Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

công tác thu BHXH tại Bảo hiểm xã hội quận Hai Bà Trưng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.36 KB, 62 trang )

Lời nói đầu.
Trong công cuộc đổi mới đất nớc, các ngành, các lĩnh vực hoạt động đều
có đóng góp nhất định và luôn tự cải tiến để vơn tới sự hoàn thiện.
Bảo hiểm là một ngành dịch vụ, có giá trị quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân. Bảo hiểm không chỉ thực hiện việc huy động vốn cho nền kinh tế mà
điều quan trọng là góp phần đảm bảo ổn định tài chính cho các cá nhân, gia
đình, cho mọi tổ chức và doanh nghiệp để khôi phục đời sống và hoạt động sản
xuất kinh doanh. Ngày nay bảo hiểm không còn xa lạ mà đã len lỏi đến mọi
làng quê, mọi cơ quan, doanh nghiệp và đã thâm nhập vào mọi hoạt động trong
đời sống kinh tế xã hội. Kinh tế ngày càng phát triển, đời sống càng cao thì nhu
cầu bảo hiểm ngày càng lớn, càng xuất hiện nhiều nghiệp vụ mới.
Bảo hiểm xã hội (BHXH) không những là một loại hình bảo hiểm mà nó
còn là một cơ chế bảo vệ ngời lao động trong trờng hợp ngời lao động mất,
giảm thu nhập tạm thời hoặc vĩnh viễn do mất, giảm khả năng lao động. BHXH
mà còn là một trong những hệ thống bảo đảm xã hội.
Là một sinh viên của Trờng Đại học Kinh Tế Quốc Dân và tơng lai là
một ngời tham gia làm công tác Bảo Hiểm em đã chọn thực tập tại BHXH Quận
Hai Bà Trng. Qua một thời gian thực tập tại đây đã giúp cho em có cái nhìn sâu
sát hơn trong công việc thực tế của ngành BHXH. Và trong quá trình thực tập,
em đợc may mắn vào thực tập tại bộ phận thu BHXH của quận. Do đợc học tập,
hớng dẫn, chỉ bảo và thực hành làm các công việc của một cán bộ thu phải làm
em chọn cho mình đề tài để làm chuyên đề thực tập là: Công tác thu BHXH
tại Bảo Hiểm Xã Hội Quận Hai Bà Trng
Bài viết của em gồm 3 phần chính sau:
Phần I:
Tổng quan về BHXH và công tác thu BHXH.
Phần II:
Thực trạng công tác thu BHXH Quận Hai Bà Trng.
Phần III:
1
Một số kiến nghị đối với công tác thu BHXH ở BHXH Quận Hai


Bà Trng.
Đợc sự quan tâm chỉ bảo tận tình của các cô, các chú và của các anh, chị
tại cơ quan nên đã giúp em có thể hoàn thành bài viết của mình. Tuy nhiên, do
đây là lần đầu em đợc làm quen với công việc thực tế và tự viết nên không thể
tránh khỏi những thiếu sót, em mong đợc sự thông cảm và chỉ bảo, đóng góp ý
kiến của thầy cô giáo của các cô, các chú, các anh, các chị và các bạn.
Em xin chân thành biết ơn.
2
Phần I:
Tổng quan về BHXH và công tác thu BHXH.
I.Bản chất, đối t ợng, chức năng và tính chất của BHXH.
1.Bản chất của BHXH.
1.1.Sự ra đời và phát triển của BHXH.
Cùng với sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá, sức lao động trở thành hàng
hoá đợc mua bán trên thị trờng làm phát sinh quan hệ thuê mớn lao động. Thời
kỳ đầu chủ sử dụng lao động chỉ cam kết trả công cho ngời lao động theo thời
gian họ làm việc, không trả công thời gian ngời lao động nghỉ làm việc do họ bị
ốm đau tai nạn Điều đó đã gây khó khăn không ít cho ng ời lao động đặc biệt
khi thời gian lao động của họ bị kéo dài không đủ để cho họ tái sản xuất sức lao
động. Trớc tình trạng đó những ngời lao động liên kết lại với nhau đấu tranh
chống lại giới chủ, đòi họ phải trả tiền lợng với một mức nhất định cho những
ngời lao động phải nghỉ lao động vì những rủi ro trên.
Mâu thuẫn này kéo dài ảnh hởng đến đời sống kinh tế xã hội do đó nhà
nớc đã phải đứng ra can thiệp bằng cách bắt buộc cả ngời lao động và chủ sử
dụng lao động phải trích thu nhập hàng tháng để đóng vào quỹ chung, từ đó bù
đắp một phần thu nhập bị mất khi ngời lao động gặp phải rủi ro. Và khi thiếu sẽ
đợc sự hỗ trợ từ Ngân sách Nhà nớc và đây đợc gọi là BHXH.
Nh vậy BHXH ra đời là sự bù đắp một phần thu nhập bị mất cho ngời lao
động khi gặp phải rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm.
Qua đó hình thành một quỹ tài chính tập trung có sự đóng góp của ngời lao

động, ngời chủ sử dụng lao động và Nhà nớc. Từ đó giúp ngời lao động và gia
đình họ ổn định cuộc sống của chính mình.
1.2.Bản chất của BHXH.
Con ngời muốn tồn tại và phát triển trớc hết phải ăn, mặc, ở và đi lại
v.v Để thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu đó, ng ời ta phải lao động để làm ra
những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm đợc tạo ra ngày càng nhiều thì đời
3
sống con ngời ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn.
Nh vậy, việc thỏa mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con ngời phụ
thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhng trong thực tế không phải lúc
nào con ngời cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh
sống bình thờng. Trái lại, có rất nhiều trờng hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu
nhiên phát sinh làm cho ngời ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện
sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn trong lao động,
mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy
giảm v.v Khi rơi vào những tr ờng hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc
sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện
một số nhu cầu mới nh: cần đợc khám chữa bệnh và điều trị khi ốm đau; tai nạn
thơng tật nặng cần phải có ngời chăm sóc nuôi dỡng v.v Bởi vậy, muốn tồn
tại và ổn định cuộc sống, con ngời và xã hội phải tìm ra và thực tế đã tìm ra
nhiều cách giải quyết khác nhau nh: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ
cộng đồng; đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nớc v.v Rõ ràng,
những cách đó hoàn toàn thụ động và không chắc chắn.
4
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mớn nhân công trở nên
phổ biến. Lúc đầu ngời chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhng về sau phải đã
cam kết cả việc bảo đảm cho ngời làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ
trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn, thai sản
v.v Trong thực tế, nhiều khi các tr ờng hợp trên không xảy ra và ngời chủ
không phải chi ra một đồng nào. Nhng cũng có khi xảy ra dồn đập, buộc họ một

