bảo tồn chẳng hạn như
nước sạch, đường xá, vệ sinh sức khỏe địa điểm cắm trại, nơi ở dịch vụ
hướng dẫn, quán ăn và các dịch vụ khác nên được hợp tác hoặc quản lý bởi
những cộng đồng sống xung quanh công viên hoặc những địa điểm tham quan
đó. Quan trọng hơn nếu du lịch sinh thái được nhìn nhận như một công cụ cho
sự phát triển nông thôn, nó cũng phải giúp thay đổi cách quản lý kinh tế và
chính trị đối với cộng đồng địa phương, làng xã hợp tác xã, doanh nghiệp. Mặc
dù, điều này không dễ dàng và đòi hỏi nhiều thời gian nhưng là việc làm rất
cần thiết nếu muốn phát triển du lịch bền vững.
6) Tôn trọng văn hóa địa phương:
Du lịch sinh thái không chỉ có nghĩa là “xanh hơn”, mà những tác động ảnh
hưởng tới văn hóa cũng phải ít hơn so với những hình thức du lịch thông
thường.
Trong khi mại dâm, chợ đen và nghiện hút thường là tác dụng phụ của một
nền du lịch lớn thì du lịch sinh thái cố gắng tôn trọng một cách văn hóa và hạn
chế tối đa ảnh hưởng xấu đến cả môi trường tự nhiên và văn hóa của quốc gia,
khu vực đó. Điều này thật không dễ dàng, đặc biệt là khi du lịch sinh thái
thường bao gồm việc du lịch tới những vùng sâu vùng xa, nơi những cộng

đồng nhỏ và biệt lập có ít kinh nghiệm trong việc giao lưu với người nước
ngoài.
7) Vấn đề dân chủ, thể chế:
Mặc dù du lịch thường được coi là công cụ để xây dựng hiểu biết về các
quốc gia và gắn kết hòa bình thế giới nhưng điều này không phải lúc nào “tự
động” diễn ra. Du lịch thông thường ít khi chú ý đến vấn đề chính trị tại địa
phương trừ khi nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự an toàn của khách du lịch. Du
lịch sinh thái đòi hỏi một cách tiếp cận tế nhị hơn, trong đó mọi người tham gia
đều cố gắng học hỏi, tôn trọng và làm lợi cho cả môi trường và cộng đồng địa
phương.
III. Nguyên tắc cần lưu ý đối với du lịch sinh thái
Du lịch sinh thái thường gắn với giáo dục dành cho cả khách du lịch và
những người cư trú ở các cộng đồng lân cận. Bởi vậy, trước mỗi chuyến khởi
hành, những người tổ chức nên cung cấp cho khách du lịch đọc những sách báo
nói về đất nước, môi trường và người dân địa phương, cũng như một số quy
định hướng dẫn cho cả khách du lịch và các ngành công nghiệp. Những thông
tin này sẽ giúp cho việc tổ chức các tour du lịch nhằm tìm hiểu về con người và
vùng đất mới giảm thiểu các tác động tiêu cực, đặc biệt khi tham quan những
môi trường và vùng văn hóa nhạy cảm.
Nâng cao hiểu biết cho du khách về môi trường tự nhiên, qua đó tạo ý thức
tham gia của khách du lịch vào hoạt động bảo tồn, góp phần tích cực vào việc
bảo vệ môi trường, duy trì hệ sinh thái tự nhiên, góp phần bảo vệ và phát huy
bản sắc văn hoá địa phương.
Các hoạt động DLST phải tạo thêm việc làm và mang lại lợi ích cho cộng
đồng địa phương.
Du khách được hoà nhập với hệ sinh thái tự nhiên và nhân văn nhưng phải
có trách nhiệm giữ gìn hệ sinh thái đó.
Lượng du khách phải luôn được điều hoà ở mức độ vừa phải và đảm bảo
rằng không gian môi trường không bị quá tải.
• Luôn đặt các nguyên tắc về môi trường sinh thái lên hàng đầu

• Đảm bảo lợi ích hài hoà lâu dài cho tất cả các bên liên quan
• Hướng dẫn viên và các thành viên tham gia phải chuẩn bị kỹ càng nội
dung và có nhận thức cao về môi trường sinh thái
• Người tham gia cần có sự đào tạo.
Ở một số nước xung quanh các điểm du lịch có thể đang diễn ra những cuộc
xung đột hay bất đồng ý kiến trong việc kiểm soát nguồn tài nguyên hoặc
nguồn thu từ du lịch. Trong những trường hợp đó, du lịch sinh thái cần đặt ra
những câu hỏi như “Liệu sự tăng trưởng kinh tế xuất phát từ ngành du lịch có
thực sự cải thiện điều kiện sống của người dân không? Liệu việc tẩy chay một
quốc gia có làm tổn hại những người dân bần cùng không ”
Điều cần thiết đối với một chuyến du lịch sinh thái tốt là phải có được
hướng dẫn viên được đào tạo kĩ càng, biết thổ ngữ và có những hiểu biết về
lịch sử tự nhiên, văn hóa có tư chất tốt cũng như có khả năng diễn giải và giao
tiếp hiệu quả.
Và cũng như du lịch truyền thống, du lịch sinh thái bao gồm những mối
quan hệ không bình đẳng giũa người du lịch với “ nhà”, và các mối quan hệ
trong việc trao đổi tiền tệ. Để trở thành một hướng dẫn viên du lịch sinh thái có
trách nhiệm thì phải học cách tôn trọng những phong tuc tập quán địa phương,
không tự ý xâm nhập vào cộng đồng khi chưa có sự cho phép.
Điều quan trọng nhất trong du lịch sinh thái là các nguyên tắc. Vấn đề nằm
ở chỗ sẽ vận dụng những nguyên tắc đó ra sao.
IV. Yêu cầu để phát triển du lịch sinh thái:
Để phát triển du lịch sinh thái cần làm những công việc sau:
- Phát biểu chính sách về du lịch sinh thái và chiến lược phát triển phù
hợp với mục tiêu của phát triển bền vững.
- Bảo đảm việc bảo vệ tự nhiên, văn hóa địa phương và thổ dân, đặc biệt
các kiến thức cổ truyền, nguồn lợi di truyền, quyền sở hữu đất đai và
nước.
- Khi xây dựng các dự án du lịch sinh thái cũng nên chú ý giáo dục các
thành viên của những cộng đồng dân cư xung quanh, nên tổ chức cho họ

