Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Hệ thống miếu thờ Đại nội huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.7 KB, 18 trang )

ĐỀ TÀI THUYẾT TRÌNH:
HỆ THỐNG KHU VỰC MIẾU THỜ Ở
ĐẠI NỘI KINH THÀNH HUẾ
Khu vực các miếu thờ ở Đại Nội Huế nằm ở góc đông nam của hoàng
thành Huế, bên trái Ngọ Môn. Các miếu thờ được sắp xếp theo thứ tự “tả chiêu
hữu mục” (bên trái trước, bên phải sau, lần lượt theo thời gian) , được bố trí ở
phía trước, hai bên trục dọc của Hoàng Thành theo thứ tự từ trong ra gồm:
- Bên trái có các miếu thờ Nguyễn Kim (Triệu Tổ Miếu), miếu thờ các vị
chúa Nguyễn (Thái Tổ Miếu)
- Bên phải có các miếu thờ cha vua Gia Long là Nguyễn Phúc Luân (Hưng
Tổ Miếu) và miếu thờ các vị vua nhà Nguyễn (Thế Tổ Miếu).
Trong đó, hai miếu chính quan trọng nhất là Thế Miếu và Hưng Miếu, đây
được coi là các công miếu, nơi triều đình tổ chức cúng tế, nữ giới (kể cả hoàng
hậu) không được tham dự.
Hình 1 – Sơ đồ khu vực vị trí các miếu thờ trong Hoành thành Huế
Khu vực này được xây dựng vào đầu thế kỷ XIX, trước đây gồm có 9 công
trình, hiện nay chỉ còn 5 công trình là: Thế Miếu, Hưng Miếu, Hiển Lâm
Các, Miếu Thổ Công, và Nhà Thần Trù, ngoài ra trong khu vực này còn có Cửu
Đỉnh. Riêng Thái Miếu và Triệu Miếu nằm ở bên phải Ngọ Môn
1. Hưng Tổ Miếu (hay Hưng Miếu)
Hưng Miếu hay Hưng Tổ Miếu (Hưng nghĩa là khởi nghiệp, nghĩa khác
là thịnh vượng) là ngôi miếu thờ Thế tử Nguyễn Phúc Luân (hay Nguyễn
Phúc Côn) và bà Nguyễn Thị Hoàn - song thân của vua Gia Long, vị trí ở tây
nam Hoàng thành (cách Thế Miếu chừng 50 mét về phía Bắc), ngôi miếu hiện
được dùng để thờ.
1.1 Lịch sử
Nguyễn Phúc Luân, đáng lẽ sẽ là người lên ngôi chúa, nhưng trong nội
bộ chúa Nguyễn có loạn quyền thần Trương Phúc Loan nên ông bị giam vào
ngục và mất tại nhà riêng. Tuy mất sớm (32 tuổi): nhưng ông đã để lại đến 6
người còn trai và 4 người con gái, trong đó có Nguyễn Phúc Ánh, tức Gia
Long - vị hoàng đế đầu tiên của Triều Nguyễn sau này.


Sau khi lên ngôi Hoàng đế năm 1802, vua Gia Long tìm lại mộ phần của
phụ thân và xây dựng một ngôi miếu để thờ phụng. Theo sách sử triều
Nguyễn, việc xây dựng được hoàn tất chỉ trong 4 tháng (tháng 4 năm 1804
đến tháng tháng 8 năm 1804) trên địa điểm của Thế Miếu ngày nay, chính
thức sử dụng từ tháng 3 năm 1805, ngôi miếu khi ấy có tên là Hoàng Khảo
Miếu (ngôi miếu dùng để thờ phụng vua cha).
Đến năm 1821, vua Minh Mạng cho dời Hoàng Khảo Miếu lùi về phía sau
địa điểm cũ 50m để sử dụng khu đất của Hoàng Khảo Miếu xây Thế Miếu.
Công việc di dời diễn ra từ 23-3 đến 16 -4, sau khi hoàn tất ông cho đổi tên
khu miếu thành Hưng Tổ Miếu.
