Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

môi giới bảo hiểm xe cơ giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.18 KB, 70 trang )

Chương I. Tổng quan về Bảo hiểm và Môi giới Bảo hiểm
xe cơ giới.
I. Tổng quan về Bảo hiểm
1. Sự cần thiết khách quan của Bảo hiểm
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh hàng
ngày dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp
phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó do nhiều nguyên nhân:
- Các rủi ro do thiên nhiên gây ra như bão, lụt, hạn hán, động đất, sét, lốc, sương
muối, dịch bệnh... làm ảnh hưởng đến sản xuất, đến đời sống và sức khoẻ con người;
- Các rủi ro do biến động của khoa học và công nghệ. Khoa học kỹ thuật và công
nghệ phát triển làm tăng năng suất lao động thúc đẩy nền kinh tế phát triển và tạo
điều kiện thuận lợi cho cuộc sống con người; nhưng mặt khác cũng gây nhiều tai nạn
bất ngờ như tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tai nạn ô tô... và làm tăng nguy cơ
mất việc làm của người lao động.
- Các rủi ro do môi trường xã hội. Những rủi ro này chịu tác động của nhiều yếu tố và
ảnh hưởng trực tiếp đến mọi thành viên trong xã hội như ốm đau, dịch bệnh, mất việc
làm, trộm cắp, hoả hoạn...
Bất kể nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường gây cho con người những khó
khăn trong cuộc sống như mất hoặc giảm thu nhập, phá hoại nhiều tài sản làm ngưng
trệ sản xuất và kinh doanh của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân... và làm ảnh
hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội nói chung.
Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm
kiểm soát cũng như khắc phục những hậu quả do rủi ro gây ra. Hiện nay, theo quan
điểm của các nhà quản lý rủi ro có hai nhóm biện pháp đối phó với rủi ro và hậu quả
do rủi ro gây ra - đó là nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro và nhóm các biện pháp tài trợ
rủi ro.
1
- Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp né tránh rủi ro, ngăn
ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thường được sử dụng để ngăn
chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro.
+ Tránh né rủi ro là biện pháp được sử dụng thường xuyên trong cuộc sống. Mỗi


người, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh đều lựa chọn những biện pháp thích hợp để né
tránh rủi ro có thể xảy ra, tức loại trừ cơ hội dẫn đến tổn thất. Chẳng hạn, để tránh
các tai nạn giao thông người ta hạn chế đi lại... để tránh tai nạn lao động người ta
chọn những nghề không nguy hiểm... Tránh né rủi ro chỉ với những rủi ro có thể né
tránh được. Nhưng cuộc sống có rất nhiều rủi ro bất ngờ không thể tránh né được.
+ Ngăn ngừa tổn thất - Các biện pháp ngăn ngừa tổn thất đưa ra các hành động nhằm
làm giảm tổn thất hoặc giảm mức độ thiệt hại do tổn thất gây ra. Ví dụ, để giảm thiểu
các tai nạn lao động người ta tổ chức các khoá học nâng cao chất lượng các hoạt
động đảm bảo an toàn lao động; để phòng chống hoả hoạn, người ta thực hiện tốt
phòng cháy chữa cháy...
+ Giảm thiểu tổn thất - người ta có thể giảm thiểu tổn thất thông qua các biện pháp
làm giảm giá trị thiệt hại khi tổn thất xảy ra. Ví dụ, như khi có hoả hoạn, để giảm
thiểu tổn thất người ta cố gắng cứu những tài sản còn dùng được hay trong một vụ tai
nạn giao thông, để giảm thiểu các thiệt hại về người và của người ta đưa ngay những
người bị thương đến nơi cấp cứu và điều trị...
Mặc dù các biện pháp kiểm soát rủi ro rất có hiệu quả trong việc ngăn chặn
hoặc giảm thiểu rủi ro nhưng khi rủi ro đã xảy ra, người ta không thể lường hết hậu
quả.
- Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi ro và bảo
hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với mục đích khắc
phục hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có.
+ Chấp nhận rủi ro: Đây là hình thức mà người gặp phải tổn thất phải tự chấp nhận
khoản tổn thất đó. Một trường hợp điển hình của chấp nhận rủi ro là tự bảo hiểm. Có
rất nhiều cách thức khác nhau trong biện pháp chấp nhận rủi ro, tuy nhiên có thể phân
chia thành hai nhóm: Chấp nhận rủi ro thụ động và chấp nhận chủ động. Trong chấp
2
nhận rủi ro thụ động, người ta gặp tổn thất không có sự chuẩn bị trước và có thể phải
vay mượn để khắc phục hậu quả của tổn thất. Đối với chấp nhận rủi ro chủ động,
người ta lập ra quỹ dự trữ dự phòng và quỹ này chỉ được sử dụng để bù đắp tổn thất
do rủi ro gây ra. Tuy nhiên, việc này dẫn đến việc nguồn vốn không được sử dụng

một cách tối ưu hoặc nếu đi vay thì sẽ bị động và còn gặp phải các vấn đề gia tăng về
lãi suất...
+Bảo hiểm: Đây là một phần quan trọng trong các chương trình quản lý rủi ro của các
tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro, bảo hiểm là sự
chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm xã hội, bảo hiểm không chỉ
là chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro do việc tập trung một số lớn các rủi ro
cho phép có thể tiên đoán về tổn thất khi chúng xảy ra. Bảo hiểm là công cụ đối phó
với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra, có hiệu quả nhất. Như vậy, bảo hiểm ra đời là
đòi hỏi khách quan của cuộc sống, của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Do nhu cầu của con người, hoạt động bảo hiểm ngày càng phát triển và không thể
thiếu đối với mỗi cá nhân, doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Ngày nay, sự giao lưu kinh
tế, văn hoá giữa các quốc gia càng phát triển thì bảo hiểm cũng ngày càng mở rộng.
Vì vậy, khái niệm "bảo hiểm" trở nên gần gũi, gắn bó với con người, với các
đơn vị sản xuất kinh doanh. Có được quan hệ đó vì bảo hiểm đã mang lại những lợi
ích kinh tế xã hội thiết thực cho mọi thành viên, mọi đơn vị có tham gia bảo hiểm.
2. Bản chất và tác dụng của bảo hiểm
2.1 Bản chất của bảo hiểm
* Các định nghĩa về bảo hiểm
" Bảo hiểm là một phương pháp lập quỹ dự trữ bằng tiền do những người có cùng
khả năng gặp một loại rủi ro nào đó đóng góp tạo nên" Định nghĩa này chỉ mới đề
cập đến phương pháp lập quỹ dự trữ bảo hiểm, mà chưa rõ phương thức sử dụng nó.
"Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm tham gia cam kết bồi thường
( theo quy luật thống kê) cho người tham gia bảo hiểm trong từng trường hợp xảy ra
rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham gia bảo hiểm nộp một khoản
phí cho chính anh ta hoặc cho người thứ ba". Điều này có nghĩa là người tham gia
3
chuyển giao rủi ro cho người bảo hiểm bằng cách nộp khoản phí để hình thành quỹ
dự trữ. Khi người tham gia gặp phải rủi ro dẫn đến tổn thất, người bảo hiểm lấy quỹ
dự trữ trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại trong phạm vi bảo hiểm cho người tham gia.
Phạm vi bảo hiểm là những rủi ro mà người tham gia đăng ký với người bảo hiểm.

