Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn huyện yên dũng, tỉnh bắc giang trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.84 KB, 75 trang )


MỞ ĐẦU
1
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH KHU VỰC I
  

NGUYỄN HÀ GIANG
NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN YÊN DŨNG TỈNH BẮC GIANG TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
TS. HOÀNG VĂN HOAN
PHÓ TRƯỞNG KHOA QUẢN LÝ KINH TẾ
H NÀ ỘI, NĂM 2011
1. Lý do chọn đề tài.
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc
biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân
bố khu dân cư, xây dựng các cơ sở hạ tầng xã hội, an ninh, quốc phòng
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra những yêu cầu to lớn đối
với công tác quản lý nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, trong
đó quản lý nhà nước về đất đai là một nội dung quan trọng nghiên cứu các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các
mối quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đất đai ngày càng nóng bỏng,
phức tạp, liên quan trực tiếp tới lợi ích của từng đối tượng sử dụng đất. Các
quan hệ đất đai chuyển từ chỗ là quan hệ khai thác chinh phục tự nhiên
chuyển thành các quan hệ kinh tế xã hội về sở hữu và sử dụng một loại tư liệu
sản xuất đặc biệt quan trọng.


Để phù hợp với quá trình đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nước luôn quan
tâm đến vấn đề đất đai và đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để quản lý,
điều chỉnh các mối quan hệ đất đai theo kịp với tình hình thực tế. Bên cạnh đó
Đảng và Nhà nước luôn khuyến khích động viên các đối tượng sử dụng đất
đúng mục đích, tiết kiệm đạt hiệu quả cao theo pháp luật. Tuy vậy, đất đai là
sản phẩm của tự nhiên và nó tham gia vào tất cả các hoạt động kinh tế xã hội,
do đó các quan hệ đất đai luôn chứa đựng trong nó những vấn đề phức tạp,
đòi hỏi phải có sự giải quyết kịp thời đảm bảo được các lợi ích của người sử
dụng đất. Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành của Nhà
nước có hiệu lực đã dần di vào đời sống nhân dân, song do nhiều nguyên
nhân, đặc biệt là do tác động của cơ chế thị trường, công tác quản lý nhà nước
về đất đai vẫn còn bị buông lỏng, chưa được quan tâm đúng mức. Thêm vào
đó, ý thức pháp luật và hiểu biết pháp luật đất đai của nhiều đối tượng sử
dụng còn hạn chế dẫn đến những vi phạm pháp luật trong việc quản lý, sử
dụng đất gây hậu quả đến sự phát triển nền kinh tế xã hội.
Đối với huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang, yêu cầu đặt ra về công tác
quản lý và sử dụng đất đai một cách hiệu quả đầy đủ, hợp lý là mục tiêu quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Mục tiêu đó đã và
2
đang được Đảng bộ và nhân dân huyện Yên Dũng quyết tâm thực hiện và đã
đạt được những kết quả không nhỏ, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế
xã hội của tỉnh Bắc Giang.
Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài: Nâng cao hiệu quả Quản lý nhà nước
về đất đai trên địa bàn huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện
nay làm Luận văn tốt nghiệp cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Mục tiêu: Trên cơ sở làm rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước về
quản lý nhà nước về đất đai; vai trò của Nhà nước trong việc quản lý đất đai
từ đó vận dụng để phân tích làm rõ thực trạng công tác quản lý nhà nước về
đất đai và đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà

nước về đất đai trên địa bàn huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn
hiện nay.
- Nhiệm vụ:
Một là, Khái quát cơ sở lý luận về quản lý nhà nước về đất đai.
Hai là, Phân tích và làm rõ thực trạng công tác quản lý nhà nước về đất
đai trên địa bàn huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang.
Ba là, Kiến nghị, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quả
quản lý nhà nước về đất đai một cách hợp lý hơn trên địa bàn huyện Yên
Dũng, tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng Quản lý nhà nước về đất đai trên
địa bàn huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2005-2010 và đề ra một số
giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai trên địa
bàn huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Việc nghiên cứu đề tài này dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật; quan điểm, đường
lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ta về xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt nội dung quản lý
nhà nước về đất đai trong giai đoạn hiện nay.
3
Phương pháp chủ yếu để nghiên cứu đề tài này là phương pháp duy vật
biện chứng, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp thống kê, phương
pháp so sánh, phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn để làm rõ những vấn
đề nghiên cứu.
5. Kết cấu của Luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, phần nội
dung của Luận văn được cấu thành 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước về đất đai.
Chương II: Thực trạng của công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa

bàn huyện Yên Dũng (2006-2010).
Chương III: Một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về đất đai trên địa bàn huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn
hiện nay.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NỘI DUNG CỦA CÔNG TÁC
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI
1. Đất đai và vai trò của đất đai.
1.1. Khái niệm, đặc điểm của đất đai:
4
"Đất đai" về mặt thuật ngữ khoa học được hiểu theo nghĩa rộng như
sau: "Đất đai là một diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các
cấu thành của môi trường sinh thái ngay trên và dưới bề mặt đó bao gồm khí
hậu bề mặt, thổ nhưỡng, dạng địa hình, mặt nước (sông, hồ, suối, đầm, lầy )
các lớp trầm tích sát bề mặt cùng với nước ngầm và khoáng sản trong lòng
đất, tập đoàn thực vật và động vật, trạng thái định cư của con người, những
kết quả của con người trong quá khứ và hiện tại để lại (san nền, hồ chứa nước
hay hệ thống tiêu thoát nước, đường xá, nhà cửa )”.
Như vậy, đất đai là một khoảng không gian có giới hạn, theo chiều
thẳng đứng (gồm: Khí hậu của bầu khí quyển, lớp đất phủ bề mặt, thảm thực
vật, động vật, diện tích mặt nước, tài nguyên nước ngầm và khoáng sản trong
lòng đất), theo chiều ngang (là sự kết hợp giữa thổ nhưỡng, địa hình thuỷ
văn )” giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động sản xuất
cũng như cuộc sống của xã hội loài người.
Các chức năng của đất đai đối với hoạt động sản xuất và sinh tồn của xã
hội loài người được thể hiện qua các mặt sau: Sản xuất, môi trường, cân bằng
sinh thái, tàng trữ và cung cấp nguồn nước, dự trữ, không gian sự sống bảo
tồn, bảo tàng sự sống, vật mang sự sống.
Đất đai là một loại tài sản đặc biệt, trước hết ở chỗ quyền sở hữu loại tài