Tháng 2 năm 1947, khu miếu bị đốt cháy cùng với Tử Cấm Thành và
nhiều cung điện khác.
Năm 1950, Bảo Đại về Huế mua lại An Khánh Vương từ, vốn là nơi thờ
một người dòng dõi hoàng tộc là An Khánh Vương Nguyễn Phúc Quang (con
vua Gia Long) với giá 300.000 đồng (tiền lúc ấy) để xây dựng lại thành Hưng
Miếu mới. Năm 1951, một nhà thầu lúc bấy giờ có tên là Nguyễn Ngọc Bang
được giao việc dời An Khánh Vương từ về tái lập thành Hưng Miếu mới.
Năm 1995, nó được trùng tu lại một lần nữa. Trong lần này miếu được
sơn son thiếp vàng
1.2 Kiến trúc miếu
Kiến trúc của Hưng Miếu hiện tại có nền tảng từ An Khánh Vương từ.
Nhưng vì mặt bằng của Hưng Miếu cũ nhỏ hơn An Khánh Vương từ nên khi
xây dựng người ta buộc phải dời hai hàng cột mỗi bên và cắt bớt một số mái
ở cả hai bên
Trên một mặt bằng gần như vuông: 19m x 19,20m người ta cấu trúc tòa
nhà theo thức trùng diêm và trùng lương của các cung điện khác ở Huế. Miếu
là một ngôi nhà kép chừng 400m2 mái được lợp bằng ngói âm dương men
vàng, nền cao 0,68 m bó bằng đá Thanh. Toàn bộ dàn trò (9 hàng cột tình từ
trước đến dau và 8 hàng cột tính từ trái sang phải, kê chân trên đá tảng)
cùng với các mảng trang trí đều được làm bằng gỗ quý: lim, sao, kền kền, huê

mộc. Tất cả các kèo điều được trang rất tinh xảo, mặt dưới và mặt trên đều
được trạm trổ hoa lá và hình ảnh có tác dụng làm các bộ phận gỗ trở nên nhẹ
nhàng. Các cột trốn tuy nhỏ, nhưng hai đầu được đẽo vuốt vào rồi nở ra hình
hoa sen, rất ăn khớp với nhau. Giữa 2 cột trốn của mồi vì kéo còn dựng thêm
các khung gỗ được chạm lộng hình kỷ hà với kích cỡ khác nhau thay đổi theo
từng tầng.
Hệ thống liên ba chia làm 4 tầng mỗi tầng phân khoảng thành các ô hộc
được trang trí theo lối Nhất thi Nhất họa khắc nổi nhiều chủ đề: đôi sáo, đàn
tỳ, pho sách đôi chỗ còn có cả cây kiếm và cây như ý
Mặt dưới mặt tiền hạ doanh được trang trí một dải bản gỗ hình chữ U
chai ra làm ô hộc với lối trang trí giống hệ thống nhất liên hạ
Hai giang áp chót đối xứng nhau dưới trần thừa lưu, có hai bức đố bằng
gỗ được chạm nổi, chạm lộng, chạm kênh bông ở cả hai mặt trong và ngoài, ở
chính giữa mỗi mặt là hình ảnh nổi của một trong 8 bát bửu
Đằng trước miếu có một hàng cột gồm sáu cái đứng trên mặt sân được
xây bằng xi măng giả đá. Ở đầu cột chắp hình hoa sen đỡ lấy con-xơn
(console)
Phần chính doanh gồm có 3 gian và 2 kép, tiền doanh có 5 gian và 2 chái
đơn. Mặt trước của mỗi chái đơn mà mộ mảng tường xây được trang trí chữ
"thọ" cách điệu, có tác dụng tăng tính chụi lực.
Sân trước Hưng Miếu có hình chữ nhật (20m x 18,45m) được lát gạch
bát tràng. Giữa sân là đường thần đạo lát bằng đá thanh, chạy từ bậc thềm
ra đến Miếu môn phía trước rộng 2,15m. Song song với hàng cột hiên là dãy
các chậu sứ trồng cây cảnh mỗi chậu đặt trên đôn bằng đá gồm 6 cái. Bên
phải sân có một cái lư dùng để đốt tờ sớ.
