ĐẶT VẤN ĐỀ
Rối loạn sự thích ứng là hội chứng cảm xúc và hành vi xuất hiện khi cá
thể đáp ứng lại với những sự kiện gây sang chấn trong cuộc sống.Trong cuộc
sống luôn thay đổi, mỗi cá nhân không tránh khỏi gặp những sang chấn,
những áp lực từ cuộc sống. Khi các sang chấn vượt quá cơ chế tự điều chỉnh,
thích ứng của cá thể sẽ gây ra những trở ngại trong hoạt động xã hội và nghề
nghiệp của cá thể. Vì vậy tỷ lệ rối loạn sự thích ứng có thể ngày càng tăng
cao. Theo Kaplan – Sadock, tỷ lệ rối loạn sự thích ứng 2-8% dân số chung
[1]. Có khoảng 7,1% ở người trưởng thành và 34,4% trẻ thanh thiếu niên ở
các trung tâm cấp cứu tâm thần được báo cáo là rối loạn sự thích ứng [2]. Tỷ
lệ rối loạn sự thích ứng cao trong nhóm bệnh nhân mắc các bệnh mạn tính hay
bệnh lý nan y [3].
Các yếu tố gây sang chấn trong rối loạn sự thích ứng là những biến cố
thường gặp trong cuộc sống, không phải bất thường hoặc có tính thảm họa,
như mất người thân, đổ vỡ trong mối quan hệ, mắc bệnh lý cơ thể nặng tác
động lên nhân cách dễ bị tổn thương gây ra các biểu hiện lo âu, trầm cảm, mất
khả năng ứng phó, dự định tương lai phía trước [4].
Rối loạn sự thích ứng gây ra sự suy giảm các hoạt động xã hội, nghề
nghiệp hay sáng tạo của người bệnh và tăng nguy cơ bỏ trị, giảm hiệu quả
điều trị ở các bệnh nhân có bệnh mạn tính. Thêm vào đó, rối loạn sự thích ứng
làm tăng nguy cơ tự sát và tự hủy hoại. Theo một nghiên cứu, rối loạn sự
thích ứng có tỷ lệ tự sát cao gấp 12 lần so với những người không có rối loạn
sự thích ứng [5].
Trên thực hành lâm sàng, chẩn đoán các triệu chứng của rối loạn sự
thích ứng khó phân biệt với các chẩn đoán rối loạn cảm xúc chương F30-F39,
rối loạn liên quan stress khác chương F40-48. Cũng như sự khó khăn trong
phân biệt rối loạn sự thích ứng và các phản ứng thông thường trước các stress
[6][7]. Việc chẩn đoán đúng rối loạn sự thích ứng sẽ giúp quá trình điều trị và
1
tiên lượng người bệnh được tốt hơn, làm giảm chi phí điều trị và tăng chất
lượng cuộc sống, cũng như tăng khả năng nghề nghiệp cho người bệnh [6].
Hiện nay ở nước ta, tại Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia và các cơ sở
khám chữa bệnh tâm thần nói chung chưa có nghiên cứu nào về các khía cạnh
của rối loạn sự thích ứng. Để có cái nhìn tổng quan về bức tranh lâm sàng rối
loạn sự thích ứng, chúng tôi chọn đề tài “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng rối
loạn sự thích ứng ở bệnh nhân điều trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm
thần” với mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn sự thích ứng ở bệnh nhân điều trị
nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần.
2. Nhận xét điều trị rối loạn sự thích ứng ở nhóm đối tượng trên.
2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG VỀ RỐI LOẠN SỰ THÍCH ỨNG
1.1.1. Khái niệm rối loạn sự thích sự thích ứng [4], [8].
Rối loạn sự thích ứng là các trạng thái đau khổ chủ quan và rối loạn
cảm xúc, thường gây trở ngại cho hoạt động xã hội và hiệu xuất công việc,
xuất hiện trong thời kỳ thích ứng với sự thay đổi đáng kể trong đời sống, hậu
quả của một sự kiện đời sống gây stress, những hoàn cảnh khó chịu liên tục.
Theo ICD 10, các yếu tố gây stress trong rối loạn sự thích ứng là những
stress thường gặp trong cuộc sống, có thể đồng cảm được, không phải loại bất
thường và có tính thảm họa. Các yếu tố gây stress có thể là một sang chấn
như mất việc làm, ly hôn hoặc nhiều sang chấn xảy ra đồng thời hoặc nối tiếp
nhau như cái chết của người thân xảy ra đồng thời với bệnh cơ thể và mất
việc làm. Các yếu tố stress có thể tác động lên cá nhân hoặc xảy ra trên cùng
một nhóm người như các thảm họa thiên nhiên hoặc khủng bố tôn giáo, sắc
tộc.
Trong rối loạn sự thích ứng, vai trò của nhân cách được nhấn mạnh hơn
các rối loạn khác trong mã chẩn đoán rối loạn liên quan đến stress. Nét nhân
cách của người bệnh được miêu tả là tính dễ bị tổn thương. Khi gặp các yếu tố
gây stress, ở các cá nhân có cơ chế ứng phó không hoàn thiện sẽ phản ứng
bằng các rối loạn trong cảm xúc hành vi. Ở những cá nhân có cơ chế ứng phó
với stress hoàn thiện sẽ ít bị bệnh hơn và sẽ hồi phục nhanh sau sang chấn.
Các triệu chứng của rối loạn sự thích ứng bao gồm trầm cảm, lo âu,
cảm giác không có khả năng ứng phó, không có kế hoạch cho tương lai phía
trước, không thể tiếp tục tình hình hiện tại, những hành vi bạo lực, chống đối
xã hội. Các rối loạn này gây giảm đáng kể các hoạt động xã hội, nghề nghiệp
3
và quan hệ xã hội của người bệnh và kéo dài không quá 6 tháng (trừ rối loạn
sự thích ứng với phản ứng trầm cảm kéo dài).
Như vậy, rối loạn sự thích ứng là hệ quả của các yếu tố gây stress tác
động lên nhân cách dễ bị thương tổn gây ra các rối loạn về cảm xúc và hành
vi gây giảm khả năng làm việc, nghề nghiệp, giảm chất lượng cuộc sống của
người bệnh.
1.1.2 Dịch tễ học
Dân số chung: Theo Kaplan – Sadock tỷ lệ rối loạn sự thích ứng là 2-
8% dân số chung [1]. Rối loạn sự thích ứng là một chẩn đoán rối loạn tâm
thần phổ biến nhất ở các bệnh nhân ở các cơ sở khám chữa bệnh. Tỷ lệ
khoảng 23% các bệnh nhân ở các cơ sở khám bệnh được báo cáo là rối loạn
sự thích ứng. Tỷ lệ rối loạn sự thích ứng cao trong nhóm bệnh nhân mắc các
bệnh mạn tính hay bệnh lý nan y. Theo một nghiên cứu tổng hợp của Mitchell
và cộng sự tỷ lệ chẩn đoán rối loạn sự thích ứng khoảng 15.4% ở khoa Chống
đau – giảm nhẹ, khoảng 19.4% ở khoa Ung thư và khoa Huyết học[3]. Thêm
vào đó, khoảng 10-30% số bệnh nhân điều trị ngoại trú các rối loạn tâm thần
được chẩn đoán rối loạn sự thích ứng [1].