những chuyến tham quan mang tính chất giáo dục miễn phí hoặc ưu đãi.
- Bảo đảm sự tham gia của các tổ chức công và tư nhân trong việc quyết
định về du lịch sinh thái, bảo đảm ngân sách và khung pháp lý.
- Xây dựng các cơ chế điều tiết có sự tham gia của các tác nhân tham gia
vào du lịch sinh thái.
- Phát triển các cơ chế để đưa các chi phí môi trường trong tất cả các sản
phẩm du lịch sinh thái.
- Phát triển năng lực địa phương để quản lý các khu vực bảo vệ và phát
triển du lịch sinh thái.
- Phát triển việc xác định các chứng chỉ, nhãn hiệu sinh thái theo các
hướng dẫn quốc tế.
- Bảo đảm việc cung cấp kỹ thuật, tài chính và nhân lực cho các tổ chức
du lịch nhỏ và trung bình.
- Xác định các chính sách, kế hoạch quản lý chương trình cho khách du
lịch trong đó có định hướng các nguồn để bảo vệ các khu vực tự nhiên.
- Đưa tất cả các hoạt động của các tổ chức du lịch, cộng đồng và tổ chức
phi chính phủ vào các chiến lược và chương trình chung của quốc gia và
quốc tế.
V. Sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động phát triển DLST
Nhận thức được vai trò quan trọng của cộng đồng trong phát triển du
lịch bền vững, nhiều mô hình phát triển du lịch với sự tham gia của cộng đồng
đã được khuyến khích phát triển ở các địa phương, đặc biệt tại các trọng điểm
du lịch diễn ra sôi động với nhiều cơ hội cho cộng đồng.
Thực tế hoạt động du lịch nói chung, DLST nói riêng ở nhiều nước trên
thế giới cũng như ở việt nam cho thấy những hình thức chủ yếu mà cộng đồng
có thể tham gia vào hoạt động phát triển du lịch và DLST ở các VQG, khu bảo
tồn thiên nhiên, bao gồm:
- Tham gia vào các quá trình quy hoạch phát triển du lịch: đây là yếu tố rất quan
trọng đảm bảo cho quy hoạch du lịch đi vào cuộc sống với sự ủng hộ, giám
sát của cộng đồng địa phương.

- Là nhà cung cấp đáng tin cậy cho các doanh nghiệp du lịch những nguyên vật
liệu có tính truyền thống của địa phương cần thiết cho việc xây dựng các
công trình, cung cấp dịch vụ thực phẩm tươi sống hoặc đã qua sơ chế (rau,
hoa quả,thịt cá, đặc sản ), hàng thủ công mỹ nghệ truyền thốngcủa địa
phương…
- Tham gia vào các hoạt động tác nghiệp giản đơn như nấu ăn,giặt là… trong
một số trường hợp, cộng đồng có thể tham gia hoạt động lữ hành với tư cách
là hướng dẫn viên/thuyết minh viên địa phương… Sự tham gia của cộng đồng
ngày càng được mở rộng, thu hút ngày một đông sự tham gia của cộng đồng,
góp phần tăng cường sinh kế và cải thiện cuộc sống của người dân nơi diễn ra
hoạt động du lịch.
- Tham gia ủng hộ việc bảo vệ tài nguyên và môi trường du lịch khi họ có được
sự hưởng lợi ích từ hoạt động du lịch. Việc bảo vệ tài nguyên đa dạng sinh
học và môi trường du lịch sẽ không có hiệu quả nếu thiếu sự tham gia tích
cực của cộng đồng địa phương.
- Cung cấp các sản phẩm du lịch văn hóa mang bản sắc truyền thống: biểu diễn
nghệ thuật dân gian truyền thống; hoạt động trình diễn sản xuất hang thủ
công mỹ nghệ truyền thống hoặc đơn giản là các sinh hoạt trong cuộc sống
thường ngày mà ở đó cộng đồng là chủ thể, là những nghệ nhân.
- Cung cấp các dịch vụ đến du khách: cộng đồng có khả năng tự tổ chức cung
cấp các dịch vụ đáp ứng nhu cầu khách du lịch như lưu trú tại nhà, vận
chuyển khách (thuyền, xe thô sơ…), dịch vụ ăn uống, bán hàng thủ công mỹ
nghệ…Tuy nhiên để có thể thực hiện được các dịch vụ này, cộng đồng cần
được huấn luyện với những hiểu biết tối thiểu về giao tiếp, về các quy định
nghiệp vụ…
Vận chuyển khách du lịch, đặc biệt là bằng thuyền, ở nhiều điểm tham quan
như Di sản thiên nhiên Vịnh Hạ Long, khu cảnh quan danh thắng Tam Cốc –
Bích Động, VQG Ba Bể, VQG Tràm Chim, VQG Phú Quốc…cũng là một
trong những hình thức phổ biến và ngày càng phát triển hiện nay về sự tham
gia của cộng đồng vào hoạt động du lịch.

Loại hình du lịch lưu trú tại nhà dân đang là loại hình du lịch thu hút sự quan
tâm của du khách và bước đầu phát triển thành công ở một số địa phương như
Sapa, Ba Bể, Vĩnh Long…Tại VQG Ba Bể, nếu như năm 1996 chỉ có 3 hộ gia
đình tham gia cung cấp dịch vụ này thì đến năm 2006 đã lên đến trên 20 hộ.
Trong định hướng phát triển du lịch và DLST ở nhiều địa phương nơi có
các nguồn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên với các giá trị đa dạng sinh học
cao như những điểm đến hấp dẫn khách quan trọng như Lào Cai, Quảng Ninh,
Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Ninh Bình, Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam, Khánh
Hòa, Lâm Đồng, Đồng Nai…đã chú ý quy hoạch phát triển du lịch gắn với bảo
tồn phát triển đa dạng sinh học với sự tham gia tích cực của cộng đồng. Việc
ưu tiên phát triển một số loại hình du lịch sinh thái, cộng đồng không chỉ với
mục đích có thêm môt sản phẩm du lịch mới mà còn tạo ra cơ hội để cộng đồng
tham gia trực tiếp vào hoạt động phát triển du lịch, qua đó góp phần tích cực
vào nổ lực bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học ở những khu vực này.
Trong những năm gần đây, nhiều tổ chức quốc tế, điển hình là tổ chức
phát triển Hà Lan( SNV), Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN), Quỹ
bảo tồn động vật hoang dã( WWF) đã phối hợp với Tổng cục Du lịch và nhiều
địa phương xây dựng các mô hình phát triển du lịch sinh thái cộng đồng gắn
với việc bảo tồn các giá trị tự nhiên và văn hóa bản địa, đồng thời qua đó cũng
góp phần vào nổ lực xóa đói giảm nghèo. Ví dụ điển hình đối với những mô
hình này có thể thấy ở VQG Ba Bể ( Bắc Kạn), VQG Xuân Thủy ( Nam Định),
khu bảo tồn biển Hòn Mun (Khánh Hòa ), VQG Tràm Chim (Đồng Tháp )…
Sự tham gia của các cộng đồng vào hoạt động phát triển du lịch sinh thái
ở nhiều điểm du lịch, trong các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên nhìn
chung có sự hướng dẫn của các cơ quan quản lí nhà nước về du lịch địa
phương hoặc có sự tư vấn, giúp đỡ của các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, sự
hướng dẫn, giúp đỡ thường chỉ ở giai đoạn đầu còn sau đó hoạt động này bị
buông lỏng, thiếu sự giám sát và tư vấn. Kết quả là sự tham gia của cộng đồng
hướng tới việc hỗ trợ công tác bảo tồn và phát triển tài nguyên, đa dạng sinh
học và môi trường không được như mong muốn. Điều này không chỉ ảnh