lúc phải bỏ ra nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ-
thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc
đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống
kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nớc đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu
thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng đợc vai trò của Nhà nớc, mặt khác
buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng
đợc tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với ngời làm
thuê. Sự đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên
phạm vi một quốc gia. Quỹ này còn đợc bổ sung từ ngân sách Nhà nớc khi cần
thiết nhằm đảm bảo cho ngời lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi.
Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi cả ngời lao động
đợc dàn trải, cuộc sống của ngời lao động và gia đình họ đợc đảm bảo ổn định.
Giới chủ cũng thấy mình có lợi và đợc bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình
thờng, tránh những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập
trung đợc thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát
sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo.
Toàn bộ những hoạt động đối với những mối quan hệ ràng buộc chặt
chẽ trên đợc thế giới quan niệm là bảo hiểm xã hội đối với ngời lao động. Nh
vậy, BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với ngời
lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động,
mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm
đảm bảo đời sống cho ngời lao động và gia đình họ góp phần bảo đảm an toàn
xã hội.
5
Với cách hiểu nh trên, bản chất của BHXH đợc thể hiện ở những nội
dung chủ yếu sau đây:
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là
trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trờng, mối quan hệ
thuê mớn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển
thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của

BHXH hay BHXH không vợt quá trạng thái kinh tế của mỗi nớc.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao
động và phát sinh giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên đợc
BHXH. Bên tham gia BHXH chỉ là ngời lao động hoặc cả ngời lao động và
ngời sử dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông th-
ờng là cơ quan chuyên trách do Nhà nớc lập ra và bảo trợ. Bên đợc BHXH
là ngời lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong
BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con
ngời nh: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp Hoặc cũng có thể là
những trờng hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên nh: tuổi già, thai sản
Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao
động.
- Phần thu nhập của ngời lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những
biến cố, rủi ro sẽ đợc bù đắp hoặc thay thế bằng một quỹ tiền tệ tập trung đ-
ợc tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu,
ngoài ra còn đợc sự hỗ trợ của Nhà nớc.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thảo mãn những nhu cầu thiết yếu của ngời
lao động trong trờng hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục
tiêu này đã đợc tổ chức lao động quốc tế (ILO) cụ thể hoá nh sau:
+ Đền bù cho ngời lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo
nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật.
6
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng nhu cầu của dân c và các nhu cầu
đặc biệt của ngời già, ngời tàn tật và trẻ em.
Với những mục tiêu trên, BHXH đã trở thành một trong những quyền
con ngời và đợc Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào Tuyên ngôn
Nhân quyền ngày 10/12/1948 rằng: Tất cả mọi ngời với t cách là thành viên
của xã hội có quyền hởng BHXH, quyền đó đợc đặt cơ sở trên sự thoả mãn các

quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát
triển của con ngời.
Tại nớc ta, BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách bảo đảm
an sinh xã hội. Ngoài BHXH, chính sách bảo đảm BHXH còn có cứu trợ xã hội
và u đãi xã hội.
Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của nhà nớc và xã hội về các thu nhập và các
điều kiện sinh sống khác đối với mọi thành viên của xã hội, trong những trờng
hợp bị bất hạnh, rủi ro, nghèo đói, không đủ khả năng để tự lo cuộc sống tối
thiểu của bản thân và gia đình. Sự giúp đỡ này đợc thực hiện từ các nguồn quỹ
dự phòng của Nhà nớc, bằng tiền hoặc bằng hiện vật đóng góp của các tổ chức
xã hội và những ngời hảo tâm.
Ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ đặc biệt cả về vật chất và tinh thần của Nhà
nớc, của xã hội nhằm đền đáp công lao đối với những ngời hay một bộ phận xã
hội có nhiều cống hiến cho xã hội. Chẳng hạn những ngời có công với nớc, liệt
sỹ và thân nhân liệt sỹ, thơng binh, bệnh binh v.v.v Đều là những đối t ợng đợc
hởng sự đãi ngộ của Nhà nớc, của xã hội, u đãi xã hội tuyệt nhiên không phải là
sự bố thí, ban ơn, mà nó là một chính sách xã hội có mục tiêu chính trị kinh
tế xã hội, góp phần củng cố thể chế chính trị của Nhà nớc trớc mắt và lâu
dài, đảm bảo sự công bằng xã hội.
Mặc dù có nhiều điểm khác nhau về đối tợng và phạm vi, song BHXH,
cứu trợ xã hội và u đãi xã hội là những chính sách xã hội không thể thiếu đợc
của một quốc gia. Những chính sách này luôn bổ sung cho nhau và tất cả đều
góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
2. Đối tợng của BHXH
7
BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỷ 19, khi nền công nghiệp và nền
kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nớc châu Âu. Từ năm
1883, ở nớc Phổ (CHLB Đức ngày nay) đã ban hành đạo luật bảo hiểm y tế.
Một số nớc châu Âu và Bắc Mỹ mãi đến cuối những năm 1920 mới có đạo luật
về BHXH.

BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi
do ngời lao động bị giảm hoặc bị mất khả năng lao động, bị mất việc làm vì các
nguyên nhân rủi ro nh ốm đau, tai nạn lao động, già yếu ... Chính vì vậy, đối t-
ợng của BHXH chính là thu nhập của ngời lao động bị biến động giảm hoặc
mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những ngời
tham gia BHXH.
Đối tợng tham gia BHXH là ngời lao động và ngời sử dụng lao động. Tuy
vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nớc mà đối tợng này
có thể là tất cả hoặc một bộ phận những ngời lao động nào đó.
Hầu hết các nớc khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện BHXH đối
với các viên chức Nhà nớc, những ngời làm công hởng lơng. Việt nam cũng
không vợt ra khỏi thực tế này, mặc dù biết rằng nh vậy là không bình đẳng giữa
tất cả những ngời lao động.
Nếu xem xét trên mối quan hệ ràng buộc trong BHXH, ngoài ngời lao
động còn có ngời sử dụng lao động và cơ quan BHXH, dới sự bảo trợ của Nhà
nớc. Ngời sử dụng lao động đóng góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm của họ để
bảo hiểm cho ngời lao động mà họ sử dụng. Còn cơ quan BHXH nhận sự đóng
góp của ngời lao động và ngời sử dụng lao động, phải có trách nhiệm quản lý và
sử dụng quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH đối với ngời lao động. Nó
quyết định sự tồn tại và phát triển của BHXH một cách ổn định và bền vững.
3.Chức năng của BHXH.
Chức năng là sự khái quát của các nhiệm vụ cơ bản, là dạng hoạt động
đặc trng và khái quát nhất của tổ chức hay cá nhân gắn với chức danh nào đó
trong một hệ thống tổ chức hoạt động thuộc phạm vi nhất định trong xã hội.
Cũng nh các thành phần khác của nền kinh tế bảo hiểm, BHXH có hai chức
8
năng cơ bản là chức năng phân phối và chức năng giám đốc. Tuy nhiêm do tính
đặc thù của mình, BHXH không những có tính kinh tế mà còn có tính xã hội rất
cao. Vì vậy về tổng quát, BHXH có những chức năng sau:
3.1.Bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho ng ời lao