Giới : Rối loạn sự thích ứng gặp nhiều ở nữ giới hơn nam giới. Tỷ lệ
nữ/ nam xấp xỉ 2/1[1]. Nhưng ở trẻ em và thanh thiếu niên không có sự khác
biệt về chẩn đoán rối loạn sự thích ứng giữa trẻ gái và trẻ trai. Theo Jones và
cộng sự nhận thấy rằng rối loạn sự thích ứng có sự phân bố ở hai giới ngang
bằng hơn so với trầm cảm điển hình và rối loạn khí sắc [9].
Tuổi: Rối loạn sự thích ứng có thể bắt đầu ở bất kỳ lứa tuổi nào. Phổ
biến nhất ở lứa tuổi thanh thiếu niên [2]. Faulstich và cộng sự [10]cho biết
khoảng 12,5% số thanh thiếu niên điều trị nội trú được chẩn đoán là rối loạn
sự thích ứng. Các stress thường gặp ở lứa tuổi thanh thiếu niên là các vấn đề ở
trường học, sự chối bỏ của cha mẹ, cha mẹ ly hôn và lạm dụng chất [1].Theo
Casey và cs thấy rằng không có sự khác biệt về tỷ lệ mắc rối loạn sự thích
ứng giữa các nhóm tuổi khác nhau [11].
4
1.1.3. Bệnh nguyên và bệnh sinh rối loạn sự thích ứng
1.1.3.1. Bệnh nguyên
Stress rất thường gặp trong cuộc sống. Cá thể nào cũng phải đối mặt với
những thử thách xuất phát từ điều kiện môi trường bên ngoài và từ những nhu
cầu cá nhân. Những thử thách này là những vấn đề của cuộc sống mà cá thể
phải giải quyết để tồn tại và phát triển.
Tác nhân gây stress là một sự kiện kích thích từ bên trong hoặc từ bên
ngoài đặt ra một yêu cầu khiến cơ thể phải có một đáp ứng thích nghi nào đó.
Cơ thể con người phản ứng trước các yếu tố gây stress bằng một loạt các phản
ứng đa dạng bao gồm các đáp ứng về sinh lý, hành vi, cảm xúc và nhận
thức…Như vậy, Stress bao gồm hai thành tố: tình huống gây stress và phản
ứng của cơ thể trước những tác nhân đó.
Trong điều kiện bình thường, tác nhân stress đặt chủ thể vào quá trình
dàn xếp thích ứng, tạo ra một cân bằng mới cho cơ thể sau khi chịu những tác
động của môi trường. Nói cách khác, phản ứng stress bình thường đã góp
phần làm cho cơ thể thích nghi về mặt tâm lý, sinh học và tập tính. Nếu đáp
ứng của chủ thể với các yếu tố stress không đầy đủ, không thích hợp và cơ thể
không tạo ra một cân bằng mới, thì những chức năng của cơ thể ít nhiều bị rối
loạn, những dấu hiệu bệnh lý cơ thể, tâm lý, tập tính sẽ xuất hiện tạo ra các rối
loạn liên quan stress cấp tính hoặc kéo dài.
Phương thức gây bệnh của stress rất đa dạng và phức tạp
(1) Stress gây bệnh có thể mạnh, cấp diễn hoặc không mạnh nhưng
trường diễn. Tính chất gây bệnh của stress phần lớn phụ thuộc vào ý nghĩa
thông tin đối với một cá thể nhất định. (2) Bệnh có thể xuất hiện do một sang
chấn duy nhất hoặc do nhiều sang chấn kết hợp. Sự xuất hiện của bệnh có thể
xảy ra ngay sau khi bị sang chấn hoặc sau một thời gian ngấm sang chấn. (3)
Có thể sang chấn là nguyên nhân trực tiếp gây bệnh tâm căn nhưng cũng có
5
thể chỉ là nhân tố thúc đẩy một bệnh cơ thể hay một bệnh loạn thần phát sinh.
(4) Tính gây bệnh của stress còn tùy thuộc vào sự chuẩn bị của tâm thần và cơ
thể trước một stress, stress càng bất ngờ thì càng dễ gây bệnh. (5) Sang chấn
có tính chất gây bệnh nếu người chịu sang chấn khó tìm được lối thoát trong
tương lai. (6) Những sang chấn gây phân vân giao động hoặc gây xung đột giữa
nhưng khuynh hướng khó dung hòa là những sang chấn thường gây bệnh.
Rối loạn sự thích ứng thường xuất hiện sau một hay nhiều yếu tố sang
chấn. Cường độ của các sang chấn không phải luôn tương xứng với mức độ
trầm trọng của rối loạn sự thích ứng. Tính chất gây bệnh của sang chấn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố: số lượng sang chấn, thời lượng tác động, khả năng hồi
phục, bối cảnh môi trường, sức khỏe cơ thể của đối tượng. Đặc điểm nhân
cách, các chuẩn mực, giá trị đạo đức, văn hóa xã hội… cũng đóng vai trò
trong các đáp ứng không tương xứng với yếu tố sang chấn [8][12].
1.1.3.2. Bệnh sinh [1],[13],[14][15].
•Thuyết về các nhân tố tâm lý động (Psychodynamic Factors)
Điểm mấu chốt khi tìm hiểu về rối loạn sự thích ứng đó là tìm hiểu về
ba yếu tố: bản chất của sang chấn tâm lý, ý nghĩa có ý thức và vô thức của
sang chấn tâm lý, và nhân cách dễ bị tổn thương của đối tượng. Nhân cách dễ
bị tổn thương cũng có thể liên quan với sự mất bố mẹ trong thời thơ ấu.
Sigmund Freud, trong suốt cuộc đời, tác giả đặc biệt quan tâm tại sao
yếu tố sang chấn tâm lý thông thường của cuộc đời có thể gây bệnh cho người
này nhưng không gây bệnh cho người khác và tại sao biểu hiện của cùng một
bệnh có các dạng riêng biệt. Ông đã đưa ra vai trò quan trọng của các yếu tố
cơ thể và nhìn nhận chúng có ảnh hưởng qua lại với các trải nghiệm trong
cuộc đời của con người. Các nhà phân tâm học đã đánh giá vai trò của người
mẹ và môi trường chăm sóc, nuôi dạy với khả năng đáp ứng với sang chấn
tâm lý sau này. Donald Winnicott đã đưa ra một quan điểm quan trọng về
6
người mẹ “tốt đầy đủ” ( good – enough mother) là người đáp ứng những nhu
cầu của con cái và dự phòng cho con khả năng khi lớn lên có thể khoan dung,
bỏ qua những thất bại trong cuộc đời. Từ giai đoạn sớm của sự phát triển, mỗi
một đứa trẻ đã thiết lập hệ thống các cơ chế bảo vệ của mình trước các yếu tố
sang chấn. Trong quá trình trải nghiệm cuộc sống, ở một số trẻ có cơ chế bảo
vệ chín muồi hơn so với những trẻ khác. Nhũng trẻ mà các cơ chế bảo vệ
không hoàn thiện này khi lớn lên sẽ phản ứng bằng các phản ứng đáng kể
trong cảm xúc, hành vi… khi phải đối đầu với các sang chấn (mất người thân,
tiền bạc, gia đình tan vỡ…). Những người có cơ chế bảo vệ chín muồi sẽ ít bị
bệnh hơn và hồi phục trở lại nhanh hơn sau những tác động của sang chấn.
