Tải bản đầy đủ (.docx) (98 trang)

nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả nuôi cấy dịch màng phổi tìm vi khuẩn lao trên môi trường mgit ở bệnh nhân tràn dịch màng phổi do lao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (870.74 KB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
NGUYỄN ĐẮC TUẤN
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG,
CẬN LÂM SÀNG VÀ KẾT QUẢ NUÔI CẤY
DỊCH MÀNG PHỔI TÌM VI KHUẨN LAO
TRÊN MÔI TRƯỜNG MGIT Ở BỆNH NHÂN
TRÀN DỊCH MÀNG PHỔI DO LAO
Chuyên ngành : Nội khoa
Mã số : 60.72.20
LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRẦN HOÀNG THÀNH
Hà Nội - 2013
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới:
Ban giám hiệu Trường Đại học Y Hà Nội, Phòng Đào tạo sau đại học, Bộ môn
Nội đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong hai năm học tập tại trường.
Ban giám độc Bệnh viện Bạch Mai, Phòng Kế hoạch tổng hợp đã cho tôi được
học tập và nghiên cứu tại quý viện.
Lãnh đạo Cục Cảnh sát bảo vệ đã tạo điều kiện cho tôi được đi học để nâng
cao trình độ chuyên môn.
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn tới GS.TS. Ngô Quý Châu - Phó giám
đốc Bệnh viện Bạch Mai - Giám đốc Trung tâm Hô hấp - Chủ nhiệm Bộ môn Nội
trường Đại học Y Hà Nội, người đã cho tôi những bài học sâu sắc về tinh thần
trách nhiệm, niềm say mê nghiên cứu khoa học và sự tận tâm với công việc.
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Trần Hoàng
Thành, người Thầy trực tiếp hướng dẫn, dày công chỉ bảo và giúp đỡ tôi rất nhiều
trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Với tất cả lòng kính trọng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong hội đồng
đã đóng góp cho tôi nhiều ý kiến quý báu để hoàn thành luận văn này.


Tôi xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm, các bác sĩ, điều dưỡng của Trung
tâm Hô hấp - Bệnh viện Bạch Mai đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ và tạo điều kiện tốt
nhất cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Cuối cùng, cho tôi bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình tôi: bố, mẹ, những người
thân và bạn bè đã luôn chia sẻ, động viên, chăm sóc và tạo điều kiện cho tôi trong
suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Hà Nội, ngày 28 tháng 8 năm 2013
Nguyễn Đắc Tuấn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nghiên cứu này là do chính tôi thực hiện.
Những kết quả trong nghiên cứu này hoàn toàn trung thực, khách quan và
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Hà Nội, ngày 28 tháng 8 năm 2013
Nguyễn Đắc Tuấn
MỤC LỤC
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AFB : Acid Fast Bacilli
BK : Bacillus Koch
BN : Bệnh nhân
CLVT : Cắt lớp vi tính
DMP : Dịch màng phổi
MGIT : Mycobacterium Growth Indicator Tube
PCR : Polymerase Chain Reaction
STMP : Sinh thiết màng phổi
TDMP : Tràn dịch màng phổi
XN : Xét nghiệm
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
6
ĐẶT VẤN ĐỀ

Tràn dịch màng phổi là một hội chứng thường gặp trên lâm sàng, bệnh do
nhiều nguyên nhân gây ra trong đó nguyên nhân do lao là khá phổ biến. Tràn
dịch màng phổi do lao đứng hàng thứ hai trong các thể lao ngoài phổi [1] và
thường để lại hậu quả rất nặng nề ở màng phổi nếu không được chẩn đoán
sớm và điều trị kịp thời. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới năm 2012, có
khoảng 1/3 dân số thế giới tiếp xúc với vi khuẩn lao, mỗi năm có từ 8 - 9 triệu
người mắc lao mới và 1,4 triệu người mắc lao tử vong; trong số đó tỉ lệ lao
ngoài phổi chiếm 13,09 % [2].
Theo một số tác giả trên thế giới và ở Việt Nam thì tỉ lệ lao màng phổi
trong số các thể lao ngoài phổi là 25 - 27 % [3], [4]. Tại Mỹ hàng năm có
khoảng 3600 bệnh nhân lao ngoài phổi, trong đó lao màng phổi chiếm 18,7 %
[5]. Ở Việt Nam tỉ lệ tràn dịch màng phổi do lao vào viện điều trị chiếm 7 - 11
% ở các cơ sở chống lao [6]. Tại một số địa phương cho thấy tỉ lệ lao màng
phổi cũng khá cao, theo Nguyễn Khắc Bạt nghiên cứu trong hai năm 1989 -
1990 tại Hà Nội, số bệnh nhân lao màng phổi chiếm tỉ lệ 13,4 % [7]. Nghiên
cứu của Trần Văn Sáu cho thấy trong số 284 bệnh nhân TDMP thì có tới
80,63 % do lao [8]. Một nghiên cứu khác của Ngô Quý Châu thấy trong số
những bệnh nhân TDMP vào điều tại khoa hô hấp bệnh viện Bạch Mai từ
1996 đến 2000 thì nguyên nhân TDMP do lao gặp với tỉ lệ cao nhất, chiếm tới
72,3 % [9].
Chẩn đoán tràn dịch màng phổi thường không mấy khó khăn, tuy nhiên,
để chẩn đoán xác định tràn dịch màng phổi do lao nhiều khi không dễ dàng.
Hiện nay có nhiều phương pháp cận lâm sàng giúp chẩn đoán TDMP do lao
như: sinh thiết màng phổi chẩn đoán mô bệnh học, phương pháp PCR-BK
7
dịch màng phổi, nuôi cấy dịch màng phổi v.v Các phương pháp trên đều có
những ưu nhược điểm và đòi hỏi phải có những trang bị và con người có đủ
trình độ. Chính vì vậy, tại rất nhiều cơ sở chống lao trong nước hiện nay, số
bệnh nhân chẩn đoán TDMP do lao dựa vào lâm sàng, cận lâm sàng, có đáp
ứng điều trị với thuốc chống lao hay không vẫn còn chiếm tỉ lệ khá cao [10].