động đ ợc bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất
khả năng lao động hoặc mất việc làm theo những điều kiện xác định.
Nói là bảo đảm hay thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho ngời lao
động là nói sự thay thế hoặc bù đắp đó nhất định phải xảy ra, xảy ra đúng nh thế
chứ không thể nào khác khi ngời lao động rơi vào các trờng hợp nói trên và hội
tụ các điều kiện quy định. Sở dĩ nh vậy là giữa ngời lao động và cơ quan BHXH
có mối quan hệ hết sức chặt chẽ. Quan hệ này phát sinh trên cơ sở lao động và
quan hệ tài chính BHXH. Quan hệ đó diễm ra giữa 3 bên: bên tham gia bảo
hiểm, bên nhận bảo hiểm và bên đợc bảo hiểm. Bên tham gia bảo hiểm trớc hết
là ngời sử dụng lao động có trách nhiệm phải đóng phí để bảo hiểm cho ngời
lao động mà mình sử dụng, đồng thời ngời lao động cũng phải có trách nhiệm
đóng phí để tự bảo hiểm cho mình. Sự đóng góp này là bắt buộc, đều kỳ và theo
những mức quy định cho bên nhận bảo hiểm, đó là cơ quan BHXH chuyên
nghiệp. Khi ngời lao độnh hội đủ các điều kiện cần thiết thì nhất định họ sẽ đợc
hởng trợ cấp với mức hởng, thời điểm và thời hạn hởng phải đúng quy định, dù
cho ngời lao động hay ngời sử dụng lao động có muốn hay không.
3.2.Phân phối lại thu nhập.
BHXH là bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho ngời lao
động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động,
thất nghiệp, tuổi già, bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập
trung đợc tồn tích dần bởi sự đóng góp những ngời sử dụng lao động, ngời lao
động và sự hỗ trợ của Nhà nớc.
Nh vậy ngời sử dụng lao động bắt buộc phải đóng góp và quỹ BHXH là
để bảo hiểm nhng không phải trực tiếp cho mình mà cho ngời lao động do ngời
sử dụng nên không đợc quyền hởng trợ cấp, nhng lao động có đóng góp vào quỹ
BHXH mới có quyền hởng trợ cấp nhng do còn khoẻ mạnh, có việc làm và có
9
thu nhập bình thờng nên cũng không đợc hởng trợ cấp bảo hiểm. Số lợng những
ngời không đợc hởng trợ cấp nh vậy thờng chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng số
ngời tham gia đóng góp bảo hiểm. Chỉ những ngời lao động bị giảm hoặc mất

thu nhập trong những trờng hợp xác định và có đủ các điều kiện cần thiết mới
đợc hởng trợ cấp từ quỹ BHXH. Số lợng những ngời này thờng chiếm tỷ trọng
nhỏ trong số những ngời tham gia đóng góp nêu trên. Nh vậy, BHXH đã lấy số
đông bù số ít và thực hiện chức năng phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc
và chiều ngang giữa những ngời lao động có thu nhập thấp hơn, giữa những ng-
ời khoẻ mạnh đang làm việc với những ngời ốm yếu phải nghỉ việc và khái quát
hơn là số đông những ngời đóng góp vào quỹ BHXH đều kỳ với số ít những ng-
ời hởng trợ cấp theo chế độ xác định. Điều đó cũng góp phần vào việc thực
hiện công bằng xã hội.
3.3.Góp phần kích thích, khuyến khích ng ời lao động hăng hái lao động
sản xuất.
Ngời lao động có việc làm khi khoẻ mạnh làm việc bình thờng sẽ có tiền
lơng, tiền công, khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động tuổi già hoặc không may
bị chết đã có BHXH đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập quan
trọng, do đó đời sống của bản thân và gia đình họ luôn luôn có chỗ dựa, luôn
luôn đợc đảm bảo. Chính vì thế, họ sẽ gắn bó với công việc, với nơi làm việc và
yên tâm, tích cực lao động sản xuất, góp phần tăng năng xuất lao động cũng nh
tăng hiệu quả kinh tế. Nói cách khác, tiền lơng (tiền công) và BHXH là những
động lực thúc đẩy hoạt động lao động của ngời lao động.
3.4.Phát huy tiềm năng và gắn bó lợi ích.
BHXH dựa trên cơ sở đóng góp ít nhng đều kỳ của mọi ngời sử dụng lao
động, ngời lao động và Nhà nớc cho bên thứ ba là cơ quan BHXH, để tồn tích
dần dần thành một quỹ tập trung, quỹ này lại huy động phần nhàn rỗi tơng đối
vào hoạt động sinh lời làm tăng thêm nguồn thu. Do đó, BHXH hoàn toàn có
thể bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho ngời lao động khi họ
gặp ruỉ ro, khó khăn theo những chế độ xác định, góp phần bảo đảm ổn định và
an toàn đời sống cho ngời lao động và cho gia đình họ.
10
Trên giác độ xã hội, bằng phơng thức dàn trải rủi ro thiệt hại theo cả thời
gian và không gian, BHXH đã giúp giảm thiểu thiệt hại cho số đông trong xã

hội, đồng thời làm tăng khả năng giải quyết rủi ro, khó khăn của những ngời lao
động tham gia bảo hiểm với một tổng dự trữ ít nhất. Đối với Nhà nớc chi cho
BHXH đối với ngời lao động là một cách thức phải chi trả ít nhất nhng vẫn
giải quyết tốt các rủi ro, khó khăn về đời sống của ngời lao động và gia đình họ,
góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị xã hội ổn định và an toàn.
Đối với ngời sử dụng lao động và ngời lao động cũng vậy. Cả hai giới này đều
thấy nhờ BHXH mà mình có lợi và đợc bảo vệ.
BHXH đã phát huy tiềm năng của số đông và u điểm của nhiều phơng
thức hoạt động trong kinh tế thị trờng để bảo đảm an toàn đời sống cho ngời lao
động cũng nh cho xã hội. Đồng thời BHXH cũng tạo ra sự gắn bó chặt chẽ về
lợi ích, cả lợi ích trớc mắt và lợi ích lâu dài của các bên tham gia BHXH, cũng
nh của các bên đó đối với Nhà nớc.
4.Tính chất của BHXH.
BHXH gắn liền với đời sống của ngời lao động,vì vậy nó có một số tính
chất cơ bản sau:
- Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội .
Nh phần trên đã trình bày, trong quá trình lao động sản xuất ngời lao
động có thể gặp rất nhiều biến cố, rủi ro khi đó ngời sử dụng lao động cũng rơi
vào tình cảnh khó khăn không kém nh: sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, vấn
đề tuyển dụng lao động luôn phải đợc đặt ra để thay thế v.v Sản xuất càng
phát triển, những rủi ro đối với ngời lao động và những khó khăn đối với ngời
sử dụng lao động càng trở nên phức tạp, dẫn đến mối quan hệ chủ thợ càng
ngày càng căng thẳng. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nớc phải đứng ra can
thiệp thông qua BHXH. Và nh vậy, BHXH ra đời hoàn toàn mang tính khác
quan trong đời sống kinh tế xã hội mỗi nớc.
- BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và
không gian. Tính chất này thể hiện rất rõ ở những nội dung cơ bản của BHXH.
Từ thời điểm hình thành và triển khai, đến mức đóng góp của các bên tham gia
11
để hình thành quỹ BHXH. Từ những rủi ro pháp sinh ngẫu nhiên theo thời gian