hưởng đến sức hấp dẫn du lịch ở các vườn quốc gia, khu bảo tồn tự nhiên mà
còn ảnh hưởng đến tài nguyên, môi trường và đa dạng sinh học khu vực. Có thể
nêu một số những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Nhận thức của cộng đồng chưa đầy đủ về lợi ích cũng như nghĩa
vụ khi tham gia hoạt động du lịch nói chung, ở các vườn quốc gia, khu
bảo tồn thiên nhiên nói riêng;
- Quyền được biết của cộng đồng về quy hoạch, về các quy định
quản lý tại các khu, điểm du lịch, trong đó có các vườn quốc gia, khu bảo
tồn thiên nhiên còn chưa được thực hiện nghiêm túc
- Hệ thống chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng
chuyển đổi nghề, tham gia vào các hoạt động dịch vụ du lịch để ổn định
cuộc sống còn có những bất cập.
- Cộng đồng chưa có sự hỗ trợ đầy đủ về vốn, về kĩ năng, về thông
tin, để phát triển những dịch vụ phù hợp một cách lâu dài.
- Hiệu lực quản lý nhà nước về du lịch tại các khu , điểm du lịch
tại các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên còn chưa đáp ứng được yêu
cầu.
DU LỊCH VĂN HÓA
I. Định nghĩa:
Là loại hình du lịch mà du khách muốn được thẩm nhận bề dày văn hóa
của một nước, một vùng thông qua các di tích lịch sử, văn hóa, những phong
tục tập quán, lễ hội còn hiện diện.
Du lịch văn hóa còn được hiểu:
-Là tổng của cải vật chất và của cải tinh thần có liên quan đến du lịch.
-Là kết quả tác động lẫn nhau giữa chủ thể du lịch (du khách), khách thể
du lịch (tài nguyên du lịch) với môi giới du lịch (ngành du lịch).
-Một loại hình thái văn hóa của đời sống du lịch.
-Một loại hình thái văn hóa đặc thù, lấy văn hóa giá trị nội tại của văn hóa
chung làm chỗ dựa, lấy các yếu tố du lịch làm công tác du lịch tích lũy và sáng
tạo ra trong hoạt động du lịch.

II. Đặc điểm cơ bản:
• Tính tổng hợp:
Du lịch văn hóa có nhiều loại hình thái:
-Vừa có hình thái văn hóa vật chất, vừa có hình thái văn hóa tinh thần.
-Vừa có văn hóa cổ đại, vừa có văn hóa cận đại, hiện đại.
-Vừa có văn hóa truyền thống bản địa vừa có văn hóa nước ngoài du
nhập.
-Có tính ngưỡng tôn giáo, quan niệm xã hội, kiểu mẫu chính trị.
-Vừa có truyền thống lịch sử, phong thổ nhân tình.
• Tính khu vực:
Văn hóa bất kể của cả loài người hay của một quần thể cá biệt, bất kể của
nhiều nhân tố phức tạp hay của một nhân tố thì sự kế thừa lịch sử và biến đổi
trong không gian của nó đều liên quan đến một khu vực, một lãnh thổ cụ thể.
Mỗi vùng mỗi lãnh thổ có nét đặc trưng riêng, độc đáo về văn hóa du lịch, nó
tạo thành sức hấp hẫn đặc sắc riêng để thu hút du khách.
• Tính kế thừa:
Tất cả các cảnh quang văn hóa đều là kết quả của sự diễn biến lâu dài của
văn hóa nhân loại(bao gồm văn hóa du lịch) hình thành trong quá trình lịch sử
tất yếu có tính kế thừa mãnh liệt.
• Tính xung đột:
Tính xung đột của du lịch văn hóa không những chỉ văn hóa được sinh ra
trong sự xung đột, va chạm của văn hóa khác nhau, mà còn xảy ra trong nội bộ
hệ thống du lịch văn hóa.
Du khách và nhân viên phục vụ du lịch tới từ các nước, các khu vực
khác nhau, điều này tất yếu dẫn đến sự hình thành mâu thuẫn và sinh ra xung
đột trong hoạt động du lịch, từ đó tác động tới các mặt của du lịch văn hóa.
III. Điều kiện để tổ chức:
- Nơi tổ chức du lịch văn hóa phải có các điều kiện để phát triển du
lịch văn hóa như: di tích lịch sử, sản phẩm văn hóa, lễ hội truyền thống dân tộc,
phong tục tín ngưỡng

- Cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở hạ tầng đáp ứng được nhu cầu của
khách du lịch như các điều kiện về lưu trú, ăn uống, đi lại, chăm sóc sức
khỏe… .
- Nguồn nhân lực du lịch phải có vốn hiểu biết sâu rộng về văn hóa
của địa phương.
IV. Nguyên tắc cần chú ý:
-Hoạt động du lịch văn hóa thường nên gắn liền với địa phương nơi có các
điều kiện cần thiết để tổ chức du lịch như: lễ hội, di tích lịch sử, phong tục .
-Người tổ chức cần phải có những sáng tạo trong du lịch, biết khai thác tài
nguyên du lịch văn hóa một cách hợp lí vừa để đáp ứng nhu cầu của khách du
lịch vừa không làm mất đi giá trị văn hóa của nó.
V. Tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch văn hóa:
• Đối với thế giới:
Du lịch văn hóa được xem là loại sản phẩm đặc thù của các nước đang
phát triển thu hút nhiều khách du lịch quốc tế. Du lịch văn hóa chủ yếu dựa
vào những sản phẩm văn hóa, những lễ hội truyền thống dân tộc kể cả những
phong tục tín ngưỡng…để tạo sức hút đối với khách du lịch bản địa và từ khắp
nơi trên thế giới. Đối với khách du lịch có sở thích nghiên cứu, khám phá văn
hóa và phong tục tập quán bản địa, thì du lịch văn hóa là cơ hội để thỏa mãn
nhu cầu đó.
• Đối với Việt Nam:
-Du lịch văn hóa là xu hướng của nhiều nước. Đặc biệt là các nước đang
phát triển. Là loại hình rất phù hợp với bối cảnh Việt Nam, rất tốt cho hoạt
động xóa đói giảm nghèo quốc gia, vì vậy được xem là hướng phát triển của
ngành du lịch Việt Nam.
-Ở Việt Nam nhiều hoạt động du lịch văn hóa được tổ chức dựa trên đặc
điểm các vùng miền.Chương trình Lễ hội Đất Phương Nam, Du lịch Điện Biên,
con đường Di sản miền Trung… là những hoạt động của du lịch văn hóa, thu
hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước.
-Trong số đó, Festival Huế được xem là hoạt động du lịch văn hóa đặc sắc