Đây là định nghĩa mang tính chung nhất của bảo hiểm. Có định nghĩa chỉ rõ đặc
trưng riêng của một loại bảo hiểm. Chẳng hạn " Bảo hiểm xã hội la sự đảm bảo đời
sống vật chất cho người lao động và gia đình họ khi có nguy cơ mất an toàn về kinh
tế do giảm hoặc mất khả năng lao động thông qua sử dụng nguồn quỹ huy động từ
người tham gia và sự tài trợ của Nhà nước". Định nghĩa này chỉ rõ mục đích của bảo
hiểm xã hội là sự đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ thông qua sử
dụng quỹ huy động từ người tham gia )người sử dụng lao động và người lao động) và
sự tài trợ của Nhà nước để trợ cấp cho người lao động bị giảm sức lao động (do ốm
đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp...) hoặc mất sức lao động (hết tuổi lao
động...).
* Bản chất của bảo hiểm
Mục đích chủ yếu của bảo hiểm là góp phần ổn định kinh tế cho người thạm
gia từ đó khôi phục và phát triển sản xuất, đời sống, đồng thời tạo nguồn vốn cho
phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.
Thực chất của bảo hiểm là quá trình phân phối lại tổng sản phẩm trong nước
giữa những người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát sinh khi tai nạn, rủi
ro bất ngờ xảy ra gây tổn thất đối với người tham gia bảo hiểm.
Phân phối trong bảo hiểm là phân phối không đều, không bằng nhau, nghĩa là
không phải ai tham gia cũng được phân phối và phân phối với số tiền như nhau. Phân
phối trong bảo hiểm là phân phối cho số ít người tham gia bảo hiểm không may gặp
rủi ro bất ngờ gây thiệt hại đến sản xuất và đời sống trên cơ sở mức thiệt hại thực tế
và điều kiện bảo hiểm. Điều đó cũng có nghĩa, phân phối trong bảo hiểm không
mang tính bồi hoàn, tức là dù có tham gia đóng góp vào quỹ bảo hiểm nhưng không
tổn thất thì cũng không được phân phối (trừ một số sản phẩm Bảo hiểm nhân thọ, bảo
hiểm hưu trí).
4
Hoạt động bảo hiểm dựa trên nguyên tắc "Số đông bù số ít". Nguyên tắc này
được quán triệt trong quá trình lập quỹ dự trù bảo hiểm cũng như trong quá trình
phân phối bồi thường, quá trình phân tán rủi ro.
Hoạt động bảo hiểm còn liên kết, gắn bó các thành viên trong xã hội cùng vì

lợi ích chung của cộng đồng, vì sự ổn định, sự phồn vinh của đất nước. Bảo hiểm với
nguyên tắc "Số đông bù số ít" cũng thể hiện tính tương trợ, tính xã hội và tính nhân
văn sâu sắc của xã hội trước rủi ro của mỗi thành viên.
2.2 Tác dụng của Bảo hiểm
Bảo hiểm nói chung hay bảo hiểm xã hội , bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp
hay bảo hiểm thương mại nói riêng đều mang lại những lợi ích kinh tế - xã hội thiết
thực.
- Trước hết bảo hiểm góp phần ổn định tài chính cho người tham gia trước tổn thất do
rủi ro gây ra.
Rủi ro do thiên tai hay tai nạn bất ngờ đều gây thiệt hại về kinh tế, ảnh hưởng
đến thu nhập, đời sống, sản xuất kinh doanh của các cá nhân, doanh nghiệp tham gia
bảo hiểm, chưa kể có lúc gây thiệt hại về người. Tổn thất đó sẽ được bảo hiểm trợ
cấp hoặc bồi thường về tài chính để người tham gia nhanh chóng khắc phục hậu quả,
ổn định đời sống, sản xuất kinh doanh. Từ đó, họ khôi phục và phát triển sản xuất
kinh doanh và các hoạt động khác một cách bình thường. Tác động này phù hợp với
mục tiêu kinh tế nên thu hút được số đông người tham gia.
- Bảo hiểm góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất, giúp cho cuộc sống con người an
toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt nỗi lo cho mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp.
Khi tham gia bảo hiểm, cơ quan hoặc công ty bảo hiểm sẽ cùng với người
tham gia thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất rủi ro đã xảy ra. Cơ
quan, công ty bảo hiểm đóng góp tài chính một cách tích cực để thực hiện các biện
pháp hạn chế rủi ro như tuyên truyền, hướng dẫn các biện pháp phòng tránh tai nạn,
mua sắm thêm các dụng cụ phòng cháy chữa cháy; cùng ngành giao thông làm các
biển báo, các đường lánh nạn...
- Bảo hiểm góp phần ổn định chi tiêu của ngân sách Nhà nước.
5
Với quỹ bảo hiểm do các thành viên tham gia đóng góp, cơ quan, công ty bảo
hiểm sẽ trợ cấp hoặc bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia
để họ khôi phục lại đời sống, sản xuất kinh doanh. Như vậy ngân sách Nhà nước
không phải chi ra để trợ cấp cho các thành viên, các doanh nghiệp khi gặp rủi ro, tất

nhiên trừ trường hợp tổn thất mang tính thảm hoạ, mang tính xã hội rộng lớn.
Mặt khác, hoạt động bảo hiểm nhất là bảo hiểm thương mại có trách nhiệm đóng góp
vào ngân sách thông qua các loại thuế, tức tăng thu cho ngân sách.
- Bảo hiểm còn là phương thức huy động vốn để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
Dưới hình thức phí bảo hiểm, ngành bảo hiểm đã huy động được một số lượng
vốn khá lớn từ các đối tượng tham gia. Số vốn đó ngoài việc chi trả trợ cấp hay bồi
thường thiệt hại còn là nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
Đặc biệt đối với bảo hiểm nhân thọ, nguồn vốn huy động được tích luỹ thời
gian dài mới sử dụng để chi trả. Do đó, các công ty bảo hiểm có thể sử dụng kinh
doanh bất động sản, mua trái phiếu...nghĩa là dùng đầu tư vào hoạt động kinh tế để
sinh lời. Và như vậy góp phần tăng nguồn vốn cho nền kinh tế, làm cho hệ thống tài
chíng sôi động hơn v.v...
-Bảo hiểm còn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước
thông qua hoạt động tái bảo hiểm.
Thị trường bảo hiểm nội địa và thị trường bảo hiểm quốc tế có mối quan hệ
qua lại, thúc đẩy nhau phát triển thông qua hình thức phân tán rủi ro và chấp nhận rủi
ro - hình thức tái bảo hiểm giữa các công ty của các nước. Như vậy bảo hiểm vừa góp
phần phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước góp phần ổn định thu chi ngoại tệ cho
ngân sách.
- Bảo hiểm thu hút số lượng lao động nhất định cho xã hội, góp phần giảm bớt
tình trạng thất nghiệp cho xã hội. Đồng thời hoạt động bảo hiểm cũng góp phần giải
quyết đời sống cho bộ phận lao động làm việc trong ngành bảo hiểm; góp phần tạo ra
một bộ phận tổng sản phẩm trong nước (GDP) của quốc gia.
6
-Cuối cùng, bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức kinh tế
- xã hội; giúp họ yên tâm trong cuộc sống, sinh hoạt và trong hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Bởi vì, với một giá khiêm tốn ( phí bảo hiểm), bảo hiểm có thể giúp đỡ các gia
đình, các tổ chức khắc phục hậu quả những rủi ro khôn lường.
Chính vì vậy, ông Wiston Chuchill - một chính khách đã nói: " Nếu có thể, tôi