và không gian đến mức trợ cấp BHXH theo từng chế độ cho ngời lao động v.v
- BHXH vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội, đồng thời còn
mang tính dịch vụ.
Tính kinh tế thể hiện rõ nhất là ở chỗ, qũy BHXH muốn đợc hình thành,
bảo toàn và tăng trởng phải có sự đóng góp của các bên tham gia và phải đợc
quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích. Mức đóng góp của các bên phải đợc
tình toán rất cụ thể dựa trên xác suất phát sinh thiệt hại của tập hợp ngời lao
động tham gia BHXH. Quỹ BHXH chủ yếu dùng để trợ cấp cho ngời lao động
theo các điều kiện BHXH. Thực chất, phần đóng góp của mỗi ngời lao động là
không đáng kể, nhng quyền lợi nhận đợc là rất lớn khi gặp rủi ro. Đối với ngời
sử dụng lao động việc tham gia đóng góp vào quỹ BHXH là để bảo hiểm cho
ngời lao động mà mình sử dụng. Xét dới góc độ kinh tế, họ cũng có lợi ích vì
không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để trang trải cho những ngời lao động bị
mất hoặc giảm khả năng lao động. Với Nhà nớc BHXH góp phần làm giảm
gánh nặng cho ngân sách đồng thời quỹ BHXH còn là nguồn đầu t đáng kể cho
nền kinh tế quốc dân. BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống bảo đảm xã hội,
vì vậy tính xã hội của nó thể hiện rất rõ. Xét về lâu dài, mọi ngời lao động trong
xã hội đều có quyền tham gia BHXH. Và ngợc lại, BHXH phải có trách nhiệm
bảo hiểm cho mọi ngời lao động và gia đình họ, kể cả khi họ còn trong độ tuổi
lao động. Tính xã hội của BHXH luôn gắn chặt với tính dịch vụ của nó.
Khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính chất
xã hội hoá của BHXH cũng ngày càng cao.
II.Quỹ BHXH và mục đích sử dụng quỹ.
1. Đặc điểm quỹ BHXH.
- Quỹ ra đời tồn tại và phát triển gắn liền với mục đích ổn định cuộc sống
cho ngời lao động và gia đình họ.
- Hoạt động của quỹ không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời.
- Việc phân phối quỹ BHXH vừa mang tính hoàn trả vừa mang tính
không hoàn trả.
12

- Quá trình tích luỹ để hình thành quỹ phải luôn đợc bảo tồn giá trị và
đảm bảo an toàn. Đây là một đặc điểm mang tính nguyên tắc.
- Quỹ BHXH là hạt nhân của tài chính BHXH mà tài chính BHXH lại là
khâu tài chính trung gian cấu thành hệ thống tài chính Quốc gia. Sự ra đời, tồn
tại và phát triển cũng nh các đặc điểm phân phối và sử dụng khác so với các
khâu khác của hệ thống tài chính Quốc gia.
- Quỹ BHXH chịu ảnh hởng trực tiếp của điều kiện kinh tế xã hội
trong từng thời kỳ.
2. Nguồn hình thành quỹ.
Quỹ BHXH là một yếu tố mang tính chất sống còn đối với sự nghiệp
BHXH. Do đó, nguồn hình thành quỹ bao giờ cũng đợc quan tâm đúng mức
nhằm đảm bảo chi trả cho các đối tợng đợc hởng BHXH và đảm bảo cho hệ
thống BHXH hoạt động một cách có hiệu quả.
2.1. Sự đóng góp của ng ời lao động.
Hệ thống BHXH ở các nớc trên thế giới từ trớc đến nay chủ yếu vẫn thực
hiện trên nguyên tắc: Ngời tham gia BHXH phải đóng góp cho quỹ BHXH mới
đợc hởng trợ cấp BHXH. Ngời lao động tham gia đóng góp là để bảo hiểm cho
mình, vừa thực hiện nghĩa vụ cao đẹp với cộng đồng. Thực chất ở đây ngời lao
động đã dàn trải rủi ro theo thời gian.
2.2. Sự đóng góp của ng ời sử dụng lao động .
Ngời sử dụng lao động đóng góp cho quỹ BHXH để bảo hiểm cho ngời
lao động mà mình thuê mớn. Sự đóng góp này thể hiện trách nhiệm của họ đối
với ngời lao động. Đồng thời còn thể hiện chính lợi ích của ngời sử dụng lao
động. ở đây ngời sử dụng lao động san sẻ rủi ro cho nhau để khi xẩy ra rủi ro
đối với ngời lao động thì họ không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để bồi thờng,
vì quá trình sản xuất kinh doanh của họ không bị ảnh hởng khi ngời lao động có
nhu cầu BHXH.
2.3. Nhà n ớc đóng góp và hỗ trợ .
Sự tham gia của Nhà nớc thể hiện trách nhiệm của Nhà nớc đối với các
thành viên trong xã hội. Trong hệ thống BHXH Nhà nớc có thể tham gia trực

13
tiếp hay gián tiếp. Sự tham gia của Nhà nớc ở đây chủ yếu dới hình thức bảo
đảm giá trị đồng vốn cho quỹ trong một số trờng hợp nh bù lỗ những khoản
thiếu hụt.
2.4. Các nguồn thu khác.
Bao gồm các nguồn thu chủ yếu sau:
- Tiền lãi, tiền lời từ các hoạt động đầu t nhằm bảo toàn và phát triển quỹ
BHXH. Nhng phải chú ý là phần vốn nhàn rỗi mới đợc mang đi đầu t. Bởi vì khi
thực hiện các hoạt động này nếu bị rủi ro thì không ảnh hởng đến phần quỹ
BHXH chi trả cho các đối tợng đợc hởng.
- Các nguồn tài trợ và viện trợ khác ở trong nớc, ngoài nớc và cộng đồng
quốc tế, kể cả các tổ chức phi Chính phủ và các cá nhân hảo tâm ... Tuy nhiên
nguồn này không ổn định và không nhiều.
- Giá trị các tài sản cố định của BHXH đợc đánh giá lại theo các quy
định của Nhà nớc.
- Các nguồn thu khác: Tiền phạt do nộp chậm BHXH so với thời gian quy
định, tiền truy thu khi các đơn vị sử dụng lao động và ngời lao động đóng thiếu
tiền BHXH hoặc nhận thừa so với chế độ đợc hởng thụ.
Thông thờng sự đóng góp của ba bên: Ngời lao động, ngời sử dụng lao
động và Nhà nớc tạo ra nguồn quỹ cơ bản nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất. Tùy
theo điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nớc mà tỷ lệ đóng góp của mỗi
bên đợc quy định khác nhau.
Ví dụ: ở Việt Nam, theo Nghị Định 12/CP (26/1/1995) đã quy định: Quỹ
BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung ngoài ngân sách Nhà nớc đợc hình
thành từ ba nguồn:
+ Ngời sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ lơng của
những ngời tham gia trong đơn vị.
+ Ngời lao động đóng bằng 5% lơng hàng tháng.
+ Ngân sách Nhà nớc (NSNN) đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực
hiện chế độ BHXH đối với ngời lao động.

