Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

bảo hiểm xã hội và nợ động bảo hiểm xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.72 KB, 95 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Nội dung
1 BHXH Bảo hiểm xã hội
2 NLĐ Người lao động
3 NSDLĐ Người sử dụng lao động
4 NSNN Ngân sách nhà nước
5 ASXH An sinh xã hội
6 TNLĐ Tai nạn lao động
7 BHYT Bảo hiểm y tế
8 BHTN Bảo hiểm thất nghiệp
9 DNNN Doanh nghiệp nhà nước
10 DNNQD Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
11 DNLD Doanh nghiệp liên doanh
12 HCSN Hành chính sự nghiệp
13 DNCVĐTNN Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
14 LLVT Lực lượng vũ trang
15 HTX Hợp tác xã
16 LĐCTHNN Lao động có thời hạn nước ngoài
17 TC-CN Tổ chức, cá nhân
18 NCL Ngoài công lập
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Danh mục bảng:
Danh mục đồ thị:
4
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
BHXH luôn là một trong những chính sách quan trọng nhất đối với bất kỳ
quốc gia nào. Bởi lẽ, để tiến tới một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh thì
việc phát triển kinh tế luôn luôn phải đi đôi với đảm bảo tốt an sinh xã hội.
Ở nước ta, chính sách BHXH đã được ban hành và tổ chức thực hiện ngay


từ khi thành lập nước. Trải qua hơn 65 năm thực hiện với những bổ sung, sửa
đổi cho phù hợp với từng giai đoạn, chính sách BHXH đã góp phần to lớn
đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình, đồng thời góp phần ổn định
chính trị - xã hội của đất nước. Luật BHXH Việt Nam ra đời là bước ngoặt to
lớn tạo chuyển biến tích cực tới việc thực hiện các chế độ BHXH. Qua đó, các
chế độ bảo hiểm đã được mở rộng và linh hoạt hơn với nhiều loại hình đa
dạng từ BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, Bảo hiểm thất nghiệp, BHYT
phạm vi đối tượng cũng đã gia tăng đáng kể, cơ chế quản lý quỹ bảo hiểm
cũng có những đổi mới từng bước được hoàn thiện hơn. Hiện nay, trong công
cuộc đổi mới đất nước, chính sách BHXH đã từng bước phát huy đầy đủ vai
trò trụ cột của nó trong hệ thống an sinh xã hội, góp phần ổn định và phát
triển bền vững xã hội, BHXH ngày càng thể hiện vai trò to lớn trong cộng
đồng. Bởi vậy, việc đảm bảo một quỹ BHXH bền vững là việc làm hết sức
cần thiết, trong đó yếu tố quan trọng nhất là phải thực hiện tốt khâu quản lý
thu BHXH. Hiện nay, trong công tác quản lý BHXH ở nước ta đang gặp phải
những trở ngại lớn, đặc biệt là tình trạng các doanh nghiệp nợ đóng BHXH
đang diễn ra ở hầu hết các địa phương và trở thành vấn đề nan giải trong khâu
quản lý thu BHXH. Theo thống kê của BHXH Việt Nam, tính đến hết năm
2011 số tiền nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp là 3338 nghìn tỷ đồng.
Tình trạng nợ đọng BHXH tập trung chủ yếu ở các doanh nghiệp thuộc các
ngành xây dựng, cầu đường, cơ khí, giao thông, dệt may,… Đặc biệt, số
5
doanh nghiệp nợ đọng tiền BHXH trong thời gian dài (hơn 12 tháng) với mức
nợ trên 1 tỷ đồng còn rất nhiều. Tình trạng này đã ảnh hưởng không nhỏ đến
quyền lợi của người lao động trong cả nước. Theo quy định, khi doanh nghiệp
không nộp BHXH thì người lao động cũng không được hưởng BHXH. Do đó,
cần phải có những biện pháp tích cực để thu hồi khoản tiền nợ đọng này để
đảm bảo quyền lợi cho người lao động cũng như quyền lợi của cơ quan bảo
hiểm. Từ đó đảm bảo thực hiện tốt chính sách ASXH.
Từ những đòi hỏi của lý luận và thực tiễn nêu trên nên chúng em chọn đề

tài: “Nợ đọng bảo hiểm xã hội - vấn đề nóng của nước ta hiện nay” để nghiên
cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là:
- Khái quát và luận giải để làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về BHXH
và nợ đọng BHXH.
- Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm xử lý nợ đọng BHXH của một số
quốc gia trên thế giới, rút ra những bài học phù hợp với Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng nợ đọng BHXH ở Việt Nam trong thời
gian qua, tìm ra nguyên nhân của tình trạng này.
- Đánh giá kết quả, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của những hạn
chế đó trong công tác xử lý nợ đọng BHXH.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp xử lý nợ đọng BHXH ở Việt Nam
một cách hiệu quả.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là:
Nợ đọng BHXH nước ta hiện nay.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu:
6
- Tình hình nợ đọng Bảo hiểm xã hội của các doanh nghiệp trên phạm vi
cả nước giai đoạn 2007 - 2011.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài, nhóm tác giả nghiên cứu đã
sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp luận duy vật biện chứng.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh.
- Các phương pháp của toán học và nghiệp vụ kế toán.
- Các kết quả nghiên cứu, rút ra từ các công trình nghiên cứu khoa học

