LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế nước ta, trong những năm gần đây
nhu cầu về vận chuyển hàng hóa, hành khách ngày càng gia tăng đã kéo theo sự gia
tăng đáng kể về số lượng các phương tiện vận tải. Tuy nhiên, do điều kiện về cơ sở
hạ tầng giao thông nước ta còn nhiều bất cập, trong khi đó ý thức chấp hành luật lệ an
toàn giao thông của người dân chưa cao đã dẫn đến phát sinh nhiều hệ lụy, đặc biệt là
vấn đề tai nạn giao thông đã trở thành vấn nạn của xã hội. Mặc dù chính phủ, các cấp,
các ngành đã và đang thực hiện nhiều biện pháp tích cực nhưng tình trạng tai nạn
giao thông không những không được kiềm chế mà còn diễn biến hết sức phức tạp.
Hàng năm có đến hàng vạn người chết và bị thương, thiệt hại về vật chất là vô cùng
to lớn và trở thành nỗi ám ảnh của mọi người, nhất là đối với chủ nhân có các
phương tiện tham gia giao thông.
Trước thực trạng đó, nhu cầu về bảo hiểm xe cơ giới ngày càng được các chủ xe
quan tâm và xem đây là một trong những biện pháp tích cực để khắc phục những hậu
quả khôn lường do tai nạn giao thông gây ra, qua đó giúp họ ổn định về mặt tài chính
và an tâm hơn trong quá trình hoạt động nghề nghiệp của mình khi đã chuyển giao rủi
ro cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Trong số những nghiệp vụ mà các công ty bảo hiểm phi nhân thọ triển khai, bảo
hiểm kết hợp xe cơ giới (chủ yếu là bảo hiểm vật chất và bảo hiểm trách nhiệm dân
sự (TNDS) của chủ xe cơ giới với người thứ ba) là một nghiệp vụ chủ yếu. Ở Công
ty Cổ phần bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội (ABIC- Hà Nội), nghiệp vụ
này luôn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tổng doanh thu. Tuy nhiên, công tác giám
định và bồi thường nghiệp vụ này ở ABIC- Hà Nội vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập.
Với mục tiêu phát triển bền vững và hiệu quả, ABIC- Hà Nội không thể không chú
trọng đến công tác nâng cao chất lượng dịch vụ sau bán hàng vì chỉ có giải quyết tốt
nhu cầu khách hàng, doanh nghiệp mới có đủ uy tín để tồn tại trong một môi trường
cạnh tranh đầy năng động như hiện nay.
1
Vì lý do trên, em đã chọn đề tài “ Thực trạng công tác giám định, bồi thường và
đề phòng hạn chế tổn thất nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới tại công ty Cổ phần Bảo
hiểm Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội (ABIC- Hà Nội) để nghiên cứu.
Bố cục bài viết bao gồm 3 chương chính:
Chương I: Bảo hiểm xe cơ giới với công tác giám định, bồi thường và đề phòng hạn
chế tổn thất
Chương II: Thực trạng công tác giám định, bồi thường và đề phòng hạn chế tổn thất
nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới tại công ty cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp
Hà Nội ( ABIC)
Chương III: Kiến nghị và giảm pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác giám định,
bồi thường và đề phòng hạn chế tổn thất của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới tại Công
ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội..
CHƯƠNG I: BẢO HIỂM XE CƠ GIỚI VỚI CÔNG TÁC GIÁM ĐỊNH, BỒI
THƯỜNG VÀ ĐỀ PHÒNG HẠN CHẾ TỔN THẤT.
1.1 . Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới.
1.1.1 . Sự hình thành và phát triển nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới
a, Trên thế giới
Không thể phủ nhận vai trò to lớn của hệ thống xe cơ giới đối với sự hình
thành và phát triển nền kinh tế. Và ngược lại, cùng với sự tiến bộ không ngừng của
khoa học kỹ thuật, các phương tiện cơ giới đã được cải tiến hết sức nhanh chóng. Từ
các phương tiện vận tải thô sơ, cho đến nay chúng ta đã có những phương tiện cơ
giới hết sức hiện đại với tốc độ di chuyển lên tới hàng trăm km một giờ như ô tô, xe
gắn máy... Cùng với đó, chúng ta đã xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng: cầu, đường bộ
ngày một hoàn thiện. Tuy nhiên, mọi sự tăng trưởng đều tồn tại những mặt trái: tai
nạn giao thông ngày một ra tăng cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng đã trở thành
vấn đề nhức nhối trong toàn xã hội. Số lượng phương tiện tham gia giao thông tăng
2
cao và tốc độ của các phương tiện ngày càng được cải thiện…là nguyên nhân dẫn
đến rủi ro khi tham gia giao thông được đánh giá là một trong các rủi ro đặc biệt
nghiêm trọng. Ngoài ra tham gia giao thông còn gặp phải một số rủi ro như mất cắp,
thiên tai, phát sinh trách nhiệm dân sự với người khác…….
Con người chúng ta cũng đã không ngừng tìm kiếm các biện pháp nhằm hạn chế
tối thiểu thiệt hại mà rủi ro khi tham gia giao thông gây ra như: thực hiện luật giao
thông, sử dụng các thiết bị an toàn trên phương tiện, xây dựng hệ thống đường giao
thông hoàn thiện…Đồng thời, nhằm bù đắp những tổn thất về người và tài sản do
những rủi ro này gây ra, công cụ bảo hiểm ra đời và trở thành biện pháp hữu hiệu
nhất hiện nay.
Khi những rủi ro bất ngờ xảy ra với người điều khiển phương tiện xe cơ giới,
không chỉ gây ra những thiệt hại về người và của cho bản thân người đó mà còn có
thể phát sinh trách nhiệm của họ đối với tài sản và người mà phương tiện mình gây ra
cho người thứ ba. Do vậy, bảo hiểm phương tiện xe cơ giới gồm hai loại bảo hiểm
vật chất cho chính phương tiện đó ( được gọi là bảo hiểm vật chất xe cơ giới) và bảo
hiểm trách nhiệm với người thứ ba có thể phát sinh khi xe đó gặp rủi ro ( còn gọi là
bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ 3).
Xe cơ giới được hiểu là tất cả các loại xe tham gia giao thông trên đường bộ bằng
động cơ của chính nó như: ô tô, xe gắn máy, mô tô và để đối phó với các rủi ro tai
nạn bất ngờ có thể xảy ra gây tổn thiệt hại về giá trị chiếc xe, các chủ phương tiện
này thường tham gia bảo hiểm một số hình thức bảo hiểm vật chất xe khác nhau. Ví
dụ:
+ Đối với xe máy hoặc xe mô tô, chủ phương tiện tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân
sự, tại nạn người ngồi…
+ Đối với xe ô tô, chủ phương tiện có thể tham gia bảo hiểm toàn bộ hoặc cũng có
thể bảo hiểm từng bộ phận của xe như: tổng thành thân vỏ, tổng thành động cơ, tổng
thành hộp số…
Trong hợp đồng bảo hiểm xe, các rủi ro được bảo hiểm hay phạm vi bảo hiểm thông
thường bao gồm:
3
+ Tai nạn do đâm va, lật đổ.
+ Cháy, nổ, bão lụt, sét đánh, động đất, mưa đá...