3. Phí BHXH.
14
Mặc dù chỉ thuần tuý mang tính kỹ thuật nhng xác định phí đóng BHXH
lại khá phức tạp vì nó liên quan đến cả ngời lao động, ngời sử dụng lao động và
cả Nhà nớc. Liên quan đến khả năng cân đối thu nhập của ngời lao động và điều
kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nớc.Tuy nhiên, khi xác định phí BHXH
vẫn phải bảo đảm các nguyên tắc: cân bằng thu chi, lấy số đông bù số ít và có
dự phòng. Mức phí xác định phải đợc cân đối với mức hởng, với nhu cầu BHXH
và điều chỉnh sao cho tối u nhất.
Phí BHXH xác định theo công thức
P= f
1
+f
2
+f
3
Trong đó : P : Phí BHXH
f
1
: Phí thuần tuý trợ cấp BHXH
f
2
: Phí dự phòng
f
3
: Phí quản lý
Phí thuần trợ cấp BHXH cho cả các chế độ ngắn hạn và dài hạn. Đối với
các chế độ BHXH ngắn hạn việc đóng và hởng BHXH xảy ra trong thời gian
ngắn (thờng là một năm) nh ốm đau, thai sản, tai nạn lao động nhẹ Vì vậy, số
đóng góp BHXH phải đủ cho số phát sinh chi trả trong năm. Đối với cá chế độ

dài hạn nh: hu trí, trợ cấp mất ngời nuôi dỡng, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề
nghiệp nặng v.v quá trình đóng và h ởng BHXH tơng đối độc lập với nhau và
diễn ra trong khoảng thời gian nhất định. Cho nên, sự cân bằng giữa đóng góp
và hởng BHXH phải đợc dàn trải trong cả thời kỳ dài. Vì thế, ngoài phí thuần
tuý phải có phí dự phòng để đảm bảo quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn.
Nh vậy, để xác định đợc mức phí phải đóng và mức hởng BHXH phải
dựa vào nhiều yếu tố và nhiều thông tin khác nhau về nguồn lao động, cơ cấu
nguồn lao động theo độ tuổi, giới tính, ngành nghề v.v Ngoài ra còn phải xác
định và dự báo đợc tuổi thọ bình quân của quốc gia; xác xuất ốm đau, tai nạn,
tử vong của ngời lao động v.v
4. Mục đính sử dụng quỹ.
Quỹ BHXH đợc sử dụng chủ yếu cho 2 mục đích sau đây:
- Chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH.
15
- Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH.
Theo khuyến nghị của tổ chức lao động Quốc tế (ILO) quỹ BHXH đợc sử
dụng để trợ cấp cho các đối tợng tham gia BHXH, nhằm ổn định cuộc sống
cho bản thân và gia đình họ, khi đối tợng tham gia BHXH gặp rủi ro. Thực chất
là trợ cấp cho 9 chế độ mà tổ chức này đã nêu trong Công ớc 102 tháng 6 năm
1952 tại Giơnevơ:
(1): chăm sóc y tế.
(2): trợ cấp ốm đau.
(3): trợ cấp thất nghiệp.
(4): trợ cấp tuổi già.
(5): trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
(6): trợ cấp gia đình.
(7): trợ cấp sinh đẻ.
(8): trợ cấp khi tàn phế.
(9): trợ cấp cho ngời còn sống ( trợ cấp ngời nuôi dỡng).
Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ điều

kiện kinh tế xã hội mà mỗi nớc tham gia công ớc Giơnevơ thực hiện khuyến
nghị đó ở mức độ khác nhau, nhng ít nhất phải thực hiện 3 chế độ. Trong đó ít
nhất phải thực hiện một trong năm chế độ: (3); (4); (5); (8); (9). Mỗi chế độ
trong hệ thống trên khi xây dựng đều dựa trên những cơ sở kinh tế - xã hội; tài
chính thu nhập tiền lơng v.v Đồng thời tuỳ từng chế độ khi xây dựng còn phải
tính đến cá yếu tố sinh học; tuổi thọ bình quân của quốc gia; nhu cầu dinh d-
ỡng; xác xuất tử vong v.v
III.Vai trò của công tác thu BHXH.
Công tác thu BHXH có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của ngành
BHXH, đây là công tác trọng tâm của hoạt động BHXH.
1.Vai trò của công tác thu BHXH trong việc tạo lập quỹ.
Công tác thu đợc triển khai và tiến hành tạo ra một quỹ tài chính đấy là
quỹ BHXH. Quỹ này tạo ra để đảm bảo khả năng tài chính chi trả BHXH. Công
tác thu đợc tiến hành đều đặn từng quý đối với tất cả các ngành, các đơn vị có
16
sử dụng lao động sẽ giúp Nhà nớc trong việc giảm chi từ ngân sách Nhà nớc
trong việc chi trả các chế độ BHXH. Do vậy công tác thu có vai trò rất lớn đối
với nền kinh tế nớc Nhà, vì hàng năm khoản chi này từ ngân sách Nhà nớc là rất
lớn. Mặt khác, thu nhanh, thu đủ đã tạo ra một khoản tiền lớn tạm thời nhàn rỗi
cha sử dụng tới, đây cũng là một trong những nguồn tiền cho vay rất có ích đối
với đất nớc trong sự phát triển. Bởi nhiều công trình, hạng mục của đất nớc
muốn đợc thi công thì phải có vốn mà ngay lập tức Nhà nớc cha thể cung cấp
kịp thời.
2.Công tác thu trong việc tạo lập mối quan hệ giữa các bên trong BHXH
Sự nghiệp BHXH, bớc đầu đợc luật pháp hoá trong chơng XII Bộ luật
Lao động và đợc cụ thể hoá bằng điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định
12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ.
Điều luật có quy định việc thực hiện các chế độ hởng BHXH phải dựa
trên cơ sở đóng và thời gian đóng BHXH của từng ngời. Vì vậy thu BHXH đòi
hỏi phải đợc theo dõi, ghi chép kết quả đóng của từng ngời trong cơ quan đơn