của các học giả trong và ngoài nước.
5. Kết quả đạt được của đề tài
- Về mặt lí luận: Đề tài đã hệ thống hóa được các vấn đề lí luận của
BHXH và nợ đọng BHXH. Đặc biệt, …………
- Về mặt thực tiễn: Đề tài đã làm rõ thực trạng, nguyên nhân của vấn đề
nợ đọng bảo hiểm xã hội ở nước ta từ năm 2007 - 2011, từ đó đưa ra các giải
pháp, định hướng, làm cơ sở cho việc quản lý vấn đề này trong những năm
sắp tới.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài lời nói đầu và kết luận, đề tài được chia làm 3 chương:
Chương I: Khái quát về bảo hiểm xã hội và nợ đọng bảo hiểm xã hội.
Chương II: Thực trạng vấn đề Nợ đọng bảo hiểm xã hội nước ta giai đoạn
2007 - 2011.
Chương III: Giải pháp nhằm khắc phục tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã
hội ở nước ta trong thời gian tới.
7
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
VÀ NỢ ĐỌNG BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1 Tổng quan về bảo hiểm xã hội
1.1.1 Sự cần thiết và vai trò của bảo hiểm xã hội
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở… Để thỏa
mãn nhu cầu tối thiểu này, con người phải lao động làm ra những sản phẩm
cần thiết. Của cải xã hội càng nhiều, mức độ thoả mãn nhu cầu càng cao, có
nghĩa là việc thoả mãn nhu cầu phụ thuộc vào khả năng lao động của con
người. Trong thực tế cuộc sống, không phải người lao động nào cũng có đủ
điều kiện về sức khỏe, khả năng lao động hoặc những may mắn khác để hoàn
thành nhiệm vụ lao động, công tác hoặc tạo nên cho mình và gia đình một
cuộc sống ấm no hạnh phúc. Ngược lại, người nào cũng có thể gặp phải
những rủi ro, bất hạnh như ốm đau, tai nạn, hay già yếu, chết hoặc thiếu công

việc làm do những ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh
hoạt cũng như các tác nhân xã hội khác… Khi rơi vào các trường hợp đó, các
nhu cầu thiết yếu của con người không vì thế mà mất đi. Trái lại, có cái còn
tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm nhu cầu mới. Bởi vậy, muốn tồn tại,
con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải
quyết khác nhau. Để khắc phục những rủi ro, bất hạnh giảm bớt khó khăn cho
bản thân và gia đình thì ngoài việc tự mình khắc phục, người lao động phải
được sự bảo trợ của cộng đồng và xã hội.
Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức
khác nhau. Những yếu tố đoàn kết, hướng thiện đó đã tác động tích cực đến ý
thức và công việc xã hội của các Nhà nước dưới các chế độ xã hội khác nhau.
Trong quá trình phát triển xã hội, đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng công
8
nghiệp, hệ thống BHXH đã có những cơ sở để hình thành và phát triển. Quá
trình công nghiệp hoá làm cho đội ngũ người làm công ăn lương tăng lên,
cuộc sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập do lao động làm thuê đem
lại. Sự hẫng hụt về tiền lương trong các trường hợp bị ốm đau, tai nạn, rủi ro,
bị mất việc làm hoặc khi về già…, đã trở thành mối đe doạ đối với cuộc sống
bình thường của những người không có nguồn thu nhập nào khác ngoài tiền
lương. Sự bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đã
buộc những người làm công ăn lương tìm cách khắc phục bằng những hành
động tương thân, tương ái (lập các quỹ tương tế, các hội đoàn…); đồng thời,
đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải có trợ giúp bảo đảm cuộc sống cho họ.
Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức, nhiều bang đã thành lập quỹ ốm đau và yêu
cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị giảm thu nhập vì bệnh tật.
Từ đó, xuất hiện hình thức bắt buộc đóng góp. Lúc đầu chỉ có giới thợ tham
gia, dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra cho các trường hợp rủi ro
nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật. Đến cuối những năm 1880, BHXH đã mở ra
hướng mới. Sự tham gia là bắt buộc và không chỉ người lao động đóng góp
mà giới chủ và Nhà nước cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình (cơ chế ba

bên). Tính chất đoàn kết và san sẻ lúc này được thể hiện rõ nét: mọi người,
không phân biệt già – trẻ, nam – nữ, lao động phổ thông – lao động kỹ thuật,
người khoẻ – người yếu mà tất cả đều phải tham gia đóng góp vì mục đích
chung.
Mô hình này của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ
Latin, rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau
chiến tranh thế giới thứ hai, BHXH đã lan rộng sang các nước giành được độc
lập ở châu á, châu Phi và vùng Caribê. BHXH dần dần đã trở thành một trụ
cột cơ bản của hệ thống An sinh xã hội và được tất cả các nước thừa nhận là
một trong những quyền con người.
9
Có thể nói, qua nhiều thời kỳ, cùng với sự tranh chấp giữa nhiều vấn đề
của giới chủ và giới thợ, cùng với sự đổi mới quá trình phát triển kinh tế xã
hội, cùng với trình độ chuyên môn và nhận thức về BHXH của người lao
động ngày càng được nâng cao, cách thức chủ động khắc phục khi có những
sự kiện hoặc không may gặp những rủi ro xảy ra ngày càng hoàn thiện. Tuy
nhiên, chỉ đến khi có sự ra đời của BHXH thì những tranh chấp cũng như
những khó khăn mới được giải quyết một cách ổn thoả và có hiệu quả nhất.
Đó cũng chính là cách giải quyết chung nhất cho xã hội loài người trong quá
trình phát triển: sự chia sẻ. Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan
khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia
hệ thống BHXH và sự cần thiết được BHXH. Vì vậy, BHXH đã trở thành nhu
cầu và quyền lợi của người lao động và được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu
khách quan, một trong những quyền lợi của con người như trong Tuyên ngôn
nhân quyền của Đại hội đồng Liên hợp quốc đã nêu.
BHXH luôn đóng vai trò quan trọng và thể hiện được những vai trò to
lớn. Cụ thể:
- Đối với người lao động: Có thể nói BHXH có vai trò rất quan trọng
trong việc góp phần đảm bỏa cuộc sống ổn định của người lao động và gia
đình họ khi mà họ gặp phải những rủi ro biến cố làm giảm hoặc mất sức lao