Đặc biệt trong tình hình hiện nay cùng với sự gia tăng của đại dịch
HIV/AIDS, sự đột biến kháng thuốc của vi khuẩn lao ít nhiều đã làm thay đổi
bộ mặt lâm sàng, cận lâm sàng và chẩn đoán TDMP do lao.
Bệnh viện Bạch Mai là một cơ sở y tế chuyên sâu, nơi chuyên tiếp nhận
các bệnh nhân bị bệnh phổi trực tiếp vào điều trị hoặc từ tuyến dưới chuyển
lên, trong đó TDMP rất thường gặp, đặc biệt là những trường hợp TDMP do
lao. Tại bệnh viện Bạch Mai, các kỹ thuật như sinh như thiết màng phổi chẩn
đoán mô bệnh học, nuôi cấy dịch màng phổi tìm vi khuẩn lao bằng phương
pháp MGIT BACTEC đã thành thường quy trong chẩn đoán TDMP do lao.
Trong các kỹ thuật đó, phương pháp nuôi cấy MGIT BACTEC ngày càng phổ
biến do cho kết quả nhanh chóng, ít xâm lấn hơn trong chẩn đoán TDMP do
lao và thuận tiện trong thử nghiệm nhậy cảm thuốc chống lao. Hiện nay chưa
có nhiều nghiên cứu về kết quả của phương pháp này trong chẩn đoán lao
màng phổi. Chính vì vậy, tìm hiểu vai trò của phương pháp MGIT BACTEC
trong chẩn đoán TDMP do lao là hết sức cần thiết. Nó giúp cho việc nắm
vững một phương pháp tin cậy trong phát hiện sớm và hạn chế một phần di
chứng của căn bệnh này. Xuất phát từ thực tế đó chúng tôi tiến hành đề tài
này với mục tiêu:
1. Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của tràn dịch màng
phổi do lao.
2. Nhận xét kết quả nuôi cấy dịch màng phổi tìm vi khuẩn lao bằng
phương pháp MGIT BACTEC.
8
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Sơ lược về giải phẫu, mô học, sinh lý học và cơ chế TDMP do lao
1.1.1 Về giải phẫu và mô học
* Màng phổi là một thanh mạc gồm 2 lá
- Lá tạng: bọc sát và dính chặt vào nhu mô phổi lách cả vào các khe gian
thuỳ phổi. Ở rốn phổi màng phổi tạng quặt ra để liên tiếp với màng phổi

thành, đường quặt có hình một cái vợt bóng bàn mà cán quay xuống dưới, đây
cũng là nơi hai lá màng phổi sát vào nhau để tạo nên dây chằng phổi.
- Lá thành: bao phủ mặt trong lồng ngực, áp sát phía ngoài màng phổi
tạng tiếp giáp với lá tạng ở rốn phổi, gồm có:
+ Màng phổi trung thất: áp sát phần trung thất của màng phổi tạng.
+ Màng phổi sườn: áp sát vào mặt trong lồng ngực.
+ Màng phổi hoành: dính sát vào mặt trên của cơ hoành.
+ Đỉnh màng phổi: là phần màng phổi thành tương ứng với đỉnh phổi.
* Túi cùng màng phổi: là góc tạo bởi hai phần màng phổi thành. Các túi
cùng màng phổi bao gồm: túi cùng sườn hoành, túi cùng sườn trung thất
trước, túi cùng sườn trung thất sau, túi cùng hoành trung thất.
* Khoang màng phổi: là một khoang ảo nằm giữa lá thành và lá tạng, hai
màng áp sát vào nhau và có thể trượt lên nhau làm cho phổi nở ra hoặc bé lại
lúc hít vào hoặc thở ra. Mỗi phổi có một khoang màng phổi, hai khoang này
không thông với nhau.
Lá tạng chủ yếu do các nhánh của động mạch phổi tưới máu, dẫn lưu tĩnh
mạch bằng tĩnh mạch phổi và một phần bằng tĩnh mạch phế quản. Lá thành do
động mạch vú trong và động mạch gian sườn tưới máu, dẫn lưu tĩnh mạch do
hệ thống tĩnh mạch đi về thân tĩnh mạch cánh tay đầu và tĩnh mạch chủ trên.
9
Lá tạng có các nhánh của thần kinh giao cảm và phó giao cảm. Lá thành
có một số sợi thần kinh chi phối có nguồn gốc từ dây thần kinh liên sườn.
* Mô học
Màng phổi có cấu trúc như sau:
- Lớp trung sản: là những tế bào hình dài liên kết chặt chẽ với nhau.
- Lớp liên kết trung sản: lớp này ở lá thành có những khoang có tác dụng
lưu thông hệ thống bạch mạch với lớp dưới trung sản.
- Lớp xơ chun nông.
- Lớp liên kết dưới màng phổi: lớp này có nhiều mạch máu và bạch mạch.
- Lớp xơ chun sâu: tiếp giáp với nhu mô phổi ở lá tạng và tiếp giáp với

thành ngực ở lá thành.
1.1.2 Sinh lý học màng phổi
Ở trạng thái bình thường khoang màng phổi có áp suất âm khoảng - 4 mm
Hg ở cuối thì thở ra và - 7 mm Hg ở cuối thì hít vào. Khi hít vào hết sức áp
suất âm trong khoang màng phổi có thể xuống tới - 30 mm Hg, khi thở ra hết
sức áp suất âm trong trong khoang màng phổi còn khoảng - 1 mm Hg.
Bình thường trong khoang màng phổi có một lớp dịch lỏng khoảng 10 -
14 ml để hai lá trượt lên nhau được dễ dàng. Sự tạo ra và tái hấp thu dịch tuân
theo định luật Starling.
Năm 1963 Landis và Papenheimer biến đổi định luật trên trong nghiên
cứu DMP [11]:
Áp lực vận chuyển dịch = k [(HPc - HPif) - (COPc - COPif)]
- k: hệ số lọc (tính bằng ml/giây/cm
2
/cm H
2
O).
- HPc: áp lực thủy tĩnh trung bình trong mao mạch (tính bằng cm H
2
O).
- HPif: áp lực thủy tĩnh trung bình quanh mao mạch (tính bằng cm H
2
O),
ở đây là áp lực trung bình trong khoang màng phổi.
- COPc: áp lực keo của huyết tương (tính bằng cm H
2
O).
10
- COPif: áp lực keo quanh mao mạch (tính bằng cm H
2