Bên phải trái trong khuôn viên Hưng Miếu còn có hai ngồi nhà Thần Khố
(nhà kho của Thần) và Thần Trù (nhà bếp của Thần). Các khuôn viên được
bao bọc bằng một bức tường cao xây bằng gạch với 4 cửa đối xứng từng cặp:
Chương Khánh, Dục Khánh, Trí Tướng và Ứng Tường. Bên trái khuôn viên
hiện vẫn còn 2 bia đá: bia đá dựng năm 1804 khắc bài văn Ngự chế của Gia

Long và bia đá dựng năm 1821 khắc bài văn Ngự chế của Minh Mạng nói lại
lịch sử xây dựng Hưng Miếu và Thế Miếu.
Ngày nay, Hưng Tổ Miếu không còn được vẻ uy nghi như xưa, nhưng lối
vào, cổng tam quan, vẫn mang đậm nét truyền thống của kiến trúc kinh
thành Huế.
2. Thế Tổ Miếu ( hay Thế Miếu)
Thế Tổ Miếu thường gọi là Thế Miếu tọa lạc ở góc tây nam bên
trong Hoàng thành Huế, là nơi thờ các vị vua triều Nguyễn. Đây là nơi triều
đình đến cúng tế các vị vua quá cố, nữ giới trong triều (kể cả hoàng hậu)
không được đến tham dự các cuộc lễ này.
2.1 Xây dựng
Nguyên ở nơi này trước kia là miếu thờ ông Nguyễn Phúc Côn, thân sinh
vua Gia Long gọi là tòa Hoàng Khảo Miếu. Đến nămMinh Mạng thứ 2
(1821), Hoàng Khảo Miếu được dời lùi về phía bắc khoảng 50 m để dành vị trí
xây tòa Thế Tổ Miếu thờ vua Gia Long và Hoàng hậu. Miếu được xây dựng
trong 2 năm (1821-1822), ban đầu chỉ dành để thờ Thế Tổ Cao Hoàng Đế (vì
thế mới có tên gọi Thế Tổ Miếu) nhưng về sau trở thành nơi thờ tất cả các vị
vua của triều Nguyễn.
2.2 Kiến trúc
Khuôn viên của Thế Tổ Miếu có hình chữ nhật, diện tích khoảng trên 2ha,
chiếm đến 1/18 diện tích toàn bộ các khu vực bên trongHoàng thành và Tử
Cấm thành. Tòa Thế Tổ Miếu là một công trình kiến trúc gỗ rất lớn được xây
theo lối "trùng thiềm điệp ốc" đặt trên nền cao gần 1 m. Bình diện mặt nền
hình chữ nhật (54,60 m × 27,70 m), diện tích 1500 m². Nhà chính có 9 gian và
2 chái kép, nhà trước có 11 gian và 2 chái đơn, nối liền nhau bằng vì vỏ cua
chạm trổ rất tinh tế. Mái được lợp ngói hoàng lưu ly với đỉnh nóc gắn liền
thái cực bằng pháp lam rực rỡ. Bên trong khuôn viên ngoài tòa Thế Tổ Miếu
là công trình chính còn có thêm các công trình khác như Thổ Công Từ, Cửu
Đỉnh, Hiển Lâm Các, Canh Y điện, Tả Vu, Hữu Vu.
2.3 Các Án thờ vua Nguyễn

Bên trong miếu, ngoài án thờ vua Gia Long và 2 Hoàng hậu đặt ở gian
giữa, các án thờ của các vị vua còn lại đều theo nguyên tắc "tả chiêu, hữu
mục" để sắp đặt. Tuy nhiên, theo gia pháp của họ Nguyễn, các vị vua bị coi là
"xuất đế" và "phế đế" đều không được thờ trong tòa miếu này, do đó, trước
năm 1958, bên trong Thế Tổ Miếu chỉ có 7 án thờ của các vị vua dưới đây:
1. Án thờ Thế Tổ Cao Hoàng Đế (vua Gia Long) và 2 Hoàng hậu Thừa
Thiên, Thuận Thiên ở gian chính giữa.