vị, để làm cơ sở cho việc tính mức hởng BHXH theo quy định.
Đây là những nội dung mang tính nghiệp vụ chuyên sâu và đòi hỏi sự
chuẩn xác cao, cụ thể từng ngời lao động trong từng tháng và liên tục kéo dài
trong nhiều năm.
Kết quả thu luôn gắn liền với nghiệp vụ chi trả các chế độ BHXH, do đó
việc theo dõi, ghi chép kết qủa đóng BHXH phải đợc thực hiện từ đơn vị cơ sở
nơi ngời chủ sử dụng lao động, ngời lao động có trách nhiệm đóng BHXH.
BHXH xã hội quận huyện có nhiệm vụ đôn đốc thu BHXH, đồng thời
trực tiếp thanh quyết toán các chế độ cho ngời lao động. Tên đơn vị sử dụng lao
động, tổng số lao động đóng BHXH, tổng quỹ tiền lơng làm căn cứ đóng
BHXH. Danh sách, họ tên, tuổi và mức tiền lơng của từng ngời lao động thuộc
quỹ tiền lơng của đơn vị làm căn cứ đóng BHXH. Kết quả đóng BHXH ghi từng
tháng theo từng đơn vị đến từng ngời lao động. Trên cơ sở danh sách theo dõi
kết quả đóng BHXH nói trên để ghi kết quả đóng BHXH vào sổ theo dõi của
17
từng ngời, tạo thành mối quan hệ ba bên là ngời lao động, chủ sử dụng lao động
và cơ quan BHXH.
Mối quan hệ này càng trở nên khăng khít khi công tác thu BHXH tiến
hành đều đặn và nhiệt tình. Công tác thu diễn ra tốt đã góp phần bảo vệ quyền
lợi cho ngời lao động.
3.Công tác thu trong việc đảm bảo công bằng trong BHXH.
Một trong các nguyên tắc của BHXH không thể không nhắc tới, đó là
nguyên tắc có đóng có hởng trong BHXH. Có đóng góp phí BHXH thì mới có
hởng các chế độ BHXH.
Chính nhờ sự theo dõi, đôn đốc thu của công tác thu đã làm cơ sở đảm
bảo công bằng giữa cống hiến và hởng thụ về BHXH. Cũng chính nhờ sự theo
dõi cẩn thận trong quá trình thu đã góp phần khắc phục các tiêu cực trong giải
quyết chế độ chính sách BHXH.
18
Phần II:

Thực trạng công tác thu BHXH ở cơ quan
BHXH Quận Hai Bà Tr ng, hà nội.
I.Giới thiệu chung về BHXH Việt Nam và BHXH Quận Hai Bà
Tr ng.
1.BHXH Việt Nam.
1.1. Thời kỳ 1945- 1960.
Bảo hiểm xã hội là một trong những nội dung quan trọng của chính sách
xã hội nên ngay từ sau Cách mạng tháng 8/1945 thành công, mặc dù gặp muôn
vàn khó khăn nhng Nhà nớc ta luôn quan tâm đến chính sách BHXH để áp dụng
cho ngời lao động cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ở từng thời kỳ.
Riêng đối với công nhân viên chức Nhà nớc và quân nhân , Chính phủ đã nhiều
lần ban hành các chính sách BHXH gồm các chế độ trợ cấp khi ốm đau, sinh
đẻ, tai nạn lao động, già yếu chế độ trợ cấp gia đình khi công nhân viên chức từ
trần để đảm bảo đời sống cho họ và gia đình, góp phần đảm bảo ổn định xã hội.
Thực tế này đợc nhận thấy ngay từ những năm đầu của kháng chiến
chống Pháp, Chính phủ ta đã áp dụng chế độ hu trí cũ của Pháp để giải quyết
quyền lợi cho một số công chức đã làm việc dới thời Pháp, sau đó đi theo kháng
chiến và đã già yếu. Sau cách mạng tháng 8 thành công, do điều kiện kinh tế
rất khó khăn, nên chế độ này thực hiện đến năm 1949 thì không còn nữa.
Đến năm 1950, Hồ Chủ Tịch đã ký Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950
ban hành quy chế công chức và Sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950 ban hành quy
chế công nhân. Theo Sắc lệnh này, thì quyền lợi công chức, công nhân về chế
độ hu trí nh sau:
- Sắc lệnh số 76/SL: Điều 92 ghi rõ: Công chức có ngạch bậc thuộc
hạng thờng trú đợc về hu khi đủ 30 năm công tác hay đủ 55 tuổi; đối với công
chức thuộc hạng lu động đợc về hu khi đủ 50 tuổi hay 25 năm công tác.
19
- Sắc lệnh số 77/SL: Điều 42 quy định: công nhân làm việc 30 năm hay
đủ 55 tuổi đợc về hu.
Nhng do tình hình kinh tế khó khăn, nên việc thực hiện những quy định

trên cho công nhân viên chức già yếu về nghỉ chỉ đợc hởng trợ cấp 1 lần, với
mức một năm công tác tơng ứng một tháng lơng và phụ cấp, tối đa không quá 6
tháng lơng theo điều 35 (77/SL) quy định.
Đối với những ngời bị mất sức lao động, sau ngày hoà bình lập lại
(7/1954) công nhân viên chức mất sức lao động do ốm yếu đợc trợ cấp 1 lần
theo quy định tại Nghị định số 594/TTg ngày 11/12/1957.
Nhìn lại các chế độ đã ban hành ở giai đoạn này thấy rằng:
Do chính sách BHXH đợc ban hành ngay sau khi giành độc lập và sau
ngày hoà bình lặp lại, trong hoàn cảnh kháng chiến, kinh tế còn thiếu thốn nên
cha đợc thực hiện đầy đủ, chỉ mới đợc một số chế độ cơ bản với mức độ cấp
thấp nhằm đảm bảo mức sống tối thiểu cho công nhân viên chức nhà nớc. Mức
hởng còn mang tính bình quân với tinh thần đồng cam cộng khổ, cha có tính
chất lâu dài. Các khoản chi về hu trí mất sức lao động còn lẫn lộn với tiền lơng
nên rất khó khăn trong việc hạch toán, chính sách BHXH cha có quỹ riêng để
thực hiện; 100% nguồn chi lấy từ ngân sách. Tuy vậy, chính sách BHXH ở giai
đoạn này có ý nghĩa giải quyết khó khăn cho công nhân viên chức khi tuổi già
hoặc mất sức lao động.
1.2. Thời kỳ 1961-1/1995.
Sau ngày hoà bình lập lại, từ năm 1960, sau khi hoàn thành kế hoạch 3
năm cải tạo và phát triển kinh tế, văn hoá xã hội; miền Bắc đã bớc vào kế hoạch
năm năm lần thứ nhất. Lực lợng công nhân viên chức lúc này ngày càng đông
hơn để phục vụ cho yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, trớc tình
hình này, Nhà nớc thấy cần thiết bổ sung chính sách BHXH cho phù hợp với
tình hình và đáp ứng đợc mục tiêu không ngừng cải thiện đời sống cho công
nhân viên chức. Vì vậy, ngày 27/12/1961 Chính phủ đã ban hành Điều lệ tạm
thời theo Nghị định số 218/Chính phủ về các chế độ BHXH cho công nhân viên
chức Nhà nớc. Điều lệ quy định:
20
+ Đối tợng tham gia BHXH là công nhân viên chức Nhà nớc, lực lợng
vũ trang.