O), ở đây là áp lực
keo của DMP.
Nếu công thức trên không tính đến hệ số lọc k thì công thức trên sẽ là:
Áp lực vận chuyển dịch = [(HPc - HPif) - (COPc - COPif)]
- Ở màng phổi thành: áp lực vận chuyển dịch = 9 cm H
2
O
Nếu không kể đến tác dụng của trọng lực thì áp lực vận chuyển dịch của
màng phổi thành là 9 cm H
2
O. Do vậy dịch mao mạch màng phổi thành có
khuynh hướng được đẩy vào khoang màng phổi.
- Ở màng phổi tạng: áp lực vận chuyển dịch = - 10 cm H
2
O
Nếu không kể đến tác dụng của trọng lực thì áp lực vận chuyển dịch của
mao mạch màng phổi tạng sẽ là - 10 cm H
2
O. Do vậy mao mạch màng phổi
tạng có khuynh hướng kéo dịch từ khoang màng phổi vào mao mạch màng
phổi tạng.
Trong điều kiện sinh lý, dịch thấm ra từ đầu mút mao mạch màng phổi
thành đi vào khoang màng phổi và được hấp thu một phần ở mao mạch màng
phổi tạng. Còn lại phần lớn được hấp thu qua bạch mạch ở lá thành.
- Sự tích tụ dịch màng phổi, theo Turiaf J. và cs (1975) có 4 cơ chế:
+ Tăng áp lực thủy tĩnh
+ Tăng hệ số thấm
+ Giảm lực hấp thu thẩm thấu
+ Giảm hoặc mất hấp thu bạch huyết
- Sự phối hợp hay riêng rẽ của các cơ chế trên sẽ gây tràn dịch màng phổi.

Khi có TDMP người ta chia ra TDMP dịch thấm và TDMP dịch tiết:
+ TDMP dịch thấm do tăng áp lực thủy tĩnh, gặp trong tăng áp lực tĩnh
mạch ngoại biên, tăng áp lực tĩnh mạch phổi, giảm protein máu, áp lực
khoang màng phổi thấp.
11
+ TDMP dịch tiết do tăng tính thấm mao mạch phổi, giảm dẫn lưu hệ
bạch mạch hay cả hai.
+ Tiêu chuẩn chủ yếu để phân biệt dịch tiết và dịch thấm: protein
DMP/protein huyết thanh > 0,5; LDH DMP/LDH huyết thanh > 0,6.
- Tính chất dịch màng phổi
+ Bình thường trong khoang màng phổi có môt lớp dịch mỏng (3 - 5 µm)
tương đương với khoảng 10 - 14 ml, có độ quánh thấp.
+ DMP có một ít protein (1 - 2 g/dl), một ít Ca
2+
, K
+
và rất nhiều Na
+
.
+ Glucose trong DMP bằng glucose trong huyết tương
+ pH DMP lớn hơn pH huyết tương
+ LDH trong DMP < 50 % trong huyết tương
+ DMP bình thường có khoảng 1000 - 1500 tế bào/ml, trong đó 30 - 70 %
monocyte, 2 - 30 % lymphocyte, 10 % bạch cầu hạt và 3 - 70 % tế bào biểu
mô màng phổi [12].
1.1.3 Cơ chế bệnh sinh tràn dịch màng phổi do lao
Vi khuẩn lao khi vào màng phổi gây nên tổn thương lao. Để tạo nên
TDMP do lao, cơ thể cần có mẫn cảm lao từ trước. Đây là một phản ứng miễn
dịch xuất tiết nhiều dịch rỉ viêm [13].
Tràn dịch màng phổi do lao có thể biểu hiện khi mắc bệnh lần đầu tiên

hoặc khi bệnh hoạt động trở lại. Sự vỡ của những ổ tổn thương vào khoang
màng phổi khởi đầu cho sự phát sinh của TDMP. Thường quá trình này xảy ra
sau khi người bệnh nhiễm lao khoảng 6 - 12 tuần. Tiếp theo quá trình giải
phóng kháng nguyên này là quá trình viêm cấp với trung gian là tế bào TCD
4
.
Tế bào lympho được hoạt hóa tương tác qua các cytokine khác (interferon-γ,
interleukin-2 ) với đại thực bào để kích thích tối đa hoạt động tiêu diệt vi
khuẩn lao. Đầu tiên là bạch cầu trung tính chiếm ưu thế ở khoang màng phổi
trong giai đoạn đầu, tiếp theo là sự vượt trội của tế bào lympho T [14].
12
Quá trình viêm trên làm tăng tính thấm của mao mạch màng phổi và do
vậy làm tăng nồng đồ protein trong khoang màng phổi, kết quả làm tăng áp
lực keo gây nên tràn dịch màng phổi [15].
Hệ thống bạch huyết của màng phổi có những cấu trúc gọi là lỗ dẫn lưu
bạch mạch có nhiệm vụ hấp thu protein, dịch màng phổi trở lại hệ tuần
hoàn. Quá trình viêm đã làm tổn thương hoặc tắc nghẽn các lỗ dẫn lưu này,
làm ngăn cản sự hấp thu protein và dịch ở khoang màng phổi của hệ thống
bạch huyết màng phổi [15], [16].
Hai cơ chế trên làm hình thành và tích tụ dịch trong khoang màng phổi.
1.1.4 Đặc điểm của vi khuẩn lao
- Lịch sử phát hiện
Vi khuẩn lao do Robert Koch tìm ra vào năm 1882, vì vậy vi khuẩn lao
còn được gọi là Bacilie de Koch (BK). Vi khuẩn lao thuộc họ
Mycobacteriaceae, dài 3 - 5 μm, rộng 0,3 - 0,5 μm, không có lông, hai đầu
tròn, thân có hạt. Chúng đứng riêng rẽ hoặc thành từng đám trên tiêu bản
nhuộm Ziehl-Neelsen, không bị cồn và acid làm mất màu đỏ fucin.
- Phân loại vi khuẩn lao
Dựa vào khả năng gây bệnh cho người và động vật mà người ta chia ra
thành các loại vi khuẩn lao như sau:

+ Vi khuẩn lao người (M. tuberculosis homins)
+ Vi khuẩn lao bò (M. bovis)
+ Vi khuẩn lao chim (M. avium)
+ Vi khuẩn lao gây bệnh ở chuột (M. microti)
- Một số đặc điểm của vi khuẩn lao
+ Vi khuẩn lao là loại trực khẩn kháng cồn, kháng acid. Người ta áp dụng
đặc điểm này để nhuộm Ziehl-Neelsen tìm vi khuẩn lao.
13
+ Là vi khuẩn ái khí hoàn toàn, những hang lao thông với khí quản chứa
nhiều vi khuẩn lao.
+ Vi khuẩn lao phát triển chậm, khoảng 20 - 24 giờ sinh sản một lần.
Người ta áp dụng đặc điểm này để điều trị bệnh lao, người bệnh chỉ dùng
thuốc một lần duy nhất trong ngày mà không chia nhỏ liều như trong các bệnh
nhiễm trùng khác.
+ Vi khuẩn lao bị thay đổi khả năng gây bệnh dưới ảnh hưởng của môi
trường. Đặc điểm này được áp dụng để chế tạo vaccine trong việc phòng lao
cho trẻ sơ sinh và trẻ dưới 1 tuổi.
+ Là loại vi khuẩn có khả năng kháng lại nhiều loại thuốc chống lao.
Chính vì vậy, ta phải phối hợp nhiều loại thuốc trong điều trị lao.
- Đường lan truyền của vi khuẩn lao
+ Đường hô hấp là đường lan truyền chủ yếu.
+ Đường máu và đường bạch huyết là đường lan tràn chính đối với lao
màng phổi. Vi khuẩn lao từ những tổn thương tiên phát qua con đường này tới
màng phổi.
+ Đường kế cận: tổn thương nhu mô phổi ở gần màng phổi tiến triển, xâm
nhập vào màng phổi.
- Điều kiện thuận lợi
+ Trẻ em chưa tiêm phòng BCG.
+ Trẻ bị lao sơ nhiễm nhưng không được phát hiện sớm và điều trị đúng.
+ Những người tiếp xúc thường xuyên với người bệnh lao phổi mạn tính

(có xét nghiệm AFB đờm dương tính).
+ Những đợt tiến triển của lao phổi.
+ Nhiễm lạnh đột ngột.
+ Chấn thương lồng ngực.
+ Điều kiện kinh tế và ăn uống không đảm bảo vệ sinh.
14
1.1.5 Giải phẫu bệnh
- Đại thể
+ Giai đoạn đầu: màng phổi phù nề, xung huyết, xuất tiết dịch vàng
chanh, có thể gặp dịch màu hồng đục.
+ Giai đoạn sau: màng phổi dày lên, thô ráp, có thể thấy các hạt lao, cục
lao nhuyễn hóa bã đậu. Nhu mô phổi dưới màng phổi xẹp lại.
+ Giai đoạn muộn: DMP giảm hoặc hết, là thành lá tạng dày lên, dính vào
nhau hoặc dính vào trung thất, cơ hoành. Ta có thể thấy các dải xơ chia
khoang màng phổi thành những khoang riêng biệt.
- Vi thể
+ Giai đoạn đầu: lớp tế bào nội mô màng phổi bị phá hủy. Fibrin lắng
đọng lên bề mặt màng phổi tạo màng giả làm màng phổi dày lên, có thể thấy
những tổn thương đặc hiệu (nang lao). DMP là dịch tiết nhiều fibrin, nhiều
bạch cầu lympho.
Nang lao là hậu quả của sự tụ tập của những đại thực bào, có dường kính
khoảng 1 mm, mắt thường nhìn thấy như một điểm nhỏ, màu sáng, bằng đầu
đinh ghim. Nang lao có hình tròn với một khu trung tâm và hai vùng ngoại vi.
Khu trung tâm là một hay nhiều tế bào khổng lồ rất to (300 μm), có hàng trăm
nhân gọi là tế bào Langhans. Các nhân tế bào này xếp thành hình móng ngựa
hoặc vành khăn. Các tế bào ở khu trung tâm có thể hoại tử bã đậu. Quanh khu
trung tâm là những tế bào bán liên sắp xếp lộn xộn hoặc thành hình vòng
hướng tâm. Ngoài cùng là một vành lymphocyte xen lẫn với ít sợi liên võng
rất mảnh hoặc một ít tế bào xơ. Trong nang lao không có huyết quản. Toàn bộ
cấu trúc nói trên tạo thành một nang lao điển hình. Khi vắng một hoặc vài cấu

trúc nào đó gọi là nang lao không điển hình.
+ Giai đoạn sau: tổ chức xơ hóa xuất hiện.
+ Giai đoạn muộn: tổ chức xơ chiếm ưu thế ở màng phổi.
15
1.2 Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của TDMP do lao
1.2.1 Lâm sàng
Từ thời Hypocrate, người ta đã biết đến tràn dịch màng phổi nhưng mãi
đến cuối thế kỷ thứ 18 người ta mới phân biệt được tràn dịch màng phổi với
nhiễm khuẩn khác của thanh mạc màng phổi [17].
Năm 1761 Auenbruggen ở Vienne (Áo), tiếp theo năm 1808 Orvisart ở
Pháp dùng cách gõ lồng ngực để chẩn đoán tràn dịch màng phổi. Villemin
(1865), Jaccoud và Landouzy (1882) xác định tràn dịch màng phổi thanh tơ
huyết hầu hết do lao [17].
Hiện nay trên thế giới áp dụng nhiều kỹ thuật hiện đại và có giá trị cao
trong chẩn đoán TDMP do lao nhưng những dấu hiệu lâm sàng TDMP vẫn
được chú ý và được nghiên cứu một cách đầy đủ hơn với các công trình của
Chan C.H, Follador E.C [18], [19].
Cùng với sự tiến bộ của các biện pháp phòng bệnh, điều trị có hiệu quả
dẫn đến bệnh cảnh lâm sàng của TDMP do lao cũng có ít nhiều thay đổi.
* Tuổi
Qua rất nhiều nghiên cứu cho thấy TDMP do lao thường gặp ở độ tuổi
dưới 40 tuổi. Theo Phạm Thị Hoà Mỹ và cs nhận thấy TDMP do lao chiếm 52
% trong độ tuổi từ 16 đến 30 [20]; Hoàng Thị Phượng thấy rằng TDMP do
lao chiếm 59,6 % trong độ tuổi 13 - 40 [21]; Trần Văn Sáu gặp ở độ tuổi dưới
40 là 60,5 %. Trong nghiên cứu của Phạm Thị Mỹ Dung và cs thì độ tuổi dưới
40 có tỉ lệ 51,2 % [22]. Theo Valdes L. và cs nghiên cứu 254 bệnh nhân
TDMP do lao cho thấy có tới 62,2 % là dưới 35 tuổi [23].
* Tính khởi phát của bệnh
Thường diễn biến cấp tính chiếm đa số các trường hợp (sốt cao, mạch
nhanh, kém ngủ, ho khan). Có thể trước đó có biểu hiện một giai đoạn suy