2. Án thờ Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế (vua Minh Mạng) và Hoàng hậu ở
gian tả nhất (gian thứ nhất bên trái, tính từ gian giữa).
3. Án thờ Hiến Tổ Chương Hoàng Đế (vua Thiệu Trị) và Hoàng hậu ở gian
hữu nhất (gian thứ nhất bên phải, tính từ gian giữa).
4. Án thờ Dực Tông Anh Hoàng Đế (vua Tự Đức) và Hoàng hậu ở gian tả
nhị (gian thứ hai bên trái).
5. Án thờ Giản Tông Nghị Hoàng Đế (vua Kiến Phúc) ở gian hữu nhị (gian
thứ hai bên phải).
6. Án thờ Cảnh Tông Thuần Hoàng Đế (vua Đồng Khánh) và Hoàng hậu ở
gian tả tam (gian thứ ba bên trái).
7. Án thờ Hoằng Tông Tuyên Hoàng Đế (vua Khải Định) và Hoàng hậu ở
gian hữu tam (gian thứ ba bên phải).
Đến tháng 10 năm 1958, án thờ 3 vị vua chống Pháp vốn bị liệt vào hàng
xuất đế không được thờ trong Thế Tổ Miếu là Hàm Nghi, Thành Thái và Duy
Tân đã được hội đồng Nguyễn Phúc Tộc rước vào thờ ở Thế Tổ Miếu.
Hiện nay án thờ vua Hàm Nghi được đặt ở gian tả tứ (gian thứ tư bên
trái). Án thờ vua Thành Thái đặt ở gian tả ngũ (gian thứ năm bên trái), còn
án thờ vua Duy Tân đặt ở gian hữu tứ (gian thứ tư bên phải). Còn các án thờ
vua Dục Đức, Hiệp Hòa và Bảo Đại đến nay vẫn chưa có mặt trong Thế Tổ
Miếu
2.4 Ngoại thất
Bên ngoài Thế Tổ Miếu, trước mặt là một chiếc sân rộng lát gạch Bát
Tràng. Trên sân đặt 1 hàng 14 chiếc đôn đá, bên trên đặt các chậu sứ trồng

hoa.
Hai bên sân lại có một đôi kỳ lân bằng đồng đứng trong thiết đình. Cuối
sân là chín chiếc đỉnh đồng to lớn (Cửu Đỉnh) đặt thẳng hàng với 9 gian thờ
trong miếu. Tiếp theo là gác Hiển Lâm, 3 tầng cao vút, hai bên có lầu chuông,
lầu trống nối liền với gác bằng một bờ tường gạch. Bên dưới lầu chuông, lầu
trống trổ 2 cửa, Tuấn Liệt (bên trái) và Sùng Công (bên phải). Bên ngoài bờ
tường này có 2 miếu nhỏ cũng được gọi là Tả Vu và Hữu Vu thờ các công
thần, thân huân thời Nguyễn.
Thổ Công Từ và Canh Y điện đều là những tòa nhà hình vuông nằm đối
xứng với nhau theo chiều đông - tây của Thế Tổ Miếu (điện Canh Y nằm ở
phía đông đã bị hủy hoại từ lâu), ở sát thần phía tây của miếu còn có một cây
thông cổ thụ, có hình dáng uốn lượn rất đẹp, tường truyền được trồng từ khi
dựng Thế Tổ Miếu.