+ Đã hình thành nguồn để chi trả các chế độ BHXH trong ngân sách
nhà nớc. Nguồn đợc hình thành trên cơ sở đóng góp của xí nghiệp, còn lại do
ngân sách Nhà nớc cấp. Mức đóng của các xí nghiệp là 4,7% so với tổng quỹ l-
ơng. Trong đó 1% để chi 3 chế độ dài hạn và 3,7% chi cho 3 chế độ ngắn hạn.
Đối với phần ngân sách Nhà nớc, hàng năm Quốc hội thông qua ngân sách cấp
cho việc thực hiện chính sách BHXH cho công nhân viên chức làm việc trong
khu vực Nhà nớc.
+ áp dụng 6 chế độ BHXH là: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, mất sức lao động, hu trí và tử tuất cho công nhân viên chức.
Tiếp đến, ngày 18/9/1985, cùng với việc cải tiến chế độ tiền lơng,Hội
đồng Bộ trởng đã ban hành Nghị định số 236/HĐBT về việc bổ sung, sửa đổi
chế độ BHXH cho công nhân viên chức Nhà nớc và lực lợng vũ trang trong giai
đoạn này thể hiện những vấn đề trọng tâm sau:
- Thứ nhất, đối tợng tham gia BHXH là công nhân viên chức Nhà nớc và
lực lợng vũ trang. Lực lợng này đến năm 1985 chiếm khoảng 12% lực lợng lao
động xã hội. Còn lại 88% làm việc trong đơn vị sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
ngoài quốc doanh cha đợc tham gia.
- Thứ hai, nguồn tài chính để thực hiện các chính sách BHXH một phần
do các đơn vị sản xuất kinh doanh đóng và phần còn lại do ngân sách Nhà nớc
cấp. Mức đóng góp theo quy định Nghị định số 218/CP là 4,7% nay đợc nâng
lên 13% so với tổng quỹ lơng của xí nghiệp. Trong đó, Bộ lao động Thơng
binh xã hội đợc giao quản lý 8% để chi trả 3 chế độ mất sức lao động, hu trí và
tử tuất, còn 5% do Tổng Liên đoàn Lạo động Việt Nam quản lý để chi trả 3 chế
độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Mặc dù Nghị định
số 236/HĐBT quy định khá chặt chẽ trách nhiệm đóng góp của xí nghiệp, nhng
thời gian này do các đơn vị sản xuất gặp khó khăn, làm ăn thua lỗ, nên hầu hết
nộp thiếu hoặc không nộp đợc, dẫn đến tình trạng thu không đủ chi, phần ngân
21
sách Nhà nớc năm sau cao hơn năm trớc. Đến năm 1993 trở đi, ngân sách Nhà
nớc cấp bù tới 92,7% trong tổng số tiền chi BHXH.

Bảng 1: Tình hình Ngân sách Nhà nớc cấp để chi BHXH.
(Đơn vị:
%)
Năm Doanh nghiệp đóng
để chi BHXH
Ngân sách Nhà nớc cấp
để chi BHXH
1964 95,3 4,7
1968 45,2 54,8
1970 29,7 70,5
1980 15,8 84,3
1990 26,18 73,29
12/1993 7,3 92,7
Nguồn BHXH Việt Nam
Nh vậy, có thể thấy do cơ chế tạo nguồn cha đợc xác định rõ ràng nên
quỹ BHXH cha đợc tính đúng, tính đủ làm cho thu không đủ chi, ngân sách
Nhà nớc phải cấp bù ngày càng lớn.
- Thứ ba, về tổ chức quản lý BHXH năm 1986 theo hành chính Nhà nớc
do Bộ Lao động-Thơng binh và xã hội theo hệ thống quản lý 3 cấp:
ở trung ơng đơn vị tài chính cấp 1 của Bộ là Vụ Kế hoạch tài chính có
nhiệm vụ tổng hợp, cấp phát và quyết toán tài chính từ ngân sách Nhà nớc cấp
với các đơn vị tài chính cấp hai là Sở lao động - TBXH tỉnh và sau đó Sở quyết
toán với đơn vị tài chính cấp 3 trực thuộc trên cơ sở quỹ BHXH do Bộ tài chính
cấp hàng năm.
- Thứ t, theo Nghị định 236/HĐBT của Hội đồng bộ trởng, thì trong
chính sách BHXH có 6 chế độ áp dụng cho ngời lao động trong các trờng hợp
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bênh nghề nghiệp, mất sức lao động hoặc
chết. Đối với lao động làm việc trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, làm việc ở
các vùng xa xôi, hẻo lánh, nơi hải đảo và lực lợng vũ trang chiến đấu ở chiến tr-
ờng đợc quan tâm, u tiên trong trong việc tính thời gian công tác, nh: quy định

quy đổi thời gian công tác 1 năm làm việc thực tế đợc tính thành 1 năm 2 tháng
để nghỉ hu (nếu lao động nặng nhọc độc hại), tính 1 năm 4 tháng (nếu làm việc
22
ở vùng xa xôi hẻo lánh) hoặc tính thành 1 năm 6 tháng (nếu trực tiếp chiến đấu
ở chiến trờng gian khổ).
Mức trợ cấp BHXH đợc tính theo tỷ lệ (%) trên mức lơng cơ bản khi nghỉ
hu. Mức lơng hàng tháng đối với nam đủ 30 năm công tác và nữ đủ 25 năm
công tác đợc tính bằng 75% lơng chính và các khoản phụ cấp theo lơng, sau đó
cứ một năm làm việc lại tính thêm 1% tối đa lơng hu là 95% lơng chính thức và
các khoản phụ cấp (nếu có).
Riêng đối với chế độ mất sức lao động hàng tháng đợc quy định để áp
dụng cho công nhân viên chức có đủ 15 năm công tác trở lên bị ốm đau, tai nạn
lao động bị mất khả năng lao động từ 61% trở lên hoặc hết tuổi lao động. Mức
trợ cấp mất sức lao động đợc hởng theo quy định là 40% tiền lơng áp dụng nếu
có đủ 15 năm công tác, sau đó cứ thêm một năm thì đợc thêm 1%. Nếu cha đủ
15 năm công tác quy đổi, thì đợc hởng trợ cấp một lần, cứ một năm công tác đ-
ợc hởng một tháng lơng và các khoản phụ cấp (nếu có).
- Thứ năm, Quản lý Nhà nớc và thực hiện chính sách BHXH theo Nghị
định số 236/HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội đồng bộ trởng thì Bộ lao động
-TBXH có nhiệm vụ xây dựng và trình Chính phủ ban hành chính sách BHXH.
Còn tổ chức thực hiện chính sách giao cho 2 cơ quan:
Bộ Lao động - TBXH quản lý 8% quỹ BHXH để trả trợ cấp mất sức lao
động, hu trí và tử tuất; Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quản lý 5% quỹ
BHXH và tổ chức trả trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp.
Tổng số công nhân viên chức làm công tác BHXH của ngành Lao động-
TBXH tính đến cuối năm 1992 có hơn 3000 ngời, ở Trung ơng: 25 ngời; tỉnh,
thành phố có khoảng 530 ngời và ở quận huyện có 2500 ngời.
Tổng số cán bộ của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam làm công tác
BHXH khoảng 1800 ngời chủ yếu là cán bộ nhân viên phục vụ nhà nghỉ, an d-