sản đất đai không giống với quyền sở hữu bất kì loại tài sản nào khác. Quyền
sở hữu bất kì loại tài sản nào đều thể hiện trên ba loại quyền: Quyền chiếm
hữu bao gồm quyền nắm giữ và quản lí tài sản đó; Quyền sử dụng bao gồm
quyền khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản đó; Quyền
định đoạt bao gồm quyền chuyển giao quyền sở hữu hoặc từ bỏ quyền sở hữu
tài sản đó
1
. Quyền sở hữu đất đai với đầy đủ ba quyền trên, trong đó đặc biệt
là “quyền định đoạt” luôn luôn thuộc về xã hội, . Do vậy quyền định đoạt –
với đầy đủ ý nghĩa là chuyển giao quyền sở hữu hoặc từ bỏ quyền sở hữu đất
đai chỉ thực sự có ý nghĩa với quốc gia, là sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Khi
mà quyền định đoạt chỉ thực sự có ý nghĩa trên phạm vi quốc gia, trong quan
hệ giữa các quốc gia với nhau, thì với các chủ thể liên quan đến đất đai trong
xã hội, kể cả Nhà nước quyền sở hữu đất đai chủ yếu chỉ còn là quyền chiếm
hữu và quyền sử dụng – một loại quyền sở hữu không đầy đủ. Và dù việc nắm
giữ, quản lí, sử dụng đất như thế nào, thì “đất” vẫn là của “nước”, lãnh thổ
1
.
Điều 164, 182, 192, 195 Luật dân sự Nước công hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2005
5
quốc gia vẫn toàn vẹn. Có những việc làm liên quan đến đất đai nếu xét bề
ngoài dễ cảm nhận là thuộc “quyền định đoạt” như Nhà nước ra quyết định
thu hồi đất ở khu vực này, giao đất cho dự án này, công trình kia…, nhưng về
thực chất vẫn nằm trong “quyền sử dụng”, đó chỉ là định đoạt trong sử dụng
mà thôi, bởi thông qua những quyết định đó Nhà nước không từ bỏ hoặc
chuyển giao quyền sở hữu đất của mình. Vì vậy sự phức tạp về đất đai trong
xã hội đều tập trung vào việc giải quyết vấn đề “quyền sở hữu không đầy đủ
đất đai như thế nào?” – nói cách khác là vấn đề “quyền quản lí, sử dụng đất”
như thế nào trên cả hai mặt: thời hạn quản lí, sử dụng trong bao lâu ?; và
trong thời hạn đó, họ được quyền sử dụng đất như thế nào?

Đất đai là " Tư liệu sản xuất" tuy nhiên cần lưu ý các tính chất đặc biệt
của loại tư liệu sản xuất là đất so với khác như sau:
- Đặc điểm tạo thành: Đất đai xuất hiện, tồn tại ngoài ý chí và nhận thức
của con người, là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động là điều kiện tự
nhiên của lao động. Chỉ tham gia vào hoạt động sản xuất của xã hội, dưới tác
động của lao động đất đai mới trở thành tư liệu xản xuất. Trong khi đó các tư
liệu sản xuất khác là kết quả của lao động có trước của con người (do con
người tạo ra).
- Tính hạn chế về số lượng: Đất đai là tài nguyên hạn chế, diện tích đất
(số lượng) bị giới hạn bởi ranh giới đất liền trên bề mặt địa cầu. Các tư liệu
sản suất khác có thể tăng về khối lượng, chế tạo lại tuỳ theo nhu cầu của xã
hội.
- Tính không đồng nhất: Đất đai không đồng nhất về chất lượng, hàm
lượng chất dinh dưỡng, các tính chất lý hoá (quyết định bởi các yếu tố hình
thành đất cùng chế độ sử dụng đất khác nhau), các tư liệu sản xuất khác có thể
đồng nhất về mặt chất lượng, quy cách tiêu chuẩn (mang tính tương đối do
quy trình công nghệ quyết định ).
- Tính không thay thế: Thay thế đất bằng tư liệu sản xuất khác là việc
không thể làm được. Các tư liệu sản xuất khác phải tuỳ thuộc vào mức độ
phát triển của lực lượng sản xuất có thể được thay thế bằng tư liệu sản xuất
khác hoàn thiện hơn có hiệu quả kinh tế hơn.
6
- Tính cố định về vị trí: Đất đai hoàn toàn cố định vị trí trong sử dụng.
Các tư liệu sản xuất khác được sử dụng ở mọi, chỗ mọi nơi có thể di chuyển
trên các khoảng cách khác nhau tuỳ theo sự cần thiết.
1.2. Vai trò của đất đai:
Đất đai là vật báu thiên nhiên ban tặng cho con người. Đất đai không
phải do lao động của con người tạo ra, mà nó là nguồn cội, nền tảng của hầu
hết các hoạt động của con người. Đất cùng với sức lao động cung cấp cho con
người lương thực, thực phẩm, tạo nên chỗ ở, chỗ làm việc, nơi vui chơi, giải

trí Vì thế đất có tác động trực tiếp đến con người từ thể xác đến tâm lý, tình
cảm
Trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, đất đai luôn xuất hiện
như một vấn đề kinh tế - xã hội sống còn, nó là nguyên nhân của nhiều cuộc
đấu tranh quyết liệt giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với con
người. Đất đai của một lãnh thổ quốc gia là một trong những dấu hiệu để xác
định sự tồn tại của quốc gia, dân tộc đó. Trong lịch sử phát triển của dân tộc
ta, từ mấy ngàn năm đến nay, đất đai đã gắn bó với vận mệnh con người Việt
Nam, là yếu tố cơ bản để tạo thành Tổ quốc, trong đó có giới hạn về lãnh thổ
và chủ quyền quốc gia. Ông, Cha ta từ lâu đã có câu: "Tấc đất, tấc vàng", thể
hiện rõ nhận thức giá trị to lớn của đất đai trong đời sống và yêu cầu phải bảo
vệ đất đai. Đất đai đã nuôi sống và mang lại sự tồn tại và phát triển của dân
tộc ta. Các thế hệ đã đấu tranh không mệt mỏi để chế ngự thiên nhiên bằng rất
nhiều công trình to lớn như đê, đập để ngăn sông, lấn biển, thiết kế đồng
ruộng phù hợp để bảo vệ đất phục vụ sản xuất, hy sinh bao xương máu trong
chiến đấu chống giặc ngoại xâm để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ
quốc
Trong các điều kiện vật chất cần thiết, đất đai giữ vị trí và có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng, là điều kiện đầu tiên, là cơ sở thiên nhiên của mọi quá
trình sản xuất, là nơi tìm đươc công cụ lao động, nguyên liệu lao động và nơi
sinh tồn của xã hội loài người.
Đất đai là điều kiện chung đối với mọi quá trình sản xuất trong các
ngành kinh tế quốc dân và họat động của con người. Điều này có nghĩa là
thiếu đất thì không một ngành nào, xí nghiệp nào có thể bắt đầu công việc và
hoạt động được. Nói cách khác không có đất sẽ không có sản xuất cũng như
7
không có sự tồn tại của chính con người. Tuy nhiên, vai trò của đất đai đối
với từng ngành rất khác nhau.
- Trong các ngành phi nông, lâm nghiệp. Đất đai giữ vai trò thụ động
với chức năng là cơ sở không gian và vị trí để hoàn thiện quá trình lao đông,

là khoảng dự trữ trong lòng đất. Quá trình sản xuất và sản phẩm được tạo ra
không phụ thuộc vào đặc điểm, độ phì nhiêu của đất, chất lượng thảm thực
vật và các tính chất tự nhiên sẵn có trong đất.
- Trong các ngành nông, lâm nghiệp. Đất đai là yếu tố tích cực của quá
trình sản xuất, điều kiện vật chất, không gian, đồng thời là đối tượng lao động
và công cụ lao động. Quá trình sản xuất nông lâm nghiệp luôn liên quan chặt
chẽ với độ phì nhiêu và quá trình sinh học tự nhiên của đất.
2. Quản lý nhà nước về đất đai, vai trò và sự cần thiết phải quản lý
nhà nước về đất đai.
2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về đất đai.
Quản lý là một chức năng lao động xã hội bắt nguồn từ tính chất xã hội
của lao động. Theo nghĩa rộng, quản lý là hoạt động có mục đích của con
người. Cho đến nay về cơ bản mọi người đều cho rằng: Quản lý chính là các
hoạt động do một hoặc nhiều người điều phối hành động của những người
khác nhằm thu được kết quả mong muốn.
Quản lý nhà nước được thực hiện thông qua bộ máy của Nhà nước trên
cơ sở quyền lực của Nhà nước. Quản lý nhà nước mang tính quyền lực Nhà
nước đối với các quá trình xã hội, được tiến hành một cách liên tục để thực
hiện các quá trình phát triển xã hội. Quản lý nhà nước có thể hiểu đó là toàn
bộ hoạt động của bộ máy Nhà nước bao gồm các lĩnh vực lập pháp, tư pháp
và hành pháp. Theo nghĩa hẹp là hoạt động hành pháp, thực chất là các hoạt
động chấp hành và điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước (như ở nước
ta gồm Chính phủ, các Bộ, Cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
UBND các cấp, các cơ quan quản lý nhà nước trên các lĩnh vực trực thuộc
UBND các cấp). Những chủ thể khác như các tổ chức xã hội quần chúng, tổ
chức chính trị - xã hội cũng tham gia quản lý nhà nước khi được Nhà nước
giao quyền.
8
Về mặt lý luận, Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực của
giai cấp thống trị, có bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện

chức năng quản lý xã hội bằng các công cụ: pháp luật, quy hoạch, kinh tế và
hành chính, nhằm thể hiện và bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị trong xã
hội có giai cấp đối kháng. Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước của
dân do dân và vì dân, vì vậy, Nhà nước pháp quyền XHCN còn có chức năng
phục vụ nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhà nước
thực hiện quyền lực tập trung của nhân dân để tổ chức và quản lý các hoạt
động của xã hội vì hạnh phúc chung của nhân dân.
Quản lý là chức năng và hoạt động của hệ thống tổ chức, quản lý tồn tại
trong mọi xã hội để duy trì tổ chức và phân công lao động xã hội, điều hoà
các mối quan hệ xã hội giữa những người trong một tổ chức và giữa các tổ
chức xã hội trong quá trình sản xuất vật chất, trong các hoạt động xã hội
nhằm đạt được mục tiêu nhất định. Trong hệ thống quản lý xã hội, QLNN về
kinh tế có vai trò và vị trí quan trọng hàng đầu, đặc biệt trong điều kiện phát
triển nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Vấn đề đặt ra không
chỉ đơn thuần là sự lựa chọn nhà nước hay thị trường. Nói cách khác, mối
quan tâm hàng đầu là xác định sự phân công hợp lý giữa Nhà nước và thị
trường nhằm khai thác triệt để những lợi thế, đồng thời tránh được hoặc giảm
thiểu những thất bại của cả Nhà nước lẫn thị trường. WB cho rằng: Nhà nước
nên ít tham gia vào những lĩnh vực mà thị trường vận hành tốt; và nên tham
gia nhiều vào các lĩnh vực không thể dựa vào thị trường. Khi các hành động
là cần thiết, chúng nên đi cùng hoặc thông qua các lực lượng thị trường chứ
không phải chống lại thị trường.
QLNN đối với đất đai là một nội dung quan trọng của QLNN về kinh
tế, do vai trò và vị trí đặc biệt của đất đai với tính chất là tài nguyên quốc gia
vô cùng quý giá, TLSX không thể thay thế trong sản xuất nông lâm nghiệp, là
mặt bằng để tổ chức sản xuất của nhiều ngành kinh tế…, đồng thời đất đai
còn là hàng hoá đặc biệt có giá trị cao. QLNN đối với đất đai trong nền KTTT
ở nước ta hiện nay chính là chức năng của Nhà nước thực hiện quyền đại diện
sở hữu toàn dân, tham gia trực tiếp vào vận hành thị trường đất đai.
Hệ thống các công cụ QLNN đối với đất đai đang được triển khai thực

hiện ở nước ta hiện nay gồm:
9
- Pháp luật: Đó là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đất đai do
Nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh quan hệ đất đai trong xã hội bằng pháp
luật và thông qua pháp luật.
- Quy hoạch: Đó là hệ thống quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và thông
qua quy hoạch để quyết định mục đích sử dụng đất, thông qua quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất để thực hiện quyền định đoạt về đất đai như: cơ chế giao
đất, thu hồi đất, ban hành chính sách tài chính về đất.
- Kinh tế: Hệ thống tài chính đất đai thể hiện thông qua các chính sách
về thu tiền sử dụng đất, các loại thuế, phí và lệ phí về đất, quản lý giá đất và
chính sách đền bù, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
- Hành chính: Thông qua hệ thống hồ sơ địa chính, hệ thống thông tin
đất đai, hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về đất đai và hệ thống dịch vụ đất
đai
Xét về mặt pháp lý, QLNN về đất đai được phân ra thành chủ thể quản
lý và khách thể quản lý, đối tượng quản lý.
Chủ thể quản lý: là Nhà nước, đại diện sở hữu toàn dân về đất đai trực
tiếp tham gia vận hành thị trường; thực hiện chức năng quản lý như mọi nhà
nước khác, thông qua hoạt động của bộ máy các cơ quan nhà nước.
Khách thể quản lý: là các tổ chức (bao gồm các tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị xã hội, tổ chức phi chính trị, tổ chức tôn giáo, các cơ quan nhà
nước, các tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh tế được Nhà nước cho phép
hoạt động, tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài hoạt động kinh tế tại Việt Nam),
hộ gia đình, cá nhân và các hành vi của họ trong qúa trình SDĐ.
Đối tượng quản lý: là toàn bộ tài nguyên đất đai thuộc lãnh thổ (bao
gồm đất liền, mặt nước, lãnh hải, không phận, tài nguyên khoáng sản dưới
lòng đất, môi trường thiên nhiên…) của quốc gia.
Hoạt động trên thực tế của các cơ quan Nhà nước nhằm bảo vệ và thực
hiện quyền sở hữu Nhà nước về đất đai rất phong phú và đa dạng, bao gồm 13

nội dung đã quy định ở Điều 6, Luật Đất đai 2003, đó là:
- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai
và tổ chức thực hiện các văn bản đó;
10
- Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành
chính, lập bản đồ hành chính;
- Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất; lập bản đồ địa chính, bản
đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất;
- Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
- Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử
dụng đất;
- Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất;
- Thống kê, kiểm Kế đất đai;
- Quản lý tài chính về đất đai;
- Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất
động sản;
- Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất;
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về đất
đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai;
- Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi
phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai;
- Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai.
Mười ba nội dung trên nhằm bảo vệ và thực hiện quyền sở hữu Nhà
nước về đất đai, được tập trung vào 4 lĩnh vực cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Nhà nước nắm chắc tình hình đất đai, tức là Nhà nước biết rõ
các thông tin chính xác về số lượng đất đai, về chất lượng đất đai, về tình hình
hiện trạng của việc quản lý và sử dụng đất đai. Cụ thể:
- Về số lượng đất đai: Nhà nước nắm về diện tích đất đai trong toàn