2.5 Các công thần được phối thờ
1. Thái sư Hoài quốc công Võ Tánh (?-1801)
2. Thái tử Thái sư Ninh Hòa quận công Ngô Tòng Chu (? - 1801)
3. Thái bảo Lâm Thao quận công Châu Văn Tiếp (? - 1784)
4. Thái bảo Bình Giang quận công Võ Di Nguy (? - 1801)
5. Thái phó Đoan Hùng quận công Nguyễn Văn Trương (? - 1810)
6. Thái phó Tiên Hưng quận công Phạm Văn Nhân (?-1815)
7. Thái phó Kiến Xương quận công Nguyễn Hoàng Đức (? - 1819)
8. Thái tử Thái sư Tuân Nghĩa hầu Tống Phước Đạm (? - 1794)
9. Thiếu bảo Duy Tiên hầu Nguyễn Văn Mẫn (?-1789)
10. Thiếu phó Phụ Dực hầu Đỗ Văn Hựu (?-1789)\
11. Thái bảo Kinh Môn quận công Nguyễn Văn Nhân (? - 1822)
12. Thái phó Khoái Châu quận công Nguyễn Đức Xuyên (? - 1824)
13. Thái sư Tuy Thạnh quận công Trương Đăng Quế (1793 - 1865)
3. Thái Tổ Miếu ( hay Thái Miếu)
Thái Tổ Miếu (tức Thái Miếu) là miếu thờ các vị chúa Nguyễn trong
lịch sử Việt Nam.

Miếu thờ từ chúa Nguyễn Hoàng đến chúa Nguyễn Phúc Thuần. Miếu
được xây dựng từ năm Gia Long thứ 3 (1804) ở góc Đông Nam trong Hoàng
thành, đối xứng với Thế Tổ Miếu ở phía Tây Nam.
3.1 Kiến Trúc
Qui mô và bố trí kiến trúc của Thái Miếu gần tương tự như Thế Tổ Miếu.
Tòa điện chính kiến trúc theo lối nhà kép trùng thiềm điệp ốc, chính đường 13
gian 2 chái kép, tiền đường 15 gian 2 chái đơn. Phía đông điện chính là điện
Long Đức, phía nam có điện Chiêu Kính. Đối diện với điện Chiêu Kính ở phía
tây là điện Mục Tư, phía bắc điện này có tòa nhà vuông.
Trước sân Thái Miếu có gác Tuy Thành (tên cũ là gác Mục Thanh), 3
tầng, hình thức tương tự như gác Hiển Lâm ở Thế Miếu. Hai bên gác Tuy
Thành có tường ngắn, trên có lầu chuông, lầu trống, dưới trổ cửa vòm. Phía
nam của gác Tuy Thành, 2 bên có nhà Tả Vu, Hữu Vu. Toàn bộ khu vực Thái
Miếu có tường gạch bao bọc, trổ 5 cửa ra các phía. Các án thờ của chúa
Nguyễn đều đặt trong tòa điện chính, bài vị phối thờ các công thần đặt ở Tả
Vu và Hữu Vu. Lễ tế tổ chức 1 năm 5 lần vào các tháng manh xuân, manh hạ,
mạnh thu, mạnh đông và quý đông.
3.2 Các công thần được phối thờ
 Tả vu
1. Tôn nhơn phủ Tôn nhân lệnh Nghĩa Hưng quận vương Tôn Thất Khê
(1539-1616)
2. Tôn nhơn phủ Tả tôn chánh Quốc Oai công Tôn Thất Hiệp (1653-1675)
3. Tôn nhơn phủ Hữu tôn chánh Tương Dương quận vương Tôn Thất Hạo
(?-?)
4. Tôn nhơn phủ Hữu tôn chánh Hải Đông quận vương Tôn Thất Đồng (?-
1777).
 Hữu vu
1. Thái sư Uy quốc công Nguyễn Ư Kỷ (?-?)
2. Thái sư Hoằng quốc công Đào Duy Từ (?-1634)
3. Thái bảo Anh quốc công Nguyễn Hữu Tiến (?-1666)

4. Thái phó Tĩnh quốc công Nguyễn Hữu Dật (?-1681)
5. Thiếu phó Vĩnh An hầu Nguyễn Hữu Cảnh (?-1700)
6. Thái bảo Thăng Bình quận công Nguyễn Cửu Dật (?-1775)
7. Hiệp biện Đại học sĩ Tân Minh hầu Nguyễn Cư Trinh (?-1767)
3.3 Phục dựng
Trong kháng chiến chống Pháp đầu năm 1947, khu vực Thái Miếu bị Việt
Minh thiêu hủy gần như hoàn toàn. Năm 1971-1972, hội đồng trị sự Nguyễn
Phước Tộc đã quyên góp và dựng lại 1 tòa nhà 5 gian trên nền cũ ngôi điện
chính để làm nơi thờ tự các chúa Nguyễn.
