Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng ở đảng bộ huyện bắc mê, tỉnh hà giang trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.13 KB, 68 trang )

H C VI N CH NH TR - HÀNH CH NH QU C GIA H CH MINHỌ Ệ Í Ị Í Ố Ồ Í
H C VI N CH NH TR - H NH CH NH KHU V C IỌ Ệ Í Ị À Í Ự
*****
NGUY N TH NHỄ ỊĐỊ
N NG CAO CH T L NG CÔNG T C T T NGÂ Ấ ƯỢ Á Ư ƯỞ
C A NG B HUY N B C MÊ, T NH H GIANGỦ ĐẢ Ộ Ệ Ắ Ỉ À
TRONG GIAI O N HI N NAYĐ Ạ Ệ
LU N V N T T NGHI PẬ Ă Ố Ệ
CAO C P LÝ LU N CH NH TR - H NH CH NHẤ Ậ Í Ị À Í
H N i, tháng 6 n m 2011à ộ ă
i
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN,
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG TA VỀ CÔNG TÁC TƯ
TƯỞNG
5
1.1. Khái quát về tư tưởng, hệ tư tưởng
5
1.1.1. Khái niệm tư tưởng

5
1.1.2. Hệ tư tưởng

6
1.2. Vai trò của công tác tư tưởng trong tình hình hiện nay
7
1.2.1. Quan niệm về công tác tư tưởng của Đảng

7


1.2.2. Vai trò của công tác tư tưởng trong xây dựng Đảng.

8
1.2.3. Vai trò của công tác tư tưởng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ chủ nghĩa xã hội Việt Nam
12
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG BỘ
HUYỆN BẮC MÊ, TỈNH HÀ GIANG GIAI ĐOẠN ( 2005 - 2010)
15
2.1. Khái quát về huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang
15
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, xã hội, dân cư

15
2.1.2. Những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn (2005-2010)

16
i
2.2. Công tác tư tưởng ở Đảng bộ huyện Bắc Mê giai đoạn(2005-2010)
26
2.2.1. Tình hình tư tưởng và công tác tư tưởng của Đảng ta

26
2.2.2. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác tư tưởng ở Đảng bộ huyện.

29
2.2.3. Tình hình tư tưởng trong Đảng và trong các tầng lớp nhân dân
hiện nay
31
2.2.4. Những kết quả, hạn chế và kinh nghiệm bước đầu về công tác tư

tưởng ở Đảng bộ huyện Bắc Mê trong giai đoạn (2005-2010)
33
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ CÁC GIẢI PHÁP
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG BỘ
HUYỆN BẮC MÊ, TỈNH HÀ GIANG TRONG THỜI GIAN TỚI
47
3.1. Phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới
47
3.1.1. Những định hướng lớn trong công tác tư tưởng của Đảng.

47
3.1.2. Nhiệm vụ công tác tư tưởng của Đảng bộ huyện Bắc Mê trong thời

gian tới
49
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác tư tưởng của Đảng
bộ huyện Bắc Mê trong thời gian tới
51
3.2.1. Nâng cao nhận thức về vị trí, vao trò của công tác tư tưởng ở Đảng bộ
huyện
52
3.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, sự phối hợp các cơ
quan, đơn vị, các tổ chức trong huyện để tiến hành công tác tư tưởng
53
ii
3.2.3. Phát huy dân chủ, hướng về cơ sở, bám sát đối tượng.

53
3.2.4. Đa dạng hoá nội dung, hình thức, phương pháp, đảm bảo chất
lượng, hiện quả và tính chiến đấu cao của công tác tư tưởng

54
3.2.5. Coi trọng chất lượng, hiệu quả triển khai, quán triệt Nghị quyết
của Đảng
55
3.2.6. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng có phẩm chất và
năng lực
56
3.2.7. Tiếp tục thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, nâng cao
chất lượng các tổ chức cơ sở Đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên, thực hiện
tốt tự phê bình và phê bình lầm cho các tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên thực sự
trong sạch vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra
58
3.2.8. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất phương tiên, kinh phí cho hoạt
động công tác tư tưởng
58
KIẾN NGHỊ
59
1. Đối với Trung ương
59
2. Đối với tỉnh Hà Giang
59
3. Đối với huyện
59
KẾT LUẬN
60
TÀI LIỆU THAM KHẢO
62
iii
iv
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng là một bộ phận của ý thức xã hội, là sản phẩm của sự phản
ánh tồn tại xã hội, được hình thành bởi ý nghĩ, suy nghĩ và chỉ đạo hành động
của con người. Hệ tư tưởng là những quan điểm, tư tưởng được con người hệ
thống hoá thành lý luận, học thuyết chính trị, phản ánh tồn tại xã hội và đại
diện cho một giai cấp nhất định.
Trong xã hội có giai cấp thì tư tưởng và hệ tư tưởng mang tính giai cấp
và chỉ khi loài người có nhu cầu sản xuất ra hệ tư tưởng, bảo vệ những nhu
cầu, lợi ích của giai cấp nhất định thì công tác tư tưởng mới xuất hiện nhằm
truyền bá những hệ tư tưởng nhất định, đấu tranh hạn chế và xoá bỏ những hệ
tư tưởng đối lập để duy trì sự thống trị của mình. Tư tưởng là nhận thức của
con người, nhưng công tác tư tưởng không chỉ là quá trình hình thành nhận
thức mà còn bao gồm cả quá trình hình thành niềm tin và thúc đẩy hành động
có định hướng cho con người và xã hội.
Công tác tư tưởng là một bộ phận cấu thành rất quan trọng trong toàn
bộ hoạt động cách mạng của Đảng cộng sản. Cùng với công tác tổ chức và
công tác chính trị, công tác tư tưởng góp phần xây dựng Đảng thành đội tiên
phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động,
hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và đường
lối của Đảng trong cán bộ, đảng viên, quần chúng đem lại cho họ sự giác ngộ
về thế giới quan, nhân sinh quan cộng sản, biến nó thành niềm tin, lý tưởng, lẽ
sống, nguyên tắc đạo đức, tình cảm cách mạng. Trên cơ sở đó, nhân dân sẽ tự
giác hành động thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ
cách mạng và đi đến thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội.
Chính vì vậy, từ khi ra đời cho đến nay Đảng ta luôn coi trọng công tác
tư tưởng, xác định đây là mặt trận hàng đầu, góp phần quyết định cho mọi
thắng lợi của cách mạng. Công tác tư tưởng góp phần tạo nên sức mạnh tổng
hợp để dân tộc Việt Nam chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược và tạo nên những
thành tựu to lớn mang ý nghĩa lịch sử trong quá trình đổi mới hiện nay.
1