quốc gia, trong từng vùng kinh tế, trong từng đơn vị hành chính các địa
phương; nắm về diện tích của mỗi loại đất như đất nông nghiệp, đất phi nông
nghiệp, đất chưa sử dụng ; nắm về diện tích của từng chủ sử dụng và sự phân
bố trên bề mặt lãnh thổ
11
- Về chất lượng đất: Nhà nước nắm về đặc điểm lý tính, hóa tính của
từng loại đất, độ phì của đất, kết cấu đất, hệ số sử dụng đất v.v , đặc biệt là
đối với đất nông nghiệp.
- Về hiện trạng sử dụng đất: Nhà nước nắm về thực tế quản lý và sử
dụng đất có hợp lý, có hiệu quả không? có theo đúng quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất không? cách đánh giá phương hướng khắc phục để giải quyết các bất
hợp lý trong sử dụng đất đai.
Thứ hai: Nhà nước thực hiện việc phân phối và phân phối lại đất đai
theo quy hoạch và kế hoạch chung thống nhất. Nhà nước chiếm hữu toàn bộ
quỹ đất đai, nhưng lại không trực tiếp sử dụng mà giao cho các tổ chức, cá
nhân sử dụng.
Trong quá trình phát triển của đất nước, ở từng giai đoạn cụ thể, nhu
cầu sử dụng đất đai của các ngành, các cơ quan, tổ chức cũng khác nhau. Nhà
nước với vai trò chủ quản lý đất đai thực hiện phân phối đất đai cho các chủ
sử dụng; theo quá trình phát triển của xã hội, Nhà nước còn thực hiện phân
phối lại quỹ đất đai cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Để thực
hiện việc phân phối và phân phối lại đất đai, Nhà nước đã thực hiện việc
chuyển giao quyền sử dụng đất giữa các chủ thể khác nhau, thực hiện việc
điều chỉnh giữa các loại đất, giữa các vùng kinh tế. Đồng thời, Nhà nước còn
thực hiện và quản lý việc giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử
dụng đất, thu hồi đất; quản lý việc chuyển quyền sử dụng đất; thực hiện việc
lập quy hoạch, kế hoạch và quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Thứ ba: Nhà nước thường xuyên thanh tra, kiểm tra chế độ quản lý và
sử dụng đất đai. Hoạt động phân phối và sử dụng đất do các cơ quan Nhà
nước và do người sử dụng cụ thể thực hiện. Để việc phân phối và sử dụng

được phù hợp với yêu cầu và lợi ích của Nhà nước, Nhà nước tiến hành kiểm
tra giám sát quá trình phân phối và sử dụng đất. Trong khi kiểm tra, giám sát,
nếu phát hiện các vi phạm và bất cập trong phân phối và sử dụng, Nhà nước
sẽ xử lý và giải quyết các vi phạm, bất cập đó.
Thứ tư. Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai.
Hoạt động này được thực hiện thông qua các chính sách tài chính về đất đai
như: thu tiền sử dụng đất (có thể dưới dạng tiền giao đất khi Nhà nước giao
đất có thu tiền sử dụng đất, có thể dưới dạng tiền thuê đất, có thể dưới dạng
12
tiền chuyển mục đích sử dụng đất), thu các loại thuế liên quan đến việc sử
dụng đất (như thuế sử dụng đất, thuế thu nhập có nguồn gốc từ đất ) nhằm
điều tiết các nguồn lợi hoặc phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư
của người sử dụng đất mang lại.
Các mặt hoạt động trên có mối quan hệ trong một thể thống nhất và
mang tính liên tục, có định hướng mục tiêu của bộ máy Nhà nước lên đối
tượng sử dụng đất, nhằm thực hiện mục tiêu chung đề ra trong những điều
kiện và môi trường kinh tế nhất định, trên nguyên tắc cao nhất Nhà nước là
đại diện sở hữu toàn dân về đất đai trực tiếp tham gia vận hành thị trường, để
thực hiện quyền về kinh tế của sở hữu và các chức năng khác của Nhà nước.
Khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai, đồng thời có
biện pháp bảo vệ đất và môi trường sống theo hướng bền vững.
Từ sự phân tích các hoạt động quản lý nhà nước đối với đất đai như
trên, có thể đưa ra khái niệm quản lý nhà nước về đất đai như sau:
Quản lý nhà nước về đất đai là tổng hợp các hoạt động của các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền để thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu của Nhà
nước đối với đất đai; đó là các hoạt động nắm chắc tình hình sử dụng đất;
phân phối và phân phối lại quỹ đất theo quy hoạch, kế hoạch; kiểm tra giám
sát quá trình quản lý và sử dụng đất; điều tiết và sử dụng các nguồn lợi từ đất
đai.
2.2. Vai trò và sự cần thiết phải quản lý nhà nước về đất đai:

Cơ chế quản lý kinh tế mới hiện nay ở nước ta là cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước bằng các công cụ kế hoạch, pháp luật, chính sách…
Nhà nước đóng vai trò điều tiết vĩ mô nhằm phát huy những mặt tích cực, hạn
chế những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường không làm
giảm nhẹ vai trò quản lý của Nhà nước mà đòi hỏi tăng cường quản lý. Hơn
nữa chúng ta đang thực hiện quá trình đổi mới, mở rộng hội nhập quốc tế
trong bối cảnh thế giới đang có nhiều thay đổi thì càng đòi hỏi phải tăng
cường vai trò quản lý của Nhà nước, đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai vì
những vai trò to lớn và quan trọng của đất đai như đã nói. Vấn đề đăt ra là
Nhà nước phải có phương thức quản lý để phù hợp với sự vận động của lực
sản xuất và quan hệ sản xuất, phương thức quản lý như thế nào để có thể vận
13
dụng đầy đủ các quy luật khách quan của nền kinh tế như quy luật giá trị, quy
luật cạnh tranh, quy luật cung cầu.
Trong điều kiện kinh tế bao cấp, các mối quan hệ về sử dụng đất thật sự
chưa gắn bó với kết quả sản xuất, hiệu quả sử dụng đất. Giá trị to lớn của đất
đai chưa được phát huy đầy đủ, sản phẩm làm ra là tự cấp tự túc, chưa có sự
trao đổi hàng hóa. Sau khi chuyển đổi cơ chế kinh tế, do chú trọng gắn lợi ích
với trách nhiệm của người sử dụng đất cho nên đất đai được sử dụng ngày
càng hiệu quả hơn.
Đất đai là một tư liệu sản xuất đặc biệt, là phương tiện để phát triển sản
xuất liên quan mật thiết đến các hoạt động kinh tế xã hội và liên quan đến quy
hoạch tổng thể chung của cả nền kinh tế.
Vai trò của Nhà nước trong quản lý đất đai là một yêu cầu cần thiết để
điều hòa các mối quan hệ giữa chủ thể quản lý là Nhà nước và người sử dụng
đất. Vai trò quản lý của Nhà nước về đất đai như sau:
Một là, thông qua hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phân bổ
đất đai có cơ sở khoa học nhằm phục vụ cho các mục đích kinh tế xã hội của
đất nước. Bằng các công cụ đó, Nhà nước sẽ đảm bảo cho việc sử dụng đất
đúng mục đích, đạt hiệu quả cao, giúp cho Nhà nước quản lý chặt chẽ đất đai,