động gây ảnh hưởng đến thu nhập của người lao động . Chính nhờ sự thay thế
bù đắp thu nhập, BHXH làm cho người lao động ngày càng yêu nghề, gắn bó
với công việc hơn, kích thích họ hăng hái tham gia sản xuất hơn từ đó có thể
nâng cao năng suất lao động, tăng cường sức khỏe cho người lao động góp
phần tái sản xuất sức lao động nhanh chóng trở lại làm việc tạo ra những sản
phẩm mới cho doanh nghiệp nói riêng và của cho xã hội nói chung, đông thời
góp phần đảm bảo thu nhập của bản thân họ.
10
- Đối với người sử dụng lao động: BHXH góp phần điều hòa, hạn chế
các mâu thuẫn giữa giới chủ và giới thợ, tạo ra môi trường ổn định cho người
lao động, tạo ra sự ổn định trong công tác quản lý của người sử dụng lao động
từ đó nâng cao năng suất lao động của bản thân doanh nghiệp. Hơn nữa,
người sử dụng lao động không phải lo chi trả những khoản tiền trợ cấp đột
xuất cho người lao động, điều nào có ý nghĩa lớn đối với tâm lý của chủ sử
dụng lao động, qua đó giúp họ phát huy hết trí tuệ và sức lực của mình cho
hoạt động sản suất của công ty.
- Đối với nhà nước: BHXH góp phần đảm bảo an ninh chính trị trong
nước, ổn định trật tự an toàn xã hội. BHXH điều hòa hạn chế các mâu thuẫn
giữa giới chủ và giới thợ đồng thời tao ra môi trường làm việc thuận lợi, ổn
định cho người lao động. BHXH làm tăng thu cho ngân sách nhà nước ,
BHXH giúp kích thích người lao động hăng hái lao động sản suất, nâng cao
năng suất lao động cá nhân nói riêng đồng thời làm tăng năng suất lao động
xã hội nói chung. Do vậy, Ngân sách nhà nước tăng lên do có 1 khoản thu
thông qua việc thu thuế của các doing nghiệp sản xuất nói trên. Khi người lao
động tham gia BHXH mà không may gặp các rủi ro biến cố làm giảm hoặc
mất thu nhập thì sẽ được bù đắp 1 phần từ quỹ BHXH. Từ đó góp phần thu
nhập từ quỹ BHXH. Từ đó góp phần làm giảm chi Ngân sách, tao điều kiện
cho Nhà nước tập trung nguồn vốn vào các mục đích khác nhằm đem lại
lượng lợi ích lớn hơn cho xã hội.
1.1.2 Bản chất của bảo hiểm xã hội

BHXH là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Khi trình độ phát
triển kinh tế của một quốc gia đạt đến một mức độ nào đó thì hệ thống BHXH
có điều kiện ra đời phát triển. Vì vậy, các nhà kinh tế cho rằng, sự ra đời và
phát triển của BHXH phản ánh sự phát triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế
chậm phát triển, đời sống nhân dân thấp kém không thể có một hệ thống
11
BHXH vững mạnh được. Kinh tế càng phát triển, hệ thống BHXH càng đa
dạng, các chế độ BHXH ngày càng mở rộng, các hình thức BHXH ngày càng
phong phú.
Thực chất BHXH là sự tổ chức “đền bù” hậu quả của những “rủi ro xã
hội” hoặc các sự kiện bảo hiểm. Sự đền bù này được thực hiện thông qua quá
trình tổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung hình thành do sự đóng góp của
các bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác của quỹ BHXH.
Như vậy, BHXH cũng là quá trình phân phối lại thu nhập. Xét trên phạm vi
toàn xã hội, BHXH là một bộ phận của GDP, được xã hội phân phối lại cho
những thành viên khi phát sinh nhu cầu BHXH như ốm đau, sinh đẻ, tai nạn
lao động và bệnh nghề nghiệp, già yếu, chết… Xét trong nội tại BHXH, sự
phân phối của BHXH được thực hiện cả theo chiều dọc và chiều ngang. Phân
phối theo chiều ngang là sự phân phối của chính bản thân người lao động theo
thời gian (nghĩa là sự phân phối lại thu nhập của quá trình làm việc và quá
trình không làm việc). Phân phối theo chiều dọc là sự phân phối giữa những
người khỏe mạnh cho người ốm đau, bệnh tật; giữa những người trẻ cho
người già; giữa những người không sinh đẻ (nam giới) và người sinh đẻ (nữ
giới); giữa những người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp… Để dễ
hình dung có thể dùng “lát cắt ngang” vào một tập hợp những người đang và
đã tham gia BHXH vào bất kỳ thời điểm nào vào bất kỳ “đoạn” nào của tập
hợp ta đều có thể thấy được mối quan hệ của sự phân phối này. Ở lát cắt này
có cả người mới tham gia BHXH, người đang hưởng BHXH; người khỏe
mạnh, người ốm đau; người già, người trẻ; người có thu nhập cao, người có
thu nhập thấp… Nói cách khác, đây là sự phân phối lại thu nhập theo không

gian.
Qua đây có thể thấy, BHXH góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm an
toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ. BHXH là quá trình tổ chức sử
12
dụng thu nhập cá nhân và tổng sản phẩm trong nước (GDP) để thoả mãn nhu
cầu an toàn kinh tế của người lao động và an toàn xã hội. BHXH mang cả bản
chất kinh tế và cả bản chất xã hội. Về mặt kinh tế, nhờ sự tổ chức phân phối
lại thu nhập, đời sống của người lao động và gia đình họ luôn được bảo đảm
trước những bất trắc, rủi ro xã hội. Về mặt xã hội, do có sự “san sẻ rủi ro” của
BHXH, người lao động chỉ phải đóng góp một khoản nhỏ trong thu nhập của
mình cho quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có một lượng vật chất đủ lớn trang trải
những rủi ro xảy ra. ở đây, BHXH đã thực hiện nguyên tắc “lấy của số đông
bù cho số ít”.
Tuy nhiên, tính kinh tế và tính xã hội của BHXH không tách rời mà đan
xen lẫn nhau. Khi nói đến sự bảo đảm kinh tế cho người lao động và gia đình
họ là đã nói đến tính xã hội của BHXH, ngược lại, khi nói tới sự đóng góp ít
nhưng lại đủ trang trải mọi rủi ro xã hội thì cũng đã đề cập đến tính kinh tế
của BHXH.
Dưới góc độ kinh tế, BHXH là sự bảo đảm thu nhập, bảo đảm cuộc sống
cho người lao động khi họ bị giảm hay mất khả năng lao động. Có nghĩa là
tạo ra một khoản thu nhập thay thế cho người lao động khi họ gặp phải các rủi
ro thuộc phạm vi BHXH.
Dưới góc độ chính trị, BHXH góp phần liên kết giữa những người lao
động xuất phát từ lợi ích chung của họ.
Dưới góc độ xã hội, BHXH được hiểu như là một chính sách xã hội nhằm
đảm bảo đời sống cho người lao động khi thu nhập của họ bị giảm hay mất.
Thông qua đó bảo vệ và phát triển lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản
xuất, tăng năng suất lao động ổn định trật tự xã hội.
1.1.3 Hệ thống các chế độ BHXH
Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của