+ Mất cắp toàn bộ xe ( với ô tô nếu mất cắp một bộ phận sẽ không được bồi thường)
+ Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên.
Ngoài ra, công ty bảo hiểm còn thanh toán cho chủ xe tham gia bảo hiểm những chi
phí cần thiết và hợp lý nhằm:
+ Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các rủi ro được
bảo hiểm.
+ Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất.
+ Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm.
Tuy nhiên, trong mọi trường hợp thì số tiền bồi thường cho khách hàng của công
ty bảo hiểm sẽ không quá số tiền bảo hiểm ( STBH) đã ghi trên hợp đồng hoặc giấy
chứng nhận bảo hiểm. Đồng thời, công ty bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm bồi
thường những thiệt hại vật chất xe gây ra bởi một trong các trường hợp sau:
+ Hành động cố ý của chủ xe, lái xe
+ Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành theo quy định của
Luật an toàn giao thông đường bộ
+ Chủ xe ( lái xe) vi phạm nghiêm trọng Luật an toàn giao thông đường bộ
+ Thiệt hại do chiến tranh...
Phí bảo hiểm được xác định bằng một tỉ lệ phần trăm nhất định số tiền bảo hiểm
và tỉ lệ đó phụ thuộc vào một số yếu tố như: loại xe, khu vực giữ xe và để xe, mục
đích sử dụng xe, tuổi tác kinh nghiệm lái xe của người yêu cầu bảo hiểm và những
người thường xuyên sử dụng chiếc xe được bảo hiểm cùng với một số yếu tố làm
giảm phí bảo hiểm như số lượng tham gia lớn, thời gian tham gia dài và có thực hiện
một số biện pháp nhằm hạn chế tổn thất...
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là hình thức
bảo hiểm bắt buộc nhằm giúp cho các cá nhân và tổ chức trong xã hội có thể ổn định
tài chính khi trách nhiệm pháp lý phát sinh, mặt khác bảo đảm khả năng được bồi
thường cho bên bị thiệt hại. Đối tượng bảo hiểm không được xác định trước và công
4
ty bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm cho phần trách nhiệm dân sự của chủ xe phát sinh do
sự hoạt động và điều khiển của người lái xe. Một số điều kiện phát sinh trách nhiệm
dân sự của chủ xe đối với người thứ ba như:
+ Có thiệt hại về tài sản, tính mạng hoặc sức khỏe của bên thứ ba
+ Chủ xe ( lái xe) phải có hành vi trái pháp luật
+ Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của chủ xe ( lái xe) với
những thiệt hại của người thứ ba
+ Chủ xe ( lái xe) phải là người có lỗi.
Bên thứ ba trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
là những người trực tiếp bị thiệt hại do hậu quả của vụ tai nạn nhưng loại trừ:
+ Lái, phụ xe, người làm công cho chủ xe
+ Những người lái xe phải nuôi dưỡng như cha, mẹ, vợ, chồng, con cái..
+ Hành khách, những người có mặt trên xe...
+ Tài sản, hành lý, tư trang của những người nêu trên.
Cũng giống như bảo hiểm vật chất xe cơ giới, số tiền công ty bảo hiểm phải bồi
thường khi rủi ro đó thuộc phạm vi được bảo hiểm trong hợp đồng được giới hạn trên
bằng số tiền bảo hiểm thì trong bảo hiểm trách nhiệm dấn sự bắt buộc của chủ xe cơ
giới đối với người thứ ba được giới hạn bởi quy định của nhà nước cho từng loại
thiệt hại là thiệt hại về người và thiệt hại về tài sản ( hay được gọi là mức giới hạn
trách nhiệm). Mức giới hạn này được quy định cụ thể với từng quốc gia, từng khu
vực...Ngoài ra còn có bảo hiểm trách nhiệm dân sự tự nguyện. Đây thường là loại
hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự có hạn mức trách nhiệm cao hơn sơ với hạn mức
trách nhiệm trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc. Mức giới hạn này do chủ xe
và doanh nghiệp bảo hiểm tự thỏa thuận...
b, Ở Việt Nam
Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, Việt Nam cũng
gặp phải những vấn đề bất cập: số lượng phương tiện tham gia giao thông đường bộ
ngày càng tăng, chất lượng công trình giao thông chưa đồng bộ, ý thức của người
5
tham gia giao thông còn nhiều hạn chế... Là những nguyên nhân làm cho tình hình tai
nạn giao thông ngày càng trở nên nghiêm trọng.
Theo thống kê chưa đầy đủ, mấy năm trở lại đây, mỗi năm ở nước ta xảy ra trung
bình gần 15.000 vụ tai nạn giao thông đường bộ, khiến trên 12.500 người tử vong và
cũng gần bằng ấy người bị thương tật.
Điều đáng quan tâm là đa số những người bị tử vong do tai nạn giao thông đường
bộ nằm trong lứa tuổi 15 – 45, độ tuổi làm ra nhiều của cải nhất cho xã hội, là trụ cột
về kinh tế của các gia đình và trong số người bị chết có gần 2.000 là trẻ em.
Để giảm bớt tai nạn giao thông, bên cạnh việc cải thiện cơ sở hạ tầng, nâng cao
chất lượng phương tiện vận tải, tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành luật lệ giao
thông, Nhà nước đã áp dụng các biện pháp chế tài mạnh mẽ đối với những hành vi cố
tình vi phạm pháp luật về giao thông. Cùng với đó, về mặt tài chính, Nhà nước đã tổ
chức và khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm tiến hành và
phát triển các dịch vụ bảo hiểm xe cơ giới.
Trong các loại hình bảo hiểm xe cơ giới thì ngay từ ngày 10/3/1988, Nhà nước đã
ban hành chế độ bảo hiểm bắt buộc đối với bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe. Còn
bảo hiểm thân xe hay vật chất xe, bảo hiểm tai nạn lái phụ xe và người ngồi trên xe…
là các loại hình bảo hiểm xe cơ giới tự nguyện, cũng được các doanh nghiệp bảo
hiểm triển khai thực hiện và cũng rất phát triển trong thời gian qua.
Đối với một đất nước có tới trên 20 triệu xe gắn máy, thu nhập của người lao động
chưa cao, ý thức chấp hành luật lệ của đa số người tham gia giao thông còn thấp, thì
việc bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới nhằm đảm bảo quyền được bồi
thường của người bị nạn trong mọi trường hợp là cần thiết . Các quy định về chế tài,
xử phạt đối với chủ xe cơ giới tham gia giao thông không mua bảo hiểm đã khiến cho
số người tham gia bảo hiểm ngày càng nhiều. Theo quyết định số 23/2007/QĐ-BTC
năm 2007 của Bộ Tài chính thì hạn mức trách nhiệm là 50 triệu đồng/người/vụ và 50
triệu đồng/tài sản/vụ.
Đến năm 2011, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có gần 30 doanh nghiệp triển
khai nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới và nó cũng là nghiệp vụ chiếm tỉ trọng doanh thu
6
cao nhất. Theo số liệu thống kê 6 tháng đầu năm 2010, doanh thu phí bảo hiểm xe cơ
giới tại 28 DN bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam đạt trên 2.516 tỷ đồng, thị phần
cao nhất thuộc về Bảo Việt 25,92%, kế tiếp là PJICO 14,86%, Bảo Minh 11,97% và
PVI 11,61%. Đây là loại hình bảo hiểm có doanh thu cao nhất trong số các nghiệp vụ
bảo hiểm mà các doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam triển khai.