Các nghiên cứu cho thấy bản chất mối quan hệ của đứa trẻ lúc còn nhỏ với bố
mẹ có một ý nghĩa quan trọng trong việc thiết lập các cơ chế bảo vệ của
chúng. Một mối quan hệ với tình yêu thương săn sóc, giúp đỡ… có vai trò
giúp trẻ tăng khả năng chịu đựng và giảm tác động gây bệnh của sang chấn.
•Thuyết về thần kinh – nội tiết
Nhà nội tiết người Canada Hans Seley nghiên cứu các ảnh hưởng của
stress tác động lên cơ thể theo cơ chế thần kinh – nội tiết. Theo Seley, có
nhiều loại tác nhân gây stress có thể làm khởi phát cùng một phản ứng toàn
thân hoặc đáp ứng chung cơ thể. Đây là những phản ứng nhằm khôi phục lại
tình trạng cân bằng nội môi, khắc phục được các tình huống để đảm bảo duy
trì và thích nghi thỏa đáng của cơ thể trước những điều kiện sống luôn biến
đổi. Seley mô tả đáp ứng toàn thân với các tác nhân gây stress không đặc hiệu
như vậy là hội chứng thích ứng chung.
Hội chứng thích ứng chung bao gồm 3 giai đoạn :
- Giai đoạn báo động: trước tác động của stress mạnh, đột ngột cơ thể sẽ
phản ứng một cách tự phát, biểu hiện bằng các triệu chứng của hệ thần kinh
thực vật: tim đập nhanh, vã mồ hôi, run… Giai đoạn này có sự tăng tiết nhóm
catecholamin.
7
- Giai đoạn kháng cự: dưới tác động của các stress kéo dài thông qua hệ
thống thần kinh trung ương gây kích thích hệ thống dưới đồi – tuyến yên –
tuyến thượng thận, làm tăng giải phóng corticoid. Dưới tác động của corticoid
sẽ huy động toàn bộ chức năng của cơ thể đương đầu với stress.
- Giai đoạn suy kiệt: do stress quá mức hoặc nhiều stress tác động trường
diễn là các biến đổi cơ thể mất khả năng bù trừ, khả năng thích nghi bị rối
loạn và từ đó xuất hiện nhiều rối loạn bệnh lý khác nhau.
•Thuyết Pavlop
Theo I.V.Pavlop, sự hoạt động của hệ thần kinh phụ thuộc vào mối
quan hệ qua lại hai hệ thống tín hiệu. Đó là hệ thống tín hiệu thứ nhất (cảm
giác, tri giác…cụ thể) và hệ thống tín hiệu thứ hai (lời nói, chữ viết). Tùy vào
sự ưu thế của hệ thống tín hiệu nào, Pavlop chia ba loại hình thần kinh ở
người đó : loại hình thần kinh lý trí, loại hình thần kinh nghệ sỹ và loại hình
thần kinh trung gian. Với những người có ưu thế chức năng hoạt động hệ tín
hiệu thứ hai sẽ có loại hình thần kinh lý trí với khuynh hướng lý trí, tư duy
trừu tượng logic, ít thể hiện cảm xúc. Trường hợp ưu thế hệ thống tín hiệu thứ
nhất sẽ cho ta loại hình thần kinh nghệ sỹ có lối tư duy cụ thể, ưu thế tưởng
tượng, linh hoạt, thể hiện cảm xúc mạnh. Sự thăng bằng trong hoạt động của
hai hệ thống tín hiệu cho loại hình thần kinh trung gian, đây là loại hình thần
kinh thường gặp nhất.
Loại hình thần kinh có tính chất di truyền, nhưng nó cũng chịu sự chi
phối của các đặc điểm tâm lý xã hội, điều kiện môi trường và thay đổi do rèn
luyện và giáo dục. Loại hình thần kinh là một thành phần của nhân cách và có
ý nghĩa trong cơ chế hình thành rối loạn sự thích ứng. Những người với nhân
cách dễ bị tổn thương : dễ xúc động, khó làm chủ bản thân, bi đát trước các
tình huống stress, đánh giá cao khó khăn, đánh giá thấp bản thân thì ít có khả
năng thích ứng khi có các tác nhân gây stress.
8
•Thuyết nhận thức hành vi
Aaron Beck người đưa ra lý thuyết nhận thức, theo tác giả ‘con người
bị lo âu, nhiễu loạn không phải do các sự vật mà do chính sự nhìn nhận của
con người đối với sự vật đó’. Cảm xúc và hành vi của mỗi con người trước sự
tác động của các kích thích từ môi trường dựa trên cơ sở nhận thức của họ
(bằng các ý tưởng ngôn ngữ hoặc hình ảnh có sẵn trong ý thức) và dựa vào
các giả định, các niềm tin đã được phát triển qua các trải nghiệm của chính họ
trước đó.
Theo lý thuyết nhận thức hành vi, các triệu chứng của bệnh tâm căn là
những tập tính đã bị tập nhiễm trong quá trình đáp ứng các kích thích của môi
trường trên sự khái quát hóa kích thích ban đầu.
1.1.4 Chẩn đoán rối loạn sự thích ứng
Tiêu chuẩn chẩn đoán theo ICD 10 (dành cho nghiên cứu)
A. Sự khởi phát các triệu chứng phải xảy ra trong vòng một tháng kể từ
khi tiếp xúc với sang chấn tâm lý xã hội có thể đồng cảm được, không phải là
loại bất thường hoặc có tính thảm họa.
B. Bệnh nhân biểu hiện các triệu chứng hoặc các loại rối loạn hành vi
gặp trong bất kỳ rối loạn cảm xúc nào (F30-F39) (ngoại trừ hoang tưởng, ảo
giác), hoặc trong bất cứ rối loạn nào trong mục từ F40-F48 (các rối loạn tâm
thần liên quan đến stress) và các rối loạn hành vi (F91) nhưng các tiêu chuẩn
đối với rối loạn riêng biệt thì không được đáp ứng đầy đủ. Các triệu chứng có
thể khác nhau cả về dạng và độ nặng.
Tiêu chuẩn chẩn đoán theo DSM IV
A. Các triệu chứng cảm xúc hoặc hành vi xuất hiện trong phạm vi ba
tháng sau tác động của một sang chấn tâm lý nhất định.