Sau 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới, công tác tư tưởng đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng vẫn còn không ít yếu kém, bất cập.
Sự phát triển của công cuộc đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội cùng những biến đổi nhanh chóng, phức tạp của tình
hình trong nước và quốc tế. Đất nước bước vào thế kỷ XXI với những thời cơ
và vận hội mới, song cũng phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức đòi hỏi
công tác tư tưởng của Đảng phải được đổi mới mạnh mẽ hơn nữa, phục vụ có
hiệu quả công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu "Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Trong bối cảnh chung của đất nước, với tình hình thực tế của địa
phương, Đảng bộ huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang luôn xác định công tác tư
tưởng là công tác của toàn Đảng bộ, là nhiệm vụ của mỗi cấp uỷ, của mỗi cán
bộ, đảng viên và các tổ chức trong hệ thống chính trị, là một trong ba mặt của
công tác xây dựng Đảng. Trong những năm qua huyện đã tích cực kiện toàn
bộ máy làm công tác tư tưởng, đổi mới hình thức tổ chức và phương pháp
hoạt động, vận dụng sáng tạo bài học về sức mạnh tổng hợp vào công tác tư
tưởng. Nhờ vậy chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng được nâng cao, góp
phần tăng cường sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội. Tuy
nhiên bên cạnh đó vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém, bất cập cần phải được tiếp
tục nghiên cứu, giải quyết. Từ những kiến thức lý luận được học tập và
nghiên cứu tại Học viện Chính trị - Hành chính Khu vực I, xuất phát từ yêu
cầu thực tiễn về đổi mới, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng nhất là công tác tư tưởng của Đảng trong tình hình hiện nay, tôi
chọn đề tài “ Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng ở Đảng bộ huyện Bắc
Mê, tỉnh Hà Giang trong giai đoạn hiện nay", làm luận văn tốt nghiệp Cao
cấp lý luận Chính trị - Hành chính của mình.
2. Mục đích của đề tài
Đề tài phân tích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về công tác tư
tưởng của Đảng, đánh giá tình hình công tác tư tưởng ở Đảng bộ huyện Bắc

Mê, tỉnh Hà Giang trong thời gian qua, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
góp phần nâng cao chất lượng công tác tư tưởng của Đảng bộ huyện trong
thời gian tới.
2
3- Nhiệm vụ của đề tài
- Khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản về tư tưởng và công tác tư
tưởng của Đảng.
- Đánh giá tình hình công tác tư tưởng ở Đảng bộ huyện Bắc Mê, tỉnh
Hà Giang từ năm 2005 - 2010
- Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng công
tác tư tưởng của Đảng bộ huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang trong thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu tư tưởng và công tác tư tưởng ở Đảng bộ
huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang từ năm 2005 đến 2010 và đề xuất giải pháp cho
những năm tiếp theo.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận.
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng ta về tư tưởng và công tác tư
tưởng.
Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
kết hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra xã
hội học….
6. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn thể hiện kết quả quá trình học tập, nghiên cứu chương trình
Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính của tác giả tại Học viện Chính trị -
Hành chính Khu vực 1.
- Luận văn là tài liệu tham khảo đối với các cá nhân, tập thể, các cơ
quan quan tâm đến công tác tư tưởng nói chung và công tác tư tưởng ở Đảng

bộ huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang nói riêng.
3
7. Kết cấu của đề tài .
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
kết câu làm 3 chương :
Chương 1 : Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và Đảng ta về công tác tư tưởng.
Chương 2 : Thực trạng công tác tư tưởng ở Đảng bộ huyện Bắc Mê,
tỉnh Hà Giang trong giai đoạn (2005 - 2010).
Chương 3 : Phương hướng, nhiệm vụ và các giải pháp nâng cao chất
lượng công tác tư tưởng của Đảng bộ huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang trong thời
gian tới.
4
CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG TA VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
1.1. KHÁI QUÁT VỀ TƯ TƯỞNG HỆ TƯ TƯỞNG
1.1.1.Khái niệm tư tưởng
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì toàn bộ đời sống xã hội
bao gồm tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã
hội. Tồn tại xã hội như thế nào thì ý thức xã hội như thế ấy. Khi tồn tại xã hội
thay đổi, thì ý thức xã hội sẽ thay đổi theo. Ra đời trên cơ sở tồn tại xã hội, do
tồn lại xã hội quy định, nhưng ý thức xã hội khi đã hình thành có đời sống độc
lập tương đối, có quy luật vận động riêng và tác động trở lại tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng, lý luận, truyền
thống, tâm trạng phản ánh tồn tại xã hội.
Như vậy, hiểu theo nghĩa chung nhất tư tưởng là một hình thức tồn tại
của ý thức xã hội, là kết quả của quá trình nhận thức hiện thực khách quan,
trở thành kinh nghiệm và sự hiểu biết trong tâm trí một con người. Nhưng do
mục đích của quá trình nhận thức là để phục vụ cho hoạt động thực tiễn, nên