giúp cho người sử dụng đất có biện pháp hữu hiệu để khai thác đất.
Hai là, thông qua công tác đánh giá phân hạng đất, Nhà nước nắm chắc
toàn bộ quỹ đất đai cả về số lượng và chất lượng làm căn cứ cho các bịên
pháp kinh tế xã hội có hệ thống, có căn cứ khoa học nhằm sử dụng đất đai
hiệu quả và hợp lý.
Ba là, thông qua việc ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật đất đai,
Nhà nước tạo cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các tổ
chức kinh tế, doanh nghiệp, cá nhân trong quan hệ về đất đai. Bằng hệ thống
pháp luật và các văn bản pháp quy, Nhà nước xác định địa vị pháp lý cho các
đối tượng sử dụng. Trên cơ sở đó Nhà nước điều chỉnh hành vi của các đối
tượng sử dụng đất, hành vi nào là hợp pháp, hành vi nào là không hợp pháp.
Bốn là, thông qua việc ban hành và thực hiện hệ thống chính sách về
đất đai như chính sách giá cả, chính sách thuế, đầu tư, chính sách tiền tệ, tín
dụng… Nhà nước kích thích các chủ thể kinh tế, các cá nhân sử dụng đầy đủ
14
hợp lý đất đai, tiết kiệm đất nhằm nâng cao khả năng sinh lời của đất, để góp
phần thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội của cả nước và để bảo vệ môi trường.
Các chính sách đất đai là những công cụ để Nhà nước thực hiện vai trò quản
lý trong từng giai đoạn nhất định. Nhà nước tạo môi trường thông thoáng, cải
cách các thủ tục đầu tư, điều chỉnh các công cụ quản lý đó để tăng đầu tư vào
đất.
Năm là, thông qua việc kiểm tra, giám sát quản lý và sử dụng đất, Nhà
nước nắm chắc tình hình diễn biến về sử dụng đất đai, phát hiện những vi
phạm và giải quyết những vi phạm đó. Với vai trò này, Nhà nước đảm bảo
cho các quan hệ sử dụng đất đai được vận hành theo đúng quy định của Nhà
nước. Với việc kiểm tra giám sát, Nhà nước có nhiệm vụ phát hiện kịp thời
các sai sót ách tắc, các vi phạm trong sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân. Vai trò này được Nhà nước tiến hành với nhiều nội dung khác nhau:
+ Kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch của các ngành các cấp.
+ Kiểm tra giám sát việc chấp hành thực hiện các văn bản pháp lý, chủ

trương chính sách của Nhà nước.
+ Kiểm tra kiểm soát việc sử dụng đất của cả nước cũng như của từng
hộ gia đình cá nhân.
+ Kiểm tra các công cụ và chính sách quản lý.
+ Kiểm tra việc thực hiện các vai trò, chức năng quản lý của các cơ
quan Nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai.
Đối với nước ta, xuất phát là từ một nước có nền kinh tế nghèo nàn lạc
hậu. Đảng và Nhà nước ta đã xác định mục tiêu xây dựng Việt Nam thành
một nước có nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Chúng ta phải xây dựng Nhà nước pháp quyền để quản lý mọi lĩnh
vực, đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai.
Khi tham gia vào nền kinh tế thị trường, đất đai có sự thay đổi căn bản:
Từ là tư liệu sản xuất, điều kiện sống chuyển sang là tư liệu sản xuất chứa
đựng yếu tố sản xuất hàng hóa, phương diện kinh tế của đất trở thành yếu tố
chủ đạo quy định sự vận động của đất đai theo hướng ngày càng nâng cao
hiệu quả. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, giá đất cũng như lợi nhuận khi
đầu tư vào đất tăng cao đã khiến cho tình trạng tranh chấp lấn chiếm đất đai
15
xảy ra, làm ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Trong sản
xuất nông nghiệp, khi tham gia vào cơ chế thị trường đất đai cũng chứa đựng
nguy cơ quay về sản xuất tự cấp tự túc nếu người sử dụng đất không đủ năng
lực, nếu thị trường bất lợi kéo dài. Hơn nữa, đất đai cũng là một nguồn vốn
tham gia vào sản xuất hàng hóa, việc sử dụng đất lại rất cần có vốn cho nên
hình thành thị trường đất đai là một động lực quan trọng để góp phần hoàn
thiện hệ thống thị trường quốc gia. Chính vì vậy việc quản lý nhà nước về đất
đai là hết sức cần thiết nhằm phát huy những ưu thế của cơ chế thị trường và
hạn chế những khuyết tật của thị trường khi sử dụng đất đai, ngoài ra còn làm
tăng tính pháp lý của đất đai.
Tóm lại, việc khai thác những ưu điểm và hạn chế những khuyết tật của
cơ chế thị trường đặc biệt là các quan hệ đất đai vận động theo cơ chế thị

trường thì không thể thiếu được sự quản lý của Nhà nước với tư cách là chủ
thể của nền kinh tế quốc dân. Như vậy, Nhà nước thực hiện chức năng quản
lý là một đòi hỏi khách quan, là nhu cầu tất yếu trong việc sử dụng đất đai.
Nhà nước không chỉ quản lý bằng công cụ pháp luật, các công cụ tài chính mà
Nhà nước còn kích thích khuyến khích đối tượng sử dụng đất hiệu quả bằng
biện pháp kinh tế. Biện pháp kinh tế tác động trực tiếp đến lợi ích của người
sử dụng đất và đây là một biện pháp hữu hiệu trong cơ chế thị trường, nó làm
cho các đối tượng sử dụng đất có hiệu quả hơn, làm tốt công việc của mình,
vừa bảo đảm được lợi ích cá nhân cũng như lợi ích của toàn xã hội.
3. Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước về đất
đai.
3.1. Nhân tố pháp luật:
Thực tiễn và kết quả của công cuộc đổi mới mang lại ngày càng chứng
minh không thể thiếu được pháp luật trong đời sống xã hội. Bởi vì đường lối
của Đảng không thể thực hiện được nếu đường lối đó không được Nhà nước
thể chế thành pháp luật. Nhà nước không thể tổ chức thực hiện đường lối của
Đảng và quản lý xã hội một cách có hiệu quả nếu không thực hiện quản lý
bằng pháp luật, các quyền tự do dân chủ của công dân không thể thực hiện
nếu không có pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Đảng ta xác định Nhà nước quản
lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng
Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Chính vì thế, pháp luật sẽ có
16
tác động mạnh mẽ đến công tác quản lý. Một hệ thống pháp luật đồng bộ, rõ
ràng, cụ thể làm cho công tác quản lý được hiệu quả và thuân lợi. Vì các cơ
quan quản lý theo đúng pháp luật quy định mà thực hiện, không gặp những
vướng mắc trở ngại nào nếu như văn bản pháp luật đó mang tính khoa học và
cụ thể. Pháp luật có ý nghĩa quan trọng đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Cơ cấu kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản
xuất kinh doanh đa dạng cùng với các mối quan hệ sử dụng đất đai phức tạp
đòi hỏi pháp luật nói chung và Luật Đất đai nói riêng phải tạo nên một môi

trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động tự do kinh doanh phát triển, tạo cơ hội
cho mọi người làm ăn sinh sống theo pháp luật. Bên cạnh đó, pháp luật còn
tạo điều kiện để Nhà nước thực hiện được vai trò người điều hành nền kinh tế
thị trường, pháp luật còn là công cụ để Nhà nước kiểm tra các hoạt động kinh
doanh, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Ngoài ra, pháp luật còn xác lập,
củng cố và hoàn thiện những cơ sở pháp lý của Nhà nước, đặc biệt là trong
lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai nhằm phát huy cao nhất hiệu lực của cơ
quan quản lý. Để đạt được điều đó, pháp luật phải xác định rõ các nguyên tắc
tổ chức và hoạt động cũng như thẩm quyền của cơ quan Nhà nước. Pháp luật
của Nhà nước ta hiện nay phải là cơ sở để hoàn thiện bộ máy Nhà nước phù
hợp với cơ chế mới mà trước hết phải cải cách một bước nền hành chính quốc
gia. Nhưng thực tế Luật Đất đai hiện nay cho thấy vẫn còn có một số hạn chế
làm giảm hiệu lực của cơ quan Nhà nước. Đó là do Luật Đất đai được xây
dựng trong điều kiện nền kinh tế đang được từng bước vận hành theo kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, chưa lường hết được khó khăn bất cập
vì vậy luật còn có những quy định chung chung, mặt khác việc hướng dẫn
thực hiện luật còn chậm, thiếu đồng bộ và cụ thể làm cho các cấp lúng túng
trong tổ chức thi hành, bởi vậy hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai còn chưa
cao. Từ đó ta có thể thấy nhân tố pháp luật có tác động mạnh đến công tác
quản lý đất đai. Nó có thể làm nâng cao hiệu quả hoặc làm giảm hiệu lực quản
lý của Nhà nước. Chính vì vậy, kiện toàn hệ thống pháp luật là vấn đề cấp
bách hiện nay.
3.2. Nhân tố xã hội:
Nhân tố xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng trong tổ chức điều hành
quản lý xã hội và tăng cường chức năng quản lý của Nhà nước về mọi lĩnh
vực nói chung cũng như về lĩnh vực đất đai nói riêng. Một chính sách quản lý
17
đất đai đúng đắn phải đề cập đến các yếu tố xã hội, từ đó nó không những làm
ổn định xã hội mà còn tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước và cơ quan
quản lý. Các yếu tố xã hội như việc làm, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc bảo