Để có được trên 10 triệu xe gắn máy được bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe,
các doanh nghiệp bảo hiểm đã sử dụng một lượng lớn lao động không chuyên, gọi là
đại lý, để phân phối sản phẩm bảo hiểm này đến người sử dụng xe. Điều này cũng
đồng nghĩa với việc đã có hàng ngàn người có thu nhập thêm từ việc cộng tác với các
doanh nghiệp bảo hiểm.
Cũng trong 6 tháng đầu năm 2010, các doanh nghiệp bảo hiểm đã chi 1.074 tỷ
đồng để bồi thường cho các đối tượng được bảo hiểm xe cơ giới không may bị tai
nạn. Đây là tỷ lệ tương đối cao nếu biết rằng trách nhiệm bồi thường của các doanh
nghiệp bảo hiểm cho các chủ xe mua bảo hiểm 6 tháng đầu năm 2010 còn kéo dài tới
giữa năm 2011 và còn hàng ngàn hồ sơ tai nạn chưa được giải quyết do chưa hoàn
thiện thủ tục hay tai nạn mới xảy ra. Điều này giải thích tại sao các doanh nghiệp bảo
hiểm triển khai dịch vụ bảo hiểm này có khả năng sẽ không có lãi trong năm tài chính
2010.
Các doanh nghiệp kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới trên thị trường bảo
hiểm gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên nhân chủ quan là do các công ty còn non trẻ,
khả năng quản lý và thi hành còn chưa chuyên nghiệp. ngoài ra còn có những nguyên
nhân khách quan rất đáng lo ngai như tần suất xảy ra tai nạn quá lớn, nhất là đối với
bảo hiểm vật chất xe. Không ít chủ xe ôtô con, chỉ trong một năm đã tới công ty bảo
hiểm 3 lần để đề nghị được thông báo tai nạn và yêu cầu bồi thường bảo hiểm do xe
bị nạn, nhỏ thì xước vỏ, vỡ kính, lớn thì méo bẹp…, số tiền mà doanh nghiệp bảo
hiểm phải bồi thường gấp nhiều lần số phí mà các chủ xe này đã nộp khi mua bảo
hiểm. Xe bị nạn là do tay lái của không ít người còn kém, tự gây hư hại xe ngay cả
khi đưa xe vào bến bãi. Nhưng đa phần, đáng buồn cho các doanh nghiệp bảo hiểm bị
7
“chi tiền oan”, là khi xe ôtô được bảo hiểm dừng chờ đèn tín hiệu giao thông, bị các
chủ xe máy cố len lách lao lên trước va quệt.
Số người thiệt mạng, số xe bị hư hại nặng do lái xe cố tình vi phạm luật lệ giao
thông, vượt đèn đỏ, vượt đường ngang đường dành cho tàu hỏa cũng gia tăng, với
mức độ trầm trọng hơn. Trong khi đó, theo quy định của pháp luật, trong bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, việc bồi thường thiệt hại về con người đa
phần không tính tới lỗi của chủ xe, lái xe .
Hiện tượng trục lợi bảo hiểm từ phía chủ xe diễn ra ngày càng nhiều, khi xe bị tai
nạn mới mua bảo hiểm, rồi tìm mọi cách để ghi lùi ngày xảy ra tai nạn; xe bị tai nạn
do nguyên nhân không được bảo hiểm, nhưng lại tạo hiện trường giả hay tìm cách để
được bồi thường với sự tiếp tay của cán bộ bảo hiểm và những người có trách nhiệm
khác.
Hiện tượng khác cũng đáng lo ngại là tình trạng tranh chấp tại Tòa án giữa các
DN bảo hiểm và người được bảo hiểm xe cơ giới ngày càng tăng, mà phần thua thiệt
chủ yếu là các công ty bảo hiểm. Chẳng hạn, chủ xe chưa nộp phí bảo hiểm thì chưa
phát sinh trách nhiệm bảo hiểm, nhưng Tòa vẫn phán bảo hiểm phải bồi thường. Xe
bị tai nạn do lỗi kỹ thuật, không đủ điều kiện lưu hành, DN bảo hiểm cũng bị buộc
phải bồi thường. Có những vụ mà DN bảo hiểm rất khó xử lý khi người lái xe máy lơ
đãng tự lao vào xe ôtô đỗ trên đường, chết người, có kết luận của cảnh sát giao thông,
nhưng chủ xe vẫn đòi bồi thường. Không ít trường hợp xe ôtô tự gây tai nạn, nhưng
chủ xe không thông báo cho cảnh sát giao thông, cũng có trường hợp cảnh sát giao
thông được thông báo nhưng không tới để lập biên bản hiện trường, với lý do xe
không gây thiệt hại cho người thứ ba, khiến cho các DN bảo hiểm không nắm được
nguyên nhân và không có cơ sở để bồi thường, làm vụ việc kéo dài, gây tranh cãi,
kiện tụng.
1.2. Giám định, bồi thường và đề phòng hạn chế tổn thất nghiệp vụ Bảo hiểm
xe cơ giới.
1.2.1 . Vai trò của công tác giám định, bồi thường và đề phòng hạn chế tổn
thất đối với nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới.
8
Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm thì việc đưa sản phẩm của mình đến tay
khách hàng chỉ là bước đầu tiên được thực hiện trong hoạt động kinh doanh . Quyền
lợi của khách hàng được thực hiện khi có những rủi ro, biến cố bất ngờ xảy ra đối
với đối tượng bảo hiểm và rủi ro đó thuộc phạm vi được bảo hiểm ( phạm vi bảo
hiểm được quy định cụ thể trong mỗi hợp đồng bảo hiểm còn hiệu lực). Nhà bảo
hiểm sẽ chi trả hoặc bồi thường cho khách hàng của họ giá trị thiệt hại đó bằng tiền
hay hiện vật theo các điều khoản được kí kết trong hợp đồng và giá trị đó phải được
sự đồng thuận từ cả hai phía. Để xác định được mức độ thiệt hại thực tế và số tiền
công ty phải bồi thường là bao nhiêu thì tất cả các công ty bảo hiểm đều phải thực
hiện công tác giám định. Sau đó là thực hiện chi trả, bồi thường cho khách hàng để
bù đắp toàn bộ hay một phần thiệt hại mà rủi ro gây ra đồng thời cũng là hoạt động
thực hiện nghĩa vụ của công ty bảo hiểm với khách hàng của mình. Để giảm thiểu
mức độ thiệt hại mà những rủi ro, biến cố bất ngờ phát sinh cho khách hàng và nhà
bảo hiểm thì công tác đề phòng hạn chế tổn thất trở thành vô cùng quan trọng. Trong
kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới thì vai trò của công tác này càng thể hiện
rõ nét. Do nó là vấn đề ảnh hưởng đến quyền lợi của hai bên nên luôn được chú trọng
và không ngừng hoàn thiện.