mỗi quốc gia . Nó là những quy định chung, rất khá khái quát cả đối tượng,
13
phạm vi, các mối quan hệ và những giải pháp lớn nhằm nhằm đạt được mục
tiêu chung đã đề ra đối với BHXH. Việc ban hành chính sách BHXH phải dựa
vào điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước trong từng thời kỳ và xu hướng vận
động khách quan của toàn bộ nền kinh tế- xã hội. Chính sách này có thể biểu
hiện dưới dạng văn bản pháp luật, hiến pháp,… song lại rất khó thực hiện nếu
không được cụ thể hóa và không thông qua các chế độ BHXH.
Chế độ BHXH là sự cụ thể hóa chính sách BHXH, là hệ thống các quy
định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện đẻ thực hiện
BHXH đối với người lao động. Nói cách khác, đó là một hệ thống các quy
định được pháp luật hóa về đối tượng hưởng, nghĩa vụ và nhà nước đóng góp
cho từng trường hợp BHXH cụ thể. Chế độ BHXH thường được biểu hiện
dưới dạng văn bản pháp luật và dưới luật, các thông tư, điều lệ,… Tuy nhiên,
dù có cụ thể đến đâu thì các chế độ cũng khó có thể bao hàm được đầy đủ mọi
chi tiết trong quá trình thực hiện chính sách BHXH. Vì vậy, khi thực hiện mỗi
chế độ thường phải nắm vững vấn đề mang tính cốt lõi của chính sách BHX
H, để đảm bảo tính đúng đắn và nhất quán toàn bộ hệ thống các chế độ
BHXH.
Theo kiến nghị của ILO đã nêu trong công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại
Giơnevơ, hệ thống các chế độ BHXH bao gồm:
1. Chăm sóc y tế
2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già
5. Trợ cấp tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp khi tàn phế
9. Trợ cấp cho người còn sống ( trợ cấp mất người nuôi dưỡng)

Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tùy theo
điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi nước tham gia công ước Giơ - ne - vơ thực
14
hiện khuyến khích nghị định đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực
hiện được ba chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong năm chế độ: (3); (4);
(5); (8); (9).
Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
+ Các chế độ được xây dựng theo pháp luật mỗi nước.
+ Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính.
+ Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ củ yếu vào mức đóng góp của các
bên tham gia BHXH.
+ Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ.
+ Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán.
+ Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH.
+ Mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư
có hiệu quả an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định.
+ Các chế độ BHXH cần pahir được điều chỉnh định kỳ để phản ánh hết
sự thay đổi của điều kiện kinh tế xã hội.
Toàn bộ hệ thống cũng như mỗi chế độ BHXH trong hệ thống trên khi
xây dựng đều phải dựa vào những điều kiện kinh tế - xã hội như: cơ cấu
ngành kinh tế quốc dân, tiền lương và thu nhập của người lao động, hệ thống
tài chính quốc gia… Đồng thời tùy từng chế độ khi xây dựng còn phải tính
đến các yếu tố sinh học, yếu tố môi trường như: tuổi thọ bình quân của người
lao động, xác suất tai nạn lao động và tử vong, độ tuổi sinh đẻ của người lao
động nữ, môi trường lao động …
Những cơ sở khoa học trên quyết định đến một loạt vấn đề về xác định
điều kiện, thời gian và mức trợ cấp trong từng chế độ, cũng như khả năng áp
dụng bao nhiêu chế độ trong BHXH trong một hệ thống. Chẳng hạn, khi xác
định điều kiện hưởng trợ cấp BHXH tuổi già phải dựa vào cơ sở sinh học là
tuổi đời và giới tính của người lao động là chủ yếu. Bởi vì tuổi già để hưởng

trợ cấp hưu trí mỗi giới, mỗi vùng, mỗi quốc gia có những sự khác biệt nhất
định. Do đó, có những quy định: nam 60 tuổi nữ 55 tuổi sẽ nghỉ hưu. Nhưng
15
cũng có những nước quy định: nam 55 tuổi và nữ 60 tuổi… Hoặc khi xác định
điều kiện hưởng trợ cấp cho chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp phải
tính đến các yếu tố như: điều kiện môi trường lao động; bảo hộ lao động…
Các yếu tố này thường có quan hệ và tác động qua lại với nhau ít nhiều ảnh
hưởng đến điều kiện BHXH của từng chế độ và toàn bộ hệ thống các chế độ
BHXH.
Thời gian hưởng trợ cấp và mức hưởng trợ cấp BHXH nói chung phụ
thuộc vào từng trường hợp cụ thể và thời gian đóng phí bảo hiểm của người
lao động, trên cơ sở tương ứng giữa đóng và hưởng. Đồng thời mức trợ cấp
còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán của từng quỹ tài chính BHXH; mức
sống chung của tầng lớp dân cư và người lao động. Nhưng về nguyên tắc,
mức trợ cấp này không cao hơn mức tiền lương hoặc tiền công khi người lao
động đang làm việc và nó chỉ bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với mức
tiền công hay tiền lương. Ở các nước kinh tế phát triển, do mức sống cao nên
tỷ lệ này thường thấp và ngược lại ở các nước đang phát triển do mức tiền
lương còn thấp nên phải áp dụng một tỷ lệ khá cao. Ví dụ ở Pháp mức trợ cấp
hưu trí chỉ bằng 50% mức lương bình quân của 10 năm cao nhất (với điều
kiện đóng BHXH đủ 37,5 năm). Ốm đau được hưởng trợ cấp bằng 50% tiền
lương, thời gian nghỉ ốm đau không quá 12 tháng. Sinh con được hưởng trợ
cấp BHXH bằng 90% lương trong vòng 16 tuần… còn ở Philipin mức trợ cấp
hưu trí từ 42% đến 102%, tùy thuộc từng nhóm lương khác nhau. Ốm đau
được hưởng 65% sinh con được nghỉ 45 ngày và được trợ cấp đúng bằng
100% tiền lương…
Tuy vậy, việc các nước quy định trợ cấp BHXH bằng tỷ lệ phần trăm so
với tiền lương hay tiền công thường dẫn đến bội chi quỹ BHXH. Vì vậy, một
số nước phải tìm cách khắc phục như: trả ngay một lần khi nghỉ hưu (Nhật
Bản một lần khi nghỉ hưu là 15 triệu yên; Ấn Độ, Malaixia, Inđônêxia trả một