vệ sức khỏe cho nhân dân, ưu đãi người có công với cách mạng, văn hóa, y tế,
dân tộc, vấn đề lao động và việc làm cũng ảnh hưởng đến công tác quản lý
nói chung và quản lý đất đai nói riêng. Giải quyết được việc làm sẽ góp phần
đảm bảo trật tự an ninh trong xã hội, giảm bớt các tệ nạn xã hội do thiếu việc
làm gây ra, điều đó sẽ thể hiện rõ bản chất của một chế độ do con người, vì
con người và tạo mọi điều kiện để con người tự do sáng tạo nuôi sống mình,
đóng góp cho sự công bằng và tiến bộ xã hội. Yếu tố này làm cho công tác
quản lý đất đai được nhẹ nhàng hơn và hiệu lực quản lý từng bước được nâng
cao. Bởi vì các tệ nạn xã hội sẽ được giảm bớt, công bằng xã hội được thiết
lập và đảm bảo cho cơ quan quản lý thực hiện trách nhiệm quản lý dễ dàng
hơn. Việc thực hiện chính sách người có công với cách mạng như tặng nhà
tình nghĩa, miễn giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất … là công việc quản lý
thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta. Tập trung đầu tư
cho giáo dục, văn hóa để nâng cao nhận thức về pháp luật cho mọi người là
việc làm quan trọng, để cho mọi người thấy rõ được chủ trương, đường lối
chính sách của Đảng trong công tác quản lý. Sự ổn định về mặt xã hội là yếu
tố để nâng cao hiệu quả quản lý đất đai. Yếu tố quan trọng khác cũng có ảnh
hưởng đến quản lý đất đai đó là phong tục tập quán của người dân cũng như
tâm lý của họ trong đời sống xã hội, nhất là ở khu vực nông thôn hiện nay.
3.3. Nhân tố kinh tế:
Công tác quản lý nói chung và quản lý nhà nước về đất đai nói riêng
phải có cơ sơ vật chất kỹ thuật, máy móc hiện đại để đáp ứng cho yêu cầu
quản lý hiện nay.
Đào tạo nhân lực là cốt lõi để thực hiện quản lý. Thực hiện công việc
này phải có một nguồn kinh phí lớn. Sự phát triển của nền kinh tế với nhịp độ
cao và ổn định tạo ra được giá trị sản phẩm to lớn từ đó có thể tập trung
nguồn lực để đầu tư cho viẹc đào tạo nhân lực. Măt khác một nền kinh tế phát
triển sẽ kích thích sự phát triển của khoa học công nghệ, kích thích sự phát
triễn sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy chuyên môn hóa sản xuất và
phân công lao động xã hội… giúp cho công tác quản lý được thuận lợi hơn,

giảm bớt được những khó khăn phức tạp trong quản lý.
18
Việc chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước tác động rất lớn đến quản
lý và sử dụng đất. Trên phạm vi cả nước cũng như ở huyện Yên Dũng, từ khi
chưa tiến hành đổi mới thì hầu hết đều sống dựa vào nông nghiệp là chính với
việc trồng lúa, hoa màu… còn công nghiệp- dịch vụ – thương mại vẫn còn
nhỏ lẻ chưa phát triển. Diện tích đất được tập trung để phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản. Nhưng từ khi thực hiện cơ chế mở cửa, đổi
mới đối với nền kinh tế, cơ cấu kinh tế của huyện Yên Dũng cũng đã chuyển
đổi theo hướng nông - công nghiệp - dịch vụ. Đó là điều đáng mừng vì kết
quả của sự chuyển dịch đã đóng góp không nhỏ trong quá trình phát triển kinh
tế. Vấn đề đặt ra là sự chuyển dịch cơ cấu như vậy đã tác động không nhỏ tới
quỹ đất của Yên Dũng. Một phần lớn diện tích đất nông nghiệp đã được lấy đi
để sử dụng cho sản xuất công nghiệp như xây dựng các nhà máy, khu công
nghiệp, sản xuất gạch ngói đồ gốm, vật liệu xây dựng… làm cho diện tích đất
nông nghiệp giảm đi và nó tác động tới nguồn cung cấp lương thực cho người
dân. Giá cả các mặt hàng nông sản tăng lên vì nguồn cung bị ảnh hưởng do
đó, song song với việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế thì cũng cần phải
chú ý đến an toàn lương thực cho người dân.
Để phục vụ cho phát triển kinh tế, nhu cầu sử dụng đất cho tất cả các
ngành kinh tế là rất lớn và có thể thấy rõ sự bù trừ lẫn nhau giữa các loại đất.
Khi loại đất này tăng lên làm cho loại đất kia giảm đi đồng thời sẽ có một loại
đất khác được khai thác để bù vào sự giảm đi của loại đất đó. Mọi loại đất
được khai thác tiềm năng mạnh mẽ để phục vụ cho nhu cầu sử dụng đất mở
rộng sản xuất, làm văn phòng, nhà xưởng, cửa hàng dịch vụ. Sự luân chuyển
đất thuận lợi sẽ là xúc tác tích cực cho các hoạt động kinh tế, là cơ sở để tạo
ra các sản phẩm xã hội. Công tác quản lý đất đai cũng phải đổi mới để cho
phù hợp với cơ chế kinh tế mới đáp ứng yêu cầu quản lý đất đai trước tình
hình thực tế. Quá trình đổi mới kinh tế làm cho vấn đề sử dụng đất đai có