nhất Việt Nam. Lễ hội được tổ chức thường xuyên 2 năm một lần, với sự hỗ trợ
của Chính phủ Pháp. Lễ hội đã giới thiệu với du khách về lễ hội dân gian của
miền Trung đặc biệt là Nhã nhạc cung đình Huế và Lễ tế đàn Nam Giao…
DU LỊCH NGHIÊN CỨU - HỌC TẬP
I. Định nghĩa
Du lịch nghiên cứu – học tập là loại hình du lịch kết hợp với học tập, nghiên
cứu nhằm đáp ứng nhu cầu hiểu biết thực tế về địa lí, địa chất, lịch sử, khảo
cổ, môi trường, sinh học, khoa học, du lịch…cho khách du lịch.
II. Đặc điểm
 Khách du lịch:
Chủ yếu là các nhà khoa học, học sinh, sinh viên có nhu cầu tìm hiểu thực tế,
phục vụ nghiên cứu khoa học.
 Cơ sở hạ tầng
Các nhà cung ứng dịch vụ thường xây dựng những phòng học ngoài trời được
thiết kế phù hợp với từng nội dung học tập.
Các điểm đến du lịch có đầy đủ các trang thiết bị, dụng cụ phục vụ cho việc tìm
hiểu, quan sát, phân tích, nghiên cứu….
 Thời gian lưu trú
Tùy vào đối tượng, mục đích nghiên cứu, học tập mà thời gian lưu trú có thể là
ngắn ngày hay dài ngày.
Đa số học sinh, sinh viên tham gia du lịch thường lưu trú trong thời gian ngắn
để tìm hiểu thực tế, làm báo cáo môn học,…Còn các nhà khoa học thường có
thời gian lưu trú dài ngày để làm các công trình nghiên cứu khoa học.
 Hướng dẫn viên du lịch
Đa số hướng dẫn viên du lịch là các thầy cô giáo phụ trách chuyên môn, các
chuyên gia hoặc người dân địa phương, hướng dẫn viên có kiến thức sâu rộng
về điểm đến du lịch.
 Điểm đến du lịch
Điểm đến của loại hình du lịch nghiên cứu- học tập thường là các vườn quốc
gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển, viện hải dương học,

các khu di tích lịch sử, các bảo tàng, công trình kiến trúc, các khu giải trí: thảo
cầm viên, công viên nước….
DU LỊCH MICE.
I. Định nghĩa và phân loại du lịch MICE.
MICE là cụm từ viết tắt theo các chữ cái đầu tiếng Anh của các từ:
Meeting (gặp gỡ, hội họp), Incentive (khen thưởng), Convention/ Conference
(hội nghị/ hội thảo) và Exhibition/ Event ( triển lãm, sự kiện). Như vậy, MICE
tour là sự kết hợp của Meeting tour, Incentive tour, Convention tour và
Exhibiton tour, hay nói cách khác, MICE tour là một loại hình du lịch kết hợp
hội nghị, hội họp, khen thưởng, triển lãm, sự kiện được kinh doanh bởi các
công ty, các doanh nghiệp du lịch có tiếng tăm, uy tín và năng lực chuyên môn
cao cũng như bởi các tổ chức kinh tế, xã hội, chính trị có chức năng và thẩm
quyền. Theo đó, MICE tour bao gồm các hoạt động kinh doanh sau:
*Meeting tour:
Đây là loại hình du lịch kết hợp với việc gặp gỡ giữa các cá nhân hoặc
tổ chức nhằm trao đổi, thảo luận về những vấn đề hoặc chủ đề riêng biệt như
thông tin mới về 1 loại sản phẩm hoặc việc tìm ra giải pháp cho 1 vấn đề đang
tồn tại Hoạt động Meeting này bao gồm 2 loại:
- Association Meeting: Đây là hoạt động gặp gỡ, trao đổi thông tin giữa
các nhóm người có cùng quan tâm hoặc cùng nghề nghiệp. Nguồn khách của
Association Meeting thường là các thành viên của các tổ chức quốc tế, các nhà
cung ứng, các nhà thiết kế sản phẩm Quy mô của loại hình này thường nhỏ
(khoảng 50 người đến 200 người), được tổ chức trên nền tảng thường xuyên,
trung bình mất từ 4 đến 5 ngày, thời gian chuẩn bị đòi hỏi phải mất ít nhất 1
năm và được tổ chức luân phiên ít nhất là ở 3 nước khác nhau.
- Corporate Meeting: chia làm 2 loại:
+ Internal Meeting: là hoạt động hội thảo của những người trong cùng một tổ
chức hay cùng một nhóm của công ty nhằm trao đổi thông tin hoặc khen
thưởng trong nội bộ công ty.
+ External Meeting: là hoạt động hội thảo giữa công ty này với công khác

nhằm trao đổi với nhau về việc hợp tác, đầu tư trong kinh doanh và những phát
minh mới.
Thời gian chuẩn bị cũng như quy mô của hoạt động gặp gỡ này nhỏ hơn
Association Meeting.
* Incentive tour:
Là hoạt động du lịch nhằm trao thưởng và khuyến khích tất cả các thành
viên hoặc các người khác có quyền lợi hay công việc liên quan đến một công ty
hoặc một tập đoàn, qua đó động viên các thành tích, thúc đẩy sự đoàn kết, gắn
bó giữa các cá nhân với nhau và với công ty.
Theo cách hiểu ban đầu thì tour du lịch này chỉ dành cho nhân viên của
hãng nhưng ngày nay thì đã mở rộng hơn, ngoài những người làm việc trực tiếp
cho hãng còn có thể có những nhân viên thuộc các công ty con, đại lý hay các
công ty có liên quan và gắn bó mật thiết với lợi ích của hãng Đó có thể là
giám đốc các chi nhánh hay trưởng phòng kinh doanh Do đó, kích thước tập
khách của Incentive tour cũng vì thế được mở rộng hơn.
Các tour du lịch như vậy do hãng tài trợ là một hình thức khuyến khích,
thưởng cho nhân viên của mình về những đóng góp của họ cho sự phát triển
công ty. Chính đặc điểm như vậy mà số lượng khách tham gia thường khá lớn.
Thông thường 1 tour du lịch lớn trung bình, số lượng khách thường chỉ dao
động từ 100 – 150 khách, kéo dài từ 4 – 5 ngày hoặc từ 8 – 9 ngày với những
hoạt động mang tính tập thể, được tổ chức trong nhà hoặc ngoài trời phụ thuộc
vào thời tiết. Tất nhiên có những đoàn incentive, số lượng khách có thể lên tới
hơn 200 hay thậm chí chỉ 30 – 50 khách, nhưng lượng đoàn như thế này
thường không nhiều.
Nội dung của Incentive tour được tập trung vào hoạt động tập thể đề ra
theo yêu cầu riêng của từng hãng. Bên cạnh những tour du lịch được tổ chức
cho những đối tượng khách tập trung có cùng một đặc điểm thành phần nào đó
nhưng không phải thuộc về hãng hay công ty nào. Có thể thấy một số tour du
lịch quen thuộc có ít nhiều mang dáng dấp của một tour Incentive như các
chuyến đi du lịch của học sinh, sinh viên, theo đơn vị lớp, khoa, trường, các đợt

