Mục lục
Trang
Phần mở đầu 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
4. Đối tượng nghiên cứu 3
5. Phương pháp nghiên cứu 4
Phần nội dung 5
Chương 1. Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của việc quản lý và chỉ đạo giáo dục đạo đức học
sinh trong trường THPT 5
1.1. Một số cơ sở lý luận của việc quản lý và chỉ đạo … 5
1.2. Một số cơ sở pháp lý của việc quản lý và chỉ đạo … 9
Chương 2. Thực trạng của việc quản lý và chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức
của học sinh trường THPT Dân Lập Xuân Mai, Huyện Chương Mỹ, Tỉnh Hà Tây trong giai
đoạn hiện nay 11
2.1. Một số nét về trường THPT Dân Lập Xuân Mai, Huyện Chương Mỹ, Tỉnh Hà Tây 11
2.2. Những tồn tại, khó khăn 13
2.3. Một số vấn đề đặt ra trong quản lý và chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức
học sinh ở trường THPT Dân Lập Xuân Mai, Huyện Chương Mỹ, Tỉnh Hà Tây trong giai đoạn
hiên nay 13
Chương 3. Một số biện pháp quản lý và chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức
học sinh ở trường THPT Dân Lập Xuân Mai, Huyện Chương Mỹ, Tỉnh Hà Tây 14
3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng trong trường học 14
3.2. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của đội ngũ giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm trong
việc giáo dục… 14
3.3. Phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Hội liên hiệp thanh
niên 18
3.4. Đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thống 19
3.5. Phát huy hoạt động tự quản của tập thể học sinh 20
3.6. Kết hợp giữa nhà trường - gia đình - xã hội để giáo dục đạo đức học sinh 21
Phần kết luận và kiến nghị 23
1. Một số kết luận 23
2. Một số kiến nghị - đề xuất 23
Phần tài liệu tham khảo 25
phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài:
Nền giáo dục nước ta hiện nay đã và đang đổi mới để phát triển, từng bước thay đổi rõ nét,
chúng ta đang chứng kiến những đổi hay đó và thực hiện từng bước một hiệu quả cao.
Ngay từ thủa sơ khai của đất nước, các bậc tiền nhân đã nói : "Thiên tài là nguyên khí của quốc
gia, nguyên khí thịnh thì đất nước thịnh, nguyên khí suy thì đất nước suy". Có thể nói lịch sử
phát triển của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thấy rằng: giáo dục và đào tạo có vai trò
hết sức quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội.
ở nước ta, đang diễn ra công cuộc đổi mới sâu sắc trong phạm vi toàn xã hội. sự nghiệp giáo
dục đang được coi trọng là "Quốc sách hàng đầu" (Nghị quyết Đại hội Đảng khoá VIII). Công
tác giáo dục tư tưởng, đạo đức cho học sinh phổ thông cần được cải tiến và đẩy mạnh, góp
phần tích cực vào sự nghiệp giáo dục toàn diện, hài hoà, đáp ứng yêu cầu mới của xã hội.
Trong văn kiện Hội ghị lần 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII khẳng định rằng:
"Muốn tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục và đào
tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững, để thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Phát triển nguồn lực
con người là phát triển đức và tài"
Đương thời Hồ Chủ Tịch luôn quan tâm đến giáo dục lý tưởng, đạo đức cho thế hệ trẻ. Trong di
chúc của Người về giáo dục thanh niên Bác chỉ rõ : "Bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho đời sau
là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết", và "….thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc
đều hăng hái xung phong không ngại khó khăn, có chí tiến thủ, Đảng cần bồi dưỡng họ thành
những người kế tục sự nghiệp cách mạng vừa hồng vừa chuyên".
Con người ở thời đại nào, ở xã hội nào cũng là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, con người là động
lực của mọi sự phát triển xã hội. Con người càng có nhân cách cao đẹp thì sự tác động của con
người đến xã hội đó càng to lớn. Do đó không thể xem nhẹ vai trò của giáo dục trong sự phát
triển của xã hội. Trong các mặt Đức, Trí, Thể, Mỹ, Lao, Quân, Hôn, Môi, Si, Ma, Giao của giáo
dục, giáo dục Đạo đức bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu “Tiên học lễ, hậu học văn” "Được
xem là nền tảng, gốc rễ để tạo ra nội lực tiềm tàng vững chắc cho các mặt giáo dục khác".