B. Các triệu chứng và hành vi đó có ý nghĩa lâm sàng rõ rệt
9
Sự đau khổ quá mức không tương xứng với stress.
Gây rối đáng kể trong các hoạt động xã hội, nghề nghiệp của người bệnh.
C. Các rối loạn này không đáp ứng các tiêu chuẩn các rối loạn tâm thần
đặc hiệu khác (trục I) hay không phải sự tăng đậm của các rối loạn nhân cách
đã có sẵn (trục II).
D. Các triệu chứng này không phải là phản ứng thông thường trước các
tang tóc, mất mát tình cảm sâu sắc.
E. Một khi yếu tố sang chấn (hoặc hậu quả của sang chấn) không còn
nữa thì các triệu chứng sẽ không kéo dài quá 6 tháng sau.
Stress gây rối loạn sự thích ứng phải có ý nghĩa gây bệnh và có mối liên
quan ảnh hưởng của stress trên các biểu hiện lâm sàng. Với mô tả chẩn đoán
rối loạn sự thích ứng, nhấn mạnh các đặc điểm chẩn đoán a) phản ứng với
một stress đáng kể b) kém thích ứng với stress, với rối loạn chức năng xã hội
và công việc c) rối loạn về khí sắc, lo âu và hành vi gây rối, các biểu hiện
không điển hình, không đầy đủ đáp ứng tiêu chuẩn của rối loạn riêng biệt. Sự
không rõ ràng trong tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn sự thích ứng được biện
minh rằng, sự gắn kết sớm với một trạng thái tâm thần khi bức tranh lâm sàng
còn mơ hồ, chưa rõ ràng nhưng khả năng mắc bệnh lớn hơn là khả năng các
phản ứng thông thường.
Theo Casey, Dowrick [16] cần phân biệt với các biểu hiện đa dạng của
rối loạn sự thích ứng với các phản ứng tâm lý bình thường. Theo Casey [11]
ranh giới giữa rối loạn sự thích ứng và các phản ứng tâm lý bình thường trước
các stress cuộc sống có thể được phân định bởi quan điểm cho rằng rối loạn
sự thích ứng ngụ ý mức độ nghiêm trọng của sự rối loạn đến mức gây ra sự
quan tâm trên lâm sàng và điều trị. Thứ hai trong chẩn đoán rối loạn sự thích
ứng các triệu chứng khó phân biệt với các rối loạn tâm thần khác. Trong
ICD10 và DSM IV nhấn mạnh nếu các triệu chứng lâm sàng đủ tiêu chuẩn
10
chẩn đoán các rối loạn khác thì không chẩn đoán rối loạn sự thích ứng. Trên
thực tế lâm sàng, qua các nghiên cứu nhận thấy rằng rất khó phân biệt triệu
chứng của rối loạn sự thích ứng và các rối loạn tâm thần khác ví dụ như trầm
cảm điển hình.
1.2. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG RỐI LOẠN SỰ THÍCH ỨNG
1.2.1 Đặc điểm nhân cách và stress trong rối loạn sự thích ứng
Các yếu tố stress là nguyên nhân gây rối loạn sự thích ứng. Theo ICD
10, các stress có thể đồng cảm được, những sự thay đổi trong các tình huống
hằng ngày, có thể gây stress cho nhiều người. Theo Fabrega và cs với những
người bị rối loạn sự thích ứng có thể do các yếu tố stress thông thường tác
động đến người có tính dễ tổn thương cao hoặc do các yếu tố stress mạnh tác
động đên những người có tính dễ tổn thương trung bình [7].
Những thay đổi đột ngột trong tình huống cuộc sống hàng ngày như
mất việc làm, thất bại, tan vỡ trong mối quan hệ, người thân đau ốm, thay
đổi môi trường…Mặc dù sự thay đổi trong cuộc sống luôn diễn ra, nhưng
sự đột ngột, xuất hiện quá nhiều hoặc kéo dài là nguồn gốc gây stress cho
nhiều người.
Các yếu tố gây stress có thể là khủng hoảng trong các mốc phát triển
như bắt đầu đến trường, rời khỏi nhà, kết hôn…hoặc những sang chấn ngẫu
nhiên như tai nạn ô tô, bị cướp bóc, bị hãm hiếp[14]…
Có thể là một sang chấn (như ly hôn, mất việc làm) hoặc nhiều sang
chấn xảy ra đồng thời hoặc kế tiếp nhau (ví dụ như cái chết của người thân
xảy ra đồng thời với bệnh cơ thể và mất việc làm…) bất hòa trong gia đình có
thể gây bệnh cho nhiều người trong gia đình đó hoặc ở người là nạn nhân của
bạo lực hay người có sẵn bệnh lý cơ thể[8].
Sự liên quan giữa cá nhân và các yếu tố sang chấn bao gồm các đặc
điểm cá nhân (tuổi, giới, tình trạng sức khỏe, bệnh lý cơ thể kèm theo), các
11
yếu tố liên quan như trình độ học vấn, đạo đức, chính trị, tôn giáo, sự gắn kết
trong gia đình, tình trạng kinh tế [6].
Theo ICD 10, nhấn mạnh vai trò của nhân cách trong rối loạn sự thích
ứng hơn các rối loạn khác của F43_ (phản ứng với stress trầm trọng và các rối
loạn sự thích ứng). Sự tác động của các stress từ cuộc sống như sự khó khăn
kéo dài, kết hợp với các phản ứng cá nhân, yếu tố tâm lý xã hội mang tính
‘tiêu cực’ như lòng tự trọng thấp, bi quan, trốn tránh, tự trách mình có vai trò
quan trọng trong sự phát triển trầm cảm. Ngược lại yếu tố nhận thức tích cực
làm giảm sự phát sinh bệnh [17][18]. Mỗi stress có ý gây bệnh khác nhau phụ
thuộc vào sự đánh giá chủ quan của mỗi cá thể, có thể cùng một loại sang
chấn có ý nghĩa gây bệnh phụ thuộc vào sự đánh giá chủ quan của người đó
với stress. Trong một nghiên cứu của Mitchell và cộng sự [19] nhận thấy rằng
các stress cả cấp diễn và trường diễn có nhiều khả năng xảy ra ở lần mắc bệnh
đầu tiên chứ không phải là những lần tái phát tiếp theo, đặc biệt là đối với
những người bị trầm cảm không-nội sinh. Những phát hiện này phù hợp với
các nghiên cứu khác trong việc gợi ý rằng có sự tăng nhạy cảm của bệnh nhân
trầm cảm ở những lần tái phát tiếp theo của trầm cảm ‘không nội sinh’.
1.2.2 Đặc điểm lâm sàng của rối loạn sự thích ứng
Khi các stress tác động vào cơ thể, cơ thể sẽ đánh giá, áp dụng những
cơ chế ứng đối phó và phòng vệ thường dùng, khi vượt quá sự phòng vệ
thường dùng cùng với sự hỗ trợ từ gia đình, xã hội ,sức mạnh của nhân cách
sẽ hình thành cơ chế ứng phó và phòng vệ mới. Nếu cơ chế này thích hợp sẽ
hình thành sự thích nghi mới và tăng khả năng hồi phục với stress về sau .