16
lần bằng tổng số tiền mà chủ và thợ đã đóng góp cộng với lãi) hoặc suốt đời
đóng theo tỷ lệ phần trăm của một mức thu nhập quy định và hưởng cụng
theo tỷ lệ phần trăm của mức quy định ấy.
Theo khuyến nghị của ILO, BHXH bao gồm một hệ thống 9 chế độ, song
không phải nước nào cũng thực hiện đầy đủ. Bởi vì điều kiện kinh tế - xã hội
của mỗi nước khác nhau, thậm chí ngay trong một nước những điều kiện đó
cũng khác nhau giữa các thời kỳ nên việc thực hiện 9 chế độ trên là rất khó.
Chẳng hạn, nếu tiềm lực và sức, mạnh kinh tế yếu kém, khả năng tổ chức
quản lý yếu kém thì rất khó thực hiện chế đọ trợ cấp thất nghiệp và trợ cấp gia
đình. Hoặc nếu không nhận thức đầy đủ quyền bình đẳng nam nữ, vai trò đặc
điểm của lao động nữ thì rất khó thực hiện được chế độ trợ cấp sinh đẻ…
Chính vì vậy, cho đến nay trên thế giới chỉ có 43 nước thực hiện được cả 9
chế độ BHXH, 92 nước chưa thực hiện được chế đọ bảo hiểm thất nghiệp; 9
nước chưa thực hiện được chế đọ trợ cấp gia đình; 13 nước chưa thực hiện
được cả ba chế độ: trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp gia đình và trợ cấp tai nạn lao
động.
1.1.4 Quỹ bảo hiểm xã hội
1.1.4.1 Khái niệm và đặc điểm quỹ bảo hiểm xã hội
Trong đời sống kinh tế - xã hội, người ta thường nói đến nhiều loại quỹ
khác nhau như : quỹ tiêu dùng, quỹ sản xuất, quỹ dự phòng, quỹ tiền
lương, quỹ tiền thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ tiết kiệm … tất cả các loại quỹ này
đều có một đặc điểm chung là tập hợp các phương tiện tài chính hay vật chất
khác cho những hoạt động nào đó có mục tiêu định trước với những quy định
quy chế nhất định. Như vậy, “Quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tài chính độc lập
nằm ngoài ngân sách nhà nước. Quỹ có, mục đích, và chủ thể riêng. Mục đích
tạo lập quỹ BHXH là dùng để chi trả cho người lao động, giúp họ ổn định
cuộc sống khi gặp các biến cố hoặc rủi ro. Chủ thể của quỹ BHXH chính là
17
những người tham gia đóng góp hình thành quỹ, đó có thể bao gồm cả: NLĐ,

NSDLĐ và Nhà nước.”
Quỹ Bảo hiểm xã hội có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Quỹ được ra đời, tồn tại và phát triển gắn với mục đích đảm bảo cuộc
sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp các biến cố rủi ro làm giảm
hoặc mất thu nhập từ lao động. Hoạt động của quỹ hông nhằm mục đích kinh
doanh kiếm lời. Vì vậy, nguyên tắc quản lý của quỹ BHXH chính là: cân bằng
thu – chi.
- Phân phối quỹ BHXH vừa mang tính hoàn trả vừa mang tính chất không
hoàn trả. Tính chất hoàn trả thể hiện ở chỗ, NLĐ là đối tượng tham gia và
đóng góp BHXH đồng thời họ cũng là đối tượng được nhận trợ cấp, chi trả từ
quỹ BHXH cho dù chế độ, thời gian trợ cấp và mức trợ cấp của mỗi người là
khác nhau tùy thuộc vào những biến cố hoặc rủi ro mà họ gặp phải, cũng như
mức đóng và thời gian đóng của họ. Tính không hoàn trả được thể hiện ở chỗ
cùng tham gia đóng góp BHXH nhưng có người được hưởng trợ cấp nhiều
lần và nhiều chế độ khác nhau, nhưng cũng có người được hưởng ít lần hơn,
thậm chí không được hưởng. Điều đó thể hiện tính xã hội của toàn bộ hoạt
đông BHXH.
- Quỹ BHXH phải đảm bảo tính an toàn. Đặc điểm này xuất phát từ chức
năng của BHXH là đảm bảo an toàn về mặt thu nhập cho NLĐ. Vì vậy, đến
lượt mình, BHXH phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn về tài
chính. Nguồn hình thành quỹ được đóng góp và tích lũy lại trong suốt quá
trình lao động. Nếu xét tại một thời điểm cụ thể nào đó, Quỹ BHXH luôn là
một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi để chi trả cho tương lai. Lượng tiền này có
thể biến động tăng hoặc biến động giảm do mất an toàn, giảm giá trị do yếu tố
lạm phát. Do đó bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH đã trở thành yêu cầu
mang tính nguyên tắc trong quá trình hoạt động của BHXH.
18
- Quỹ BHXH là khâu tài chính trung gian cùng với NSNN và tài chính
doanh nghiệp hình thàn nên hệ thống tài chính quốc gia. Tuy nhiên mỗi khâu
tài chính được tạo lập, sử dụng cho mục đích riêng và gắn với một chủ thể