Trong điều kiện đời sống hiện nay, xã hội có những bước chuyển biến không ngừng, sâu rộng
và to lớn về mọi mặt. Tuy nhiên cái gì cũng có mặt trái của nó, mặt trái của cơ chế thị trường
đang tác động rất mạnh đến tư rưởng và lối sống của một bộ dân cư, trong đó số lượng thanh
niên, thiếu niên là rất lớn, các tệ nạn xã hội đang xâm nhập vào các trường học. Vấn đề đặt ra là
giáo dục thế hệ trẻ một cách toàn diện, đặc biệt là tăng cường giáo dục lý tưởng, đạo đức, giáo
dục những giá trị nhân văn, giá trị đạo đức để thực hiện nhiệm vụ. Trong văn kiện Hội nghị
Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2 khoá VIII đã nêu rõ: "Xây dựng những con người
và thế hệ trẻ thiết tha, gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, có đạo đức trong sáng, có
ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Qua những năm thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, chúng ta đã đạt được nhiều những
thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội, tuy vậy về mặt tư tưởng, đạo đức có phần bị giảm sút. Đặc
biệt là thế hệ trẻ, một số bộ phận thanh niên, thiếu niên, học sinh, sinh viên sống không có lý
tưởng, không có mục đích, sống chạy theo các nhu cầu tầm thường, ngại cống hiến, ngại khó
khăn, sống thích hưởng thụ, sống không có niềm tin, hoang mang, sống buông thả. Đánh giá
thực trạng này, trong văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng 2 khóa VIII nhấn
mạnh: "Đặc biệt đáng lo ngài là trong một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái về
đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì
tương lai bản thân và đất nước"
Trước tình hình và thực trạng này trong những năm qua đã được các cấp các ngành, đăc biệt là
những người làm giáo dục quan tâm, đầu tư giáo dục toàn diện, nhưng vấn đề giáo dục lý
tưởng đạo đức có những lúc, những nơi nào đó còn bị xem nhẹ, chưa được đầu tư .
Đối với trường THPT Dân Lập Xuân Mai, Huyện Chương Mỹ, Tỉnh Hà Tây trong những năm
gần đây có nhiều khởi sắc, đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ trong giáo dục toàn diện đó là
nhờ vào kết quả của giáo dục kỷ cương, nề nếp đặc biệt là giáo dục đạo đức cho học sinh. Bản
thân tôi trước đây là một cán bộ Đoàn “Bí thư Đoàn trường”, nay với cương vị là Phó hiệu
trưởng phụ trách chuyên môn, công tác thi đua của nhà trường ... Tôi tự thấy vai trò giáo dục
đạo đức, lý tưởng, hoài bão cho học sinh luôn luôn phải được coi trọng và có nhiều giải pháp
thích hợp từ đó làm nền tảng cho giáo dục toàn diện ở trường THPT nói chung và trường
THPT Dân Lập Xuân Mai , Huyện Chương Mỹ, Tỉnh Hà Tây nói riêng.
Xuất phát từ những lý do khách quan và lý do chủ quan như đã phân tích ở trên, tôi mạnh dạn
lựa chọn đề tài: "Một số biện pháp quản lý và chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
đạo đức học sinh ở trường THPT Dân Lập Xuân Mai, Huyện Chương Mỹ, Tỉnh Hà Tây
trong giai đoạn hiện nay ".
2. Mục đích nghiên cứu:
Đưa ra một số biện pháp quản lý và chỉ đạo để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học
sinh trường THPT Dân Lập Xuân Mai, Huyện Chương Mỹ, Tỉnh Hà Tây để đáp ứng tạo ra con
người mới phù hợp với yêu cầu của đất nước trong giai đoạn phát triển mới.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
2
3.1 Xác định cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của một số biện pháp quản lý và chỉ đạo nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh trong trường Dân Lập Xuân Mai, Huyện Chương
Mỹ, Tỉnh Hà Tây.
3.2 Phân tích, đánh giá thực trạng đạo đức học sinh ở trường THPT Dân Lập Xuân Mai , Huyện
Chương Mỹ, Tỉnh Hà Tây.