Nếu cơ chế này không thích hợp sẽ gây ra các phản ứng với stress và rối loạn
sự thích ứng, giảm khả năng hồi phục với stress về sau [14].
Các biểu hiện trong rối loạn sự thích ứng bao gồm khí sắc trầm, lo âu,
phiền muộn, hoặc hỗn hợp cả hai loại đó, một cảm giác không có khả năng
12
đối phó, không có dự định tương lai, hoặc không tiếp tục trong hoàn cảnh
hiện tại và giảm sút hiệu quả các hoạt động hàng ngày. Người bệnh lâm vào
một tác phong bi đát hoặc cơn bùng nổ thô bạo, các tác phong công kích hoặc
hành vi chống đối xã hội là các triệu chứng kết hợp và thường gặp ở thanh
thiếu niên. Nhưng trong các biểu hiện đó không có triệu chứng nào đủ trầm
trọng hoặc nổi bật để đặt riêng một chẩn đoán đặc hiệu hơn. Ở trẻ em, hiện
tượng thoái triển như đái dầm, nói bập bẹ, hoặc mút tay thường là mô hình
của một phần triệu chứng rối loạn sự thích ứng.
Theo ICD 10 rối loạn sự thích ứng bao gồm các thể lâm sàng :
•Phản ứng trầm cảm ngắn
•Phản ứng trầm cảm kéo dài
•Phản ứng hỗn hợp lo âu và trầm cảm
•Với các cảm xúc khác chiếm ưu thế
•Với rối loạn hành vi chiếm ưu thế
•Với rối loạn hỗn hợp cảm xúc và hành vi
•Với các triệu chứng ưu thế biệt định khác
1.2.2.1 Rối loạn sự thích ứng với phản ứng trầm cảm
Trong thực hành lâm sàng khó phân biệt rối loạn sự thích ứng với phản
ứng trầm cảm và trầm cảm nội sinh. Trầm cảm nội sinh có những biểu hiện
đặc trưng bởi các đặc điểm như có bằng chứng rõ ràng của vấn đề di truyền;
có các triệu chứng lâm sàng rõ ràng; đáp ứng với giả dược tối thiểu, đáp ứng
hiệu quả với các điều trị sinh học như thuốc chống trầm cảm và sốc điện.
Trong trầm cảm nội sinh sự rối loạn tâm lý vận động biểu hiện rõ ràng. Rối
loạn tâm lý vận động biểu hiện bằng hai cách. Phần lớn thể hiện sự chậm
chạp, có xu hướng bất động cơ thể, nét mặt và chậm trả lời câu hỏi, nói chậm
hơn hoặc im lặng. Biểu hiện của rối loạn tâm lý vận động là các triệu
chứng nhận thức, sự tập trung chú ý giảm rõ, người bệnh thường mất sự
13
chú ý, tư duy nghèo nàn, rời rạc trong lời nói. Trong trường hợp nặng có
thể có ‘mất trí giả’[20]
Rối loạn sự thích ứng với phản ứng trầm cảm không có yếu tố di
truyền, phát triển như là một đáp ứng với yếu tố stress. Trong triệu chứng
không có sự rối loạn tâm lý vận động. Thường các triệu chứng nhẹ và vừa,
không có triệu chứng loạn thần.
Theo ICD10, hội chứng trầm cảm bao gồm :
Ba triệu chứng chính :
- Khí sắc trầm đến một mức độ hoàn toàn không bình thường đối với
hầu như trong mọi ngày không chịu ảnh hưởng nhiều bởi hoàn cảnh.
- Mất những quan tâm hứng thú trong những hoạt động mà khi bình
thường vẫn làm người bệnh hứng thú.
- Giảm năng lượng và tăng mệt mỏi.
Bảy triệu chứng phổ biến
- Mất lòng tin hoặc sự tự trọng
- Có cảm giác bị tội quá mức hoặc không thích hợp và tự trách bản
thân mình không hợp lý.
- Có ý nghĩ về cái chết hoặc ý nghĩ tự sát tái diễn, hoặc bất cứ hành vi
tự sát nào.
- Hay phàn nàn hoặc có bằng chứng về sự giảm khả năng suy nghĩ
hoặc tập trung như thiếu quả quyết hoặc luôn giao động.
- Thay đổi trong hoạt động tâm thần vận động với sự kích động hoặc
chậm chạp (chủ quan hoặc khách quan).
- Rối loạn giấc ngủ bất kỳ loại nào.
- Thay đổi cảm giác ngon miệng (tăng hoặc giảm) với sự thay đổi trọng
lượng cơ thể tương ứng.
14
Trong rối loạn sự thích ứng với phản ứng trầm cảm ngắn trạng thái
trầm cảm nhẹ, nhất thời, kéo dài không quá một tháng. Nếu trạng thái trầm
cảm kéo dài (không quá 2 năm) thì xếp vào thể phản ứng trầm cảm kéo dài.
1.2.2.2 Rối loạn sự thích ứng với phản ứng hỗn hợp lo âu và trầm cảm
(F43.22)
Phổ biến ở người có nét nhân cách né tránh, lo lắng, hay cầu toàn. Khi
gặp yếu tố gây stress người bệnh thường lo lắng, nghiền ngẫm quá mức. Các
triệu chứng lo âu tương ứng với các tác nhân gây stress. Các triệu chứng lo âu
có mặt cùng với các triệu chứng trầm cảm nhưng không nổi bật như trong rối
loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm (F41.2) hoặc các rối loạn lo âu hỗn hợp khác
(F41.3) [4][21].
Hội chứng lo âu bao gồm :
Các triệu chứng kích thích thần kinh thực vật : (a)Hồi hộp, tim đập
mạnh, nhịp tim nhanh ; (b)Vã mồ hôi ; (c)Run; (d)Khô miệng.
Các triệu chứng liên quan đến vùng ngực bụng: (a) Khó thở; (b) Cảm
giác nghẹn; (c) Đau và khó chịu ở ngực; (d) Buồn nôn và khó chịu ở bụng.
Các triệu chứng liên quan đến trạng thái tâm thần: (a) Chóng mặt,
không vững, ngất xỉu hoặc choáng váng; (b) Cảm giác mọi đồ vật không thật
hoặc bản thân ở rất xa hoặc không thực sự ở đây; (c) Sợ mất kiềm chế, ‘hóa
điên’ hoặc ngất xỉu; (d) Sợ bị chết.
Các triệu chứng toàn thân: (a) Các cơn đỏ mặt hoặc ớn lạnh; (b) Tê
cóng hoặc cảm giác kim châm.
Các triệu chứng căng thẳng: (a) Căng cơ hoặc đau đớn; (b) Bồn chồn
không thể thư giãn; (c) Có cảm giác tù túng đang ở bên bờ vực hoặc căng
thẳng tâm thần; (d) Có cảm giác có khối trong họng, hoặc khó nuốt.