nhược, gầy sút, xanh xao, kém ăn [10].
16
Theo Phạm Khắc Quảng tỉ lệ khởi phát TDMP do lao đột ngột chiếm 50
%, khởi phát từ từ 30 % và 20 % không có triệu chứng lâm sàng [24]; Trần
Văn Sáu (1996) có 78 % số trường hợp khởi đầu là cấp tính [8]; Mai Văn
Khương (2002) cho thấy tỉ lệ này là 50 % và khoảng 30 % diễn biến từ từ [3];
nghiên cứu của Phạm Thị Mỹ Dung năm 2008 cho kết quả 68,5 % khởi phát
cấp tính, 18,6 % bệnh nhân có diễn biến bán cấp [22].
* Triệu chứng cơ năng
- Đau ngực: đau có thể có trước TDMP vài tuần hoặc vài tháng, vì vậy các
bệnh nhân có triệu chứng đau ngực cần phải khám kỹ để tránh bỏ sót. Đau với
một số đặc điểm: đau liên tục, tăng lên khi bệnh nhân ho, đau xuyên ra sau
lưng và lên nách [24]; tỉ lệ đau ngực trong TDMP do lao cũng khác nhau tuỳ
theo từng nghiên cứu cụ thể.
Theo Follardor E.C và cs có 93,2 % số bệnh nhân đau ngực [19]; Phạm
Thị Hoà Mỹ, Nguyễn Ngọc Hùng thấy đau ngực gặp 100 % các trường hợp
TDMP do lao [20].
- Khó thở: khó thở thường xuyên cả 2 thì và tăng dần. Khi DMP ít, bệnh
nhân thường nằm nghiêng về bên lành; khi dịch nhiều hơn, bệnh nhân phải
nằm nghiêng về bên bệnh hoặc ngồi dựa vào tường để đỡ khó thở [3].
Tác giả Nguyễn Đình Kim (1994) cho rằng DMP trên 2000 ml trong
khoang màng phổi sẽ làm bệnh nhân khó thở nhiều, thở nhanh nông, vã mồ
hôi, dễ suy hô hấp cấp và phải chọc hút dịch cấp cứu. Lượng dịch lấy ra trên
1000 ml bệnh nhân mới bớt khó thở [25].
Theo Miyamoto J. và cs thì ở những bệnh nhân có tuổi hay khó thở nhiều
và khạc đờm do ở những bệnh nhân này thường phối hợp với tổn thương nhu
mô phổi [26].
- Ho: ho khan từng cơn, ho xuất hiện đột ngột khi thay đổi tư thế [3].
17
Theo nghiên cứu của Phạm Thị Hoà Mỹ và cs có 91 % bệnh nhân có ho,

trong đó ho khạc đờm 20 % và ho ra máu 1 % [20].
* Triệu chứng toàn thân
- Sốt: đa số các nghiên cứu đều cho thấy sốt trong TDMP do lao chiếm tỉ
lệ cao, thường gặp sốt về chiều.
Theo Nakamuza E. và Haga T. cho thấy tỉ lệ sốt trong TDMP do lao là
75,6 %, trong đó sốt cao chiếm 9,3 % còn lại chủ yếu là sốt nhẹ và sốt vừa
[27]. Theo Trần Văn Sáu sốt gặp 92 % trường hợp [8].
* Triệu chứng thực thể
- Nhìn: lồng ngực bên TDMP thường vồng lên, khoang liên sườn giãn
rộng ra, di động lồng ngực giảm hơn so với bên lành, mỏm tim thường bị đẩy
sang bên lành.
- Hội chứng 3 giảm.
+ Sờ: rung thanh giảm
+ Gõ: gõ đục, có thể xác định được giới hạn trên của vùng đục nếu tràn
dịch vừa, đó là đường cong Damoiseau. Nếu TDMP nhiều gõ đục toàn bộ nửa
lồng ngực.
+ Nghe: rì nào phế nang giảm hoặc mất, có thể nghe thấy tiếng cọ màng
phổi, tiếng thổi màng phổi.
Nếu nghe thấy ran nổ, ran ẩm là có tổn thương ở nhu mô phổi.
- Chọc dò màng phổi: giúp chẩn đoán xác định tràn dịch [17].
+ Vị trí: chọc ở khoảng giữa khối dịch nơi thành ngực phồng nhất trong
trường hợp tràn dịch khoang mang phổi nhiều, điểm chọc thường ở đường
nách giữa, tránh chọc nơi vùng da có nhiễm khuẩn.
+ Dịch hầu hết là màu vàng chanh [8], [28]; đôi khi thấy máu hoặc mủ.
Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Hùng và cs gặp 97 % trường hợp TDMP là
dịch đỏ máu [16]; Trần Văn Sáu gặp 100 % TDMP là dịch vàng chanh [8].
18
TDMP thường là tràn dịch ở mức độ trung bình, tiến triển từ từ tái phát
chậm, thường chỉ chọc hút dịch vài ba lần [29].
Những thể TDMP khu trú chẩn đoán lâm sàng khó khăn, lúc đó cần kết