3.3 Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học sinh ở
trường THPT Dân Lập Xuân Mai, Huyện Chương Mỹ, Tỉnh Hà Tây.
4. Đối tượng nghiên cứu:
4.1 Nghiên cứu thực tế đối tượng học sinh của trường THPT Dân Lập Xuân Mai, Huyện
Chương Mỹ, Tỉnh Hà Tây.
4.2 Từ thực trạng, nghiên cứu những biện pháp chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo
đức học sinh ở trường THPT Dân Lập Xuân Mai, Huyện Chương Mỹ, Tỉnh Hà Tây.
5. Phương pháp nghiên cứu:
5.1 Nghiên cứu các tài liệu của Đảng về giáo dục - đào tạo, của Bộ giáo dục và đào tạo, các
ngành có liên quan.
5.2 Nghiên cứu các giáo trình, tài liệu, các bài giảng của giảng viên, các kinh nghiệm thực tiễn
về giáo dục đạo đức học sinh được tiếp thu trong quá trình học tập tại học viện quản lý giáo
dục.
5.3 Khảo sát thực tế, điều tra thực tế, so sánh, thống kê chất lượng giáo dục đạo đức trong 3
năm học 2004-2005, 2005-2006, 2006-2007 của trường THPT Dân Lập Xuân Mai, Huyện
Chương Mỹ, Tỉnh Hà Tây.
phần nội dung
Chương I
Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của việc quản lý và chỉ đạo
giáo dục đạo đức học sinh trong trường THPT
1.1 Một số cơ sở lý luận của việc chỉ đạo giáo dục đạo đức học sinh trong trường THPT.
Xét về góc độ tâm lý lứa tuổi của độ tuổi theo học ở trường THPT:
Theo tổ chức Y tế thế giới WHO độ tuổi vị thành niên có từ 10 đến 19 tuổi, ở Việt Nam quy
định độ tuổi vị thành niên từ 10 đến 18 tuổi, theo điều tra tỷ lệ thanh niên ở nước ta năm 1999
chiếm 23% dân số, trong đó 81% đang theo học. Như vậy học sinh THPT là lứa tuổi cuối lứa
tuổi vị thành niên, giai đoạn này các em phát triển mạnh về thể chất, sinh lý. Là thời kỳ chuyển
tiếp từ trẻ em sang người lớn “muốn làm người lớn nhưng tiếc đời trẻ con”, các em luôn có xu
hướng tự khẳng định mình, có ý thức vươn lên làm chủ bản thân. ở giai đoạn phát triển này sự
chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của người lớn làm các em cảm thấy rất khó chịu, bực bội và rất dễ
nổi nóng. Trong lứa tuổi này các em muốn tìm tòi, phát hiện khám phá, tìm hiểu những điều
chưa biết của cuộc sống, các em muốn có quyền tự quyết định trong các công việc và việc làm
của mình và muốn không bị sự ràng buộc của gia đình, bố mẹ và các người lớn tuổi.
Xét về góc độ xã hội trong giai đoạn hiện nay:
ở lứa tuổi này sự giao tiếp với bạn bè là một nhu cầu rất lớn. Các em có xu hướng tụ tập thành
từng nhóm có cùng sở thích, phù hợp với tình tình để vui chơi, đùa nghịch, có những lúc,
những nơi các em có các hành động không đúng, không phù hợp với lứa tuổi của mình. Trong
gia đoạn này quá trình phát triển sinh lý ảnh hưởng đến rất nhiều tính cách của các em: các em
rất dễ bị xúc động khi có một tác động nào đó, bản thân các em dễ bị lôi kéo, kích động, lòng
kiên trì và khả năng tự kiềm chế yếu. ở lứa tuổi này tính tình không ổn định, dễ nổi cáu, khi thì
quá sôi nổi nhiệt tình nhưng có trở ngại lại dễ buông xuôi, chán nản. Đối với các em ở lứa tuổi
này, cái gì cũng dễ dàng, đơn giản, các em luôn ở trạng thái hiếu thắng hoặc tự ti vì thế dễ dàng
đi đến những hành động thiếu suy nghĩ chín chắn, nhiều lúc vi phạm mà vẫn không biết.