15
Các triệu chứng không đặc hiệu khác: (a) Đáp ứng quá mức với một
sự ngạc nhiên nhỏ hoặc bị giật mình; (b) Khó tập trung hoặc “đầu óc trở nên
trống rỗng” vì lo lắng hoặc lo âu; (c) Cáu kỉnh dai dẳng; (d) Khó ngủ vì lo lắng.
1.2.2.3 Rối loạn sự thích ứng với rối loạn cảm xúc khác chiếm ưu thế
(F43.23)
Theo ICD 10 các triệu chứng thường thuộc vài loại rối loạn cảm xúc,
như lo âu, trầm cảm, lo lắng, căng thẳng, và giận giữ. Các triệu chứng lo âu
và trầm cảm có thể đáp ứng các tiêu chuẩn của rối loạn lo âu và trầm cảm hỗn
hợp F41.2 hoặc của các rối loạn lo âu hỗn hợp khác (F41.3), nhưng chúng ít
chiêm ưu thế đến nỗi có thể chẩn đoán thành các rối loạn lo âu hoặc trầm cảm
khác đặc hiệu hơn. Mục này cũng nên được dùng đối với các phản ứng ở trẻ
có hành vi thoái triển như đái dầm hoặc mút ngón tay.
1.2.2.4 Rối loạn sự thích ứng với rối loạn hành vi chiếm ưu thế (F43.24)
Rối loạn chính là rối hành vi. Theo ICD 10 các triệu chứng của rối loạn
hành vi bao gồm:
- Thường xuyên có cơn cáu giận trầm trọng.
- Thường hay cãi người lớn.
- Thường chủ động từ chối các yêu cầu của người lớn hoặc không tuân
theo các luật lệ.
- Cố tình rõ rệt làm những việc gây khó chịu cho người khác.
- Thường đổ lỗi cho người khác.
- Dễ “chạm tự ái” hoặc dễ bị làm khó chịu bởi người khác.
- Thường hay cáu giận và phẫn uất.
- Thường có thái độ ác ý và hận thù.
- Nói dối, không giữ lời hứa để nhận quà hoặc tránh né nghĩa vụ.
16
- Thường hay gây sự đánh nhau.
- Sử dụng vũ khí có thể làm bị thương trầm trọng người khác.
- Thường đi chơi khuya mặc cho bố mẹ ngăn cấm.
- Biểu hiện tàn bạo với người khác.
- Biểu hiện tàn bạo với súc vật.
- Cố tình phá hủy tài sản của người khác
- Cố tình châm lửa đốt với ý định gây ra những tổn hại nghiêm trọng
- Lấy trộm đồ vật có giá trị không có sự đối mặt của người bị hại
- Hay trốn học bắt đầu trước tuổi 13.
- Đã bỏ đi khỏi nhà ít nhất 2 lần hoặc 1 lần qua nhiều đêm.
- Phạm tội có sự đối mặt với người bị hại (trấn lột, tống tiền…)
- Cưỡng ép người khác hoạt động tình dục.
- Thường bắt nạt người khác.
- Đột nhập vào nhà ở hoặc xe của người khác.
1.2.2.5 Rối loạn sự thích ứng với hỗn hợp cảm xúc và hành vi
Cả hai triệu chứng cảm xúc và rối loạn hành vi đều là những nét nổi bật.
1.2.2.6 Rối loạn sự thích ứng với các triệu chứng ưu thế biệt định khác
1.2.3 Đồng bệnh lý
1.2.3.1. Tự sát
Gradus và cộng sự nghiên cứu trên 9612 trường hợp tự sát ở Denmark
từ năm 1994- 2006. Mỗi trường hợp có 30 trường hợp đối chứng tương ứng
về tuổi, giới. Kết quả cho thấy rằng những trường hợp được chẩn đoán rối
loạn sự thích ứng có nguy cơ tự sát cao gấp 12 lần những trường hợp không
được chẩn đoán rối loạn sự thích ứng [5].
Quá trình tự sát (từ những ý tưởng đầu tiên về tự sát đến tự sát hoàn
thành) xảy ra ngắn hơn và nhanh hơn trong rối loạn sự thích ứng so với các
chẩn đoán bệnh tâm thần khác. Vì vậy cần chú trọng đến tự sát trên các
17
bệnh nhân rối loạn sự thích ứng. Nguy cơ tự sát cao ở những bệnh nhân
rối loạn sự thích ứng dai dẳng, đã có toan tự sát trước đó, ở phụ nữ những
nguy cơ này tăng theo tuổi [22].
Lứa tuổi từ 15-19 tuổi có nguy cơ tự sát cao nhất. Theo nghiên cứu
được tiến hành trên 109 trẻ vị thành niên có toan tự sát ở Đài Loan có 10%
được chẩn đoán rối loạn sự thích ứng, 46% có áp lực từ trường học, có 25%
có mâu thuẫn giữa bố mẹ và con cái [23].
1.2.3.2. Lạm dụng chất
Rối loạn sự thích ứng làm tăng yếu tố nguy cơ lạm dụng chất. Trên
thực tế lâm sàng sự lạm dụng rượu và các chất ma túy làm làm che lấp chẩn
đoán rối loạn sự thích ứng. Theo một nghiên cứu nhận thấy có 59% chẩn đoán
rối loạn sự dụng chất đổi thành rối loạn sự thích ứng [24].
1.3. ĐIỀU TRỊ RỐI LOẠN SỰ THÍCH ỨNG
Rối loạn sự thích ứng tồn tại trong thời gian ngắn, thường nhỏ hơn 6
tháng (trừ rối loạn sự thích ứng với phản ứng trầm cảm kéo dài). Mặc dù
không có biện pháp điều trị đặc hiệu nhưng các nghiên cứu đã chỉ ra ý
nghĩa của việc điều trị rối loạn sự thích ứng: làm giảm thời gian và độ
nặng của các triệu chứng, rút ngắn thời gian điều trị, tăng chất lượng cuộc
sống của người bệnh [6][11].
1.3.1 Liệu pháp tâm lý
Trong điều trị rối loạn sự thích ứng sử dụng liệu pháp tâm lý là lựa
chọn đầu tiên. Các liệu pháp tâm lý ngắn hạn có hiệu quả trong điều trị rối
loạn sự thích ứng [6][25][26].
1.3.1.1. Liệu pháp tâm lý động và liệu pháp nâng đỡ
Theo Maina và cộng sự nhận thấy rằng liệu pháp tâm lý động cùng với
liệu pháp nâng đỡ có hiệu quả trong điều trị các giai đoạn trầm cảm vừa [25].
18
∗Liệu pháp tâm lý động (dynamic psychotherapy)
Rối loạn sự thích ứng thuộc nhóm bệnh có căn nguyên tâm lý. Theo
thuyết phân tâm, điểm mấu chốt khi tìm hiểu về rối loạn sự thích ứng là tìm
hiểu về ba yếu tố: bản chất sang chấn tâm lý, ý nghĩa có ý thức và ý nghĩa vô
thức của sang chấn tâm lý và nhân cách dễ bị tổn thương của đối tượng [1].