nhiều biến động vì vậy không thể áp dụng mô hình quản lý cũ được. Việc đầu
tư cơ sở hạ tầng mở mang đô thị đã kàm cho giá đất tăng lên một cách đáng
kể. Một con đường mới mở do Nhà nước đầu tư sẽ mang lại sự gia tăng giá trị
cho các lô đất hai bên đường. Đất nông nghiệp trước khi chưa được lấy để
phục vụ cho phát triển đô thị thì giá đất đó chỉ tính theo giá đất nông nghiệp
trong khung giá do Nhà nước ban hành, nhưng khi đã chuyển sang để phục vụ
19
cho phát triển đô thị thì giá đất đã tăng gấp nhiều lần so với trước. Nhất là ở
các khu phố có hoạt động kinh tế buôn bán sầm uất thì giá đất đã tăng lên gấp
nhiều lần so với trước kia. Tại các vùng ven đô trước kia là khu nông thôn
nhưng hiện nay quá trình đô thị hóa đã đẩy giá đất tăng cao vùn vụt và đó
cũng là nguyên nhân của những cơn sốt đất trên địa bàn thành phố thời gian
qua. Từ sự phân tích trên có thể thấy yếu tố kinh tế có tác động mạnh đến
quản lý sử dụng đất, đến giá trị của đất nhất là trong sự phát triển kinh tế với
nhịp độ cao như hiện nay.
II. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI
Nội dung quản lý nhà nước về đất đai gồm 13 nội dung được quy định
tại Điều 6 Luật Đất đai 2003. Trong đó chế độ quản lý đất đai gồm những nội
dung cơ bản sau:
1. Ban hành văn bản pháp luật về quản lý, sử dụng đất và tổ chức
thực hiện các văn bản đó.
Đây là nội dung hết sức quan trọng trong quản lý đất đai. Nó là cơ sở
quan trọng cho các nội dung khác bởi lẽ các nội dung khác về quản lý đất đai
đều phải được dựa trên các quy định của pháp luật. Văn bản quy phạm pháp
luật bao gồm các văn bản luật và dưới luật. Như: Hiến pháp, Luật, Nghị định,
Quy định, Chỉ thị, Thông tư…
Văn bản pháp luật về quản lý sử dụng đất là những văn bản không chỉ
cung cấp thông tin mà còn thể hiện ý chí mệnh lệnh của các cơ quan quản lý
đối với người sử dụng đất nhằm thực hiện các quy định, luật lệ của Nhà nước.
Dựa trên việc ban hành các văn bản pháp luật này, Nhà nước buộc các đối

tượng sử dụng đất phải thực hiện các quy định về sử dụng theo một khuôn
khổ do Nhà nước đặt ra. Văn bản pháp luật quản lý sử dụng đất biểu hiện
quyền lực của các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, nhằm lập lại một trật
tự pháp lý theo mục tiêu của các cơ quan quản lý. Văn bản pháp luật nói
chung và văn bản pháp luật quản lý sử dụng đất nói riêng mang tính chất Nhà
nước. Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Vì vậy văn bản
pháp luật đất đai vừa thể hiện được ý chí của Nhà nước vừa thể hiện được
nguyện vọng của đối tượng sử dụng đất.
Trong lĩnh vực đất đai, công tác quản lý sử dụng đất được thực hiện
thống nhất từ Luật Đất đai; Nghị định của chính phủ, Thông tư của Bộ Tài
20
nguyên và Môi trường, các hướng dẫn liên ngành có liên quan. Căn cứ Luật
Đất đai và các văn bản của cấp trên, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố cụ
thể hóa chính sách đất đai tại địa phương mình bằng Quyết định của Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh. Cấp huyện là cấp trực tiếp tổ chức tuyên truyền, phổ biến,
thực hiện các văn bản chính sách đất đai của trung ương và của tỉnh đến các
đối tượng sử dụng đất.
Hiện nay các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai từ trung ương đến
địa phương cấp tỉnh đã lên tới hàng nghìn văn bản, tạo ra một hệ thống pháp
luật đất đai tương đối đầy đủ, bước đầu đã đáp ứng được các mối quan hệ đất
đai mới hình thành trong giai đoạn công nghiệp hóa và đô thị hóa. Hệ thống
pháp luật đất đai luôn đổi mới, ngày càng phù hợp với yêu cầu phát triển kinh
tế và ổn định chính trị-xã hội. Nhưng cũng do tốc độ phát triển kinh tế - xã
hội như hiện nay và xu hướng tiếp theo thì quan hệ đất đai trong đời sống
càng hết sức phức tạp, luôn nảy sinh những vấn đề, những mâu thuẫn cần phải
giải quyết. Đòi hỏi việc nghiên cứu, tổng kết rút kinh nghiệm, sửa đổi Luật
Đất đai, ban hành chính sách đất đai phù hợp với tình hình mới là nhiệm vụ
hết sức quan trọng.
2. Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất; lập bản đồ địa chính,
bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất.

Điều tra, khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất là công việc quan
trọng của công tác quản lý đất đai. Thông qua công tác này Nhà nước mới
nắm chắc được toàn bộ vốn đất đai cả về số lượng lẫn chất lượng trong lãnh
thổ quốc gia. Mặt khác Nhà nước mới có thể đánh giá được khả năng đất đai
ở từng vùng, từng địa phương để có mục đích sử dụng đất phù hợp. Đối với
đất có tiềm năng lớn cho sản xuất nông nghiệp, thông qua công tác này Nhà
nước sẽ quy hoạch đất để sử dụng vào mục đích nông nghiệp. Cũng nhờ công
tác này mà Nhà nước mới có biện pháp và phương hướng sử dụng các loại
đất có khoa học và hệ thống.
Để nắm được diện tích đất đai, Nhà nước phải tiến hành khảo sát đo
đạc. Việc đánh giá và phân hạng đất là một công việc rất phức tạp. Đối với
phân hạng đất, Nhà nước phải căn cứ vào 5 yếu tố đó là: Điều kiện địa hình,
khí hậu, chất đất, điều kiện tưới tiêu, vị trí của khu đất so với đường giao
thông hoặc nơi tiêu thụ sản phẩm.
21
Luật Đất đai 2003 quy định việc phân loại đất được thực hiện căn cứ
vào mục đích sử dụng, đất đai được phân làm ba nhóm chính:
- Nhóm đất nông nghiệp bao gồm các loại đất: Đất trồng cây hàng năm
gồm đất trồng lúa, đất đồng cỏ dùng vào chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm
khác; Đất trồng cây lâu năm; Đất rừng sản xuất; Đất rừng phòng hộ; Đất rừng
đặc dụng; Đất nuôi trồng thuỷ sản; Đất làm muối; Đất nông nghiệp khác theo
quy định của Chính phủ;
- Nhóm đất phi nông nghiệp bao gồm các loại đất: Đất ở gồm đất ở tại
nông thôn, đất ở tại đô thị; Đất xây dựng trụ sở cơ quan, xây dựng công trình
sự nghiệp; Đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; Đất sản xuất, kinh
doanh phi nông nghiệp gồm đất xây dựng khu công nghiệp; đất làm mặt bằng
xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản;
đất sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm; Đất sử dụng vào mục đích công
cộng gồm đất giao thông, thuỷ lợi; đất xây dựng các công trình văn hoá, y tế,
giáo dục và đào tạo, thể dục thể thao phục vụ lợi ích công cộng; đất có di tích

lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; đất xây dựng các công trình công
cộng khác theo quy định của Chính phủ; Đất do các cơ sở tôn giáo sử dụng;
Đất có công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ; Đất làm nghĩa
trang, nghĩa địa; Đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng;
Đất phi nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ;
- Nhóm đất chưa sử dụng bao gồm các loại đất chưa xác định mục đích
sử dụng.
Căn cứ để xác định loại đất trên thực địa được thực hiện theo hiện trạng
sử dụng đất phù hợp với quy hoạch sử dụng đất được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xét duyệt; theo quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; theo đăng
ký chuyển mục đích sử dụng đất đối với trường hợp không phải xin phép
chuyển mục đích sử dụng đất.
Việc khảo sát, đo đạc, lập và quản lý bản đồ hiện trạng sử dụng đất, bản
đồ quy hoạch sử dụng đất do Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ đạo thực hiện
trong phạm vi cả nước. Bản đồ hiện trạng sử dụng đất được lập năm năm một
lần gắn với việc kiểm kê đất đai quy định tại Điều 53 của Luật Đất đai 2003
để phục vụ cho việc quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Bản đồ quy
22
hoạch sử dụng đất được lập mười năm một lần gắn với kỳ quy hoạch sử dụng
đất quy định tại Điều 24 Luật Đất đai 2003. Bản đồ quy hoạch sử dụng đất
của xã, phường, thị trấn được lập trên bản đồ địa chính gọi là bản đồ quy
hoạch sử dụng đất chi tiết. Uỷ ban nhân dân có trách nhiệm thực hiện việc
kiểm kê đất đai ở địa phương nào thì tổ chức thực hiện việc lập bản đồ hiện
trạng sử dụng đất của địa phương đó. Uỷ ban nhân dân có trách nhiệm tổ chức
thực hiện việc lập quy hoạch sử dụng đất của địa phương nào thì tổ chức thực
hiện việc lập bản đồ quy hoạch sử dụng đất của địa phương đó. Đây là căn cứ
để hạn chế, ngăn chặn các hiện tượng tranh chấp đất đai hiện nay.
3. Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là hệ thống các biện pháp kinh tế, kĩ