Chính vì vậy, các thầy cô giáo, các bậc phụ huynh và mọi tổ chức trong xã hội phải có trách
nhiệm quan tâm sát sao, động viên kịp thời để hướng các em có những suy nghĩ và hành động
3
đúng. Để chỉ đạo và quản lý tốt quá trình giáo dục đạo đức trong trường THPT, người cán bộ
quản lý cần nắm vững vấn đề cụ thể như sau:
1.1.1. Đạo đức
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về khái niệm đạo đức. Tuy nhiên có thể hiểu khái niệm
này dưới 2 góc độ.
a. Góc độ xã hội:
Đạo đức là một hình thái xã hội đặc biệt được phản ánh dưới dạng nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn
mực điều chỉnh (hoặc chi phối) hành vi của con người trong các mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên, giữa con người với xã hội, giữa con người với nhau và với chính bản thân mình.
b. Góc độ cá nhân:
Đạo đức chính là những sản phẩm, nhân cách của con người, phản ánh ý thức, tình cảm, ý chí,
hành vi, thói quen và cách ứng xử của họ trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên,
với xã hội, giữa bản thân họ với người khác và với chính bản thân mình.
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển đạo đức của cá nhân, của con người là quá trình tác
động qua lại giữa xã hội và cá nhân để chuyển hoá những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực, giá
trị đạo đức - xã hội thành những phẩm chất đạo đức cá nhân, làm cho cá nhân đó trưởng thành
về mặt đạo đức, công dân và đáp ứng các yêu cầu của xã hội.
1.1.3. Quá trình giáo dục đạo đức là một hoạt động có tổ chức, có mục đích, có kế hoạch nhằm
biến những nhu cầu, chuẩn mực, giá trị đạo đức theo yêu cầu của xã hội thành những phẩm
chất, giá trị đạo đức của cá nhân, nhằm góp phần phát triển nhân cách của mỗi cá nhân và thúc
đẩy sự phát triển, tiến bộ của xã hội.
1.1.4. Các đặc điểm của quá trình giáo dục đạo đức
- Có sự gắn kết chặt chẽ với quá trình dạy học trên lớp và dạy học giáo dục ngoài giờ lên lớp.
- Có định hướng thống nhất các yêu cầu, mục đích giáo dục giữa các tổ chức giáo dục trong và
ngoài nhà trường.
- Tính biện chứng, phức tạp trong quá trình phát triển, biến đổi về nhân cách của học sinh về
mặt đạo đức.
- Tính lâu dài của quá trình hình thành, phát triển các phẩm chất đạo đức.
- Tính đột biến và khả năng tự biến đổi.
- Phát triển thông qua hoạt động và giao lưu tập thể.
- Tính cá thể hoá cao.
- Chứa nhiều mâu thuẫn.
- Có sự tương tác hai chiều giữa nhà giáo dục và đối tượng được giáo dục.
- Tính khó khăn trong việc đánh giá kết quả, sự phát triển đạo đức của cá nhân.
1.1.5. Chức năng, nhiệm vụ của quá trình giáo dục đạo đức
- Quá trình giáo dục đạo đức là một bộ phận cấu thành quá trình giáo dục trong trường THPT.
Tạo ra nhịp cầu gắn kết giữa nhà trường và xã hội, con người với cuộc sống.
- Giáo dục đạo đức được xem là nền tảng, gốc rễ tạo ra nội lực tiềm năng vững chắc cho các
mặt giáo dục khác.
- Giáo dục đạo đức phải làm cho học sinh thấm nhuần sâu sắc thế giới quan Mác - Lênin, tư
tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh, tính chân lý khách quan của các giá trị đạo đức, nhân
văn, nhân bản của các tư tưởng đó, coi đó là kim chỉ nam cho hành động của mình.
- Giáo dục đạo đức phải thấm nhuần các chủ trương, chính sách của Đảng, biết sống và làm
việc theo pháp luật, sống có kỷ cương nền nếp, có văn hoá trong các mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên, với xã hội và giữa con người.
- Trên cơ sở thông qua việc tiếp cận với cuộc đấu tranh cách mạng của dân tộc và hoạt động
của cá nhân để củng cố niềm tin và lẽ sống, lý tưởng sống, lối sống theo con đường CNXH.
- Giáo dục đạo đức phải làm cho nhận thức ngày càng sâu sắc nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực
và các giá trị đạo đức xã hội “XHCN”. Biến các giá trị đó thành ý thức, tình cảm, hành vi, thói
quen và cách ứng xử trong đời sống hàng ngày.