sẽ viết từ "Bảo hểm" trong mỗi nhà và trên trán mỗi người. Càng ngày tôi càng tin
chắc rằng, với một giá khiêm tốn bảo hiểm có thể giải phóng các gia đình ra khỏi
thảm hoạ không lường trước được".
II Môi giới bảo hiểm
1. Sự cần thiết và vai trò của MGBH
* Sự cần thiết
Có thể nói bảo hiểm là một sản phẩm dịch vụ hết sức đặc biệt. Người mua
bảo hiểm trả tiền để nhận được lời cam kết sẽ được chi trả bồi thường khi gặp rủi ro
tổn thất. Còn trong trường hợp không gặp rủi ro tổn thất có nghĩa người mua bảo
hiểm đã may mắn và không được nhận tiền bảo hiểm từ nhà bảo hiểm. Đặc tính này
khiến việc tiếp cận các sản phẩm bảo hiểm đến khách hàng không dễ dàng. Chính vì
vậy, sự ra đời của kênh phân phối môi giới bảo hiểm là cần thiết góp phần quan trọng
vào sự phát triển của ngành bảo hiểm nói chung. Trong khi thị trường bảo hiểm ngày
càng phát triển, số lượng người tham gia bảo hiểm ngày càng nhiều, có nhiều khách
hàng do chưa hiểu hết hoặc vì một lý do nào đó mà chưa nghiên cứu kỹ về những
điều kiện, điều khoản hoặc phân vân không biết phải lựa chọn sản phẩm của doanh
nghiệp bảo hiểm nào. Môi giới ra đời nhằm giải quyết những vướng mắc đó, môi giới
bảo hiểm là người đại diện cho quyền lợi của khách hàng cung cấp những thông tin
cần thiết để người tham gia yên tâm khi ký kết hợp đồng bảo hiểm. Hoặc khi xảy ra
những khiếu nại bồi thường, môi giới sẽ giúp cho khách hàng có được những quyền
lợi chính đáng mà họ được hưởng. Chính vì thế, môi giới ra đời là một tất yếu khách
quan làm cho môi trường bảo hiểm cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo những lợi ích cho
khách hàng cũng như lợi ích của tất cả các bên tham gia bảo hiểm.
7
* Vai trò của MGBH
Môi giới bảo hiểm có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của ngành Bảo
hiểm, bởi môi giới là cầu nối giữa khách hàng và các doanh nghiệp cung ứng những
sản phẩm bảo hiểm, đứng về phía khách hàng và đảm bảo quyền lợi cho họ. Môi giới
bảo hiểm làm cho sản phẩm dịch vụ bảo hiểm ngày càng đa dạng và hoàn hảo hơn.
- Nhờ có môi giới, người mua bảo hiểm không còn phải mất nhiều thời gian và công

sức để tìm hiểu về các công ty bảo hiểm, nghiên cứu các điều khoản, điều kiện bảo
hiểm,tỷ lệ phí, mức phí bảo hiểm...mà vẫn có được những thông tin chính xác có chất
lượng cho quyết định mua bảo hiểm của mình. Nhờ thế lợi ích bảo hiểm thực sự
được đảm bảo một cách tốt nhất.
a. Công ty môi giới bảo hiểm sẽ thay mặt người mua bảo hiểm trực tiếp xây dựng,
đàm phán, thu xếp hợp đồng bảo hiểm (đơn bảo hiểm) với các công ty bảo hiểm gốc,
sao cho có lợi nhất cho người mua bảo hiểm; Trong trường hợp bảo hiểm thông qua
hình thức đấu thầu, Công ty môi giới bảo hiểm có thể tham gia vào quá trình chuẩn bị
hồ sơ mời thầu, tổ chức đấu thầu giúp cho người mua bảo hiểm có được những hợp
đồng bảo hiểm hoàn hảo nhất;
b. Không may có những thiệt hại do những rủi ro bất ngờ không lường trước được
xảy ra, nếu được người mua bảo hiểm uỷ quyền, Công ty môi giới bảo hiểm sẽ là
người tham gia thực hiện các thủ tục đòi bồi thường (giám định, lập hồ sơ khiếu nại,
xác định mức bồi thường cao nhất...), thậm chí tham gia các thủ tục tố tụng pháp lý
khi cần thiết để bảo vệ lợi ích cho người mua bảo hiểm;
c. Mọi dịch vụ môi giới bảo hiểm cung cấp dịch vụ khách hàng đều là miễn phí.
Người mua bảo hiểm không phải trả bất kỳ một khoản nào cho công ty môi giới.
Công ty môi giới được hưởng một khoản hoa hồng nhất định từ phí bảo hiểm mà
Công ty bảo hiểm gốc thu được để đảm bảo cho hoạt động của mình;
d. Việc mua bảo hiểm thông qua công ty môi giới cũng là một nhân tố góp phần tạo
ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các công ty bảo hiểm, lợi ích của người mua bảo
hiểm được đề cao, từ đó thúc đẩy thị trường bảo hiểm phát triển và góp phần phát
triển kinh tế.
8
2.2 So sánh Đại lý bảo hiểm và Môi giới bảo hiểm
* Giống nhau:
- Đại lý và Môi giới bảo hiểm đều là những trung gian bảo hiểm, chịu trách nhiệm tư
vấn, thu xếp và ký kết hợp đồng bảo hiểm.
- Đều được hưởng hoa hồng từ doanh nghiệp bảo hiểm theo phần trăm nhất định so
với phí bảo hiểm thu được.