Bằng các kỹ thuật trong tâm lý động, người bệnh sẽ được khuyết khích
để thổ lộ các suy nghĩ hoặc cảm giác liên quan đến vấn đề riêng tư, đau khổ,
khám phá vô thức và giải phóng điều bị dồn nén trong vô thức [27].
∗Liệu pháp nâng đỡ (supportive psychotherapy)
Trong liệu pháp tâm lý nâng đỡ, tác động nâng đỡ của nhà trị liệu có vai trò
quan trọng. Ý nghĩa của liệu pháp này là các bệnh nhân có rối loạn tâm thần có
nhu cầu hỗ trợ về mặt tâm lý để giúp họ vượt qua khủng hoảng [25][27].
Bằng nhiều kỹ thuật của liệu pháp nâng đỡ đem lại ý nghĩa cho người
bệnh như sau:
- Kích thích các chức năng tâm lý và xã hội bằng cách trả lại hoặc
củng cố những khả năng của người bệnh nhằm đối đầu với những khó khăn
trong cuộc sống.
- Khuyến khích tính tự tin, tính tự trọng của người bệnh.
- Nâng cao nhận thức về hiện thực, như về những điểm mạnh và yếu của
người bệnh và về những ưu điểm, hạn chế của phương pháp điều trị.
- Kiểm soát chặt chẽ những hoàn cảnh nhằm ngăn chặn sự tái bệnh.
- Tạo sự nâng đỡ giúp làm tối ưu hóa những mẫu ứng xử nhằm tránh quá
lệ thuộc vào nhà trị liệu.
- Chuyển dịch một số hiện tượng nâng đỡ từ nhà chuyên môn sang sự
nâng đỡ về xã hội, đặc biệt sang gia đình hoặc bạn bè.
Như vậy, khi kết hợp liệu pháp nâng đỡ với liệu pháp tâm lý động sẽ
giúp người bệnh có khả năng đối diện với sự kiện gây stress và có khả năng
ứng phó với stress.
19
1.3.1.2. Liệu pháp nhận thức hành vi
Nhà triết học người Pháp Montaign nói: “ loài người đau khổ do hoàn
cảnh thì ít, mà do ý niệm của mình về hoàn cảnh thì nhiều”.Đứng trước một
yếu tố gây stress, các phản ứng về cảm xúc phụ thuộc sâu sắc vào cách nhận
thức của chủ thể về yếu tố gây stress đó. Nhận thức bao gồm nhận thức cảm
tính và nhận thức lý tính. Khi nhận thức sai lệch thuộc nhận thức cảm tính thì
dễ thay đổi hơn là thuộc về nhận thức lý tính[27].
Trong điều trị rối loạn sự thích ứng, liệu pháp nhận thức hành vi có
hiệu quả trong giảm các triệu chứng và tăng khả năng đối phó stress về sau.
Liệu pháp nhận thức hành vi gồm ba giai đoạn. Giai đoạn một: cung
cấp thông tin về nguồn gốc và nguyên nhân của các triệu chứng. Giai đoạn
này khuyến khích người bệnh thực hiện những công việc hành ngày tự do.
Giai đoạn thứ hai: người bệnh được yêu cầu đưa ra bảng thống kê các sự kiện
gây stress và chiến lược giải quyết các rắc rối do các sự kiện stress gây ra.
Giai đoạn ba: người bệnh đưa chiến lược giải quyết các rắc rối của mình vào
thực hiện, các hoạt động của người bệnh được mở rộng và khắt khe hơn [25].
1.3.1.3. Các liệu pháp tâm lý khác
Liệu pháp tâm lý nhóm: đặc biệt hữu ích cho những bệnh nhân đã
trải qua những stress tương tự nhau (ví dụ như nhóm người về hưu…). Mục
đích của liệu pháp nhóm không chỉ làm giảm nhẹ các triệu chứng mà còn
nhằm thiết lập cách ứng xử và nhằm thay đổi nhận thức cũng như cách thức
giải quyết các khó khăn trong cuộc sống. Liệu pháp nhóm trong điều trị rối
loạn sự thích vừa hướng tới thay đổi triệu chứng vừa hướng tới thay đổi nhân
cách và cách ứng xử [1][8][27].
Liệu pháp thư giãn luyện tập: có hiệu quả trong điều trị triệu chứng
lo âu trong rối loạn sự thích ứng và tăng khả năng đối phó với stress của
người bệnh.
20
1.3.2. Liệu pháp hóa dược
Điều trị rối loạn sự thích ứng bằng hóa dược có hiệu quả nhưng thường
được sử dụng trong thời gian ngắn. De Leo đã nghiên cứu tác dụng của liệu pháp
hóa dược và liệu pháp tâm lý sau 4 tuần can thiệp. Ông đã nhấn mạnh tác dụng
của sử dụng liệu pháp tâm lý có tác dụng hơn so với liệu pháp hóa dược [26].
∗Thuốc chống trầm cảm
Trong cơ chế bệnh sinh của rối loạn sự thích ứng nhận thấy có sự suy
giảm nồng độ serotonin trong máu nên sử dụng thuốc chống trầm cảm có tác
động vào hệ serotonin có hiệu quả. Trên lâm sàng, nhóm thuốc ức chế tái hấp
thu chọn lọc serotonin SSRIs (Selective serotonine reuptake inhibitor) có hiệu
quả trên bệnh nhân rối loạn sự thích ứng [1] [20][28]. Các thuốc SSRIs còn có
tác dụng giải lo âu, lo lắng, nghiễn ngẫm hay kích thích.
Khi so sánh đáp ứng với thuốc chống cảm ở bệnh nhân có trầm cảm
điển hình và trầm cảm phản ứng nhận thấy rằng với các rối loạn trầm cảm
phản ứng có tỉ lệ đáp ứng với thuốc chống trầm cảm cao gấp hai lần. Và sử
dụng đơn trị liệu thuốc chống trầm cảm trong trầm cảm phản ứng có hiệu quả
hơn so với sử dụng kết hợp các thuốc chống trầm cảm[6].
∗Thuốc giải lo âu
Đối với bệnh nhân có rối loạn lo âu kèm theo hoặc có cơn hoảng sợ,
điều trị bằng thuốc giải lo âu có tác dụng, thường dùng là benzodiazepine . Do có
cơ chế gây lạm dụng và phụ thuộc nên chỉ sử dụng trong thời gian ngắn [1][30].
∗Các thuốc khác
- Sử dụng an thần kinh từ lâu đã được coi là thuốc chống stress, an thần
kinh liều thấp được xem xét để thay Benzodiazepine và thuốc chống trầm
cảm. Dùng an thần kinh liều thấp có hiệu quả mà ít tác dụng phụ [1].
- Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng giả dược của
Woelk nhận thấy vai trò của Ginkgo Biloba trong điều trị lo âu khi nghiên cứu
107 bệnh nhân rối loạn lo âu lan tỏa và 25 bệnh nhân rối loạn sự thích ứng[29].