ỡng (có 1244 ngời).
- Đến cuối năm 1993, do thay đổi cơ chế quản lý nền kinh tế, chính
sách BHXH cũng bắt đầu thay đổi từ cơ chế tập trung, bao cấp sang hoạch toán,
23
gắn quyền lợi với trách nhiệm đóng BHXH của ngời lao động, thì tổ chức quản
lý Nhà nớc và quản lý sự nghiệp BHXH đã bộc lộ một số tồn tại, không đáp ứng
yêu cầu về xây dựng, bổ sung chính sách cũng nh tổ chức thu, chi và quản lý
quỹ BHXH đặt ra nhiệm vụ phải đổi mới hệ thống tổ chức quản lý Nhà nớc và
sự nghiệp BHXH.
1.3. Từ 1995 tới nay.
Chủ trơng đổi mới cơ chế quản lý nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung
quan liêu bao cấp sang sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng XHCN, đòi hỏi chính
sách BHXH phải thay đổi và dần dần hoà nhập với cơ chế BHXH của thế giới.
Năm 1995, Bộ luật lao động ra đời, đánh dấu bớc tiến mới về các vấn đề
lao động. Trong đó, các nguyên tắc về BHXH đợc quy định khá rõ nh: Hình
thức BHXH (bắt buộc, tự nguyện); đối tợng tham gia BHXH; mức đóng BHXH;
trách nhiệm của chủ sử dụng lao động và ngời lao động trong đóng BHXH; các
chính sách BHXH.v.v Dựa vào Bộ luật lao động, ngày 26/1/2995, điều lệ
BHXH bắt buộc đợc ban hành, kèm theo Nghị định số 12/CP của Chính phủ, áp
dụng cho công nhân viên chức Nhà nớc và doanh nghiệp có sử dụng 10 lao
động trở lên và điều lệ BHXH kèm theo Nghị định số 15/CP áp dụng cho sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và công
an nhân dân.
1.3.1. Đặc điểm.
Quỹ BHXH đợc thành lập độc lập với ngân sách Nhà nớc và đợc Nhà n-
ớc bảo hộ. Hoạt động của quỹ dựa trên cơ sở thu chi quỹ BHXH, đánh dấu bớc
tiến quan trọng nhất của hệ thống BHXH Việt Nam. Quỹ BHXH đợc dùng
nguồn cha sử dụng để đầu t cho tăng trởng và bảo toàn hoạt động NSNN đảm
bảo và hổ trợ cho một số khoản:

- Chi BHXH cho những ngời đang nghỉ hu, hởng BHXH trớc ngày
1/1/1995 (theo CV số 267/CP-VX, ngày 15/3/1995 vì tại thời điểm ngày
1/1/1995 BHXH Việt Nam cha ra đời, NSNN vẫn phải bảo đảm chi BHXH đến
thời điểm 30/9/1995).
24
- Số ngời mà NSNN đảm bảo chi BHXH ( đến 30/9/1995 gồm 1.762.167
ngời, mất sức lao động 399.253 ngời; tai nạn lao động 6.419 ngời; công nhân
cao su 1.356 ngời; phục vụ tai nạn lao động 288 ngời; tuất hởng định suất cơ
bản 164.973 ngời và tuất định suất nuôi dỡng 3.091 ngời ) và số này giảm dần
do chết theo các năm ( Báo cáo quyết toán của BHXH Việt Nam trong các năm
từ 1995- 2002, mỗi năm giảm khoảng 1,8-2% ). Dự báo tới năm 2022 hết số h-
ởng chế độ hu chí. Năm 2026 hết số hởng tai nạn lao động và công nhân cao su
và năm 2045 sẽ hết đối tợng hởng trợ cấp tuất. Đến lúc đó NSNN mới hết chi
trả các chế độ BHXH.
1.3.2. Những mặt tồn tại.
Chế độ BHXH hiện nay còn rất nhiều hạn chế nh:
- Đối tợng tham gia BHXH mới trên 4,73 triệu ngời, chiếm khoảng
11,6% lực lợng lao động trong độ tuổi lao động. Đến năm 2002 tổng số thu
BHXH mới đạt 6.793 tỷ đồng.
- Chính sách BHXH không ổn định, mà thờng xuyên đợc bổ sung điều
chỉnh, nh điều chỉnh điều kiện hởng, phơng pháp tính lơng hu: Giảm tuổi nghỉ
hu (ví dụ: giảm 5 tuổi đối với chế độ nghỉ h u, dẫn đến giảm 5 năm thu
BHXH, tăng số đối tợng hởng và mức chi tiền hu trí; do tăng lơng tối thiểu kéo
theo mức hu trí tăng lên ). Ngoài ra, BHXH vẫn đang thực hiện đan xen với
nhiều chính sách xã hội khác, làm ảnh hởng tới quỹ và cân đối lâu dài của quỹ
BHXH.
- Theo chế độ NSNN hỗ trợ phần quỹ BHXH chi trả cho những ngời có
thời gian công tác trớc 1/1/1995 mà về hu sau năm 1995. Nhng thực tế Nhà nớc
vẫn cha hỗ trợ phần quỹ này mà vay nguồn mới thu của quỹ, vì vậy không tác
động tốt đến cân đối quỹ. Nếu không có sự chuyển hớng mạnh mẽ trong thực

hiện chế độ, chính sách BHXH; nếu không đổi mới t duy, hình thành quan điểm
mới phù hợp với cơ chế thị trờng có sự lãnh đạo của nhà nớc và giải quyết hài
hoà quan hệ giữa Nhà nớc, ngời sử dụng lao động và ngời lao động, thu hút các
lực lợng tham gia BHXH, tiến tới tách khỏi sự bao cấp của Nhà nớc trong thời
gian ngắn, thì sẽ không cân đối đợc quỹ, dẫn đến mất khả năng chi trả.
25

×