trong ý thức mỗi con người không hoàn toàn dừng lại ở sự phản ánh mà còn
có những dự định về mục tiêu, chương trình kế hoạch, nhằm tiếp tục nhận
thức và cải tạo thế giới .
Tư tưởng thuộc phạm trù ý thức, gắn liền với hoạt động của con người,
là sản phẩm chủ quan của con người, tư tưởng của mỗi người phụ thuộc vào
đối tượng phản ánh và trình độ nhận thức của họ. Thực tiễn tác động vào tư
tưởng của mỗi con người và làm thay đổi nhận thức, tư tưởng của họ. Tuy
nhiên, tư tưởng cũng có tính độc lập tương đối của nó, nó cũng có tác động
trở lại đối với hiện thực khách quan và có những quy luật vận động riêng.
Đây là cơ sở để tiến hành công tác tư tưởng.
Về tính chất, hiệu quả tác động của tư tưởng phụ thuộc vào nhiều yếu
tố như: chế độ chính trị, mức độ phù hợp với thực tiễn, khả năng truyền bá
xâm nhập vào quần chúng. Khuynh hướng là thúc đẩy sự phát triển của tồn tại
xã hội nếu tư tưởng đó là tiến bộ cách mạng, ngược lại nó sẽ kìm hãm sự phát
triển của xã hội nếu tư tưởng đó là lạc hậu, phản cách mạng.
5
Tư tưởng còn mang tính kế thừa, một quan điểm, một tư tưởng, một
học thuyết không bao giờ xuất hiện từ một mảnh đất trống mà bao giờ cũng
tồn tại trong sự kế thừa những quan điểm tư tưởng trước đó. Sự kế thừa biện
chứng là có chọn lọc, phê phán, sáng tạo.
1.1.2. Hệ tư tưởng
Hệ tư tưởng là những quan điểm, tư tưởng được con người tư duy tích
cực, tự giác, hệ thông hoá thành lý luận, học thuyết chính trị, phản ánh tồn
tại xã hội và đại diện cho một giai cấp nhất định.
Trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, ta thấy sự xuất hiện và
phát triển các học thuyết chính trị, các quan điểm gắn liền với sự phát triển
của xã hội và nhà nước, thông qua cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa
các giai cấp. Chính sự đấu tranh đó đã làm nảy sinh các quan điểm chính trị.
Các quan điểm, các học thuyết chính trị có thể biểu hiện bằng các hình
thức khác nhau, nhưng đều phản ánh cô đọng nhất những quan điểm, tư tưởng

giai cấp. Bằng các quan điểm chính trị, các giai cấp thể hiện khát vọng bảo vệ
lợi ích của mình, trong đó lợi ích kinh tế giữ vai trò chính yếu.
Hệ tư tưởng không dừng lại ở quan điểm, học thuyết mà nó được công
khai tuyên truyền, giác ngộ, đấu tranh để bảo vệ lợi ích giai cấp. Hệ tư tưởng
có những chức năng xã hội hết sức quan trọng : Chức năng nhận thức, chức
năng định hướng giá trị; chức năng bảo vệ và định hướng của giai cấp biểu
hiện trong cuộc đấu tranh chống những tư tưởng xa lạ, thù địch; chức năng dự
báo và kế hoạch chương trình mục tiêu; chức năng liên kết và động viên giai
cấp. Các chức năng đó đã được hình thành và phát triển đầy đủ trong hệ tư
tưởng cộng sản.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định lấy "chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng, của
cách mạng Việt Nam"
1
1 2. VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY
1.2.1. Quan niệm về công tác tư tưởng của Đảng
Công tác tư tưởng là một trong những hoạt động quan trọng bậc nhất
của Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm xác lập, phát triển hệ tư tưởng
xã hội chủ nghĩa, hình thành niềm tin, định hướng giá trị xã hội đúng đắn, góp
phần xây dựng thế giới quan khoa học, tư tưởng, nhân cách, đạo đức, lối sống,
1
Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị (Khoá VII) ngày 18/12/1995.
6
tri thức cho con người, bảo đảm con người có hành động tích cực và chủ động
sáng tạo để thực hiện thắng lợi lý tưởng, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, trước
mắt là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Trình tự của công tác tư tưởng là xác lập, phát triển hệ tư tưởng xã hội
chủ nghĩa, định hướng thang giá trị xã hội, tạo lập niềm tin bằng hành động

tích cực, chủ động, sáng tạo nhằm thực hiện thắng lợi lý tưởng và mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội. Trong đó tạo lập lòng tin là quan trọng nhất.
Trong Đảng, công tác tư tưởng là hoạt động xây dựng Đảng về trí tuệ,
chính trị tư tưởng góp phán bảo đảm cho Đảng luôn luôn là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, đủ
năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của đất nước.
Dù ở khía cạnh nào, đối tượng của công tác tư tưởng vẫn là ý thức con
người, với những diễn biến phức tạp và phong phú. Công tác tư tưởng chỉ có
thể đạt được kết quả khi nó đáp ứng nhu cầu thiết thực của con người. Khi
giải quyết những mâu thuẫn trong nhận thức và hành động cần có sự khách
quan, khoa học, công bằng. Quan điểm mác xít và quan điểm của Đảng ta
khẳng định công tác tư tưởng phải coi trọng phương châm lý luận đi đôi với
thực tiễn, nói đi đôi với làm. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Thực tiễn không có
lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ
với thực tiễn và lý luận suông"
2
.
1.2.2. Vai trò của công tác tư tưởng trong xây dựng Đảng
Xây dựng Đảng về tư tưởng là một bộ phận quan trọng trong công tác
xây dựng Đảng. Cùng với xây dựng Đảng về chính trị và tổ chức, công tác tư
tưởng là nhân tố góp phần làm cho Đảng luôn luôn vững mạnh, giữ vững
được bản chất giai cấp và năng lực tổ chức thực hiện, gắn bó với quần chúng,
ngang tầm với nhiệm vụ lịch sử mà dân tộc giao phó.
Đảng ta là Đảng cầm quyền, có nghĩa vụ lãnh đạo toàn xã hội, do đó
Đảng không chỉ tiến hành công tác tư tưởng trong Đảng mà còn có trách
nhiệm lãnh đạo tư tưởng toàn xã hội. Khi chưa có chính quyền thì Đảng lãnh
đạo tư tưởng toàn xã hội đấu tranh giành chính quyền. Khi đã có chính quyền
2
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.491.
7

thì Đảng phải có trách nhiệm lãnh đạo tư tưởng toàn xã hội đảm bảo đưa
đường lối, chính sách của Đảng vào cuộc sống, thể chế hoá thành luật pháp.
Do vậy, công tác tư tưởng của Đảng không thể dội từ trên xuống mà còn phải
tiếp nhận từ dưới lên, kể cả bao gồm những ý kiến "trái tai" để làm giàu trí
tuệ cho Đảng, giúp Đảng hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy
luật khách quan, phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Vì vậy,
chúng ta không chỉ đưa nghị quyết vào cuộc sống mà còn phải đưa cuộc sống
vào nghị quyết, có như vậy mới chống được biểu hiện của chủ nghĩa quan liêu
xa rời quần chúng, chủ nghĩa giáo điều, duy ý trí.
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin thì tư tưởng con người có vai trò
hết sức quan trọng: “Là nhân tố có tác dụng quyết định làm cho con người hoạt
động đúng hay sai, thành công hay thất bại”
3
, hay: "Không có lý luận cách mạng
thì không có phong trào cách mạng"
4
, " Chỉ Đảng nào được một lý luận tiên
phong hướng dẫn thì có khả năng làm tròn vai trò chiến sỹ tiên phong”
5
.
Từ khi ra đời đến nay, trong quá trình lãnh đạo cách mạng qua các
thời kỳ, Đảng ta luôn coi trọng công tác tư tưởng, coi đó là hoạt động hàng
đầu, nhất là ba bộ phận cơ bản của nó: Công tác lý luận, công tác tuyên
truyền, công tác cổ động.
Các văn kiện của Đảng qua mọi thời kỳ cách mạng đã xác định nhiệm
vụ cho công tác tư tưởng và luôn đề ra khẩu hiệu phù hợp để tập hợp quần
chúng đấu tranh cho mục tiêu chung. Trên cơ sở mục tiêu làm cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong từng điều
kiện hoàn cảnh cụ thể, Đảng ta xác định nhiệm vụ riêng cho công tác tư tưởng
ở mỗi thời kỳ, nhưng đều nhằm phục vụ chung cho sự nghiệp của Đảng, của