Nói đơn giản hơn, khi có thiệt hại xảy ra, chúng ta cần phải biết mức độ thiệt hại
là bao nhiêu? Thiệt hại đó có thuộc trách nhiệm của nhà bảo hiểm không? Và sau khi
đã xác định được giá trị mà nhà bảo hiểm phải bồi thường cho khách hàng thì công ty
bảo hiểm cần có các biện pháp để thực hiện công việc này hiệu quả nhất nhằm thực
hiện quyền lợi mà khách hàng được hưởng đồng thời tránh những tranh chấp không
đáng có để ảnh hưởng đến danh tiếng của công ty bảo hiểm. Trong khi rủi ro chưa
xảy ra hoặc đã xảy ra, cả khách hàng cùng công ty bảo hiểm sẽ phải cùng có các biện
pháp nhằm hạn chế tới mức thấp nhất thiệt hại mà rủi ro đó gây ra vì vậy công tác đề
phòng hạn chế tổn thất không chỉ đươc thực hiện bởi nhà bảo hiểm mà cả với những
người tham gia bảo hiểm…
Theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm, khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra,
doanh nghiệp bảo hiểm phải có trách nhiệm và nghĩa vụ bồi thường hoặc chi trả tiền
9
bảo hiểm cho người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm. Để được bồi thường hoặc chi trả,
bên tham gia bảo hiểm tiến hành khiếu nại đòi bồi thường hoặc chi trả đối với doanh
nghiệp bảo hiểm , văn bản khiếu nại thường là giấy yêu cầu đòi bồi thường hoặc chi
trả. Đồng thời giải quyết khiếu nại một cách chủ động, nhanh chóng, chính xác, hợp
lý là sự biểu hiện cụ thể trách nhiệm và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm đối với
khách hàng của mình. Để xác định chính xác được số tiền bảo hiểm doanh nghiệp
phải thanh toán cho khách hàng trước hết doanh nghiệp bảo hiểm phải tiến hành giám
định tổn thất.
1.2.2. Nội dung công tác giám định, bồi thường và đề phòng hạn chế tổn thất
nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới.
1.2.2.1 . Công tác gám định
Công tác giám định tổn thất là công đoạn phục vụ sau bán hàng của doanh
nghiệp bảo hiểm. Vì vậy công đoạn này quan trọng đối với cả doanh nghiệp bảo hiểm
và đối với khách hàng tham gia bảo hiểm. Mục tiêu của công tác giám định nhằm tìm
ra nguyên nhân tổn thất và đánh giá mức độ tổn thất của đối tượng được bảo hiểm.
Công ty bảo hiểm được đánh giá là có uy tín trong công tác này khi công tác giám
định diễn ra nhanh chóng và chính xác.
Để tổ chức công tác giám định tổn thất có hiệu quả thì doanh nghiệp bảo hiểm
thường xây dựng đội ngũ làm công giám định ( giám định viên) chuyên nghiệp. Giám
định viên không những cần phải có chuyên môn sâu về nghiệp vụ bảo hiểm mà cần
phải am hiểu những lĩnh vực liên quan như: lĩnh vực cơ khí chế tạo ô tô, luật giao
thông đường bộ, luật giao dân sự… và cả đạo đức nghề nghiệp. Chuyên viên giám
định phải công minh, phải chấp hành nghiêm chỉnh những chỉ thị, ý kiến của doanh
nghiệp bảo hiểm.
Ngoài ra các trường hợp có tổn thất lớn hay nguyên nhân tổn thất phức tạp thì
khách hàng và doanh nghiệp bảo hiểm có thể thỏa thuận thuê giám định viên độc lập.
Việc thuê giám định viên độc lập cũng là rất cần thiết , nó giúp công đoạn giám định
khách quan hơn đồng thời làm giảm tranh chấp giữa khách hàng với công ty bảo
hiểm.
10
Nội dung công tác giám định tổn thất:
+ Thông báo tai nạn: Cũng như các loại đơn bảo hiểm khác, nhà bảo hiểm yêu cầu
chủ xe ( lái xe) ki xe bị tại nạn phải tìm mọi cách cứu chữa, hạn chế tổn thất, đồng
thời nhanh chóng thông báo cho cảnh sát giao thông và cho công ty bảo hiểm biết.
Chủ xe không được phép di chuyển, tháo dỡ hoặc sửa chữa xe khi chưa có ý kiến của
công ty bảo hiểm, trừ trường hợp phải thi hành chỉ thị của cơ quan có thầm quyền.
+ Giám định tổn thất: Thông thường đối với bảo hiểm vật chất xe cơ giới, việc giám
định tổn thất được công ty bảo hiểm tiến hành với sự có mặt của chủ xe, lái xe hoặc
người đại diện hợp pháp nhằm xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại. Chỉ trong
trường hợp hai bên không đi đến thống nhất thì lúc này mới chỉ định giám định viên
độc lập. Khi xác định được rủi ro xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm, doanh nghiệp bảo
hiểm sẽ tiến hành các bước giám định như sau:
- Chuẩn bị giám định: trước khi tiến hành giám định phải chuẩn bị đầy đủ các loại
giấy tờ có liên quan như: Đơn bảo hiểm hoặc giấy yêu cầu bảo hiểm, bảng kê chi tiết
các loại tài sản được bảo hiểm, giấy ra viện, các hóa đơn chứng từ, hóa đơn sửa chữa,
thay thế… Ngoài ra còn phải chuẩn bị hiện trường giám định nếu cần, tổ chức mời
các bên liên quan tham gia chứng kiến trong quá trình tiến hành giám định như cơ
quan công an, chính quyền địa phương, y bác sĩ, các chuyên gia…
- Tiến hành giám định: Công tác giám định phải được tiến hành khẩn trương và ý
kiến của giám định viên đưa ra phải chính xác, hợp lý và nhất quán. Trong quá trình
giám định phải tập trung vào một số công việc như: Kiểm tra đối tượng giám định,
phân loại tổn thất, xác định mức độ tổn thất, mức độ lỗi của các bên….
- Lập biên bản giám định: đây sẽ là tài liệu ghi nhận kết quả của quá trình làm giám
định và là cơ sở chủ yếu để xét duyệt bồi thường hoặc chi trả bảo hiểm và khiếu nại
người thứ ba ( nếu có). Nội dung của biên bản cần đảm bảo tính trung thực, chính
xác, rõ ràng, cụ thể. Các số liệu phải phù hợp với thực tế và không có mâu thuẫn với
các giấy tờ khác có liên quan….
1.2.2.2. Công tác bồi thường tổn thất nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới
11
Khi đã có kết quả giám định, công ty bảo hiểm sẽ thực hiện bồi thường cho
khách hàng của mình nhằm đảm bảo những cam kết trong hợp đồng và để bù đắp
toàn bộ hoặc một phần những thiệt hại mà khách hàng của mình phải gánh chịu. Bồi
thường là một trong các hoạt động chi lớn nhất đối với hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp bảo hiểm vì vậy công đoạn này đòi hỏi phải chính xác, minh bạch đồng
thời cũng cần có tính hợp lý, kịp thời để quyền lợi của khách hàng được đảm bảo.
Khi thực hiện bồi thường là khi doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện cam kết của mình
đối với khách hàng sử dụng sản phầm của doanh nghiệp và có sự kiện bảo hiểm xảy
ra. Công tác này thể hiện rất nhiều uy tín của doanh nghiệp, thể hiện sự chuyên
nghiệp và mức độ đáng tin cậy của khách hàng đối với doanh nghiệp hiện tại và trong
tương lai.