hợp chẩn đoán hình ảnh và chọc dò dịch màng phổi.
1.2.2 Xét nghiệm chẩn đoán vi sinh
Xét nghiệm chuẩn đoán vi sinh tìm được BK trong DMP là một xét
nghiệm không thể thiếu trong các nghiên cứu của TDMP do lao. Đây là một
xét nghiệm góp phần chẩn đoán nguyên nhân gây bệnh.
Có nhiều phương pháp, kỹ thuật để xác định vi khuẩn lao. Tùy điều kiện
và mục đích để áp dụng cho phù hợp.
1.2.2.1 Phương pháp soi trực tiếp
- Phương pháp soi trực tiếp với kỹ thuật nhuộm Ziehl - Neelsen tìm AFB
trong DMP.
Đây là một kỹ thuật đơn giản, ít tốn kém và cho kết quả nhanh, dễ dàng
triển khai rộng rãi ở các tuyến y tế cơ sở. Nhưng phương pháp này đạt hiệu
quả thấp do mật độ vi khuẩn lao rất ít trong DMP [30]. Hiện nay phương pháp
này ít dùng trong chẩn đoán lao màng phổi.
- Phương pháp soi trực tiếp kèm theo kỹ thuật thuần nhất bệnh phẩm.
Phương pháp này cho phép sử dụng khối lượng lớn bệnh phẩm. Sau khi xử lý
bệnh phẩm bằng hoá chất rồi quay ly tâm lấy cặn được dàn tiêu bản xét
nghiệm. So với soi trực tiếp phương pháp này đạt được độ nhạy cao hơn,
nhưng vì có thêm kỹ thuật thuần nhất nên phương pháp này chưa được áp
dụng rộng rãi [30]. Soi thuần nhất dịch màng phổi cho tỉ lệ AFB dương tính
từ 5 - 10 % [3].
Theo Hoàng Long Phát và cs tỉ lệ AFB dương tính trong DMP đạt 5,5 %
[31]; Hoàng Minh là 1 - 2 % [17]. Nghiên cứu của Trần Văn Sáu nhuộm soi
trực tiếp tìm AFB trong dịch màng phổi ở 95 % bệnh nhân TDMP do lao cho
19
kết quả âm tính 100 %. Theo một số tác giả nước ngoài khác thì tỉ lệ tìm thấy
AFB trong dịch màng phổi từ 0 - 1 % [32].
- Phương pháp soi dưới kính hiển vi huỳnh quang. Phương pháp này có
độ nhạy cao hơn phương pháp Ziehl - Neelsen truyền thống và rút ngắn thời
gian hơn, đặc biệt với công nghệ huỳnh quang LED giúp chẩn đoán chính xác

với một giá thành hợp lý hơn kính hiển vi huỳnh quang truyền thống. Theo
báo cáo của WHO 2010, kính hiển vi huỳnh quang LED làm tăng độ nhậy
thêm 5 % và tăng độ đặc hiệu thêm 1 % so với kính hiển vi huỳnh quang
thường [33].
1.2.2.2 Phương pháp nuôi cấy MGIT BACTEC
* Nguyên lý làm việc của hệ thống BACTEC 960 [34]:
- Môi trường MGIT
MGIT (Mycobacterium Growth Indicator Tube) là một kỹ thuật nuôi cấy
mới cho kết quả nhanh và đáng tin cậy, thường kết quả dương tính sau 6 - 10
ngày. Môi trường MGIT là môi trường canh thang Middlebrook 7H9 đã được
điều chỉnh. Dung dịch này được hấp khử khuẩn, sau đó được làm giàu chất
dinh dưỡng bởi MGIT OADC (acid Oleic, Albumin, Dextrose và Catalase).
Đây là môi trường cơ bản cho sự phát triển của nhiều nhóm mycobacteria,
đặc biệt là đối với M. tuberculosis. Dung dịch nuôi cây trên được chống bội
nhiễm bởi hỗn hợp kháng sinh PANTA (Polymyxin B, Amphotericin B,
Nalidixic Acid, Trimethoprim, Azlocillin) tạo môi trường thích hợp cho
mycobacteriae phát triển nhanh chóng.
- Nguyên lý phát hiện vi khuẩn phát triển và thử nghiệm nhậy cảm thuốc
của hệ thống MGIT BACTEC
Để phát hiện vi khuẩn mọc sớm, một hệ thống phát quang cảm ứng với
oxy được gắn ở vòng quanh đáy ống MGIT (Tris 4, 7-diphenyl-1, 10-
phenonthroline ruthenium chloride pentahydrate). Trong quá trình phát triển
20
của vi khuẩn ở trong ống nghiệm, oxy tự do được sử dụng và thay thế bởi
CO
2
. Với sự hao hụt của oxy tự do, chất phát quang không còn bị ức chế nữa,
kết quả là ống nuôi cấy MGIT sẽ phát ánh sáng màu vàng da cam dưới đèn
chiếu tia cực tím. Cường độ của ánh sáng tương ứng với tỉ lệ oxy bị mất đi.
Quá trình nuôi cấy MGIT có thể được tiến hành thủ công hoặc thực hiện

trên hệ thống máy MGIT BACTEC 960. Đây là một hệ thống máy hoàn toàn
tự động trong phát hiện sự phát triển của vi khuẩn dòng mycobacteria và thử
nghiệm nhậy cảm thuốc đối với M. tuberculosis. Trong hệ thống BACTEC
960, các ống MGIT được ủ và kiểm tra cường độ sáng 60 phút một lần. Sự
phát triển của vi khuẩn cũng như của mycobacteria làm tăng cường độ sáng.
Trong trường hợp M. tuberculosis sẽ có khoảng 10
5
- 10
6
đơn vị khuẩn lạc/ml
dịch nuôi cấy vào thời điểm dương tính.
Thử nghiệm nhậy cảm thuốc cũng được thực hiện theo nguyên tắc tương
tự. Hai ống MGIT được dùng trong quá trình này, một lượng thuốc nhất định
được thêm vào một trong hai ống MGIT, sự phát triển của hai ống được so
sánh với nhau. Nếu lượng thuốc trên ức chế sự phát triển của vi khuẩn sẽ làm
cho ống MGIT không sáng trong khi ống còn lại phát triển và tăng độ sáng.
Sự phát triển này được kiểm tra bởi hệ thống BACTEC 960 và tự động diễn
giải kết quả là nhậy cảm hay kháng thuốc.
* Thu thập và xử lý bệnh phẩm [34]:
- Thu thập bệnh phẩm
Bệnh phẩm phải được lấy vào ống tiệt trùng sạch với nắp chặt. Bệnh
phẩm sau khi lấy phải được vận chuyển tới phòng xét nghiệm càng sớm càng
tốt. Để bệnh phẩm càng lâu, đặc biệt là trong thời tiết nóng, sẽ làm tăng tỉ lệ
bội nhiễm. Bệnh phẩm nên được vận chuyển trong hộp với nhiệt độ duy trì
càng thấp càng tốt. Điều này đặc biệt quan trọng ở những quốc gia có nhiệt độ
môi trường cao.
21
- Xử lý, chống bội nhiễm và cô đặc bệnh phẩm
Có nhiều quy trình xử lý và chống bội nhiễm với bệnh phẩm. Một điều
đặc biệt quan trọng là nên theo một quy trình chuẩn chống bội nhiễm dùng