dân tộc.
Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã đặt công tác tư tưởng lên vị trí hàng đầu
nhằm truyền bá sâu rộng cương lĩnh, đường lối của Đảng trong nhân dân, giác
ngộ quần chúng về chủ nghĩa cộng sản, về cương lĩnh cứu nước của Đảng. Vì
vậy, đã hình thành bộ phận chuyên lo công tác tư tưởng và cho ra đời các cơ
quan ngôn luận của Đảng. Đầu năm 1930, Ban cổ động và tuyên truyền của
Đảng được thành lập. Ngày 01/8/1930 trở thành ngày truyền thống của ngành
Tư tưởng - Văn hoá (nay là ngành Tuyên giáo).
3
Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Tập 2, Nxb. Thông tin xã hội, 1992, tr.53
4
V.I. Lênin., Tập 6. Nxb. Tiến bộ, Matxcova, 1978, tr. 30-32.
5
.V.I. Lênin., Tập 6. Nxb. Tiến bộ, Matxcova, 1978, tr. 30-32.
8
Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10/1930
đã thông qua Luận cương chính trị và Điều lệ đã ghi rõ nhiệm vụ của chi bộ
là: Tuyên truyền và cổ động cộng sản một cách có kế hoạch, tìm thêm và
huấn luyện đảng viên và công nông về mặt văn hoá và chính trị.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng xác định
đường lối chung của cách mạng nước ta là tiến hành đồng thời ba cuộc cách
mạng, trong đó có cách mạng tư tưởng và văn hoá. Nghị quyết Đại hội nêu rõ:
Giai đoạn cách mạng mới đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa cách mạng tư tưởng
văn hóa. Nhiệm vụ trung tâm của cuộc cách mạng này là xây dựng con người
mới, xây dựng nền văn hoá mới.
Đại hội VI của Đảng (1986) - Đại hội mở đầu thời kỳ đổi mới đất nước,
qua đó tạo cơ sở cho đổi mới về công tác tư tưởng. Đại hội lần thứ VII (1991)
đã khẳng định: "chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng và cách mạng
Việt Nam"

6
. Đại hội thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Đây là mốc đánh dấu bước tiến mới về tư duy lý luận
của Đảng và cũng đặt ra cho công tác tư tưởng của Đảng những nhiệm vụ mới.
Đại hội VIII (1996) chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Với sự ra đời của Hội đồng Lý luận Trung ương và các nghị
quyết của Trung ương, Bộ Chính trị về văn hoá văn nghệ, về tuyên truyền đối
ngoại, tuyên truyền miệng, về báo chí, xuất bản, về đấu tranh chống các quan
điểm sai trái bảo vệ Cương lĩnh, Điều lệ và đường lối của Đảng, tiến hành
cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng . . . , công tác tư tưởng của Đảng
được định hướng rõ hơn và được giao nhiệm vụ nặng nề và quan trọng hơn.
Công tác tư tưởng còn được trình bày cụ thể trong các nghị quyết của
các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, các chỉ thị, thông
báo, kết luận của Trung ương và Bộ Chính trị. Các văn kiện này chỉ rõ vai trò
tiên phong của công tác tư tưởng, lý luận như: Nghị quyết Trung ương 3
(khoá VII), Nghị quyết Trung ương 6 lần 2 (khoá VIII) nêu những nội dung
cơ bản của công tác tư tưởng phục vụ nhiệm vụ đổi mới, chỉnh đốn Đảng,
Nghị quyết 01 và 09 của Bộ Chính trị đề ra những định hướng cơ bản đối với
công tác lý luận nói riêng công tác tư tưởng nói chung. Nhiều chỉ thị của Ban
6
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII ) Nxb Chính trị Quốc gia,
2001. tr.516.
9
Bí thư, Bộ Chính trị, kết luận của Thường vụ Bộ Chính trị chỉ đạo những lĩnh
vực cụ thể của công tác tư tưởng như Chỉ thị 08 về công tác báo chí xuất bản,
Chỉ thị 11 về công tác thông tin đối ngoại, Thông báo số 71 về việc tăng
cường lãnh đạo đối với công tác tuyên truyền miệng, Kết luận của Hội nghị
Trung ương 3 về bảo vệ nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng.
Đại hội IX của Đảng (2001) đã đánh giá thành tựu 15 năm đổi mới, xác
định rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nghị quyết Đại

hội đã chỉ rõ công tác tư tưởng, công tác lý luận còn yếu kém bất cập và đề ra
nhiệm vụ: Toàn Đảng phải nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân,
chống tư tưởng cơ hội, thực dụng . . . đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham
nhũng, quan liêu làm trong sạch đội ngũ cán bộ đảng viên. Hội nghị Trung
ương 5 (khoá IX) đã ra nghị quyết “Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư
tưởng, lý luận trong tình hình mới
7
".
Đại hội X của Đảng ( 2006), đã đánh giá tình hình công tác tư tưởng
trong tình hình hình mới như sau: "Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư
tưởng được coi trọng. Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX) về nhiệm vụ chủ
yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới, đáp ứng yêu cầu thực
tiễn, đang đi vào cuộc sống. Đã coi trọng và đẩy mạnh hơn công tác nghiên
cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận do
thực tiễn công cuộc đổi mới đặt ra. Đã từng bước đổi mới công tác giáo dục
tư tưởng chính trị, nghiên cứu, học lập các nghị quyết của Đảng, tuyên truyền
giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Coi trọng hơn công
tác tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, nêu gương người tốt, việc tốt, phê phán những biểu hiện tiêu cực…
Công tác tư tưởng đã góp phần nâng cao nhận thức, tính tích cực của cán bộ,
đảng viên, nâng cao lòng tin của nhân dân vào đường lối đổi mới, tạo sự nhất
trí trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc XI
8
, Đảng ta đã đánh giá công tác tuyên
truyền, giáo dục chính trị tư tưởng có nhiều đổi mới. Coi trọng hơn nhiệm vụ
xây dựng đạo đức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; tập trung chỉ đạo có
7
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội IX, X) Nxb Chính trị Quốc gia, 2001.