Trình tự giải quyết bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm được tiến hành như
sau:
* Mở hồ sơ khách hàng: Khi nhận được biên bản giám định tổn thất và các giấy tờ
có liên quan, bộ phận giải quyết bồi thường phải mở hồ sơ khách hàng và ghi lại theo
thứ tự hồ sơ và thời gian. Sau đó thực hiện đối chiếu, kiểm tra với bản hợp đồng gốc
về các thông tin liên quan đến bản kê khai tổn thất. Tiếp theo phải thông báo cho
khách hàng khi nhận đủ giấy tờ hoặc nhanh chóng yêu cầu cung cấp đầy đủ trong
trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ…
* Xác định số tiền bồi thường, chi trả bảo hiểm: Sauk hi hoàn tất hồ sơ bồi thường
của khách hàng bị tổn thất hoặc cần phải chi trả, bộ phận giải quyết bồi thường phải
tính toán số tiền phải bồi thường trên cơ sở khiếu nại của người được bảo hiểm, số
tiền đó được xác định căn cứ vào:
- Biên bản giám định tổn thất và bản kê khai tổn thất
- Điều khoản, điều kiện của hợp đồng bảo hiểm
- Bảng theo dõi số phí bảo hiểm đã nộp
- Số tiền vay trên hợp đồng ( nếu có)
- Thực tế chi trẩ của người thứ ba ( nếu có) và một số giấy tờ khác có liên
quan…
12
* Thông báo bồi thường, chi trả: Sau khi xác định được số tiền phải bồi thường, chi
trả, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thông báo chấp nhận bồi thường và đề xuất các hình
thức bồi thường cho khách hàng như: thanh toán bằng tiền mặt, sửa chữa tài sản, thay
thế mới tài sản…Nếu số tiền bồi thường quá lớn, doanh nghiệp bảo hiểm có thể thỏa
thuận với khách hàng về ký hạn thanh toán, thời gian, lãi suất trả chậm...
Phần lớn các vụ tổn thất được giải quyết bồi thường hoặc chi trả rất nhanh chóng,
ngay sau khi khách hàng tập hợp được các giấy tờ chứng minh cần thiết cùng với đơn
khiếu nại thiệt hại do tổn thất gây ra và lập biên bản giám định.
Một số khó khăn trong công tác bồi thường tổn thất cho doanh nghiệp bảo hiểm,
đồng thời gây ra tâm lý khó chịu, thậm chí là xảy ra khiếu kiện cho khách hàng như:
- Số tiền thiệt hại phải bồi thường không thể xác định được ngay ( như: người bị
thương cần có thời gian để bình phục, thiệt hại đối với tài sản trên xe cần có thời gian
xác định chính xác…)
- Trách nhiệm, nguyên nhân gây ra tổn thất không thể xác định được ngay nên các
bên phải thỏa thuận và gây tranh chấp, buộc tòa án phải can thiệp.
- Có nhiều bên thụ hưởng tiền bồi thường, đòi hỏi phải tính toán, thời gian phân bổ
kéo dài.
- Người thứ ba cố tình gây khó dễ khi xác định mức độ thiệt hại liên quan đến họ,
việc xác định mức lỗi của mỗi bên khi tai nạn xảy ra cũng gặp nhiều khó khăn…
Doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cố gắng giải quyết hợp lý, tránh các trường hợp có sự
can thiệp của tòa án vì điều đó ảnh hưởng không tốt đến uy tín của doanh nghiệp
đồng thời sẽ tăng các chi phí liên quan. Một vụ việc giải quyết bồi thường kéo dài
đến hàng năm là điều mà cả người tham gia bảo hiểm và nhà kinh doanh bảo hiểm
đều không mong muốn…
* Truy đòi người thứ ba: Đây là khâu cuối cùng trong công tác bồi thường tổn thất.
Thông thường, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ hoàn trả toàn bộ số tiền mà khách hàng
được hưởng sau đó doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thực hiện truy đòi người thứ ba nếu họ
có liên đới trách nhiệm. Thực hiện truy đòi yêu cầu phải nhanh chóng, chính xác
13
nhằm quản lý tốt các nghiệp vụ bảo hiểm mà kết quả của chúng có liên quan nhiều
đến kết quả truy đòi, đặc biệt là trong bảo hiểm xe cơ giới.
1.2.2.3. Nội dung công tác đề phòng hạn chế tổn thất nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ
giới.
Trong bảo hiểm xe cơ giới, đề phòng và hạn chế tổn thất đòi hỏi cả nhà bảo
hiểm và người tham gia bảo hiểm cùng thực hiện. Đối với nhà bảo hiểm, chi phí cho
hoạt động bồi thường hoặc chi trả tổn thất là hoạt động chi lớn nhất và quan trọng
nhất, để giảm chi phí này và các chi phí liên quan, công ty bảo hiểm thường đưa ra
một số biện pháp nhằm đề phòng tổn thất xảy ra như:
+ Đầu tư xây dựng hệ thống đèn tín hiệu, biển báo, biển chỉ dẫn đối với những
khu vực thường xuyên xảy ra tai nạn.
+ Hướng dẫn khách hàng tham gia bảo hiểm thực hiện một số biện pháp an toàn
khi tham gia điều khiển phương tiện.
+ Đầu tư xây dựng hệ thống giao thông đồng bộ, xây cầu, hầm đường bộ…
Với khách hàng tham gia giao thông thì việc chấp hành luật an toàn giao thông là
vô cùng quan trọng, khi có tổn thất xảy ra thì không những giá trị về vật chất bị suy
giảm mà những tổn thất về tinh thần là vô cùng lớn, không gì có thể bù đắp được.
Khi trường hợp không mong muốn xảy ra, người bị tai nạn cùng công ty bảo
hiểm cần nỗ lực đưa ra các biện pháp xử lý để hậu quả của nó được hạn chế đến mức
thấp nhất như: nhanh chóng đưa người bị nạn đi cấp cứu, phương tiện giao thông bị
hỏng cần được vận chuyển đúng cách đến nơi sửa chữa, phục hổi. Những hoạt động
này được quy định hết sức cụ thể trong các chính sách đề phòng và hạn chế tổn thất
của công ty.
14
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁM ĐỊNH, BỒI
THƯỜNG VÀ ĐỀ PHÒNG HẠN CHẾ TỔN THẤT NGHIỆP VỤ BẢO
HIỂM XE CƠ GIỚI TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM NGÂN
HÀNG NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ( ABIC- HÀ NỘI).
2.1 Một vài nét về công ty cổ phần bảo hiểm Ngân Hàng Nông Nghiệp Hà Nội
Thực hiện chiến lược đưa Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt
Nam (AGRIBANK) trở thành một tập đoàn tài chính, ngân hàng hàng đầu ở Việt
Nam và lớn mạnh trong khu vực với cấu trúc đa sở hữu, hoạt động kinh doanh đa
dạng và có khả năng cung cấp hệ thống các sản phẩm dịch vụ tài chính ngày càng
hoàn hảo cho nền kinh tế xã hội, Ban lãnh đạo Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam đã quyết định mở rộng kinh doanh sang lĩnh vực Bảo hiểm phi
nhân thọ bằng việc đề xướng thành lập công ty bảo hiểm. Quyết định này đã nhận
được sự chấp thuận của Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước. Ngày 18/10/2006, Bộ
Tài chính đã cấp giấy phép thành lập và hoạt động số 38GP/KDBH về việc thành lập
Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông nghiệp Việt
Nam và hiện nay là Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp (ABIC).