21
1.4 CÁC NGHIÊN CỨU VỀ RỐI LOẠN SỰ THÍCH ỨNG TRÊN THẾ
GIỚI VÀ TẠI VIỆT NAM [5][7][9][12][31][32][33][34][35]
Trên thế giới:
Trên thế giới đã tiến hành nhiều nghiên cứu về rối loạn sự thích ứng.
Nhiều nghiên cứu được tiến hành để phân biệt rối loạn sự thích ứng với các
phản ứng tâm lý bình thường hoặc với các rối loạn thuộc trục I, như nghiên
cứu của Desplan J.N, Monod L năm 1995. Ông nhận thấy tỷ lệ rối loạn sự
thích ứng với phản ứng trầm cảm và hỗn hợp lo âu trầm cảm cao nhất 57%, tỷ
lệ rối loạn sự thích ứng với phản ứng lo âu là 19%.
Trên lâm sàng, khó phân biệt các triệu chứng của rối loạn sự thích ứng
với trầm cảm điển hình hoặc với các triệu chứng của rối loạn cảm xúc khác .
Jones R, Yates WR năm 1999 đã nghiên cứu về hậu quả của rối loạn sự thích
ứng so sánh với rối loạn trầm cảm điển hình.Và có nhiều nghiên cứu khác đã
tìm kiếm các đặc điểm triệu chứng và trắc nghiệm đặc trưng cho chẩn đoán
rối loạn sự thích ứng nhưng cho đến nay vẫn chưa có công trình nào đạt kết
quả mong muốn.
Rối loạn sự thích ứng gặp ở nhiều lứa tuổi trong đó lứa tuổi gặp nhiều
yếu tố stress phát triển là tuổi vị thành niên, có nhiều nghiên cứu về tỷ lệ rối
loạn sự thích ứng ở lứa tuổi này. Các nghiên cứu về sự phối hợp của tự sát,
nghiện chất và rối loạn sự thích ứng cho thấy tỷ lệ này khá cao. Trên những
bệnh nhân mắc bệnh mạn tính, bệnh nan y có nhiều nghiên cứu chỉ ra tỷ lệ rối
loạn sự thích ứng rất cao, ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị và chất lượng cuộc
sống của người bệnh.
Về điều trị rối loạn sự thích ứng, các nghiên cứu nhận thấy vai trò của
liệu pháp tâm lý trong đó những liệu pháp tác động ngắn hạn có hiệu quả
trong điều trị rối loạn sự thích ứng. Liệu pháp hóa dược với đơn trị liệu trầm
cảm và các thuốc khác như benzodiazepine được sử dụng ngắn ngày, nhất là
22
trong những trường hợp sang chấn tâm lý mạnh cũng có hiệu quả trong điều
trị rối loạn sự thích ứng.
Ở Việt Nam, sau khi có bảng phân loại bệnh lần thứ 10, đã có một số
đánh giá về các rối loạn chương F4 (F40 - F48) – “các rối loạn tâm căn có
liên quan đến stress va RLDCT” năm 1992, một số nghiên cứu “Rối loạn đau
dai dẳng” của Nguyễn Viết Thiêm, Trần Hữu Bình, Đồng Minh Tiệp (1992)
và “Rối loạn cơ thể hoá” của Trần Hữu Bình (1992). Gần đây, có nhiều
nghiên cứu về các mã bệnh trong chương F4 như “rối loạn lo âu lan tỏa” của
Nguyễn Thị Phước Bình, ‘nghiên cứu đặc điểm rối loạn cơ thể hóa’ của Trần
Thị Hà An, “rối loạn đau trong các rối loạn liên quan đến stress” của Trần
Nguyễn Ngọc. Nhưng chưa có nghiên cứu nào có hệ thống về rối loạn sự
thích ứng tại Việt Nam.
23
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Bao gồm tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán xác định rối loạn sự
thích ứng nhập Viện Sức khoẻ Tâm thần trong thời gian nghiên cứu, thỏa mãn
tiêu chuẩn lựa chọn và tiêu chuẩn loại trừ được trình bày dưới đây.
2.1.1 Tiêu chuẩn lựa chọn
Tất cả các bệnh nhân nghiên cứu đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn
sự thích ứng theo ICD10.
A. Sự khởi phát các triệu chứng phải xảy ra trong vòng một tháng kể từ
khi tiếp xúc với sang chấn tâm lý xã hội có thể đồng cảm được, không phải là
loại bất thường hoặc có tính thảm họa.
B. Bệnh nhân biểu hiện các triệu chứng hoặc các loại rối loạn hành vi
gặp trong bất kỳ rối loạn cảm xúc nào (F30-F39) (ngoại trừ hoang tưởng, ảo
giác), hoặc trong bất cứ rối loạn nào trong mục từ F40-F48 (các rối loạn tâm
thần liên quan đến stress) và các rối loạn hành vi (F91). Nhưng các tiêu chuẩn
đối với rối loạn riêng biệt thì không được đáp ứng đầy đủ. Các triệu chứng có
thể khác nhau cả về dạng và độ nặng.
C. Ngoại lệ trong phản ứng trầm cảm kéo dài (F43.21), các triệu chứng
không tồn tại dai dẳng quá 6 tháng sau khi ngừng sang chấn hoặc không còn
hậu quả của nó.Tuy nhiên, điều này không ngăn cản việc chẩn đoán tạm
thời nếu tiêu chuẩn này vẫn chưa được đáp ứng đầy đủ.
2.1.2 Tiêu chuẩn loại trừ
Loại bỏ khỏi nghiên cứu bệnh nhân:
- Bệnh nhân có bệnh lý cơ thể nặng đi kèm.
- Bệnh nhân từ chối không tham gia nghiên cứu.
24
2.1.3 Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại Viện Sức khoẻ Tâm thần - Bệnh viện
Bạch Mai.
2.1.4 Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 03/2013 đến tháng 09/2013
2.2 THIẾT KẾ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1 Thiết kế nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang trên các đối tượng là
bệnh nhân rối loạn sự thích ứng điều trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần.
2.2.2 Xác định cỡ mẫu nghiên cứu
Cỡ mẫu được tính theo công thức “Ước tính một tỉ lệ trong quần thể”
2
2
)2/1(
)1(
∆
−
×=
−
pp
Zn
α
Trong đó:
n: Cỡ mẫu tối thiểu.
α: Mức ý nghĩa thống kê.
Z
2
(1-
α
/2)
: Hệ số tin cậy.
Khi α bằng 0,05 (độ tin cậy 95%) thì Z
2
(1-
α
/2)
bằng 1,96
2
.
p: Xác suất triệu chứng cốt lõi ở bệnh nhân rối loạn sự thích ứng, lấy
bằng 0,5. Khi lấy p bằng 0,5 thì cỡ mẫu tính được sẽ lớn nhất [36].
∆: Độ sai lệch mong muốn giữa mẫu và quần thể, lấy bằng 0,16.
Áp dụng vào công thức trên tính được n = 37. Như vậy, cỡ mẫu của nghiên
cứu tối thiểu là 37 bệnh nhân.
25