tr.516, 2006. 375 tr
8
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội XI,) Nxb Chính trị Quốc gia, 2011.
10
hiệu quả bước đầu cuộc vận động" Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh", gắn với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chủ động hơn
trong đấu tranh chống "Diễn biến hoà bình ", bác bỏ các quan điểm sai trái,
luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch. Các hoạt động thông tin, báo
chí, xuất bản được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo; chú trọng ngăn ngừa, khắc
phục những lệch lạc, nhất là biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích. Công tác
thông tin đối ngoại được đẩy mạnh. Đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân
phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển
vọng phát triển của đất nước. Tư tưởng tích cực vẫn là xu hướng chủ đạo
trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng còn
nhiều hạn chế, chậm được khắc phục. Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về Đảng cầm quyền, về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tính chiến đấu,
tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng còn hạn chế; thiếu sắc bén
trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn "Diễn biến hoà bình ". Tình trạng
suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những
tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn
biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý,
điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với
Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước. Cuộc vận động
" Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", chưa thực sự đi vào
chiều sâu, ở một số nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, làm theo
chưa đạt yêu cầu.
1.2.3. Vai trò của công tác tư tưởng đối với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ chủ nghĩa xã hội Việt Nam

Đảng ta là Đảng cầm quyền. Theo Hiến pháp năm 1992 thì Đảng cộng
sản Việt Nam có nhiệm vụ lãnh đạo toàn diện xã hội. Do đó, Đảng chẳng
những tiến hành công tác tư tưởng trong Đảng mà còn phải lãnh đạo tư tưởng
toàn xã hội. C.Mác - vị lãnh tụ thiên tài, người thầy của giai cấp vô sản thế
giới đã khẳng định: "Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế
được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng
11
lực lượng vật chất. Nhưng lý luận cũng có thể trở thành vật chất một khi nó
đã thâm nhập vào quần chúng”
9
.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin,
đường lối của Đảng cho quần chúng, giáo dục giác ngộ quần chúng, đưa chủ
nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng. Công tác tư tưởng có trách nhiệm
thu thập, kết tinh trí tuệ của toàn xã hội để làm giàu trí tuệ cho Đảng, phục vụ
việc hoạch định đường lối, chính sách cho phù hợp với quy luật khách quan,
đặc điểm nước ta và nguyện vọng chính đáng của nhân dân lao động.
Công tác tư tưởng trực tiếp tham gia xây dựng chuẩn mực, tổ chức
tuyên truyền, giáo dục thực hiện theo những nguyên tắc về con người mới,
nền văn hoá mới Việt Nam phù hợp với từng thời kỳ cách mạng, định hướng
chuẩn mực con người mới, nền văn hoá mới Việt Nam tương lai.
Công tác tư tưởng còn là vũ khí sắc bén tiến công lại sự chống phá của
các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ vững chắc hệ tư tưởng và đường lối của
Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của đất nước, bảo đảm ổn
định chính trị, phát triển kính tế - xã hội trong quá trình đổi mới, mang lại
quyền lợi chân chính cho nhân dân, trước hết là người lao động.
Trong giai đoạn hiện nay, cuộc đấu tranh giữa hai chế độ xã hội: Tư
bản và cộng sản, giữa hai hệ tư tưởng: tư sản và công nhân đang diễn ra quyết
liệt. Các thế lực thù địch và phản cách mạng đang ra sức chống phá chúng ta
trên mọi lĩnh vực, trong đó chúng coi trọng lĩnh vực chính trị, tư tưởng, điều

này chúng đã sử dụng thành công ở Liên Xô và Đông Âu. Chúng đang tập
trung chĩa mũi nhọn vào các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, mà Việt Nam là
một trọng điểm trong chiến lược "Diễn biến hoà bình".
Về chính trị tư tưởng, chúng thâm nhập phá hoại hòng gây biến động
chính trị, đẩy mạnh chiến tranh tâm lý, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, hạ
uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm suy yếu Đảng ta, phê phán mô hình xã
hội chủ nghĩa và xuyên tạc bản chất chủ nghĩa xã hội.
Chúng sử dụng bọn phản động lưu vong, tổ chức toạ đàm, hội thảo đưa
ra những quan điểm, tư tưởng lệch lạc, sử dụng đài Châu Á tự do, lén lút đưa
các ấn phẩm văn hoá phản động, bằng nhiều hình thức, thủ đoạn chống phá
cách mạng nước ta. Chúng xác định mục tiêu: "Phủ nhận chủ nghĩa Mác-
9
C.Mác Ăng ghen tuyển tập, tập 1, NXB Sự thật, Hà Nội, 1980, tr.25
12
Lênin, đánh vào lòng dân làm một phương hướng, giảm sút ý chí chiến đấu,
chia rẽ quần chúng nhân dân với Đảng cộng sản. Từ đó tập hợp lực lượng
thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, cùng với cơ chế thị trường tự
do, tư nhân hoá tài sản, tài nguyên, đưa nước ta vào quỹ đạo tư bản chủ
nghĩa”
10
.
Chính vì thế mà trên lĩnh vực tư tưởng cần tuyên truyền, giáo dục để
khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bản chất tốt đẹp
của chủ nghĩa xã hội, con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa
chọn, củng cố lòng tin, quyết tâm xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Về vị trí của công tác tư tưởng, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười viết:
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, hơn nửa thế kỷ qua và trong
sự nghiệp đổi mới ngày nay, Đảng ta luôn luôn xác định vị trí hàng đầu của
công tác tư tưởng, văn hoá và công tác tư tưởng, văn hoá lúc bình thường đã