tập huấn, dã ngoại của cán bộ các đoàn thể, tổ chức xã hội như Hội cựu chiến
binh, Hội phụ nữ Những chuyến du lịch này cũng nhằm mục đích khuyến
khích những người tham gia phát huy được năng lực của mình và cũng thường
có các hoạt động tập thể để nâng cao tinh thần đoàn kết của các thành viên.
* Convention tour:
Là loại hình du lịch kết hợp với hoạt động hội nghị, hội thảo giữa những
chuyên gia có trình độ ngang hàng nhằm trao đổi thông tin với nhau. Số lượng
tham gia khoảng từ 300 – 1500 người, thông thường khoảng 800 người, thời
gian chuẩn bị không dưới 2 năm. Thông thường hoạt động này được tổ chức
trước thềm các sự kiện quốc gia, quốc tế lớn và bao gồm 2 loại:
- Convention organized by members (Hội nghị được tổ chức bởi các
thành viên luân phiên): là loại hội nghị được tổ chức lần lượt ở các nước theo
vần ABC.
- Bid to host a convention (Hội nghị do nước chủ nhà được lựa chọn xin
đăng cai tổ chức): Hội nghị này do một nước tổ chức, các thành viên gửi đại
diện tham dự, đòi hỏi kinh phí lớn, cần có sự hỗ trợ của cả phía nhà nước và
phía tư nhân, thời gian chuẩn bị khá dài.
Đặc điểm của Convention tour là tính toàn bộ, tính định kì, diễn ra ở
một địa điểm cố định với lượng người tham dự đông.
* Exhibition/ Event tour:
Exhibition tour: là hoạt động du lịch kết hợp với việc giới thiệu hàng
hóa và dịch vụ cho thị trường mục tiêu và những đối tượng có quan tâm, qua
đó quảng bá rộng rãi cho công chúng, bao gồm 2 loại:
+ Trade show: là một cuộc triển lãm được tổ chức đặc biệt cho giới lãnh đạo
kinh doanh.
+ Comsumer show: là một cuộc triển lãm nhằm giới thiệu cho người tiêu dùng
sản phẩm, hàng hóa cũng như lợi ích khi sử dụng các sản phẩm, hàng hóa đó.
Event tour: là hoạt động tổ chức các chương trình có qui mô, tầm cỡ
không cố định và thu hút sự quan tâm, chú ý của một lượng lớn các đối tượng
khác nhau nhằm đạt được những mục đích cụ thể như xúc tiến, quảng bá hay

tôn vinh một giá trị nào đó thông qua đó cũng đạt được những mục tiêu về
phát triển du lịch. Các hội thi, các chương trình liên hoan, chương trình năm du
lịch là những ví dụ tiêu biểu của loại hình này.
Đặc trưng của du lịch MICE.
Du lịch MICE là loại hình du lịch có sự kết hợp với một hoặc nhiều hoạt
động hội nghị, hội thảo, gặp gỡ, khen thưởng, triển lãm, sự kiện nổi bật ở một
vùng, một quốc gia nhất định. Cũng như các loại hình du lịch khác, du lịch
MICE có những đặc trưng riêng của mình.
 Đối tượng khách du lịch MICE:
Thường giữ những cương vị, địa vị quan trọng trong xã hội cũng như có
tầm ảnh hưởng nhất định đến các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Họ có thể là các nguyên thủ quốc gia, các vị lãnh đạo nhà nước, các quan chức
cấp cao của chính phủ, bộ, ban, ngành, các nhà khoa học, chính trị gia, các nhà
hoạt động xã hội, văn nghệ sĩ, nhà quản lý, thương gia và thường gồm nhiều
quốc tịch hoặc đến từ nhiều tổ chức khác nhau.
Không những thế, khách du lịch MICE thường được tổ chức với số
lượng đông, được đài thọ kinh phí bởi một số tổ chức, chính phủ cùng với khả
năng thu nhập và chi trả cao nên họ có nhu cầu về các dịch vụ cung ứng hoàn
hảo, sáng tạo, chất lượng cao.
 Cơ sở hạ tầng, vật chất:
Do thời gian lưu trú ngắn, chương trình hoạt động bận rộn, chặt chẽ nên
việc tổ chức các hoạt động du lịch MICE luôn đòi hỏi tính chuyên nghiệp, khoa
học và sáng tạo. Đối với bất cứ một chương trình du lịch MICE nào, các hội
nghị, hội thảo, meeting, triển lãm luôn là nội dung chủ yếu, có tầm quan trọng
bậc nhất và thường có những chủ đề cụ thể, riêng biệt cũng như mục đích cần
đạt tới. Cơ sở hạ tầng phục vụ thị trường du lịch MICE như phòng ốc với
những yêu cầu về kỹ thuật âm thanh, ánh sáng, đèn chiếu để tổ chức hội nghị
phải thật tốt, đạt tiêu chuẩn cao. Ngoài ra các cơ sở vật chất phục vụ ăn ở, đi
lại, vui chơi giải trí…cũng phải thật tốt, thật tiện nghi để thỏa mãn nhu cầu
phong phú, đa dạng của các đối tượng khách. Bên cạnh đó, các chương trình