Ngày 08/08/2007, công ty chính thức đi vào hoạt động kinh doanh, tham gia vào thị
trường bảo hiểm và sẵn sàng phục vụ nhu cầu bảo hiểm phi nhân thọ của các đối
tượng khách hàng trên phạm vi cả nước.
Một vài nét khái quát về Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp:
• Tên Công ty: Công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp
• Tên tiếng anh: Agriculture Bank Insurance Joint- Stock Corporation
• Tên viết tắt tiếng việt: Bảo hiểm Agribank
• Tên viết tắt tiếng anh: ABIC
• Ngày hoạt động chính thức: Ngày 08/08/2007
• Trụ sở chính: 343 Đội Cấn- Ba Đình- Hà Nội- Việt Nam
• Hội đồng quản trị nhiệm kỳ 2007-2011
Chủ tịch : Tiến sỹ Nguyễn Hữu Lương
15
Ủy viên thường trực : Ông Nguyễn Văn Minh
Ủy viên : Ông Phạm Công Tứ
Ủy viên : Ông Nguyễn Văn Nghiệp
Ủy viên : Bà Bùi Minh Hường
• Ban điều hành:
Căn cứ Nghị quyết kỳ họp thứ 11 và Nghị quyết kỳ họp thứ 13 của Hội đồng
quản trị Công ty CP Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp;
-Căn cứ văn bản số 6212/BTC-QLBH ngày 17/5/2010 của Bộ Tài chính về việc phê
chuẩn chức danh Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty CP Bảo hiểm Ngân
hàng Nông nghiệp.
1.Ông Đỗ Minh Hoàng thôi giữ chức Quyền Tổng Giám đốc Công ty để giữ chức
vụ Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp kể từ ngày
18/5/2010;
2.Ông Nguyễn Văn Minh - Nguyên Ủy viên trực HĐQT, Phó Tổng Giám đốc
thường trực được bầu làm Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty CP Bảo
hiểm Ngân hàng Nông nghiệp kể từ ngày 18/5/2010
• Lĩnh vực kinh doanh chính:
+ Kinh doanh bảo hiểm gốc;
+ Kinh doanh tái bảo hiểm: nhận và nhượng tái bảo hiểm đối với tất cả các
nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ;
+ Tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật;
+ Các hoạt động khác theo quy định của pháp luật.
• Các sản phẩm Bảo hiểm:
+ Các nghiệp vụ bảo hiểm sức khỏe và tai nạn con người;
+ Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại;
+ Bảo hiểm kỹ thuật;
+ Bảo hiểm hàng hóa;
+ Bảo hiểm xe cơ giới;
+ Bảo hiểm tàu;
16
+ Bảo hiểm trách nhiệm chung…
Sơ đồ 2.1: Tổ chức CTCP Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp:
……....................
……………………..
……………………………
17
Phòng Bảo hiểm
tài sản kỹ thuật
Chủ tịch Hội
đồng quản trị
Đại hội đồng cổ
đông
Ban kiểm soát
Phòng Tái bảo
hiểm
Chi nhánh Hải
Phòng
Phòng Thư ký
pháp chế
Chi nhánh Hà Nội
Phòng Kế toán
Phòng Bảo hiểm
hang hải
Các Phó tổng
giám đốc
Tổng Giám đốc
Phòng Bảo hiểm
Phi hang hải
Chi nhánh Nghệ
An
Chi nhánh Hồ
Chí Minh
Trụ sở chính Các Chi nhánh
Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội ( ABIC- Hà Nội) được thành lập ngày
01/02/2008 và hoạt động với:
Sơ đồ 2.2: Cơ cấu tổ chức CTCP Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp – Chi
nhánh Hà Nội:
Sau hơn ba năm đi vào hoạt động, ABIC Hà Nội đã từng bước mở rộng mạng lưới
phục vụ khách hàng, phát triển đa dạng hóa dịch vụ và sản phầm bảo hiểm, góp phần
18
Giám đốc Chi
nhánh
Phó Giám đốc
Chi nhánh
Phòng Kinh
doanh 1 (Tài sản
Kỹ thuật)
Phòng Tổng hợp
Phòng Kinh
doanh 2 (Hàng
hải)
Phòng Kinh
doanh 3 (Phi hang
hải)
Phòng Kinh
doanh 4 (Quản lý
Đại lý)
Phòng Kế toán
Phòng KD Khu
vực Hưng Yên
Phòng KD Khu
vực Gia Lâm
Phòng KD Khu
vực Hoàng Mai
Phòng KD Khu
vực Thanh Xuân
Phòng KD Khu
vực Cầu Giấy
vào mục tiêu phấn đấu của Bảo hiểm ABIC: sau 05 năm hoạt động được xếp vào một
trong 10 nhà bảo hiểm hàng đầu trên thị trường bảo hiểm Việt Nam về mặt doanh số,
mạng lưới hệ thống, uy tín, thương hiệu, chất lượng dịch vụ…
Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh của ABIC- Hà Nội trong 3 năm hoạt
động:
Chỉ tiêu
Năm
Tổng doanh thu
( tỷ đồng)
Tổng số tiền bồi thường
( tỷ đồng)
Số vụ tổn thất
( vụ)
2008 20,782 6,3 207
2009 61,746 12,5 1.217
2010 65,858 28,5 1.895
(Nguồn: Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp chi nhánh Hà Nội)
Tiến một bước dài cùng sự sôi động của thị trường BHPNT Việt Nam năm 2009
( tổng doanh thu trên thị trường BHPNT là 13.643 tỷ đồng, tăng 25% so với năm
2008), tổng doanh thu phí bảo hiểm của ABIC- Hà Nội đã tăng từ 20,782 tỷ đồng
năm 2008 lên đến 61,746 tỷ đồng năm 2009 và đến năm 2010, tổng doanh thu tăng
nhẹ lên mức 65,858 tỷ đồng. Năm 2008 tổng số tiền bồi thường chiếm 30,31% so với
tổng doanh thu, con số này trong năm 2009 là 20,24% và cho đến năm 2010 là
43,27% đây là những con số đáng lo ngại đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, thể
hiện tính rủi ro cao đồng thời doanh nghiệp BHPNT luôn phải đối mặt với sự cạnh
tranh trên thị trường BHPNT diễn ra ngày càng gay gắt trên cả 3 phương diện: tăng
chi phí bán hàng, mở rộng điều kiện và hạ phí BH. Đối mặt trước thực tế đó, nhằm
đảm bảo kinh doanh có lãi và giảm tỷ lệ tổn thất, ABIC- Hà Nội đã nâng cao chất
lượng giám định bồi thường. Đơn cử, việc sửa chữa tại các gara ô tô, doanh nghiệp
đã yêu cầu các đơn vị sửa chữa dự toán giá cho từng hạng mục để chi phí không tăng
quá cao so với dự kiến. Để đạt được kết quả kinh doanh tốt, ABIC- Hà Nội còn xây
dựng cơ chế tài chính phù hợp giúp đại lý làm ăn thuận lợi hơn và việc đưa ra những
sản phẩm BH phù hợp với nhu cầu của khách hàng cũng là một trong những biện
pháp cạnh tranh, thu hút khách.