quan trọng, trước bước ngoặt của cách mạng nó càng quan trọng.
Có hai điểm đáng lưu ý khi nhìn nhận vị trí quan trọng của công tác tư
tưởng là: Cần nhận thức đúng đắn vị trí của công tác tư tưởng, chống khuynh
hướng coi nhẹ, hạ thấp vai trò của nó. Song đồng thời tránh cả khuynh hướng
cường điệu hoá nó, coi là cứ làm tốt công tác tư tưởng thì mọi việc đều xong.
Cần chú ý rằng công tác tư tưởng phải được kết hợp với sức mạnh của tổ
chức, với việc thực thi những chính sách đúng đắn, với những cơ sở vật chất
kỹ thuật nhất định thì mới trở thành sức mạnh to lớn. Công tác tư tưởng một
mặt góp phần vào thành công của sự nghiệp cách mạng, song chính những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng của sự nghiệp cách mạng dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã tạo thuận lợi cơ bản, là động lực cho công tác tư tưởng.
Tóm lại, tư tưởng là một hình thức tồn tại của ý thức xã hội, là kết quả
của quá trình nhận thức hiện thực khách quan, trở thành kinh nghiệm và sự
hiểu biết trong tâm trí con người. Hệ tư tưởng là những quan điểm, tư tưởng
được con người tư duy tích cực, tự giác, hệ thống hoá thành lý luận, học
thuyết chính trị, phản ánh tồn tại xã hội và đại diện cho một giai cấp nhất
định. Đảng cộng sản Việt Nam xác định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng, của
1
0
Tổng cục II - Bộ Quốc phòng, chiến lược diễn biến hòa bình, 1993, tr.140
13
cách mạng Việt Nam và công tác tư tưởng là hoạt động quan trọng bậc nhất
của Đảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đề ra những định
hướng của công tác tư tưởng trong thời gian tới là đẩy mạnh xây dựng, chỉnh
đốn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu
quả công tác cán bộ, kiểm tra, giám sát và tư tưởng; thường xuyên học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao

chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng.
14
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG BỘ
HUYỆN BẮC MÊ, TỈNH HÀ GIANG GIAI ĐOẠN (2005 -2010)
2.l . KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN BẮC MÊ, TỈNH HÀ GIANG
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, xã hội, dân cư
* Đặc điểm tự nhiên.
Bắc Mê là một huyện miền núi của tỉnh Hà Giang, có 13 xã, thị trấn
với diện tích 85.258,96 ha, phía Bắc giáp huyện Yên Minh tỉnh Hà Giang,
phía Nam giáp huyện Na Hang tỉnh Tuyên Quang, phía Đông giáp huyện Bảo
Lâm tỉnh Cao Bằng, phía Tây giáp thành phố Hà Giang và huyện Vị Xuyên.
Huyện Bắc Mê thuộc vùng núi trung bình trong tỉnh, có độ cao trung
bình từ 200 - 700 m so với mặt nước biển, địa hình khá phức tạp. Có hai dạng
địa hình chính: Vùng núi cao, vùng đồi núi thấp. Nằm trong vùng chuyển tiếp
giữa vùng núi Đông Bắc với vùng đồng bằng Bắc Bộ, thời tiết của huyện
mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều. Thời tiết
trong năm chia thành 2 mùa rõ rệt: Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4
năm sau, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10. Nhiệt độ trung bình trong
năm là 22,3
0
C, trung bình tháng cao nhất là 32,4
0
C, nhiệt độ trung bình tháng
thấp nhất 12,6
0
C, sự chênh lệch nhiệt độ giữa tháng cao nhất và tháng thấp
nhất là 19,8
0

C. Mùa đông thời tiết lạnh, khô hanh, có năm nhiệt độ xuống 5 -
7
0
C, các xã vùng cao có khí hậu lạnh hơn so với các xã vùng thấp. Mùa mưa
thời tiết nóng ẩm, lượng mưa trung bình lớn, chiếm 80% lượng mưa cả năm,
trong đó lượng mưa lớn nhất ở các tháng 6,7,8.
* Đặc điểm xã hội, dân cư
Bắc Mê là tên gọi mới của địa phương, là mảnh đất có truyền thống văn
hóa lâu đời. Nhân dân Bắc Mê có tinh thần yêu nước nồng nàn, có truyền
thống chống giặc ngoại xâm oanh liệt. Trong chặng đường dài dựng nước và
giữ nước, vùng đất này mang nhiều tên gọi khác nhau nhưng đều thuộc một
phần của Châu Vị Xuyên thuộc Trấn Tuyên Quang của Nhà nước Đại Việt.
Thời Pháp thuộc, Bắc Mê được đặt dưới chế độ quân quản, nằm trong vùng
kiểm soát của đạo quân binh thứ 3. Ngày 20/8/1891, tỉnh Hà Giang được
thành lập, Bắc Mê có 2 Tổng của Châu Vị Xuyên với tên gọi là Tổng Yên
15
Phú và Tổng Yên Định. Cách mạng tháng 8/1945 thành công, tiểu khu Bắc
Mê được thành lập gồm 7 xã với gần 6.000 dân( thuộc huyện Vị Xuyên). Đến
năm 1962 phát triển thành 10 xã, trong những năm đầu của thập kỷ 80 do tình
hình cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc có nhiều diễn biến phức tạp,
huyện Vị Xuyên trở thành địa bàn xung yếu của tỉnh Hà Giang. Tiểu khu Bắc
Mê lúc đó trở thành hậu phương an toàn của huyện, có nhiệm vụ đón nhận
nhân dân từ các xã giáp biên chuyển đến để ổn định đời sống và phát triển sản
xuất, đồng thời sẵn sàng chi viện sức người, sức của cho tuyến trước, trước
những yêu cầu thực tế, bức thiết của địa phương đến năm 1984, huyện Bắc
Mê chính thức được thành lập.
Theo thống kê năm 2010, dân số huyện Bắc Mê là 47.900 người, số
người trong độ tuổi lao động là 22.981 người. Bắc Mê địa bàn cư trú của 15
dân tộc khác nhau: Dao, Tày, Mông, Kinh chiếm đa số, còn lại là các dân tộc
thiểu số. Các dân tộc thiểu số sống tập trung ở các xã: (Phiêng Luông, Yên