-Đại lý và Môi giới đều thực hiện thu phí bảo hiểm của khách hàng (nếu được sự cho
phép của doanh nghiệp bảo hiểm)
- Đại lý và Môi giới đều phải được đào tạo về những kiến thức bảo hiểm, chịu trách
nhiệm với nghề nghiệp của mình.
* Khác nhau:
- Đại lý đại diện cho quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm, hoạt động vì lợi ích
chung của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Môi giới đại diện cho khách hàng, đứng về phía khách hàng, đảm bảo quyền lợi và
dịch vụ bảo hiểm tốt nhất cho họ.
- Đại lý làm việc cho một doanh nghiệp nhất định trong khi đó Môi giới hoạt động
độc lập, không phụ thuộc vào bất cứ doanh nghiệp bảo hiểm nào.
2.3 Phân loại Môi giới bảo hiểm
a) Môi giới bảo hiểm gốc:
Là tổ chức hoặc cá nhân đứng ra dàn xếp các vấn đề bảo hiểm giữa khách
hàng và doanh nghiệp bảo hiểm.
Có những người cần mua bảo hiểm nhưng không biết phải mua như thế nào và mua ở
đâu. MGBH gốc làm việc với khách hàng để xác định nhu cầu bảo hiểm, sau đó đàm
phán thoả thuận với doanh nghiệp bảo hiểm để có được phạm vi bảo hiểm và phí bảo
hiểm tốt nhất, thoả mãn nhu cầu của khách hàng. MGBH gốc thực hiện nhiều công
việc cho DNBH và được nhận môi giới phí từ DNBH hoặc trực tiếp từ khách hàng.
Hoạt động MGBH gốc mang lại nhiều lợi ích:
- MGBH gốc tư vấn cho khách hàng về quản lý rủi ro một cách hiệu quả nhất. Đây là
lĩnh vực chuyên môn của MGBH, trong khi khách hàng chỉ biết rõ nhất về công việc
9
kinh doanh của họ. Điều này tiếc kiệm được thời gian và chi phí cho doanh nghiệp
bảo hiểm. Đồng thời tư vấn về thủ tục khiếu nại để đảm bảo cho khách hàng có được
mức bồi thường thoả đáng;
- Môi giới luôn thông báo cho khách hàng biết về những văn bản quy phạm pháp luật
mới nhất về bảo hiểm và các lĩnh vực có liên quan, giúp khách hàng xem xét các vụ
đã bồi thường để nhận biết những hạn chế và do đó có thể giảm bớt các vụ khiếu nại

trong tương lai. Điều này cũng tiếc kiệm cho doanh nghiệp bảo hiểm;
-Môi giới giới thiệu khách hàng mới cho doanh nghiệp bảo hiểm; in các văn bản, hợp
đồng bảo hiểm; chuyển giao những ý tưởng và mẫu HĐBH mới trên thị trường bảo
hiểm thế giới cho các DNBH trong nước, giúp tăng cường khả năng cạnh tranh của
bảo hiểm quốc gia trên trường quốc tế.
- Tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu các khoản thuế liên quan đến phí bảo hiểm...
b) Môi giới tái bảo hiểm:
Là người hỗ trợ,giúp đỡ các DNBH gốc làm việc với các doanh nghiệp tái bảo
hiểm trong việc bảo hiểm cho chính các doanh nghiệp bảo hiểm gốc.
Hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm trên thế giới đều yêu cầu môi giới tái bảo
hiểm tư vấn, giúp đỡ khi các rủi ro được bảo hiểm quá lớn với khả năng tài chính của
họ trong việc thanh toán bồi thường tổn thất nếu rủi ro xảy ra. Đối với các rủi ro tiềm
ẩn lớn, môi giới tái bảo hiểm sẽ giúp DNBH phân tích phạm vi rủi ro để thu xếp tái
bảo hiểm khi cần thiết.
Thông qua môi giới tái bảo hiểm, các DNBH sẽ có được sự an toàn về tài
chính, do đó sẽ có khả năng bảo vệ khách hàng lớn hơn và đem lại sự ổn định cao
hơn cho xã hội.
Hoạt động môi giới tái bảo hiểm mang lại nhiều lợi ích:
- Môi giới tái bảo hiểm thay mặt cho DNBH tiếp cận với nhiều doanh nghiệp tái bảo
hiểm. Do có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp tái bảo hiểm, giá bảo hiểm dành
cho các doanh nghiệp bảo hiểm gốc được giảm xuống nên tiếc kiệm được ngoại tệ và
tăng được lợi nhuận cho các doanh nghiệp bảo hiểm;
10
-Các DNBH gốc nhận được khối lượng dịch vụ lớn hơn, do đó khách hàng sẽ được
đảm bảo tài chính tốt hơn;
- Môi giới tái bảo hiểm hỗ trợ các DNBH gốc lập kế hoạch đối phó với những tổn
thất mang tính thảm hoạ như bão, lốc, động đất...xảy ra hàng năm.
MGBH là tổ chức trung gian, có nhiều kinh nghiệm và đại diện cho người
mua bảo hiểm, vì vậy hoạt động MGBH là rất cần thiết. Nếu không có hoạt động
MGBH trong nước, các DNBH và người tham gia bảo hiểm sẽ sử dụng MGBH nước

ngoài, gây bất lợi cho nền kinh tế trong nước nói chung và hoạt động kinh doanh bảo
hiểm nói riêng.
Hoạt động MGBH còn mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia:
- Tạo thêm công ăn việc làm, hạn chế chảy máu ngoại tệ do giữ được dịch vụ trong
nước, tăng nguồn thu từ thuế và góp phần đưa công nghệ cao vào đất nước.
- Tăng khả năng kiểm soát của Chính phủ đối với hoạt động của các DNBH có trụ sở
nước ngoài.
- Tăng khả năng quản lý của Chính phủ đối với các nội dung chuyên môn nghiệp vụ
bảo hiểm như: Nội dung hợp đồng bảo hiểm, quy định biểu phí bảo hiểm...
Như vậy, MGBH có vai trò rất lớn, thể hiện qua việc hỗ trợ Nhà nước tăng
cường an toàn tài chính và sự ổn định.
11
3. Trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền lợi của MGBH
3.1 Trách nhiệm của MGBH
- Phải cung cấp thông tin trung thực trong quá trình tư vấn, môi giới cho khách hàng
bảo hiểm. Đồng thời phải có trách nhiệm bảo mật thông tin cho khách hàng và cho
các doanh nghiệp bảo hiểm.
- Khi tổn thất xảy ra, nếu được doanh nghiệp bảo hiểm uỷ quyền bồi thường thì
MGBH có trách nhiệm thanh toán số tiền đó cho người được bảo hiểm hoặc người
thụ hưởng.
- MGBH chịu trách nhiệm về uy tín của DNBH (doanh nghiệp tái bảo hiểm), nghĩa là
giới thiệu cho khách hàng những DNBH (doanh nghiệp tái bảo hiểm) có uy tín chứ
không chịu trách nhiệm về tài chính của DNBH (doanh nghiệp tái bảo hiểm). Tuy
nhiên, trong một số trường hợp nhất định, nhất là trong môi giới tái bảo hiểm, môi
giới phải chịu trách nhiệm nghề nghiệp về khoản thiệt hại do lỗi của họ gây ra nếu tư
vấn sai. Để tránh bất trắc và bảo vệ mình trong những trường hợp tai nạn bất thường
và cũng để khách hàng yên tâm, tin tưởng vào môi giới, hầu hết các MGBH đều mua
bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp. Ở một vài quốc gia, việc mua bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp này bắt buộc.
Luật Kinh doanh bảo hiểm Việt Nam quy định doanh nghiệp MGBH phải:

"a) Thực hiện môi giới trung thực;
b) Không được tiết lộ, cung cấp thông tin làm thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp
của bên mua bảo hiểm;
c) Bồi thường thiệt hại cho bên mua bảo hiểm do hoạt động MGBH gây ra" (Khoản
2, điều 91, mục 2, chương IV).
Hơn nữa, "doanh nghiệp MGBH phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
cho hoạt động MGBH tại DNBH hoạt động ơ Việt Nam" (Điều 92, mục2, chương
IV).
Đồng thời MGBH không được thực hiện các hành vi sau đây:
- Ngăn cản bên mua bảo hiểm cung cấp các thông tin liên quan đến HĐBH hoặc xúi
giục bên mua bảo hiểm không kê khai các chi tiết liên quan đến hợp đồng bảo hiểm;
12
- Khuyến mại khách hàng dưới hình thức hứa hẹn cung cấp các quyền lợi bất hợp
pháp để xúi giục khách hàng giao kết hợp đồng bảo hiểm;
- Xúi giục bên mua bảo hiểm huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm hiện có để mua hợp đồng
bảo hiểm mới.
3.2. Nhiệm vụ của MGBH
Một là, vận động, tuyên truyền và khai thác dịch vụ bảo hiểm. Cụ thể là xác
định, phân tích và thẩm định các rủi ro khác nhau; thu thập các thông tin cần thiết và
thoả thuận các điều kiện và điều khoản bảo hiểm với DNBH thích hợp nhất.
Hai là, hướng dẫn người tham gia bảo hiêm ký kết hợp đồng bảo hiểm mới
hoặc thay đổi hợp đồng bảo hiểm cũ. Môi giới theo dõi việc thực hiện hợp đồng như
khiếu nại đòi bồi thường và tiến hành các dịch vụ quản lý rủi ro gồm:
- Xác định và thẩm định khu vực rủi ro;
- Tư vấn về các biện pháp thích hợp để giảm nhẹ rủi ro;
- Lập các chương trình quản lý tốt rủi ro;
- Giúp đỡ lập kế hoạch chống thiên tai và kế hoạch trước tổn thất.
Nếu được DNBH uỷ quyền, MGBH phải thu phí bảo hiểm của khách hàng,
sau đó thanh toán số phí bảo hiểm đó cho DNBH theo thời hạn đã thoả thuận. Nếu
không có thoả thuận về thời gian thanh toán, MGBH phải thanh toán số phí bảo hiểm

nói trên cho doanh nghiệp bảo hiểm trong thời gian sớm nhất, thường không quá 7
ngày kể từ ngày nhận được phí bảo hiểm.
Khi tổn thất xảy ra, MGBH giúp người tham gia bảo hiểm làm thủ tục đòi
DNBH chi trả, bồi thường. Nếu DNBH uỷ quyền cho MGBH trả tiền thì MGBH phải
thanh toán số tiền đó cho người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng. Luật Kinh
doanh bảo hiểm Việt Nam quy định: "Nội dung hoạt động của MGBH bao gồm:
1. Cung cấp thông tin về loại hình bảo hiểm, điều kiện, điều khoản,phí bảo hiểm,
DNBH cho bên mua bảo hiểm;
2. Tư vấn cho bên mua bảo hiểm trong việc đánh giá rủi ro, lựa chọn loại hình bảo
hiểm, điều khoản, biểu phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiêm;
3. Đàm phán, thu xếp giao kết hợp đồng bảo hiểm giữa DNBH và bên mua bảo hiểm;
13
4. Thực hiện các công việc khác có liên quan đến việc thực hiện HĐBH theo yêu cầu
của bên mua bảo hiểm " (Điều 90, mục 2, chương IV).
Ngoài ra, các doanh nghiệp MGBH nước ngoài có thể đặt văn phòng đại diện
tại nước sở tại. Thời gian hoạt động của văn phòng này thường được giới hạn, hết
thời hạn hoạt động được phép xin gia hạn. Nhiệm vụ của văn phòng đại diện thuộc
doanh nghiệp MGBH nước ngoài là:
+ Làm văn phòng liên lạc, nghiên cứu thị trường, xúc tiến xây dựng các dự án đầu tư
của doanh nghiệp MGBH nước ngoài, thúc đẩy và theo dõi việc thực hiện các dự án
do doanh nghiệp MGBH nước ngoài tài trợ tại nước sở tại và các hoạt động khác phù
hợp với pháp luật nước sở tại;
+ Văn phòng đại diện của doanh nghiệp MGBH nước ngoài không được thực hiện
các hoạt động kinh doanh tại nước sở tại, phải báo cáo định kỳ hoạt động theo quy
định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan quản lý cấp trên của nước sở tại;
+ Khi kết thúc hoạt động phải thực hiện đầy đủ thủ tục và nghĩa vụ theo quy định của
pháp luật nước sở tại.
3.3 Quyền lợi của MGBH
MGBH được DNBH trả tiền hoạt động (gọi là hoa hồng môi giới bảo hiểm) và
các khoản tiền khác.

MGBH được đào tạo về nghiệp vụ bảo hiểm.
MGBH được DNBH hỗ trợ các phương tiện hoạt động như phương tiện quản
lý (máy vi tính,internet,...).
Theo Luật Kinh doanh bảo hiểm Việt Nam, "doanh nghiệp MGBH được
hưởng hoa hồng môi giới bảo hiểm. Hoa hồng MGBH được tính trong phí bảo hiểm"
(Khoản 91, mục 2, chương IV).
Như vậy Môi giới bảo hiểm được đào tạo chuyên nghiệp về chuyên môn
nghiệp vụ, ….
14
4. Kinh nghiệm quốc tế về hoạt động Môi giới bảo hiểm
Sản phẩm bảo hiểm được phân phối cho người tham gia bảo hiểm qua các
kênh: doanh nghiệp bảo hiểm trực tiếp thực hiện, thông qua các trung gian bảo hiểm
là môi giới bảo hiểm, đại lý bảo hiểm. Trên thế giới, môi giới bảo hiểm thu xếp đến
90% tổng lượng dịch vụ bảo hiểm, trong nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ xấp xỉ 100%
dịch vụ bảo hiểm do đại lý phân phối.
Thực tế cho thấy, kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm đóng vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy tăng trưởng của thị trường.
Môi giới bảo hiểm tư vấn giúp khách hàng đánh giá rủi ro cần phải bảo hiểm,
lựa chọn các doanh nghiệp bảo hiểm, sản phẩm bảo hiểm phù hợp với mức phí bảo
hiểm hợp lý, hỗ trợ việc giải quyết và thương lượng bồi thường, giúp cho cả doanh
nghiệp bảo hiểm và khách hàng tiếc kiệm được thời gian và chi phí cho các giao dịch
bảo hiểm, đồng thời tạo mối quan hệ tin tưởng lẫn nhau giữa doanh nghiệp bảo hiểm
và người tham gia bảo hiểm.
Các nước có thị trường bảo hiểm phát triển thì hoạt động môi giới càng hoạt
động mạnh mẽ, thể hiện đúng vai trò của nhà môi giới chuyên nghiệp, như các nước
trong khu vực, hoạt động môi giới bảo hiểm cũng phát triển ngày càng mạnh.
Tại Singapore có 36 công ty môi giới bảo hiểm và 158 công ty bảo hiểm, tỷ lệ
giữa môi giới bảo hiểm và công ty bảo hiểm là 1:5, tức cứ bình quân 5 công ty bảo
hiểm ra đời sẽ có một công ty môi giới bảo hiểm.
Tại Malaysia có 63 công ty môi giới bảo hiểm và 53 công ty bảo hiểm, tỷ lệ