Mục tiêu chiến lược là đưa ABIC trở thành một doanh nghiệp bảo hiểm có uy tín về
chất lượng và phong cách phục vụ khách hàng chuyên nghiệp, nhất là đạt uy tín hàng
19
đầu trong công tác giám định tổn thất, giải quyết khiếu nại, chi trả tiền bồi thường
thuận lợi, minh bạch, nhanh chóng và chính xác cho khách hàng…
Ngoài việc tham gia cung cấp các sản phẩm bảo hiểm như các doanh nghiệp bảo
hiểm khác trên thị trường, ABIC sẽ tập trung vào những sản phẩm bảo hiểm mới góp
phần phục vụ nông dân và phát triển nông thôn, một thị phần bảo hiểm còn mới và vô
cùng quan trọng với đất nước có tới 70% dân số làm nông nghiệp.
2.2. Kết quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm xe cơ giới tại Công ty Cổ phần
Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội trong những năm qua.
Bảo hiểm xe cơ giới là một trong các nghiệp vụ bảo hiểm đóng vai trò vô cùng
quan trọng và luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh thu phí bảo hiểm của các
công ty BHPNT hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Với ABIC- Hà Nội
cũng vậy: Trong năm 2008, tổng số hợp đồng khai thác tất cả các nghiệp vụ là 3.240
HĐ, trong đó có tới 1.325 HĐBH xe cơ giới thu về 8,3 tỷ đồng. Năm 2009 thì số
HĐBH xe cớ giới cũng chiếm khoảng 30% tổng số hợp đồng công ty khai thác được.
Tháng 4 năm 2010,ABIC thực hiện kinh doanh sản phẩm mới có tên là Bảo An Tín
Dụng - là sản phẩm liên kết giữa Ngân hàng và Bảo hiểm vì vậy số tiền bảo hiểm
cùng thời hạn bảo hiểm đều có mối quan hệ với số tiền mà Agribank chấp nhận cho
khách hàng vay, sản phẩm này đã trở thành sản phẩm chiến lược của ABIC và đưa
tổng số hợp đồng khai thác được tăng từ 13.932 năm 2009 lên con số 57.865 HĐBH
năm 2010. Năm 2010, do công ty không chú trọng khái thác các sản phẩm bảo hiểm
xe cơ giới nên tổng số HĐBH khai thác giảm nhẹ từ 4.785 HĐ năm 2009 xuống còn
4.437 HĐ mang về 25,3 tỷ đồng doanh thu phí.
Bảng 2.2: Tổng số hợp đồng khai thác và số vụ tổn thất trong các năm:
Nội dung Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
Số HĐBH xe cơ giới ( HĐ) 1.325 4.785 4.437
Số vụ tổn thất BHXCG ( Vụ) 178 946 1.617
(Nguồn: Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp chi nhánh Hà Nội)
Theo số liệu thống kê ở bảng trên thì số vụ tổn thất có xu hướng tăng với tốc độ cao
hơn tốc độ tăng của số HĐBH. Năm 2009, số vụ tổn thất BHXCG tăng gấp 5,3 lần so
với năm 2008, trong khi đó số HĐBH xe cơ giới năm 2009 tăng gấp 3,6 lần số
20
HĐBH xe năm 2008. Đặc biệt hơn, mặc dù số HĐ năm 2010 có phần giảm hơn đôi
chút so với năm 2009, vậy mà số vụ tổn thất tăng gấp 1,7 lần.
Bảng 2.3: Tỷ lệ bồi thường trong các năm:
Nội dung 2008 2009 2010
Doanh thu phí BHXCG (tỷ đ) 8,3 25,5 25,3
Số tiền bồi thường BHXCG (tr đ) 732 6.268 11.531
Tỷ lệ bồi thường (%) 9 25 46
(Nguồn: Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp chi nhánh Hà Nội)
Cùng với thực tế chung trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, tỷ lệ bồi thường xe cơ
giới có xu hướng tăng lên ( đặc biệt trong năm 2009, do tác động của cơn bão số 9, tỷ
lệ bồi thường nghiệp vụ này của rất nhiều công ty lên tới 100%), theo thống kê của
hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, có rất ít công ty Bảo hiểm kinh doanh có lãi với nghiệp
vụ bảo hiểm xe cơ giới, chủ yếu chi phí được bù đắp bằng các hoạt động tài chính.
Với tỷ lệ bồi thường cao ( mức >30%) cùng với quy định của Bộ tài chính thì phí bảo
hiểm phải trừ đi 10% hoa hồng đại lý, 2% chi phí đề phòng hạn chế tổn thất và phải
trừ đi các khoản trích lập dự phòng, sau đấy, phần còn lại mới là quỹ bồi thường
trong năm (dự phòng phí chưa được hưởng, dự phòng bồi thường dao động lớn, dự
phòng bồi thường), vì vậy nếu số tiền bồi thường nhỏ hơn doanh thu phí hay tỷ lệ bồi
thường thấp không có nghĩa là công ty kinh doanh nghiệp vụ này có lãi. Tuy nhiên,
thực tế tại Việt Nam hiện nay thì BHXCG vẫn là nghiệp vụ chủ chốt đối với các
Công ty Bảo hiểm Phi nhân thọ bởi nó là nghiệp vụ có tiềm năng khai thác lớn nhất
và để có được mạng lưới khách hàng rộng lớn thì khai thác nghiệp vụ này là một
chiến lược vô cùng quan trọng.
21
2.3. Thực trạng công tác giám định, bồi thường và đề phòng hạn chế tổn thất
nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới tại công ty Cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng Nông
nghiệp Hà Nội ( ABIC).
2.3.1. Công tác giám định.
Khi nhận được thông báo xảy ra tổn thất của khách hàng, công ty Bảo hiểm sẽ
xác định xem rủi ro biến cố mà khách hàng gặp phải có thuộc phạm vi bảo hiểm hay
không , sau đó công ty sẽ tiến hành công tác giám định. Giám định viên của công ty
sẽ thực hiện giám định theo đúng các quy trình mà công ty đã quy định để đi đến kết
luận chung với khách hàng cho những phần tổn thất mà công ty phải bồi thường. Nếu
khách hàng và công ty không đi được đến kết luận chung thì bắt buộc phải nhờ đến
sự giúp đỡ của giám định độc lập.
Bảng 2.4: Kết quả giám định BHXCG của ABIC- Hà Nội:
Năm
Nội dung 2008 2009 2010
Số vụ thực hiện giám định ( vụ ) 178 946 1.617
Số vụ nhờ đến giám định độc lập ( vụ) 18 100 160
(Nguồn: Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp chi nhánh Hà Nội)
Khi có thông báo từ khách hàng về tổn thất xảy ra, đặc biệt là đối với rủi ro tai
nạn giao thông, công ty nhanh chóng tiến hành các công đoạn giám định cho 100%
tổn thất và công việc này được thực hiện cùng ngày với ngày tổn thất xảy ra nhằm
đảm bảo tính xác thực của hiện trường. Rất mong muốn quá trình này sẽ diễn ra
thuận lợi, chính xác và nhanh chóng đi đến sự đồng thuận cả từ phía khách hàng, tuy
nhiên theo số liệu 3 năm tham gia hoạt động thì số vụ giám định mà công ty cần nhờ
đén giám định viên độc lập luôn có và chiếm trên dưới 10% tổng số vụ triển khai
giám định. Khách hàng của ABIC- Hà Nội chủ yếu là những khách hàng đã và đang
có quan hệ tín dụng với ngân hàng AGRIBANK nên niềm tin của khách hàng đối với
ABIC đã khá vững chắc, niềm tin đó luôn được các cán bộ bảo hiểm ngày một củng
cố và luôn mong muốn mang lại những gì thuận lợi nhất cho khách hàng của mình.