nhất định, vì vậy chúng luôn độc lập với nhau trong khâu quản lý và sử dụng.
Thế nhưng tài chính BHXH, NSNN, tài chính doanh nghiệp lại có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau và đều chịu sự chi phối của pháp luật nhà nước.
- Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế, xã hội của từng quốc gia và điều kiện lịch sử trong từng thời kì
của đất nước. Kinh tế xã hội càng phát triển thì càng có điều kiện thực hiện
đầy đủ các chế độ BHXH, nhu cầu thỏa mãn về BHXH đối với NLĐ và
NSDLĐ ngày càng được nâng cao. Đồng thời khi kinh tế xã hội phát triển,
NLĐ và NSDLĐ sẽ có thu nhập cao hơn, do đó họ càng có điều kiện tham gia
đóng góp BHXH…
1.4.1.2 Nguồn hình thành quỹ
Quỹ BHXH đươc hình thành từ các nguồn chủ yếu do NLĐ, NSDLĐ,
Nhà nước đóng góp và hỗ trợ thêm. Ngoài ra, quỹ BHXH còn được bổ sung
thêm từ các nguồn khác như cá nhân và các tổ chức ủng hộ, lãi do đầu tư quỹ
nhàn rỗi…
Trong cơ chế thị trường sự đóng góp của NLĐ diễn ra khá dài có thể từ
20 đến 30 năm đối với các chế độ BHXH dài hạn và thời gian hưởng thụ
BHXH của họ cũng rất lâu từ 10 - 20 năm sau. Vì vậy, khoản đóng góp của
NLĐ, NSDLĐ phải được tình toán, điều chỉnh cho phù hợp, có tình đến yếu
tố lạm phát, đầu tư và sự thay đổi của mức sống của dân cư. Hơn nữa, cũng
phải tính đến mức hưởng của người nghỉ hưu sau 15-20 năm, khi mức sống
của dân cư ngày càng tăng lên. Đây là những bài toán cơ bản của quá trình
cân đối quỹ BHXH theo mô hình quỹ có sự đóng góp của các bên tham gia
BHXH. Đồng thời, quỹ bảo hiểm xã hội hình thành hoạt động đã tạo ra khả
19
năng giải quyết những rủi ro của tất cả những người tham gia với tổng dự trữ
ít nhất, giúp cho việc dàn trải rủi ro được thực hiện theo cả hai chiều không
gian và thời gian, giúp giảm tối thiểu thiệt hại kinh tế cho NSDLĐ, tiết kiệm
chi cho cả ngân sách nhà nước và ngân sách gia đình.
Sau khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, Chính phủ đã

ban hành Nghị quyết 43/CP ngày 26/6/1993 và điều lệ BHXH Việt nam ban
hành kèm theo nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 trong các văn bản này đều
quy định quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau đây:
- NSDLĐ đóng góp 15% so với tổng quỹ lương của những người tham
gia BHXH trong đơn vị. Trong đó 10% chi trả chế độ hưu trí, tử tuất và 5%
để chi trả chế độ ốm đau thai sản, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp.
- NLĐ đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi cho chế độ tử tuất và hưu
trí.
- Nhà nước hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với
người lao động.
- Các nguồn khác.
Đặc biệt từ năm 2007 đến nay, Luật BHXH nước ta có hiệu lực, có những
quy định mới về mức đóng góp của các bên tham gia BHXH trong quỹ
BHXH.
1.4.1.3. Sử dụng quỹ BHXH
Quỹ BHXH được chi trả chủ yếu cho các mục đích sau:
- Chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH.
- Chi cho sự nghiệp quản lý BHXH.
- Chi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH.
Chi trợ cấp cho các chế độ BHXH:
Trong 3 nội dung chi trả trên thì chi trợ cấp cho các chế độ BHXH là lớn
nhất và quan trọng nhất. Khoản chi này được thực hiện theo luật định và phụ
thuộc vào phạm vi luật định của từng hệ thống BHXH. Về nguyên tắc có thu
20
mới có chi, thu trước chi sau. Vì vậy, quỹ chỉ chi cho các chế độ trong phạm
vi có nguồn thu. Thu của chế đọ nào thì chi ở chế độ đó.
Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH:
Ngoài việc trợ cấp cho các đối tượng hưởng BHXH, quỹ BHXH còn
được sử dụng để chi cho các khoản chi phí quản lý như: tiền lương cho các
cán bộ làm việc trong hệ thống.