này là 1:1, cứ có một công ty bảo hiểm thì sẽ xuất hiện hơn 1 công ty môi giới bảo
hiểm, đây là con số khá cao so với thị trường bảo hiểm nói chung.
Tại Indonexia có 66 công ty môi giới bảo hiểm và 169 công ty môi giới. tỷ lệ
này khoảng 1:3.
Trong khi ở Việt Nam hiện nay mới chỉ có 7 công ty môi giới bảo hiểm và 30
doanh nghiệp bảo hiểm. Con số này thật nhỏ bé và khiêm tốn so với 82 triệu dân cư,
lớn thứ hai trong khu vực Đông Nam Á, con số các công ty bảo hiểm lẫn công ty môi
giới bảo hiểm đều là rất nhỏ bé và quá ít so với thị trường.
15
Cùng với sự phát triển đa dạng của các loại hình bảo hiểm, người dân cần có
nhiều kênh phân phối thông tin để hiểu rõ về thị trường và đa dạng các trung gian bảo
hiểm đã ra đời, trong đó môi giới bảo hiểm là một dạng trung gian được các gia đình
và các cơ sở sản xuất kinh doanh tin dùng và sử dụng là nhà tư vấn cho mình. Người
được bảo hiểm có thể nhận được từ sự tư vấn độc lập từ một người môi giới về một
loạt các vấn đề bảo hiểm mà không phải trả chi phí trực tiếp cho người tư vấn, theo
quan điểm của các công ty bảo hiểm, những cuộc đàm phán với môi giới dễ dàng hơn
và nhanh chóng hơn vì chỉ những điểm rắc rối hoặc những nhu cầu đặc biệt mới cần
đàm phán chi tiết, nhờ vậy tiếc kiệm được thời gian và tiền bạc đối với những vấn đề
thông thường. Ở hầu hết các thị trường phức tạp như Mỹ, Tây Âu, Trung Quốc, Nhật
Bản…, phần lớn là bảo hiểm thương mại được thực hiện qua môi giới bảo hiểm. Các
tổ chức môi giới lớn thường là các công ty xuyên quốc gia, một số tổ chức công
nghiệp cũng là thành lập công ty môi giới riêng của họ, các công ty này đựơc xem
như một công ty môi giới bảo hiểm nội bộ sẽ phụ trách thu xếp các loại hình bảo
hiểm công nghiệp của công ty đó.
III. Môi giới bảo hiểm xe cơ giới.
1. Vai trò của Môi giới Bảo hiểm xe cơ giới.
1.1. Vai trò của Môi giới bảo hiểm xe cơ giới
Môi giới bảo hiểm xe cơ giới là một trong những nghiệp vụ của môi giới bảo
hiểm nói chung, là cầu nối quan trọng giữa các doanh nghiệp bảo hiểm và khách
hàng có nhu cầu mua bảo hiểm xe cơ giới bảo vệ cho tài sản vật chất xe hoặc trách

nhiệm có liên quan khi tham gia giao thông.
Hiện nay trên thị trường bảo hiểm, số lượng người tham gia bảo hiểm xe cơ
giới ngày càng nhiều, nhu cầu của khách hàng về chất lượng dịch vụ bảo hiểm hoàn
hảo là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, các công ty bảo hiểm gốc cũng có lúc gặp
phải những khó khăn trong vấn đề thu xếp, ký kết hợp đồng bảo hiểm, thủ tục khiếu
nại bồi thường... Khách hàng cũng vậy, không phải ai cũng có thể lựa chọn được
công ty bảo hiểm có dịch vụ tốt nhất, phù hợp với nhu cầu và khả năng tài chính của
mình. Để giải quyết những vấn đề đó, chỉ có những nhà môi giới chuyên nghiệp mới
16
có thể cung cấp những thông tin cần thiết cho khách hàng về sản phẩm, chất lượng
dịch vụ của các công ty bảo hiểm, đảm bảo lợi ích cho khách hàng một cách tốt nhất,
đồng thời vẫn đem lại lợi ích cho doanh nghiệp bảo hiểm và cho toàn xã hội. Cụ thể:
- Môi giới bảo hiểm xe cơ giới thu thập thông tin đánh giá rủi ro và xây dựng
chương trình quản trị rủi ro hữu hiệu nhất cho người tham gia bảo hiểm ( chủ yếu là
bảo hiểm cho đoàn xe lớn).
- Thu thập, cung cấp đầy đủ thông tin về thị trường bảo hiểm Việt Nam và thị
trường tái bảo hiểm trong nước và ngoài nước…
- Tư vấn cho người tham gia bảo hiểm về sản phẩm bảo hiểm, điều kiện bảo
hiểm, phí bảo hiểm, giúp cho người tham gia bảo hiểm lựa chọn công ty bảo hiểm và
dịch vụ bảo hiểm phù hợp với nhu cầu của mình.
- Đàm phán, thu xếp giao kết hợp dồng bảo hiểm giữa người tham gia bảo
hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm .
- Hỗ trợ lập hồ sơ khiếu nại, tham gia đàm phán giải quyết khiếu nại với công
ty bảo hiểm để cho công tác giải quyết bồi thường diễn ra nhanh chóng, đảm bảo lợi
ích của người tham gia bảo hiểm cũng như doanh nghiệp bảo hiểm.
1.2. Sơ lược về bảo hiểm xe cơ giới:
Sự ra đời của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới góp phần khắc phục một phần
hậu quả do tai nạn giao thông gây ra, giúp cho chủ xe cơ giới cũng như người bị nạn
nhanh chóng ổn định đời sống cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh. Các nghiệp
vụ bảo hiểm xe cơ giới bao gồm các loại chính như: bảo hiểm trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới đối với người thứ 3, bảo hiểm vật chất thân xe, bảo hiểm tai nạn lái,
phụ và người ngồi trên xe.
1.2.1.Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
a) Đối tượng bảo hiểm
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba có đối
tượng bảo hiểm là phần trách nhiệm dân sự phát sinh phải bồi thường khi xe cơ giới
lưu hành gây thiệt hại cho người thứ ba. Trách nhiệm ở đây có thể là do sự bất cẩn
trong quá trình điều khiển xe hoặc trách nhiệm đối với tài sản có nguồn nguy hiểm
17
cao độ. Các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ ba
bao gồm:
 Có thiệt hại về tài sản, tính mạng hoặc sức khoẻ của bên thứ ba
 Chủ xe (lái xe) phải có hành vi trái pháp luật. Có thể vô tình hay cố ý mà lái xe
vi phạm luật lệ giao thông đường bộ, hoặc vi phạm các quy định khác
của nhà nước …
 Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của chủ xe (lái xe) với
những thiệt hại của người thư ba.
 Chủ xe(lái xe) phải có lỗi.
Chúng ta cũng cần chú ý rằng, bên thứ ba trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của chủ xe cơ giới là những người trực tiếp bị thiệt hại do hậu quả của tai nạn nhưng
loại trừ:
 Lái, phụ xe, người làm công cho chủ xe;
 Những người lái xe phải nuôi dưỡng như cha, mẹ, vợ, chồng, con cái…
 Hành khách, những người có mặt trên xe;
 Tài sản, tư trang, hành lý của những người nêu trên và các tài sản khác được cất
dữ trên xe;
 Hàng hoá chuyên chở trên xe.
b) Phạm vi bảo hiểm
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba cũng
như các nghiệp vụ bảo hiểm khác chỉ nhận bảo hiểm cho các rủi ro bất ngờ xảy ra và