Cường, Giáp Trung ). Nhìn chung người dân Bắc Mê cần cù, chịu khó, sống
giản dị, quý trọng tình nghĩa, song bên cạnh những điểm chung đó thì mỗi
dân tộc lại có phong tục, tập quán khác nhau.
Bắc Mê là vùng đất có nhiều dân tộc đến cư trú, vì vậy kết cấu tộc người
của huyện Bắc Mê tương đối đa dạng, tính đan xen của tộc người trong cư trú
thể hiện tương đối rõ nét. Các đặc điểm tự nhiên, xã hội và dân cư trên đây
cũng phần nào tác động đến tư tưởng và công- tác tư tưởng của Đảng bộ huyện.
2.1.2. Những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn (2005 - 2010)
Phát huy truyền thống của quê hương Bắc Mê anh hùng, với tinh thần
tích cực, chủ động, sáng tạo tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo, trong những năm qua, Đảng bộ và nhân dân các dân
tộc Bắc Mê đã ra sức thi đua, nỗ lực vượt qua thử thách, thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chính trị do Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VII đề ra.
* Về phát triển kinh tế
Trong nhiệm kỳ vừa qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn về thời tiết và
dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm, tình hình biến động giá cả các mặt hàng
phục vụ sản xuất và đời sống, nhưng cấp uỷ, chính quyền huyện đã lãnh đạo
đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn sản xuất với thị trường, phát triển
nông nghiệp gắn với phát triển nông thôn mới, gắn công nghiệp hoá với thực
16
hiện dân chủ hoá và nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực ở nông thôn, đó là cơ
sở để giữ vững sự ổn định chính trị, xã hội và phát triển kinh tế ở địa phương.
Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 16%, cơ cấu
kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, trong đó ngành nông - lâm nghiệp-
thủy sản chiếm 38,6%, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và xây dựng
33,6%, thương mại - dịch vụ 27,8%.
- Nông nghiệp
Phát triển khá toàn diện, góp phần quan trọng trong việc xoá đói, giảm
nghèo. Do làm tốt công tác đầu tư cho thuỷ lợi, điện, chuyển giao khoa học kỹ
thuật và chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, đưa giống mới vào sản xuất, năng suất

lúa bình quân đạt 54,7 tạ/ha. Tổng sản lượng lương thực cây có hạt bình quân
hàng năm đạt 26.026 tấn, lương thực bình quân đầu người 550kg/người/năm.
Diện tích cây chè 1.013,4 ha ( trong đó diện tích đã cho thu hoạch 548,6 ha,
sản lượng 872,27 tấn ). Hiện nay, huyện đã hoàn thành kế hoạch phủ xanh đất
trống, đồi núi trọc. Công tác quản lý bảo vệ rừng thường xuyên được tăng
cường, toàn huyện có 13 ban chỉ huy phòng chống cháy rừng ở các xã và lâm
trường.
Ngành chăn nuôi có tốc độ phát triển nhanh và trở thành một ngành
chính của huyện. Huyện đã chỉ đạo các xã, thị trấn triển khai thực hiện tốt đề
án chăn nuôi trâu, bò hàng hóa, mô hình nuôi cá lồng đối với các xã dọc bờ
sông Gâm. Năm 2010 đàn trâu, bò toàn huyện có 28.253 con, đàn lợn có
33.250 con, đàn gia cầm có 2,5 triệu con. Công tác phòng, chống dịch bệnh
trên đàn gia súc, gia cầm thường xuyên được quan tâm chú ý, chính vì vậy
trong những năm vừa qua trên địa bàn huyện không có những dịch bệnh lớn
xẩy ra.
- Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản
Công nghiệp có bước phát triển mạnh, đặc biệt là lĩnh vực thăm dò,
khai thác và chế biến khoáng sản, đến nay đã cấp phép cho 9 doanh nghiệp
thăm dò và khai thác 13 Mỏ khoáng sản các loại; quy hoạch cụm công nghiệp
Minh Sơn, Giáp Trung, Yên Phú. Thực hiện chủ trương đưa máy móc nông
cụ vào sản xuất, trong năm 2010 huyện đã hỗ trợ cho 30 hộ gia đình mua máy
cày, máy bừa phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Công tác đầu tư xây dựng cơ
bản được huyện quan tâm, việc thu hút và tổ chức sử dụng lồng ghép các
17
chương trình dự án tiếp tục đạt nhiều kết quả. Trong 5 năm qua thực hiện
nâng cấp được 4 tuyến đường liên xã, dài 58 km; đổ bê tông 8,5 km đường
liên xã; mở mới 154 km đường liên thôn, đến nay có 10/13 xã tuyến đường
đến trung tâm các xã được rải nhựa. Đầu tư xây dựng mới được 3 trụ sở Ủy
ban nhân dân xã, đến nay có 13/13 xã, thị trấn có trụ sở làm việc kiên cố, xây
dựng mới 58 trụ sở thôn, 162 phòng học kiên cố, 117 phòng công vụ giáo

viên, xây dựng 136 công trình thủy nông, tạo điều kiện cho sản xuất nông
nghiệp phát triển. Hạ tầng đô thị được tăng cường, hạ tầng thiết yếu của nông
thôn được quan tâm đầu tư xây dựng. Việc huy động vốn trong nhân dân ngày
càng phát huy được hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Huyện đã đầu tư nâng cấp các công trình như: Trụ sở làm việc của Huyện uỷ,
Hội trường Uỷ ban nhân dân huyện, Trụ sở làm việc Uỷ ban nhân dân huyện,
đầu tư nâng cấp và tôn tạo khu di tích lịch sử Căng Bắc Mê
* Tài chính, thương mại, dịch vụ, du lịch
Trong những năm qua việc thu ngân sách trên địa bàn huyện đều đạt và
vượt kế hoạch đề ra. Riêng năm 2010 tổng thu ngân sách thực hiện 11,6 tỷ
đồng. Các hoạt động về thương mại - dịch vụ được củng cố phát triển, tốc độ
tăng trưởng bình quân hàng năm đều đạt từ 13% - 15%. Hệ thống thương mại -
dịch vụ của các thành phần kinh tế phát triển ở hầu hết các xã, thị trấn. Các loại
hàng hoá phong phú, đa dạng đã góp phần phục vụ tốt nhu cầu sản xuất và tiêu
dùng của nhân dân. Thông tin - truyền thông phát triên mạnh, tỷ lệ phủ sóng
phát thanh 100%, tỷ lệ phủ sóng truyền hình đạt 96,7%; 100% trung tâm các xã
được phủ sóng điện thoại di động. Hoạt động du lịch đã có bước phát triển, xây
dựng 3 làng văn hóa du lịch cộng đồng, chú trọng đầu tư các bến thuyền, nhà
hàng, khách sạn, nhà nghỉ đáp ứng được yêu cầu của khách du lịch.
* Về phát triển giáo dục, y tế, văn hoá - xã hội
Trong những năm vừa qua, công tác giáo dục - đào tạo của huyện có
nhiều chuyển biến tích cực. Quy mô trường lớp học được mở rộng, cơ sở vật
chất trang thiết bị dạy và học được tăng cường củng cố. Tiếp tục thực hiện
sâu rộng Cuộc vận động "Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành
tích trong ngành giáo dục". Chất lượng học tập của học sinh từng bước được
nâng lên. Tỷ lệ huy động trẻ từ 3 - 5 tuổi đến trường đạt 58%; tỷ lệ huy động
trẻ từ 6-14 tuổi đến trường đạt 98,5%. Tỷ lệ học sinh thi đỗ tốt nghiệp các cấp
18
học đều đạt khá cao, năm học 2009 - 2010, tỷ lệ tốt nghiệp bậc tiểu học đạt
99,6%; bậc trung học cơ sở đạt 98,7 %; tỷ lệ thi đỗ tốt nghiệp bậc trung học