- Quá trình giáo dục đạo đức cần phải theo đặc điểm của từng loại đối tượng trong giáo dục.
4
- Quá trình giáo dục đạo đức có nhiệm vụ: Phát triển nhu cầu đạo đức cá nhân; hình thành và
phát triển ý thức đạo đức; rèn luyện ý chí, hành vi, hình thành thói quen ứng xử đạo đức; phát
triển các giá trị đạo đức cá nhân theo những định hướng giá trị mang tính đặc thù dân tộc và
thời đại.
- Quá trình giáo dục đạo đức không chỉ định hướng cho các hoạt động giáo dục đạo đức mà còn
định hướng cho hoạt động dạy học nói chung, dạy môn học đạo đức nói riêng (môn giáo dục
công dân, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp theo 10 chủ đề các tháng và một số môn học
khác…).Với tư cách là người quản lý giáo dục, trước hết cần phải hiểu biết một cách sâu sắc
những vấn đề chung của quá trình giáo dục đạo đức. Từ đó mới có những định hướng, mục tiêu
sát thực, xây dựng được những chương trình, kế hoạch khả thi và có những biện pháp tổ chức
chỉ đạo thích hợp để nâng cao chất lượng và hiệu quả của quản lý giáo dục nói chung, quá trình
giáo dục đạo đức nói riêng.
1.1.6. Nội dung giáo dục đạo đức
Trong giai đoạn hiện nay, ở nước ta đang diễn ra công cuộc đổi mới sâu sắc trong phạm vi toàn
xã hội. Sự nghiệp giáo dục đang được coi trọng, là "Quốc sách hàng đầu". Công tác giáo dục
chính trị tư tưởng, đạo đức cho học sinh cần được coi trọng và đặt lên vị trí hàng đầu.
Giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức cần phải tăng cường giáo dục thế giới quan khoa học. Trên
cơ sở tăng cường thế giới quan khoa học cần tăng cường giáo dục tư tưởng cách mạng xã hội
chủ nghĩa cho học sinh. Qua giáo dục đạo đức phải nâng cao lòng yêu nước, tăng cường ý thức
lao động và tự lao động (động cơ, thái độ đúng đắn, chăm chỉ, nỗ lực vươn lên làm chủ khoa
học…). Bên cạnh đó cũng phải đồng thời tăng cường giáo dục pháp luật, giáo dục lòng thương
yêu con người và hành vi ứng xử có văn hoá (ăn nói cục cằn, thô lỗ, thiếu văn hoá, thiếu tôn
trọng người khác… biết ứng xử lễ phép tế nhị, lịch sự…)
Trong nhà trường phổ thông, các phẩm chất đạo đức cần trau dồi cho học sinh một cách liên
tục, khoa học, hợp lý, và được phân thành từng nhóm theo từng quan hệ xã hội: quan hệ cá
nhân với xã hội, cộng đồng (trung thành với lý tưởng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản,
yêu nước, yêu hoà bình, tự hào dân tộc, tin yêu Đảng và kính yêu Bác Hồ…), quan hệ cá nhân
với lao động (chăm chỉ học tập, say mê khoa học kỹ thuật, quý trọng lao động…), quan hệ cá
nhân với bản thân, với người khác như ruột thịt, bạn bè, đồng chí…), đồng thời cũng phải giáo
dục đạo đức gia đình, quan hệ bạn bè, tình yêu.
1.2. Một số cơ sở pháp lý của việc quản lý và chỉ đạo giáo dục đạo đức học sinh trong trường
THPT
Trong văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII đã nêu rõ: "Nhiệm vụ
mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với
lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, CNH - HĐH đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có
năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và con người
Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học
và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có tính tổ chức kỷ luật cao là những con người kế
thừa và xây dựng CNXH vừa hồng vừa chuyên".
Quan điểm của Đảng về phát triển giáo dục trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 -
2010 đã khẳng định: "Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức, có tri thức,
có sức khoẻ và thẩm mỹ… góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
văn minh, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Điều 2 chương I của Luật Giáo dục nêu rõ: "Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam
phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và
năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Trong Điều 23 mục 2 chương II Luật Giáo dục cũng khẳng định: "Mục tiêu của giáo dục phổ
thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng
cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và
5