này còn bao gồm các hoạt động tham quan, nghỉ dưỡng, thư giãn, ăn, nghỉ,
thưởng thức văn nghệ từ đó thỏa mãn các nhu cầu phong phú, đa dạng của các
đối tượng khách.
 Thời gian lưu trú
Một nét đặc trưng đáng chú ý khác là du lịch MICE thường không có
mùa vụ rõ rệt. Vì thế, bên cạnh lợi nhuận khổng lồ, việc kinh doanh và phát
triển du lịch MICE còn là một trong những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế
tính mùa vụ trong hoạt động du lịch.
Điều kiện ra đời và phát triển du lịch MICE.
Để hấp dẫn và phát triển loại hình du lịch MICE, mỗi điểm đến (một
thành phố, một vùng, một quốc gia ) phải có khả năng đáp ứng được các yêu
cầu cao trên nhiều phương diện như môi trường kinh doanh, cơ sở hạ tầng, cơ
sở vật chất kĩ thuật cũng như nguồn nhân lực.
Trước hết, việc kinh doanh loại hình du lịch này đòi hỏi phải có một môi
trường kinh tế - chính trị - xã hội ổn định, năng động, độc lập và đáng tin cậy.
Bên cạnh đó, việc tổ chức các hoạt động du lịch MICE còn phải đảm
bảo đầy đủ các điều kiện cần thiết về cơ sở hạ tầng. Đó là sự thuận tiện, an toàn
của giao thông vận tải, nhất là các sân bay tầm cỡ quốc gia, quốc tế; là sự hiện
đại, nhanh nhạy, phong phú của hệ thống bưu chính viễn thông – thông tin liên
lạc, đặc biệt là các phương tiện truyền thông, truyền hình trực tiếp, liên tục, đa
năng và là sự lớn mạnh, linh hoạt, uy tín của hệ thống tài chính ngân hàng.
Quan trọng hơn, loại hình du lịch MICE luôn đòi hỏi một hệ thống cơ sở
vật chất kỹ thuật hiện đại, tiện nghi, quy mô lớn, đạt tiêu chuẩn quốc tế và
thường xuyên được nâng cấp, trong đó chủ yếu là các khách sạn đạt tiêu chuẩn
từ 3 – 5 sao. Cụ thể, không gian tổ chức các hội nghị, hội thảo, meeting phải
là các hội trường, phòng họp rộng lớn, được đảm bảo các điều kiện an ninh,
được cách âm và được trang bị đầy đủ các thiết bị hiện đại như âm thanh, ánh
sáng, máy vi tính nối mạng internet, projector, fax, điện thoại, các thiết bị
truyền hình trực tiếp Ngoài ra, các cơ sở tổ chức MICE tour còn phải có khả
năng cung cấp các dịch vụ lưu trú, ăn uống, vận chuyển cũng như vui chơi, giải

trí chất lượng hoàn hảo cùng các chương trình tham quan phong phú, hấp dẫn
và ấn tượng.
Tuy nhiên, yếu tố quyết định trực tiếp và cơ bản nhất đến khả năng khai
thác và phát triển loại hình du lịch MICE phải kể đến yếu tố con người, bao
gồm từ khâu tổ chức đến khâu phục vụ. Những người tổ chức phải luôn là
những người có nhiều kinh nghiệm, sự chuyên nghiệp, sáng tạo và phải có khả
năng tổ chức các hoạt động MICE trong khu vực cũng như tại mỗi cơ sở tổ
chức riêng biệt.
Cuối cùng, không kém phần quan trọng là phải có những chính sách,
chiến lược xúc tiến, quảng bá để tạo dựng được hình ảnh về một điểm đến thực
sự thành công của du lịch MICE đối với các tập khách tiềm năng và mục tiêu.
IV. Thực trạng khai thác du lịch MICE trên thế giới và Việt Nam
1. Thực trạng khai thác du lịch MICE trên thế giới.
MICE là loại hình du lịch được rất nhiều nước đẩy mạnh phát triển vì giá
trị của dịch vụ này lớn hơn nhiều so với du lịch cá nhân hay du lịch nhóm.
Theo nhận định của các chuyên gia, du lịch MICE đem lại hiệu quả đáng kể,
nhờ lượng khách đông và tập trung. Khách MICE là khách hạng sang, giàu có,
mức chi cho tiêu dùng cao, sử dụng nhiều dịch vụ cao cấp, thời gian lưu trú dài
ngày. Ngoài lợi ích cho ngành Du lịch, MICE còn tác động tích cực đến các
ngành kinh tế khác, bởi MICE là sản phẩm tổng hợp từ du lịch riêng lẻ kết hợp
các chương trình du lịch MICE, với sự có mặt của nhiều nhân vật nổi tiếng như
chính khách, nghệ sĩ, doanh nhân
Thống kê của Tổ chức Du lịch Thế giới cho thấy, giá trị thu được từ du
lịch MICE trên toàn thế giới hàng năm khoảng 30 tỉ đô la Mỹ và nó có mối
quan hệ với các lĩnh vực kinh tế khác, tạo ra giá trị gần 5.490 tỉ đô la Mỹ,
chiếm hơn 10% GDP thế giới.
Theo số liệu điều tra của tổ chức hiệp hội, hội nghị thế giới (ICCA) thì:
- Chi tiêu trung bình trong các cuộc hội họp quốc tế là 343 USD/ ngày/ người.
- Chi tiêu trung bình trong một năm của các hiệp hội, công ty lớn trên thế giới
là 3 tỉ USD.

- Chi tiêu tổng cộng các cuộc họp, du lịch khen thưởng (trong nước và quốc tế)
đạt 280 tỉ USD.
Trên thị trường du lịch MICE của thế giới hiện nay các nước châu Âu và
châu MĨ có những nhu cầu và khả năng cung ứng tốt cho các cuộc họp, hội
thảo. Các quốc gia đứng đầu về số lượng các cuộc hội họp, hội nghị như: Mỹ,
Anh, Đức, Nhật
Du lịch MICE đã dần dần phát triển mạnh ở các nước châu Á. Điển hình
nhất phải kể đến Trung tâm Hội nghị Hồng Kông (Trung Quốc), một trong
những nơi hội tụ khách du lịch MICE lớn nhất châu á - Thái Bình Dương, với
4,5 triệu lượt khách/năm. Trung tâm Hội nghị Impact (Thái Lan) thu hút
khoảng 3 triệu khách MICE/năm. Nước này hiện nay là điểm đến lớn thứ 18
của thế giới đối với khách MICE với 30 sự kiện tầm cỡ quốc tế được tổ chức
mỗi năm.
2. Hoạt động du lịch MICE ở Việt Nam
2.1. Những thế mạnh của Việt Nam đối với loại hình du lịch MICE.
Mặc dù MICE đã xuất hiện và phát triển từ lâu trên thế giới, nhưng du lịch
MICE với Việt Nam lại là loại hình tương đối mới. Tuy vậy, Việt Nam được
đánh giá là một “Ngôi sao đang lên”, một điểm đến mới hấp dẫn khách du lịch
MICE từ khắp nơi trên thế giới.
Thứ nhất, trong bối cảnh tình hình thế giới đang diễn ra phức tạp, mất ổn
định tại nhiều quốc gia và khu vực dẫn đến tâm lý không an toàn cho du khách
thì Việt Nam nổi lên như một điểm đến an toàn, thân thiện trong mắt du khách
quốc tế. Bên cạnh đó, các điểm đến như Singapore, Bangkok, Jakarta, Kuala
Lumpua trở nên quá quen thuộc với đối tượng khách du lịch MICE nên họ
muốn tìm đến những điểm mới lạ thì Việt Nam trở thành điểm đến đầy triển
vọng cho loại hình du lịch này.
Thứ hai, với nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng, trải dài trên
nhiều địa hình khác nhau: biển, rừng, sông hồ, đồi núi các giá trị văn hóa đặc
sắc mang tính truyền thống lịch sử lâu đời, cùng với 5 di sản thế giới đã thu hút
khách du lịch thế giới đến Việt Nam ngày càng tăng trong đó có khách du lịch