cho môi trường MGIT để cho hiệu quả tối ưu. Việc phát hiện sự nhân lên của
vi khuẩn lao trong môi trường MGIT dựa trên hệ thống cảm ứng với oxy, với
nồng độ cao của N-Acetyl L-Cystein (NALC) hoặc NaOH có thể làm quá
trình phát quang bị sai lệch. Xử lý bệnh phẩm có thể khác nhau tùy từng loại
bệnh phẩm. Sau đây là quy trình chung đối với các loại bệnh phẩm [35], [36]:
▪ Cho bệnh phẩm vào ống ly tâm 50 ml với nắp vặn.
▪ Thêm vào ống bệnh phẩm dung dịch NaOH-NALC-sodium citrate với
thể tích tương đương với lượng bệnh phẩm, vặn chặt nắp.
▪ Lắc nhẹ hỗn hợp 15 - 30 giây, xoay ngược ống để dung dịch NaOH-
NALC rải đều trong ống.
▪ Đợi 15 - 20 phút (tối đa 25 phút) sau khi thêm dung dịch NaOH-NALC.
Lắc nhẹ hỗn hợp 5 - 10 phút.
▪ Đảm bảo bệnh phẩm đã được hóa lỏng hoàn toàn. Nếu bệnh phẩm còn
quánh, thêm một lượng nhỏ bột NALC (30 - 35 g) trực tiếp vào ống bệnh
phẩm, trộn đều.
▪ Sau 15 - 20 phút, thêm dung dịch đệm phosphate (pH 6,8) cho đến khi
hỗn hợp đủ 50 ml. Trộn đều.
▪ Ly tâm hỗn hợp bệnh phẩm với tốc độ 3000x hoặc hơn trong 15 - 20
phút. Dùng máy ly tâm lạnh có thể làm tăng tỉ lệ mọc của mycobacteria [36].
▪ Sau khi ly tâm, để ống hỗn dịch 5 phút. Chiết dịch ở phía trên (không
được chiết phần lắng đọng phía dưới). Thêm một lượng nhỏ (1 - 2 ml)
phosphate đệm (pH 6,8) vào và khuấy đều.
▪ Dùng hỗn hợp này để cấy vào ống MGIT hay môi trường khác.
22
Một số điểm cần lưu ý:
▪ Phương pháp dung giải và chống bội nhiễm bằng NaOH: dùng NaOH 3
- 4 %. Quy trình tương tự như với NaOH-NALC. Thêm dịch đệm sau 20 phút
sau khi khử tạp khuẩn và sau khi ly tâm để giảm độ pH.
▪ NaOH có tính sát khuẩn với các vi khuẩn bội nhiễm. Nó cũng tiêu diệt
mycobacteria nhưng với mức độ nhỏ hơn nhiều. NaOH cũng giúp dung giải

bệnh phẩm. NALC chỉ có tác dụng dung giải bệnh phẩm và không có tác
dụng xử lý bội nhiễm.
▪ Độ pH cuối cùng của bệnh phẩm cô đặc ảnh hưởng rất lớn đến độ mọc
và thời gian mọc của mycobacteria. Độ pH cao làm giảm tỉ lệ dương tính và
tăng thời gian mọc. Độ pH cao cũng làm sai lệch độ phát sáng của chất phát
quang. Chính vì vậy, cần phải giữ pH càng gần trung tính càng tốt. Không cần
thiết phải trung hòa trong quá trình xử lý bệnh phẩm, đặc biệt với phương
pháp NaOH-NALC.
▪ Với phương pháp xử lý bằng NaOH-NALC: không được lắc ống bệnh
phẩm mạnh vì có thể gây oxi hóa và làm mất tác dụng của NALC.
▪ Nếu bệnh phẩm có lẫn máu thì không dùng phương pháp NaOH-HALC.
Trong trường hợp này phải dùng phương pháp NaOH [36].
▪ Mycobacteria có tính kị nước nên khó lắng khi ly tâm. Ly tâm với vận
tốc thấp sẽ không làm lắng đọng tốt vi khuẩn và một vài vi khuẩn sẽ bị mất
khi chiết bệnh phẩm làm ảnh hưởng đến tỉ lệ dương tính. Ly tâm với tốc độ
cao trong một thời gian dài cho tỉ lệ nuôi cấy dương tính tốt hơn.
▪ Nhiệt độ tăng trong quá trình ly tâm có thể tiêu diệt mycobacteria làm
giảm tỉ lệ dương tính và tăng thời gian mọc [36]. Nhà sản xuất khuyến cáo
nên ly tâm lạnh với tốc độ ít nhất 3000x. Nếu không có ly tâm lạnh, cần tránh
nhiệt độ tăng, đặc biệt trong phòng có nhiệt độ cao. Thêm dung dịch đệm
phosphate lạnh trước khi ly tâm có thể giúp hạ nhiệt độ khi ly tâm. Các chất
23
khác dùng trong xử lý bệnh phẩm không nên làm lạnh vì sẽ làm giảm chất
lượng quá trình dung giải và tiêu diệt tạp khuẩn của NaOH-NALC.
▪ Với các chất dịch trong cơ thể (DMP) nếu được lấy vô trùng có thể được
nuôi cấy trực tiếp trên một trường MGIT mà không cần quá trình khử tạp
khuẩn (chỉ cần thêm PANTA). Tuy nhiên, khó có thể đảm bảo vô trùng khi
lấy bệnh phẩm, vì vậy nên dùng quy trình khử tạp khuẩn mức độ nhẹ với các
chất dịch này. Nếu thể tích bệnh phẩm > 10 ml, ly tâm cô đặc với tốc độ 3000
- 3500x trong 15 - 20 phút. Hóa lỏng dịch đặc hoặc nhầy trước khi ly tâm với