Chi phí đầu tư:
Khoản chi tiêu này để đảm bảo các hoạt động đầu tư phần nhàn rỗi của
quỹ BHXH được diễn ra bình thường và hoạt động hiệu quả cao. Về mặt kế
toán, khoản chi này có được trích ra trong tổng thu được từ lợi nhuận đầu tư.
1.2. Vấn đề nợ đọng bảo hiểm xã hội
1.2.1 Khái niệm nợ đọng bảo hiểm xã hội
BHXH được coi là trụ cột của An sinh xã hội ở hầu khắp các nước trên
thế giới. Vì vậy, vấn đề để làm cho BHXH phát triển mạnh mẽ, đảm bảo,
ngày càng mở rộng luôn được các quốc gia chú trọng. Một trong những vấn
đề được ưu tiên đó là khả năng chi trả cho các chế độ của BHXH, trên cơ sở
có một quỹ BHXH đủ sức chi trả cho các chế độ đó.
Do đó, việc đảm bảo các nguồn thu BHXH được thu đầy đủ là vấn đề hết
sức quan trọng.
Thế nhưng một thực tại hiện nay vẫn còn tồn tại ở rất nhiều các quốc gia
trên thế giới, đó là vấn đề “nợ đọng bảo hiểm xã hội” của các tổ chức, doanh
nghiệp có sử dụng lao động. Đây là chủ đề rất nhức nhối đối với các cơ quan
quản lý BHXH. Tình trạng này ngày càng diễn ra phức tạp dưới nhiều hình
thức tinh vi, đa dạng càng đòi hỏi một cơ chế quản lý phù hợp. Vậy, “Nợ
đọng Bảo hiểm xã hội” là gì?
Đứng trên góc độ của cơ quan Bảo hiểm xã hội, “Nợ đọng Bảo hiểm xã
hội” là khoản tiền đóng thiếu hoặc chậm đóng của các doanh nghiệp, tổ chức
21
sử dụng lao động cho các khoản phí của các chế độ Bảo hiểm xã hội đã được
Pháp luật của mỗi quốc gia quy định.
Việc nợ đọng BHXH ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người lao
động, sự an toàn của quỹ BHXH và hệ thống an sinh của mỗi quốc gia.
Nợ đọng BHXH tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Có thể kể đến
như:
- Theo thời gian có nợ đọng BHXH ngắn hạn và nợ đọng BHXH dài hạn.
Nợ đọng BHXH ngắn hạn là chậm đóng BHXH dưới 3 tháng so với thời gian

quy định; Nợ đọng BHXH dài hạn là chậm đóng BHXH từ 3 tháng trở lên so
với thời gian quy định.
Khi xem xét các loại nợ đọng này cơ quan BHXH sẽ xác định rõ những
đơn vị sử dụng lao động nợ dài hạn để tập trung đôn đốc thu, đồng thời xác
định những đơn vị SDLĐ thuộc diện nợ khó đòi để kịp thời thông tin phản hồi
với các cơ quan chức năng. Từ đó, có biện pháp xử lý.
- Theo quy mô có nợ BHXH ít (nợ dưới 100 triệu đồng) và nợ BHXH
nhiều (nợ trên 100 triệu đồng).
Làm rõ loại này, cơ quan chức năng xác định được quy mô nợ của từng
đơn vị, từ đó đưa ra các biện pháp xử lý khác nhau. Trước hết là ưu tiên xử lý
các đơn vị nợ BHXH với số tiền nhiều bởi tại những đơn vị đó quyền lợi của
người lao động thường bị ảnh hưởng nhiều hơn. Đồng thời, nếu thu hồi được
nợ của các đơn vị này sẽ góp phần tích cực trong việc tăng thu cho quỹ
BHXH.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá
Có thể xem xét một số chỉ tiêu đánh giá tình trạng này để có cái nhìn tổng
thể về BHXH.
Các chỉ tiêu đánh giá tình hình nợ đong BHXH:
Để đánh giá tình trạng nợ đọng BHXH, sử dụng các chỉ tiêu sau:
22
a) Các chỉ tiêu tuyệt đối.
+ Số tiền nợ BHXH trong kỳ: Là số tiền còn lại của số BHXH phải thu
trong kì với số BHXH đã nộp trong kỳ.
Cách tính:
Số tiền nợ
BHXH trong kỳ
= Số phải thu
BHXH trong kỳ
- Số đã nộp BHXH
trong kỳ

Chỉ tiêu này phản ánh về số tuyệt đối tình trạng số tiền nợ BHXH của
từng đơn vị hoặc toàn hệ thống.
+ Số đơn vị nợ BHXH trong kỳ: Là số đơn vị chưa đóng đủ số tiền
BHXH phải thu trong kỳ.
Chỉ tiêu này phản ánh về số tuyệt đối số đơn vị nợ BHXH của từng đơn vị
hoặc của toàn bộ hệ thống.
b) Các chỉ tiêu tương đối
+ Tỷ lệ nợ BHXH: là tỷ lệ phần tram tổng số tiền BHXH nợ đọng so với
tổng số tiền BHXH phải thu.
Cách tính:
Tỷ lệ nợ đọng BHXH = x 100
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ thu kịp thời, hoàn thành công tác thu
BHXH của bộ phận thu BHXH. Tỷ lệ này càng nhỏ phản ánh số nợ đóng
BHXH so với tổng số tiền phải thu càng thấp, ngược lại tỷ lệ này càng cao
phản ánh tình trạng nợ đóng BHXH diễn ra phổ biến.
+ Tỷ lệ đơn vị nợ BHXH: là tỷ lệ phần trăm tổng số doanh nghiệp nợ
đọng BHXH so với tổng số doanh nghiệp phải tham gia BHXH.
Cách tính:
Tỷ lệ đơn vị nợ
đọng BHXH
23
Chỉ tiêu này càng lớn, chứng tỏ số đơn vị nợ BHXH trên tổng số đơn vị
phải tham gia càng nhiều và ngược lại.Xác định chỉ tiêu này giúp cơ quan
BHXH có những biện pháp xử lý kịp thời để ngăn chặn tình trạng nợ BHXH.
1.2.3 Nguyên nhân và hậu quả của nợ đọng bảo hiểm xã hội.
Nguyên nhân.
Có thể thấy, nợ đọng bảo hiểm xã hội rất phổ biến ở các nước, nó đe dọa
đến sự lớn mạnh, thành công không chỉ của Bảo hiểm xã hội nói chung mà
còn là An sinh xã hội của mỗi nước. Nguyên nhân do đâu mà tồn tại vấn đề
nợ đọng bảo hiểm xã hội? Luôn là vấn đề cần được làm rõ.

Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, thì “Nợ đọng Bảo hiểm xã
hội” là do các nguyên nhân chủ yếu sau:
a) Khuôn khổ pháp lý thiếu sự minh bạch; chưa thuận lợi cho NLĐ và
NSDLĐ; chế tài còn chưa đủ mạnh; sự phối hợp của các cơ quan chức năng
chưa hiệu quả, đồng bộ.
- Tính minh bạch của các chính sách về thu BHXH: Về nguyên tắc, các
chính sách BHXH đều phải được công bố công khai cho tất cả người lao
động, người sử dụng lao động được biết và thực hiện. Tuy nhiên, nếu người
tham gia BHXH gặp khó khăn trong việc tiếp cận các thông tin, tài liệu của cơ
quan BHXH: về quy trình, biểu mẫu, hồ sơ… sẽ kéo dài thời gian đăng ký
tham gia BHXH và gián đoạn công tác đóng BHXH định kỳ, nguyên nhân
làm cho tình trạng nợ BHXH gia tăng.
- Mức độ thuận lợi của việc tham gia đóng BHXH cho đơn vị sử dụng
lao động và người lao động. Nếu như việc thực hiện đóng BHXH được diễn
ra thuận lợi, nhanh chóng; các mẫu danh sách, bảng biểu thu BHXH được đơn
giản hóa sẽ tạo điều kiên cho người sử dụng lao động tuân thủ pháp luật.
Ngược lại, thủ tục hành chính rườm rà là nguyên nhân đầu tiên mà ngành
BHXH “tự đẩy” doanh nghiệp vào xu hướng không tuân thủ pháp luật về
24
BHXH và lao động bởi tâm lý không sẵn sàng thực hiện do thủ tục rắc rồi,
phiền hà.
- Chế tài xử phạt đối với các đơn vị nợ BHXH chưa đủ mạnh, mức xử
phạt còn thấp, tính khả thi của các biện pháp chưa cao dẫn tới các doanh
nghiệp còn trốn tránh lách luật, cố tình chây ỳ, chậm đóng BHXH. Ngoài ra,
một nguyên nhân đáng lưu ý khác nữa là mức lãi suất phạt chậm nộp BHXH
chưa linh hoạt. Hiên mức lãi suất đầu tư quỹ BHXH trong năm thấp hơn so
với lãi suất tiền vay của các ngân hàng thương mại do đó nhiều doanh nghiệp
chấp nhận chịu phạt để chiếm dụng vốn của cơ quan BHXH.
- Sự phối hợp của các cơ quan chức năng chưa được thực hiện đồng bộ
và hiệu quả: chính sách BHXH chịu tác động, đan xen của nhiều chính sách

khác như tiền lương tiền công… Vì vậy thực hiện tốt chính sách BHXH rất
cần sự phối hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan trong đó có các cơ quan như: Cục
thuế, sở Lao Động Thương Binh xã hội, thanh tra người lao động, sở kế hoạch
đầu tư…bởi khi doanh nghiệp thành lập phải đăng ký chế độ tiền lương mà
doanh nghiệp sẽ áp dụng. số người lao động với sở lao động thương binh xã
hội. Song thực tế thời gian qua ở Việt Nam do sự phối hợp thiếu đồng bộ giữa
các cơ quan quản lý chuyên ngành nên dẫn đến tình trạng tạo ra nhiều kẻ hở,
tạo thuận lời cho việc nợ đọng BHXH của các chủ lao động.
b) Do các cơ quan chức năng, cơ quan quản lý bảo hiểm xã hội chưa quản
lý, quan sát chặt chẽ các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội.
- Nhận thức , thái độ phục vụ của các nhân viên ngành BHXH: Hiện nay,
không ít cán bộ thu trong cơ quan BHXH ngồi chờ người sử dụng lao động
mang tiền đến đóng ,chuyển khoản vào tài khoản của cơ quan BHXH. Cán bộ
BHXH không chủ động đôn đốc, tìm đến người tham gia BHXH nên cơ quan
BHXH hầu như không phát hiện được ra các lỗ hổng, bất cập trong công tác
thu nộp BHXH. Chỉ đến khi hệ thống có trục trặc ở khâu nào đó mới tìm cách
để tháo gỡ, do đó quá trình vận hành sẽ bị gián đoạn.
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý công tác thu.
25
Những ứng dụng tiện ích của hệ thống công nghệ thông tin hiện đại là yếu
tố quan trọng trong công tác quản lý điều hành và tổ chức thực hiện các
nghiệp vụ. Với kiểu quản lý thu không thể kiểm soát hết được dữ liệu của
người tham gia BHXH. Theo đó, việc quản lý thu nộp BHXH chưa được chặt
chẽ.
c) Do các đơn vị sử dụng lao động và người lao động chưa nhận thức hết
vai trò của bảo hiểm xã hội.
Do phương thức trả lương hai kỳ của doanh nghiệp thường kéo dài đến
đầu tháng sau cho nên đa số các doanh nghiệp đóng BHXH thường chậm.
+ Một số đơn vị thật sự khó khăn trong kinh doanh sản xuất nhất là các
doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng cơ bản, giao thông vận tải do chủ đầu

tư chậm thanh toán, đơn vị không dủ chi phí trả lương và đóng BHXH cho
người lao động.
Doanh nghiệp cố tình chậm đóng BHXH, chiếm dụng vốn để đầu tư, sản
xuất kinh doanh.
Hậu quả.
- Đối với người lao động:
Cùng với sự phát triển lớn mạnh của khoa học kỹ thuật, công nghệ thì
trong giai đoạn hiện nay, yếu tố con người ngày càng phát huy được vai trò
quan trọng của mình trong lao động sản xuất cũng như trên mọi hoạt động
chính trị, xã hội khác, các chế độ chính sách nhà nước luôn bảo vệ quyền lợi
của người lao động, được cụ thể bằng luật lao động, chế độ tiền lương, chế độ
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Một doanh nghiệp dù có cơ sở vật chất hay kỹ
thuật hiện đại nhưng nguồn lao đông không đáp ứng được yêu cầu thì doanh
nghiệp đó cũng khó có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế cạnh tranh
khốc liệt như hiện nay. Để phá huy sức mạnh của người lao động, các doanh
nghiệp cần phải có những chính sách khuyến khích người lao động thong qua
công tác tạo đọng lực cho họ. Một trong các đông lực để khuyến khích họ,

×