MICE.
Thứ ba, với sự nhộn nhịp của thị trường MICE trong thời gian gần đây, các
công ty kinh doanh trong ngành du lịch như các hãng lữ hành, hàng không, khu
du lịch, nhà hàng, khách sạn, trung tâm tổ chức hội chợ và triển lãm… đã có
những bước liên kết dịch vụ để tạo ra sản phẩm du lịch trọn gói nhằm thúc đẩy
lọai hình du lịch MICE. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp cũng muốn nắm lấy
cơ hội từ lượng khách tiềm năng trên bằng cách đầu tư lớn vào các khu du lịch
và nghỉ dưỡng. Hiện tại đang có rất nhiều dự án du lịch trị giá hàng trăm triệu
USD đang được thực hiện tại VN. Có thể kể đến như dự án nâng cấp Đen Giòn
Resort lên thành Resort 4 sao đầu tiên tại Ninh Thuận, xây dựng Khu du lịch
Tín Nghĩa tại Hồ Tuyền Lâm - Đà Lạt, Dự án Khu du lịch cù lao Tân Vạn -
Đồng Nai. Tổng đầu tư vào các dự án này dự kiến lên đến khoảng 300 triệu
USD do Công ty Tín Nghĩa làm chủ đầu tư.
Thứ tư, cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch từng bước được cải thiện và không
ngừng phát triển. Hiện Việt Nam có trên 200 khách sạn từ 3 đến 5 sao, đáp ứng
được yêu cầu lưu trú của khách và có nhiều khả năng tổ chức được các hội
nghị, hội thảo và các sự kiện văn hóa, thể thao tầm cỡ quốc tế.
Tất cả những yếu tố trên chính là điều kiện và lợi thế để Việt Nam phát
triển du lịch nói chung và du lịch MICE nói riêng. Do được xây dựng kế hoạch
trước, trong thời gian dài, có thể diễn ra quanh năm nên phát triển MICE sẽ góp
phần quan trọng nhằm khắc phục tính thời vụ trong du lịch.
2.2. Thực trạng khai thác du lịch MICE ở Việt Nam trong những năm
qua.
Hiện nay Việt Nam chính là một trong 10 điếm đến hàng đầu của du lịch
MICE trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.MICE là loại hình du lịch còn
mới và mang lại lợi nhuận cao so với các loại hình du lịch khác. Sự “bùng nổ”
của lượng du khách MICE đến Việt Nam trong thời gian qua là một tín hiệu vui
với ngành Du lịch Việt Nam.
MICE được các công ty trong ngành du lịch Việt Nam khai thác từ nhiều
năm nay. Hãng hàng không quốc gia Việt Nam (Việt Nam airlines) và

Saigontourism cùng các khách sạn 5 sao ở Việt nam như: New World, Sofitel,
Seraton, Legend, Equaterial đã thành lập nên “Vietnam – Meetings –
Incentives club”. Câu lạc bộ đã tổ chức tiếp thị tại các hội chợ quốc tế như:
AIME tại Úc, IT & CMA tại Thái Lan, IMEX tại Đức, EITBM tại Thụy Sỹ.
Câu lạc bộ còn quan tâm khuyếch trương hình ảnh của Việt Nam trên các tạp
chí chuyên nghành như TTG (Singapore), CEI (Hong Kong), MICE NET (Úc),
tổ chức nhiều đòan tham quan và tìm hiểu thị trường Việt Nam cho các nhà báo
chuyên ngành du lịch MICE và các nhà tổ chức sự kiện quốc tế tại Singapore,
Hong Kong, Đức, Úc. Câu lạc bộ đã tổ chức thành công các họat động giới
thiệu Việt Nam tại Singapore (tháng 03/2005) và Sydney (tháng 09/ 2005).
Đồng thời Việt Nam đã nhận được hợp đồng phục vụ khách du lịch MICE
trong 2 năm (2005 – 2006) đến từ Úc, Singapore, Đức.
Các khách sạn có doanh thu từ thị phần du khách du lịch MICE năm 2005
tăng 10% so với năm 2004 và công suất phòng đạt trên 80%.
Mới đây, giữa cuối tháng 8/2007 là đoàn khách của Tập đoàn Schorders
Investment Management Limited, tập đoàn chuyên về quản lý tài sản có trụ sở
tại Anh Quốc đã chọn VN là điểm đến cho trên 180 cán bộ và nhân viên của
tập đoàn tại Singapore lưu trú ở VN 4 ngày. Cũng trong thời gian này một đoàn
khách MICE lớn với hơn 820 đại biểu của những nước thuộc khu vực ASEAN
như Malaysia, Thái Lan, Philippines, Singapore và các khách mời đến từ Mỹ,
Pháp, Đức, Ý, Nhật… đã đến tham dự Hội nghị Tai - Mũi - Họng và Phẫu thuật
Đầu - Cổ ASEAN lần thứ 12 diễn ra tại TP.HCM từ ngày 19 - 24/8/2007.
Thành công của hội nghị không chỉ góp phần nâng cao hình ảnh và vị thế của
VN trong lòng bạn bè quốc tế mà còn là động lực quan trọng đối với
Saigontourist trong việc đẩy mạnh phát triển mảng du lịch MICE chuyên
nghiệp.
Sau sự kiện Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO vào ngày
7/12/2006 đã thổi bùng làn sóng đi lại, nghiên cứu thị trường, xúc tiến đầu
tư vào Việt Nam.Tại các công ty du lịch thì hợp đồng đưa đoàn ra, đoàn vào
du lịch Việt Nam bay về tới tấp. Sự kiện gia nhập WTO đã thúc đẩy dòng