Để xác định được số tiền thiệt hại thực tế của khách hàng tham gia bảo hiểm
cũng như số tiền mà nhà bảo hiểm phải chi trả, bồi thường cho khách hàng của mình,
22
ABIC- Hà Nội đã xây dựng đội ngũ giám định viên ngày càng vững mạnh. Công tác
giám định trong các nghiệp vụ bảo hiểm là một công tác đòi hỏi người thực hiện phải
có một trình độ chuyên môn sâu, đa dạng và cần có nhiều kinh nghiệm; đặc biệt là
đối với nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, khi có rủi ro, biến cố xảy ra, thiệt hại của
khách hàng trở thành một khoản chi phí đối với doanh nghiệp bảo hiểm, đồng thời là
nỗi mất mát đối với người bị nạn. Vậy, người làm công tác giám định thực hiện tốt
nghĩa vụ và trách nhiệm của mình: nhanh chóng, chính xác, trung thực…sẽ giúp
khách hàng có một khoản thu, làm giảm bớt những thiệt hại mà họ phải gánh chịu
đồng thời giúp công ty bảo hiểm thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với khách hàng.
ABIC- Hà Nội đi vào hoạt động trên thị trường bảo hiểm khi ở Việt Nam đã có tới
gần 30 công ty tham gia kinh doanh lĩnh vực BHPNT, chính vì vậy, ABIC-Hà Nội đã
học hỏi được rất nhiều từ các nhà bảo hiểm ra đời sớm hơn, cùng với kinh nghiệm có
được sau 3 năm hoạt động, ABIC đã thực hiện công tác giám định với một quy trình
như sau:
A. QUY ĐỊNH CHUNG
A1. Mục đích
Quy định thống nhất tác nghiệp trong toàn hệ thống Công ty ABIC về việc
tiến hành giám định các sản phẩm bảo hiểm xe cơ giới.
A2. Phạm vi áp dụng
Quy trình này áp dụng cho việc giám định các vụ tổn thất thuộc các sản phẩm
bảo hiểm xe cơ giới được bảo hiểm tại ABIC bao gồm :
• Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới (Bảo hiểm TNDS của chủ xe đối với bên
thứ ba về tài sản).
• Bảo hiểm TNDS của chủ xe đối với hàng hoá trên xe.
• Bảo hiểm vật chất xe.
(Đối với các nghiệp vụ: BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 về
người; BHTNDS đối với hành khách chở trên xe; BH tai nạn người ngồi trên
xe và lái phụ xe, việc giám định thương tật căn cứ vào kết luận của cơ quan
chức năng chuyên môn).
23
A3. Tài liệu liên quan
Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật dân sự, các văn bản của Chính phủ và Bộ Tài
chính về bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc của Chủ xe cơ giới.
Quy tắc bảo hiểm xe cơ giới do ABIC ban hành.
Quy định về tái bảo hiểm
A4. Các từ viết tắt
STT Từ viết tắt Viết đầy đủ và giải thích
1
2
3
4
4
5
6
7
GĐV
GCNBH
TNDS
XCG
BH
P.PHH
BPGĐ
P.TCKT
Giám định viên
Giấy chứng nhận bảo hiểm
Trách nhiệm dân sự
Xe cơ giới
Bảo hiểm
Phòng Phi hàng hải
Bộ phận giám định (thuộc phòng PHH hoặc các phòng chức năng
khác được phân công nhiệm vụ Giám định XCG)
Phòng Tài chính kế toán
A5. Tiêu chuẩn và địa vị pháp lý của GĐV bảo hiểm XCG
Giám định viên (GĐV) bảo hiểm XCG là những cán bộ ABIC đáp ứng đầy đủ các
tiêu chuẩn: có trình độ hiểu biết về nghiệp vụ bảo hiểm, chuyên môn kỹ thuật sửa
chữa xe, nắm bắt thị thường về giá cả sửa chữa xe ô tô, có hiểu biết về luật lệ an
toàn giao thông đường bộ, Luật dân sự, có năng lực tổ chức thực hiện, có khả
năng thuyết phục, đàm phán khi có tranh chấp.
GĐV bảo hiểm xe cơ giới hoạt động độc lập trong quá trình giám định và chịu
trách nhiệm trực tiếp trước thủ trưởng đơn vị/ TGĐ Công ty và trước pháp luật về
những kết quả công việc được giao liên quan đến trách nhiệm giám định.
B. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC GIÁM ĐỊNH
B1. Quy định về trực tai nạn 24/24
• Mục đích:
Tạo ra một dịch vụ tốt nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết của khách hàng nhất là
trong tình huống xảy ra tai nạn để nâng cao uy tín và thương hiệu của ABIC.
24
Nắm bắt kịp thời các thông tin tai nạn để xử lý tốt nhất nhằm hạn chế tổn thất
phát sinh không đáng có đồng thời trong những tình huống cụ thể có thể giảm
thiểu nguy cơ trục lợi bảo hiểm.
• Tổ chức thực hiện
Phòng PHH Công ty :
- Là đầu mối tập hợp và thông báo số đường dây nóng của các đơn vị tới toàn
hệ thống ABIC.
- Kiểm tra việc thực hiện trực tại các đơn vị để có sự đánh giá đề xuất xử lý
đối với các đơn vị không thực hiện tốt công tác này.
- Tổ chức phân công trực tại khu vực Hà Nội (Có lịch cụ thể).
Các đơn vị thành viên:
- Có trách nhiệm thông báo số đường dây nóng của đơn vị mình về phòng
PHH (kể cả các số tại các địa bàn mà đơn vị có đại diện). Thông báo các số
mới khi mở rộng phạm vi, địa bàn kinh doanh, hoặc các số có sự thay đổi do
tình hình thực tế tại đơn vị (đối với số ĐTDĐ đường dây nóng của đơn vị nên
được thuê bao để đảm bảo tính ổn định và lâu dài).
- Tổ chức phân công trực tại đơn vị 24/24 giờ (Có lịch cụ thể).
Và một số quy định khác…
B2. Giám định hộ
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giám định các vụ tai nạn XCG xảy ra
trong phạm vi toàn quốc và có sự phối hợp giữa các Đơn vị một cách chặt chẽ
và đồng bộ Công ty ABIC quy định việc giám định hộ như sau:
Việc giám định hộ là trách nhiệm và nghĩa vụ của các Đơn vị trong cùng
hệ thống của ABIC. Khi khách hàng báo có vụ tổn thất xảy ra trên địa bàn của
mình và trình GCNBH của ABIC, nếu xác định vụ tổn thất thuộc phạm vi BH
thì Đơn vị đó có trách nhiệm hướng dẫn Chủ xe, Lái xe trong quá trình làm
thủ tục, báo về Đơn vị BH gốc để xác nhận ấn chỉ và tiến hành giám định cho
Chủ xe và có thể chuyển hồ sơ về Đơn vị bảo hiểm gốc hoặc giải quyết hồ sơ
chi bồi thường hộ… theo yêu cầu của Chủ xe.
25