thuật và pháp lý của Nhà nước về tổ chức sử dụng quản lý đất đai một cách
đầy đủ hợp lý khoa học và có hiệu quả cao nhất, thông qua việc tính toán
phân bổ quỹ đất cho các ngành, các mục đích sử dụng, các tổ chức và cá nhân
sử dụng đất nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội và tạo điều kiện bảo vệ
đất đai, môi trường sinh thái.
Kết quả của công tác quy hoạch phải đảm bảo 3 điều kiện: Kỹ thuật,
kinh tế và pháp lý. Điều kiện về mặt kinh tế được thể hiện ở hiệu quả của việc
sử dụng đất, điều kiện về mặt kỹ thuật thể hiện ở các công việc chuyên môn
như điều tra, khảo sát đo đạc, xây dựng bản đồ địa chính, điều kiện về mặt
pháp lý là quy hoạch phải tuân thủ các quy định của pháp luật, theo sự phân
công phân cấp của Nhà nước đối với công tác quy hoạch.
Quy hoạch sử dụng đất bao gồm quy hoạch tổng thể sử dụng đất trên
phạm vi cả nước, quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh, quy hoạch sử dụng đất cấp
huyện và quy hoạch sử dụng đất cấp xã. Quy hoạch sử dụng đất cấp trên là
căn cứ để lập quy hoạch sử dụng đất của cấp đơn vị hành chính cấp dưới trực
tiếp. Nội dung của công tác quy hoạch là khoanh định các loại đất trong từng
địa phương và trong phạm vi cả nước, điều chỉnh việc khoanh định nói trên
cho phù hợp với giai doạn phát triển kinh tế xã hội. Vấn đề chú ý khi lập quy
hoạch là phải đảm bảo tính dự báo, tính thống nhất và khoa học, quy hoạch
phải được công bố rộng rãi cho công chúng biết.
Kế hoạch sử dụng đất là chỉ tiêu cụ thể hóa quy hoạch. Công tác kế
hoạch tập trung những nguồn lực tối thiểu vào giải quyết có hiệu quả những
23
vấn đề trọng tâm của kế hoạch trong từng thời kì. Nội dung của kế hoạch sử
dụng đất là khoanh định việc sử dụng từng loại đất trong từng thời kì kế
hoạch và điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất cho phù hợp với quy hoạch sử dụng
đất.
Thông qua quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, căn cứ vào những thuộc
tính tự nhiên của đất như vị trí, diện tích mà các loại đất được sử dụng theo
từng mục đích nhất định và hợp lý. Các thành tựu khoa học công nghệ không

ngừng được áp dụng để nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Hiệu quả sử
dụng đất được thể hiện ở hiệu quả kinh tế xã hội và môi trường mà quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất là cơ sở để đạt được hiệu quả đó. Chính vì vậy,
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất có vai trò rất quan trọng và được thể hiện
như sau:
+ Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đảm bảo sự quản lý thống nhất của
Nhà nước, nó không chỉ có ý nghĩa trước mắt mà còn lâu dài. Nhờ có quy
hoạch, tính chủ động sáng tạo trong sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia đình
cá nhân được nâng cao khi họ được giao quyền sử dụng đất.
+ Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tạo cơ sở pháp lý cho việc giao đất,
cho thuê đất để đầu tư phát triển kinh tế xã hội, góp phần chyển dịch cơ cấu
kinh tế, đảm bảo an ninh lương thực, thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa
đất nước. Thông qua quy hoach, đất đai từng bước được hoạch định chiến
lược để sử dụng cho mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, phát triển công
nghiệp, đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội pphù hợp với quỹ đất
của một quốc gia, một vùng hay một địa phương nào đó.
+ Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là công cụ hữu hiệu giúp cho Nhà
nước nắm chắc được quỹ đất mà xây dựng chính sách đất đai một cách đồng
bộ, hạn chế sự chồng chéo trong quản lý đất đai, ngăn chặn các hiện tượng
chuyển mục đích sử dụng tùy tiện.
Nguyên tắc, căn cứ, nội dung, thẩm quyền lập, xét duyệt, điều chỉnh và
thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được quy định tại Mục 2, từ Điều
21 đến Điều 30 Luật Đất đai 2003.
Công tác quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được thực hiện
thống nhất từ trung ương đến cơ sở. Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
từ khâu lập đến công bố và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, kiểm
24
tra, giám sát thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, kịp thời phát hiện
những bất hợp lý để điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp.
4. Quản lý việc giao đất, cho thuê, thu hồi đất, chuyển mục đích sử

dụng đất.
Giao đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng quyết định hành
chính cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất. Cho thuê đất là việc Nhà nước
trao quyền sử dụng đất bằng hợp đồng cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất.
Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử
dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý
theo quy định của Luật Đất đai.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các mối
quan hệ xã hội trong lĩnh vực đất đai phát triển đa dạng hơn, phức tạp hơn.
Mối quan hệ đó được xây dựng trên cơ sở sự phát triển của quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Thực hiện chủ
trương chính sách của Đảng, Nhà nước đã giao đất đến từng hộ gia đình cá
nhân sử dụng lâu dài và ổn định để sản xuất nông nghiệp, Nhà nước giao đất,
cho thuê đất để khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội. Tổ chức, hộ gia đình,
cá nhân được Nhà nước giao đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho
thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, bảo lãnh, thế chấp, góp vốn bằng giá trị
quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử
dụng đất nhằm làm cho việc sử dụng đất hiệu quả, đúng quy định và theo
đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được duyệt. Là cơ sở cho việc kiểm
kê, thống kê đất đai và xác định, phân bổ nguồn tài chính từ đất.
Nhà nước có quy định cho từng trường hợp Nhà nước giao đất có thu
tiền sử dụng đất, giao đất không thu tiền sử dụng đất, giao đất, cho thuê đất
đối với đất đang có người sử dụng cho người khác, cho thuê đất trả tiền thuê
đất hàng năm hoặc cho cả thời gian thuê, quy định hạn mức giao đất cho từng
vùng miền, từng địa phương, từng loại đất và thời gian cụ thể. Nhà nước cũng
quy định việc thu hồi đất trong đó có xem xét đến việc bồi thường, hỗ trợ sau
khi thu hồi đất để người dân có điều kiện ổn định đời sống, quy định trường
hợp nào được bồi thường, hỗ trợ và trường hợp nào không được bồi thường,
hỗ trợ khi thu hồi đất. Căn cứ và thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, thu hồi

25

×