khách đi lại, học hỏi thị trường ngày càng nhiều.
Đặc biệt hơn là Việt Nam đã tổ chức thành công hội nghị các đại biểu cấp
cao APEC. Đây chính là sự kiện quan trọng đánh dấu bước phát triển trong
hoạt động du lịch MICE ở Việt Nam. Hội nghị APEC là cơ hội quảng bá tốt
nhất cho việc giới thiệu hình ảnh đất nước cùng những sản phẩm du lịch của
Việt Nam hiện nay. Ngay sau sự kiện tổ chức thành công hội nghị APEC thì
hoạt động du lịch MICE đã có 1 bước tiến đáng kể: Chỉ tính từ đầu năm đến
nay, Công ty du lịch Vietravel đã tổ chức hơn 350 đoàn với số lượng trên
20.000 lượt du khách đi tham quan kết hợp với tổ chức hội thảo, hội nghị
khách hàng. Công ty du lịch Fiditourist cũng nhận được các hợp đồng tổ chức
du lịch cho các khách hàng Pepsico, Dược phẩm Fournier, Dai-ichi, HSBC,
Shell, BTA, Syngenta, Hawaco, Diethelm, Toyota, Petronas, Mobiphone với
số lượng lên tới gần 15.000 khách, tăng 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Công
ty du lịch Saigontourist cũng có các đoàn khách lớn như 1.600 khách của Công
ty Epic Designer VN, 1.000 nhân viên Công ty Prudential, 500 khách của Công
ty nhựa Rạng Đông
Khách sạn Rex cũng “kéo” được các hội nghị, hội thảo có qui mô quốc tế.
Gần đây nhất là hội nghị các luật sư châu Á - Thái Bình Dương với hơn 100
luật sư. Ông Hồ Ngọc Trung, phụ trách bộ phận MICE của Rex, cho hay: “Các
tháng tới, lượng khách MICE đặt chỗ tại khách sạn cũng tăng 30-50%”.
Khách sạn năm sao Caravelle (Tp.HCM) có 335 phòng, với mức giá thấp nhất
235 USD/phòng/ngày. Tuy nhiên, từ đầu tháng 10 - 2008 đến nay, khách sạn
này luôn ở trong tình trạng hết phòng và lượng khách đến lưu trú với mục đích
tham dự các hội nghị, hội chợ, triển lãm chiếm đến 75%. Tại các khách sạn
lớn khác ở Tp.HCM như Sheraton, New World, Legend, Rex , lượng khách
MICE đến lưu trú cũng tăng cao.
2.3 Những vấn đề đặt ra cho du lịch MICE ở Việt Nam
Tuy có sẵn những thế mạnh, những điều kiện thuận lợi trên nhiều phương
diện nhưng những yêu cầu của quá trình kinh doanh, khai thác, phát triển du
lịch MICE một cách hiệu quả, bền vững và lâu dài đã đặt ra cho ngành du lịch

Việt Nam những khó khăn và thách thức to lớn. Điều đó đòi hỏi những giải
pháp mà du lịch Việt Nam cần phải tính tới trong chiến lược phát triển loại
hình du lịch có giá trị kinh tế cao này là cần thành lập một tổ chức xúc tiến phát
triển MICE; nắm chắc thông tin thị trường; thiết lập chiến lược thông tin quảng
bá rộng rãi trong nước và đặc biệt là nước ngoài; xây dựng các chiến lược
marketing cụ thể và nhất là cần phải có kế hoạch đào tạo chuyên nghiệp những
người tiếp thị giỏi để làm việc trong lĩnh vực này; cải thiện, nâng cấp cơ sở hạ
tầng phục vụ khách MICE như hệ thống sân bay, giao thông, hệ thống khách
sạn, trong đó, vị trí của các trung tâm hội chợ triển lãm quốc tế.
DU LỊCH TRỌN GÓI - GÓI TRỌN NIỀM TIN
I. Khái niệm
Du lịch trọn gói: Là loại hình du lịch mà khách du lịch muốn tham gia vào
một tuyến du lịch với một số tiền nhất định,trong đó bao gồm tất cả các loại
dịch vụ mà công ty lữ hành liên kết với các đơn vị kinh doanh khác nhau nhằm
cung cấp cho du khách như lưu trú, vận chuyển, ăn uống, hướng dẫn, bảo hiểm,
tham quan… trong toàn bộ chuyến đi.
II. Đặc điểm của du lịch trọn gói
Chương trình du lịch trọn gói có người tháp tùng có đặc điểm nổi bật sau:
 Bao gồm hầu hết các thành phần dịch vụ vận chuyển, lưu trú, ăn uống, tham
quan, giải trí, hướng dẫn và các dịch vụ khác đã được sắp đặt trước ở mức độ
tối đa.
 Giá trọn gói của tất cả các dịch vụ, chi phí thường thấp hơn so với dịch vụ cùng
loại của các chương trình du lịch khác. Giá tính theo đầu khách ở buồng đôi,
giá theo thời vụ du lịch.
 Khách mua chương trình được tổ chức thành đoàn và hướng dẫn viên chuyên
nghiệp được doanh nghiệp lữ hành tuyển chọn đi cùng khách và phục vụ suốt
từ khi đón khách cho đến khi tiễn khách.
 Một chương trình du lịch trọn gói có người tháp tùng tiêu biểu phải được sắp
đặt trước và liên kết bởi các thành phần sau:
• Phương tiện vận chuyển: trong chương trình du lịch tùy thuộc vào các điều

kiện cụ thể mà sử dụng các phương tiện, chẳng hạn có thể kết hợp giữa hai loại
máy bay/ ô tô, máy bay/ tàu thủy hoặc chỉ một loại tàu hỏa, hoặc chỉ ô tô…Đặc
điểm của phương tiện vận chuyển như là chủng loại, thứ hạng, nhà ga, bến
cảng, sân bay, uy tín của các hảng vận chuyển. Dịch vụ vận chuyển được xác
định là thành phần chính, quan trọng thứ nhất của chương trình du lịch trọn gói
vì nó thỏa mãn nhu cầu thiết yếu khi đi du lịch.
• Nơi ở được sắp xếp là thành phần quan trọng thứ hai của chương trình du lịch
trọn gói vì nó thõa mãn nhu cầu thiết yếu. Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể mà
nơi ở có thể là các loại hạng cơ sở lưu trú, chủng loại buồng giường…
• Lộ trình được sắp xếp là thành phần quan trọng thứ ba của chương trình du
lịch trọn gói.Nó bao gồm số điểm dững, thời gian tại mỗi điểm dừng, thời gian
và các khoảng cách giữa các điểm đi và điểm đến, các hoạt động cụ thể của
từng buổi từng ngày với thời gian và không gian được ấn định trước.
• Bữa ăn được sắp xếp vào thành phần quan trọng thứ tư của chương trình du
lịch trọn gói. Nó bao gồm các bữa ăn, nơi ăn, thực đơn có thể chọn món ăn hay
không, các loại nước uống không cồn.

×