phổ thông đạt 93,7 %. Công tác đào tạo, nâng cao nguồn nhân lực được coi
trọng, huyện đã thành lập Trung tâm dạy nghề, trong hai năm vừa qua đã tổ
chức đào tạo nghề ngắn hạn cho 2.138 người, tư vấn giới thiệu việc làm cho
660 lao động. Công tác xã hội hoá giáo dục đã được các cấp, các ngành và
nhân dân quan tâm; các xã, thị trấn, cơ quan đã xây dựng được hội, chi hội
khuyến học và quỹ khuyến học.
Công tác y tế được tăng cường, mạng lưới y tế được duy trì ổn định ở
100% thôn, bản, khu phố; đội ngũ cán bộ y tế cơ sở thường xuyên được đào
tạo, bồi dưỡng, tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ; tỷ lệ trạm y tế xã, thị trấn
có bác sỹ đạt 77,5%. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân luôn được quan
tâm, cơ sở vật chất từ huyện đến cơ sở được đầu tư, đáp ứng nhu cầu khám
chữa bệnh cho cán bộ và nhân dân, có 13/13 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế.
Huyện đã thường xuyên làm tốt công tác y tế dự phòng và vệ sinh an toàn
thực phẩm nên trong những năm qua không có dịch bệnh lớn xảy ra. Tỷ lệ
phát triển dân số tự nhiên là 1,2 %. Công tác phòng chống suy dinh dưỡng
cho trẻ em được thực hiện có hiệu quả, đã giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng
29,3% năm 2005 xuống còn 26,5% năm 2010. Công tác bảo vệ, giáo dục,
chăm sóc trẻ em thường xuyên được quan tâm đã góp phần xây dựng gia đình
hạnh phúc, xã hội ổn định và phát triển.
Hoạt động văn hoá thông tin tiếp tục được duy trì và phát triển. Phong
trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá " và việc thực hiện nếp
sống văn minh trong việc cuới, việc tang và lễ hội được các tầng lớp nhân dân
đồng tình hưởng ứng. Năm 2010, toàn huyện có 105 làng, bản, cơ quan văn
hoá và công nhận 7.412 gia đình văn hoá. Phong trào văn nghệ, thể thao phát
triển mạnh từ huyện đến cơ sở, hàng năm tổ chức thi đấu và tham gia các
cuộc thi của tỉnh tổ chức đều đạt giải. Hoạt động của Đài Truyền thanh -
Truyền hình huyện và hệ thống đài truyền thanh cơ sở được củng cố, nâng
cấp và duy trì hoạt động. Công tác tuyên truyền đã hướng về cơ sở, kịp thời
tuyên truyền phổ biến các nhiệm vụ chính trị, các điển hình tiên tiến, cổ vũ
động viên các tầng lớp nhân dân hăng hái thi đua thực hiện các nhiệm vụ

chính trị ở địa phương. Thực hiện tốt chế độ chính sách với các đối tượng
thương binh, gia đình liệt sỹ, người có công đảm bảo đầy đủ và kịp thời.
19
* Về quốc phòng - an ninh
Công tác quốc phòng được củng cố, luôn gắn nội dung kinh tế với quốc
phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân
dân. Thực hiện tốt nhiệm vụ “Xây dựng khu vực phòng thủ huyện”, kế hoạch
chống “diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Tăng
cường giáo dục chính trị tư tưởng, huấn luyện cho lực lượng đã bị động viên,
dân quân tự vệ nhằm đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Hàng năm, huyện
đều hoàn thành tốt kế hoạch tuyển quân do cấp trên giao.
An ninh trật tự an toàn xã hội trên địa bàn luôn được giữ vững và ổn
định. Các đơn thư khiếu nại, tố cáo, những cơ sở có vấn đề nổi cộm, được
phân loại, thụ lý, tập trung giải quyết dứt điểm tại chỗ, không để phát sinh
thành "điểm nóng".
Các ngành trong khối nội chính, phối kết hợp điều tra và đưa ra xét xử
nghiêm minh, kịp thời các vụ án hình sự, đảm bảo đúng người, đúng tội
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật trong mọi tầng lớp nhân
dân, nhất là thanh thiếu niên. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm sát, điều
tra, góp phần đảm bảo trật tự kỷ cương xã hội ở địa phương, củng cố lòng tin
của quần chúng với Đảng, chính quyền.
*Hoạt động của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân
dân
Trong những năm qua, Huyện uỷ định hướng bằng những chủ trương
để Hội đồng nhân dân huyện xây dựng chương trình và tổ chức triển khai.
Thực hiện chủ trương cải cách hành chính Nhà nước, hoạt động của Hội đồng
nhân dân từ huyện đến cơ sở được đổi mới cả nội dung và hình thức. Hội
đồng nhân dân huyện đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ do pháp luật
quy định, việc tiếp xúc cử tri, tổ chức các kỳ họp, các cuộc giám sát đảm bảo
đúng luật, chất lượng và hiệu quả từng bước được nâng lên. Các Nghị quyết

của các kỳ họp hội đồng nhân dân được Uỷ ban nhân dân huyện chỉ đạo thực
hiện nghiêm túc, có hiệu quả, nhanh chóng đi vào cuộc sống của nhân dân,
tạo sự chuyển biến tích cực về kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện. Các đại
biểu hội đồng nhân dân thường xuyên tiếp xúc và lắng nghe ý kiến, kiến nghị
của cử tri và kịp thời giải đáp những nguyện vọng, lợi ích chính đáng của
nhân dân.
20

×