bột NALC (50 - 100 mg). Sau khi ly tâm, thêm khoảng 5 ml nước muối sinh
lý và sau đó khử tạp khuẩn theo phương pháp nêu trên.
* Cấy bệnh phẩm vào môi trường MGIT
- Dán nhãn ống MGIT. Mở nắp ống, thêm vào ống 0,8 ml hỗn hợp
OADC/PANTA.
- Thêm vào ống MGIT 0,5 ml bệnh phẩm đã qua xử lý và được trộn đều.
Nắp ống lại thật chặt và xoay ngược ống nhiều lần.
- Sát trùng ống MGIT và nắp ống với dung dịch tiệt khuẩn mycobacteria
và để ống ở nhiệt độ phòng trong 30 phút.
* Ủ ống MGIT: Ống MGIT sau khi được cấy vi khuẩn sẽ được đưa vào hệ
thống BACTEC MGIT 960. Phải giữ cho nắp ống MGIT thật chặt và không
được lắc ống trong thời gian ủ, điều này giúp duy trì đậm độ oxy ở trong môi
trường nuôi cấy. Nhiệt độ tối ưu cho M. tuberculosis là 37 ºC, bởi vậy cần
đảm bảo nhiệt độ ủ trong khoảng 37 ± 1 ºC. Ống MGIT được ủ cho đến khi
máy báo là dương tính. Sau tối đa 6 tuần, máy sẽ báo ống nuôi cấy âm tính
nếu không phát hiện thấy sự phát triển của vi khuẩn.
* Kiểm tra phát hiện dương tính: Khi máy báo ống nuôi cấy dương tính,
lấy ống đó ra và kiểm tra bằng mắt thường. Sự phát triển của mycobacteria
thường có dạng đốm và không đục, ống bội nhiễm vi khuẩn thường có mầu
24
đục. Sự phát triển của M. tuberculosis thường ở đáy ống MGIT. Thời gian
phát hiện dương tính phụ thuộc vào các yếu tố:
- Số vi khuẩn sống được cấy vào ống MGIT.
- Nhóm mycobacteria, ví dụ như M. tuberculosis và M. bovis thường mọc
chậm hơn M. avium.
- Nhóm bệnh phẩm, ví dụ dịch màng phổi thường mất nhiều thời gian cho
kết quả dương tính hơn vì sự hiện diện của AFB trong bệnh phẩm ít.
- Tình trạng điều trị của bệnh nhân cũng đóng một vai trò quan trọng.
Bệnh phẩm từ những bệnh nhân được điều trị lâu dài với lao kháng thuốc mất
nhiều thời gian để mọc hơn.

- Quá trình xử lý bệnh phẩm cũng ảnh hưởng đến tỉ lệ dương tính. pH cao
hoặc quá thấp có thể làm tổn hại hay tiêu diệt mycobacteria khi xử lý bệnh
phẩm, làm cho vi khuẩn lao phục hồi và mọc lại lâu hơn. Trong một số trường
hợp, có tới 60 - 70 % vi khuẩn lao bị tiêu diệt khi xử lý bệnh phẩm [36].
- Vi khuẩn lao bị mất đi trong quá trình ly tâm cũng tương đối đáng kể.
Nếu máy ly tâm sinh nhiệt thì nó sẽ tiêu diệt vi khuẩn lao nhanh chóng. Ly
tâm không đủ tốc độ không thể làm lắng tất cả vi khuẩn lao.
* Xử lý tiếp theo với ống MGIT dương tính
- Soi tìm AFB
- Định nhóm mycobacteria
▪ Soi trực tiếp cũng giúp định hướng M. tuberculosis. Hình ảnh của M.
tuberculosis là những đám điển hình và hình dây uốn khúc trong khi các
mycobacteria khác là những đám lỏng lẻo nhỏ hơn.
▪ Nuôi cấy trên môi trường truyền thống: M. tuberculosis được xác định là
mọc chậm hơn, khuẩn lạc thô, không sắc tố, test niacin (+), test nitrate (+),
không nhậy với thiophene-C carboxylic acid hydrazide [37].
25
▪ Định nhóm bằng PNBA (ρ-nitro benzoic acid): PNBA ức chế M.
tuberculosis phát triển nhưng không ức chế các nhóm mycobacteria khác [38],
[39]. Test PNBA được thực hiện bởi 2 ống MGIT một ống có và một ống
không có PNBA và được ủ ở hệ thống BACTEC 960. Nếu sự phát triển của
ống có PNBA đạt ≤ 100 đơn vị (Growth Unit) được coi là nhậy cảm và được
xác định là M. tuberculosis.
▪ Phương pháp COBAS AMPLICOR MTB, AccuProbe
▪ Phương pháp miễn dịch sắc ký (immunochromatographic assay) [40].
* Về bội nhiễm khi nuôi cấy
Với môi trường nuôi cấy lỏng, tỉ lệ bội nhiễm 7 - 8 % là chấp nhận được.
Tỉ lệ bội nhiễm thấp (< 3 %) có nghĩa là quá trình chống bội nhiễm quá mức
cần thiết, điều này có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của mycobacteria và
ảnh hưởng đến tỉ lệ dương tính và tăng thời gian phát hiện dương tính. Ngược

lại, tỉ lệ bội nhiễm cao (> 8 %) có thể do các nguyên nhân sau:
- Quá trình chống bội nhiễm không đúng hoặc dưới mức cần thiết.
- Bệnh phẩm quá nhầy, khó hóa lỏng làm tăng tỉ lệ bội nhiễm.
- Thời gian bảo quản và vận chuyển bệnh phẩm lâu sau khi đã được thu
thập. Trong những trường hợp đó, đặc biệt trong thời tiết nóng, tạp khuẩn có
xu hướng phát triển nhanh và khó bị tiêu diệt bởi quá trình chống bội nhiễm
thường quy.
- Dùng các dụng cụ không tiệt trùng như pipett, ống
* Hạn chế của phương pháp MGIT BACTEC
- Không thấy được hình thái và mầu sắc khuẩn lạc.
- Một vi khuẩn còn sống sau khi khử tạp khuẩn và không bị PANTA ức
chế có thể gây bội nhiễm dung dịch nuôi cấy.
- Ống MGIT dương tính có thể chứa hỗn hợp của hơn một nhóm
mycobacteria.

×