gây thiệt hai cho người thứ ba, bao gồm:
 Thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khoẻ của bên thứ ba;
 Thiệt hại tài sản làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh hoặc giảm thu nhập;
 Các chi phí cần thiết và hợp lý để thực hiện các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế
thiệt hại; các chi phí thực hiện biện pháp đề xuất của cơ quan bảo hiểm(kể
cả biện pháp không mang lại hiệu quả);
 Những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của những người tham gia cứu chữa,
ngăn ngừa tai nạn, chi phí cấp cưu và chăm sóc nạn nhân.
18
Các trường hợp loại trừ:
 Hành động cố ý của chủ xe, lái xe và người bị thiệt hại;
 Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để tham gia giao thông theo
qui định của điều lệ trật tự an toàn giao thông đường bộ.
 Chủ xe, lái xe vi phạm nghiêm trọng trật tự an toàn giao thông đường bộ.
 Thiệt hại do chiến tranh bạo động
 Thiệt hại gián tiếp do tai nạn như giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản xuất
kinh doanh.
 Thiệt hại đối với tài sản bị cướp, mất cắp trong tai nạn.
 Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia, trừ khi có thoả thuận khác.
 Ngoài ra công ty bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm đối với các tài sản đặc
biệt như vàng, bạc, đá quí, tiền, đồ cổ, tranh ảnh quíhiếm, thi hài, hài cốt

c) Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm được tính cho đầu phương tiện đối với mỗi loại phương tiện(thường
tính theo năm) là:
P = f + d
Trong đó :
P-Phí bảo hiểm trên đầu phương tiện
f-Phí thuần
d-Phụ phí

phí thuần được tính theo công thức :
f =


×
1
1
n
n
Ci
TiSi
19
Trong đó :
S
i
: Số vụ tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe trong năm i.
T
i
: Thiệt hại bình quân đối với mỗi vụ tai nạn trong năm i.
C
i
: Số xe thực tế hoạt động trong năm i.
n : số năm thống kê, thường từ 35 năm, i = (1, n).
1.2.2 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hành khách trên xe
Đây là loại hình bảo hiểm được áp dụng cho những chủ xe được cơ quan chức
năng của Nhà nước cấp giấy phép kinh doanh vận tải hành khách.
a) Đối tượng được bảo hiểm:
là tính mạng và tình trạng sức khoẻ của hành khách trên xe theo hợp đồng vận
chuyển hành khách của doanh nghiêp.
b) Phạm vi bảo hiểm :

 Tai nạn gây thiệt hại về tính mạng, tình trạng sức khỏe và tài sản của
hành khách trên xe.
 Chi phí cần thiết cấp cứu, chăm sóc nạn nhân.
Các trường hợp loại trừ:
 Xe chở quá số người đã đăng ký.
 Vi phạm các trường hợp loại trừ trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
c) Phí bảo hiểm
P = f + d
Trong đó :
P-Phí bảo hiểm
f-Phí thuần
d-Phụ phí
20
1.2.3.Bảo hiểm vật chất xe cơ giới
a) Đối tượng bảo hiểm
Là bản thân những chiếc xe còn giá trị và được phép lưu hành trên lãnh thổ
quốc gia. Chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất thân xe là để được bồi thường những
thiệt hại về vật chất thân xe khi rủi ro xảy ra đối với xe của mình. Người bảo hiểm có
thể bảo hiểm toàn bộ hoặc từng bộ phận của xe.
b) Phạm vi bảo hiểm
Các rủi ro được bảo hiểm bao gồm:
 Tai nạn do đâm va, lật đổ;
 Cháy, nổ, bão lụt, sét, mưa đá;
 Mất cắp toàn bộ xe;
 Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác.
Ngoài ra, nhà bảo hiểm còn thanh toán cho chủ xe những chi phí cần thiết và
hợp lý nhằm:
 Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe cơ giới xe bị thiệt
hại do các rủi ro được bảo hiểm;

 Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất;
 Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm;
Các trường hợp loại trừ:
 Hao mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết
tật hoặc hỏng thêm do sửa chữa;
 Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị, săm lốp mà không do
tai nạn gây ra;
 Mất cắp bộ phận xe;
 Vi phạm các trường hợp loại trừ trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
c) Phí bảo hiểm
Được tính theo công thức:
P = f + d
21
Trong đó :
P-Phí bảo hiểm trên đầu phương tiện
f-Phí thuần
d-Phụ phí
phí thuần được tính theo công thức :
f =


×
1
1
n
n
Ci
TiSi
(Với i = 1,2,…,n)

Trong đó :
S
i
: Số vụ tai nạn xảy ra trong năm i.
T
i
: Thiệt hại bình quân đối với mỗi vụ tai nạn trong năm i.
C
i
: Số xe hoạt động thực tế trong năm i.
1.2.4.Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hàng hoá trên xe.
Đây là loại hình bảo hiểm áp dụng cho những xe cơ giới có giấy phép kinh
doanh vận tải hàng hoá. Khi nhận hàng để chở, chủ xe phải có nghĩa vụ đưa hàng hoá
đến địa điểm giao hàng cuối cùng một cách đầy đủ và nguyên vẹn vì thế chủ xe phải
chịu trách nhiệm về những thiệt hại của hàng hoá mà họ nhận chở xảy ra do lỗi của
họ.
a) Đối tượng bảo hiểm
Là phần trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với chủ cửa hàng khi xe
đang lưu hành gây thiệt hại về hàng hoá theo hợp đồng vận chuyển giữa chủ xe và
chủ hàng. Hàng hoá ở đây là những hàng hoá thông thường, không thuộc nhóm hàng
cấm kinh doanh, vận chuyển theo quy định của pháp luật.
b) Phạm vi bảo hiểm
Là trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với hàng hoá vận chuyển, là số tiền chủ
xe phải chịu trách nhiệm bồi thường cho chủ hàng khi có tai nạn làm thiệt hại về
hàng hoá vận chuyển trên xe theo “thể lệ vận chuyển hàng hoá bằng ô tô” ban hành
kèm theo quyết định số 1690/QT-VT ngày 15/9/1990 của Bộ giao thông vận tải và
Bưu điện.
22
Ngoài ra nhà bảo hiểm còn thanh toán cho chủ xe chi phí cần thiết, hợp lý
nhằm:

 Ngăn ngừa, giảm nhẹ tổn thất thêm cho hàng hoá;
 Bảo quản, xếp dỡ, lưu kho, lưu bãi hàng hoá trong quá trình vận
chuyển do hậu quả của tai nạn;
Các trường hợp loại trừ:
 Vi phạm các điểm loại trừ trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới đối với người thứ ba;
 Hành hoá lưu thông trái phép;
 Vàng bác đá quý (dạng nguyên thuỷ hoặc đã tinh chế);
 Tiền, các loại ấn chỉ, hoá đơn có giá trị như tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm;
 Thi hài, hài cốt;
 Mất cắp, trộm cướp;
 Tổn thất hàng hoá do sự bắt giữ của cơ quan chức năng nhà nước;
 Tổn thất hàng hoá do bị xô lệch, va đập trong quá trình vận chuyển mà
không phải do đâm va, lật đổ;
c) Phí bảo hiểm
P = f + d
Trong đó :
P-Phí bảo hiểm
f-Phí thuần
d-Phụ phí
1.2.5.Bảo hiểm tai nạn lái, phụ và người ngồi trên xe
a) Đối tượng bảo hiểm
Là lái xe, phụ xe, người áp tải, và những người khác được trở trên xe.
b) Phạm vi bảo hiểm
Những người này bị tai nạn khi đang ngồi trên xe, lên xuống xe, trong quá
trình xe đang tham gia giao thông.
Các trường hợp loại trừ:
23
 Đối tượng được bảo hiểm cố ý gây thiệt hại.
 Vi phạm các trường hợp loại trừ trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
c) Phí bảo hiểm
P = f + d
Trong đó :
P-Phí bảo hiểm
f-Phí thuần
d-Phụ phí
Trong loại trên, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ
ba là loại hình bảo hiểm bắt buộc (được quy định tại Luật dân sự, Luật kinh doanh
bảo hiểm và các nghị định của Chính phủ) mà đối tượng bảo hiểm là những thiệt hại
về người và tài sản do người sử dụng xe gây ra cho người khác phải bồi thường thiệt
hại theo quy định của pháp luật.
Khắc phục hậu quả tai nạn hay bồi thường cho người tham gia bảo hiểm là khâu
cuối cùng trong quá trình bán sản phẩm bảo hiểm. Đây là việc thực hiện cam kết bồi
thường bảo hiểm của nhà bảo hiểm, thể hiện rõ tính chất xã hội và tính chất nhân đạo
của bảo hiểm. Chỉ có ở đây người ta mới nhận thấy vai trò của bảo hiểm nói chung và
các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới nói riêng.
Theo ông Phạm Ngọc giao, Phó phòng bảo hiểm xe cơ giới, Bảo Việt Việt Nam,
thị trường bảo hiểm xe cơ giới tại Việt Nam vẫn đang tiếp tục tăng trưởng một cách
nhanh chóng, và được dự báo là còn tiếp tục phát triển. Từ mức doanh thu phí của
năm 2002 là 637,123 tỷ đồng đã tăng lên 969,39 tỷ đồng năm 2003, 1.355,972 tỷ
đồng năm 2004, và đến năm 2005, doanh thu phí các nghiệp vụ xe cơ giới trên thị
trường đạt 1.600 tỷ đồng, bằng 30% doanh thu phí toàn thị trường bảo hiểm phi nhân
thọ. Trong khi số xe ô tô tham gia mua bảo hiểm chiếm tới 90% số ô tô hiện có thì xe
máy chỉ đạt chưa tới 30%. Trong thời gian tới, được dự báo là số xe tham gia bảo
hiểm ngày càng nhiều, vì vậy môi giới trong nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới càng có
nhiều cơ hội để phát triển và thực hiện tốt vai trò của nhà môi giới chuyên nghiệp.
24
2. So sánh bán bảo hiểm xe cơ giới qua Đại lý và Môi giới
Đại lý và Môi giới bảo hiểm đều là những trung gian bảo hiểm, là cầu nối giữa

khách hàng tham gia bảo hiểm và các doanh nghiệp bảo hiểm, đều được hưởng hoa
hồng theo một tỷ lệ nhất định so với phí bảo hiểm thu được. Thực hiện việc thu phí
của khách hàng nếu được sự cho phép của doanh nghiệp bảo hiểm, Đại lý và Môi
giới bảo hiểm đều được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, cần phải phân
biệt sự khác nhau giữa Đại lý và Môi giới trong việc bán bảo hiểm xe cơ giới.
Đại lý đại diện cho quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm, được doanh nghiệp bảo
hiểm uỷ quyền để mời chào người tham gia bảo hiểm ký kết hợp đồng bảo hiểm xe
cơ giới, Đại lý có thể là tổ chức hoặc cá nhân đáp ứng đầy đủ những quy định của
pháp luật. Nhưng Môi giới bảo hiểm lại là một tổ chức, doanh nghiệp hoạt động độc
lập với doanh nghiệp bảo hiểm, đại diện cho quyền lợi và lợi ích cho khách hàng, thu
thập thông tin về doanh nghiệp bảo hiểm, sản phẩm, biểu phí…, tư vấn cho khách
hàng lựa chọn doanh nghiệp nào có phí bảo hiểm và dịch vụ phù hợp nhất.
- Nếu như Đại lý làm việc cho một doanh nghiệp bảo hiểm nhất định, chào bán
những sản phẩm bảo hiểm của doanh nghiệp đó, thì Môi giới bảo hiểm lại hoạt động
độc lập, chào bán tất cả các sản phẩm và dịch vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm cho
khách hàng lựa chọn. Đại lý bán bảo hiểm xe cơ giới rất nhiều, điều kiện để hoạt
động đại lý đơn giản hơn hoạt động môi giới. Phần lớn Môi giới bảo hiểm trong
nghiệp vụ xe cơ giới thường tư vấn cho những hợp đồng bảo hiểm có giá trị bảo hiểm
cao, đặc biệt là xe ô tô và những đoàn xe lớn của các doanh nghiệp.
IV. Thực trạng hoạt động Môi giới bảo hiểm tại Việt Nam trong thời gian qua
1.Thị trường bảo hiểm Việt Nam trong thời gian qua.
Thị trường bảo hiểm Việt Nam đánh dấu sự hình thành bằng việc ra đời Công
ty bảo hiểm Việt Nam (hiện nay là tổng công ty bảo hiểm Việt Nam- Bảo Việt) vào
ngày 15/01/1965. Tuy nhiên bước ngoặt trong quá trình hình thành và phát triển của
thị trường bảo hiểm Việt Nam là việc Chính phủ ban hành Nghị định 100/CP ngày
18/12/1965, Nghị định này đã tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, cho phép
nhiều loại hình doanh nghiệp bảo hiểm tham gia vào thị trường: doanh nghiệp nhà
25

×