4. Triệu Tổ Miếu
Triệu Tổ miếu hay là Triệu Miếu (từ tiếng Hán Việt: 肇 Triệu là phát
sinh, bắt đầu) là một công trình kiến trúc trong Hoàng thành Huế. Triệu Tổ
miếu được xây dựng dưới thời vua thứ nhất của nhà Nguyễn, năm Gia Long
thứ 3 (1804).
Miếu này nằm ở phía bắc của Thái Miếu, là miếu thờ Nguyễn Kim, thân
sinh của chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Miếu được xây trong một khuôn viên hình
chữ nhật, tường phía nam gắn liền với tường Thái Miếu. Bên trong điện
chính đặt án thờ Triệu Tổ Tĩnh Hoàng đế và Hoàng hậu. Mỗi năm tổ chức 5
lần tế tương tự như ở Thái Miếu. Các án thờ tại Triệu Tổ miếu mang ý nghĩa
quan trọng về mặt lịch sử, văn hóa và nghệ thuật của dân tộc. Một trong ba
án thờ trước đây là án thờ Nguyễn Kim, hai án thờ còn lại thờ tổ tiên của
triều Nguyễn, dòng dõi Nguyễn Kim
Về hình thức và qui mô kiến trúc, Triệu Miếu tương tự như Hưng Miếu,
miếu gồm 1 tòa điện chính theo lối nhà kép, chính đường 3 gian 2 chái, tiền
đường 5 gian 2 chái đơn. Hai bên điện chính có Thần Khố (phía đông) và
Thần Trù (phía tây).
Cùng với Thái Tổ Miếu, Hưng Tổ Miếu và Thế Tổ Miếu, Triệu Tổ Miếu là
một trong những công trình tâm linh quan trọng nhất dưới thời Nguyễn
(1802-1945), thể hiện truyền thống thờ cúng tổ tiên và nét văn hoá đặc sắc
của người Việt Nam dưới thời Nguyễn, khi kinh đô đóng tại Huế

5. Điện Phụng Tiên
Điện Phụng Tiên (chữ Hán 奉先殿, điện nơi thờ phụng người trước) là
một ngôi điện nằm ở gần cửa Chương Đức, phía trước Cung Diên Thọ, cửa
tây của Hoàng Thành, Thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam. Ngôi
miếu dùng để thờ cúng các vua triều Nguyễn.
Khác với Thế Miếu, điện này cũng thờ các vị vua và hoàng hậu nhà
Nguyễn nhưng nữ giới trong triều được phép đến đây cúng tế
5.1 Lịch sử
Thời gian xây dựng của điện là không rõ, chỉ biết là nó đã được xây dựng
khi vua Gia Long vẫn còn sống. Khi đó nó là một ngôi điện bằng gỗ có tên là
Hoàng Nhân, vị trí gần cửa Hiển Nhân (ngày nay là Đại học Nghệ thuật Huế).
Khi Gia Long mất, quan tài của ông đã được quàn tại đây 3 tháng trước khi
được an táng ở lăng Gia Long. Điện Hoàng Nhân là nơi thờ cúng Gia Long kể
từ năm 1820.
Năm 1829, vua Minh Mạng cho đổi tên điện Hoàng Nhân thành điện
Phụng Tiên. Và đến năm 1837, ông cho dời điện từ vị trí gần cửa Hiển Nhân
đến vị trí ngày nay, gần cửa Chương Đức.
Mặc dù về sau, triều đình nhà Nguyễn có xây Thế Miếu với cùng một
chức năng là thờ cúng Gia Long và các vị vua kế vị nhưng điện Phụng Tiên
vẫn được duy trì để thờ các vua ấy, vì một lý do đặc biệt: theo quy định của
Triều đình, Thế Miếu là "công miếu", các cuộc tế lễ ở đây đều là những buổi lễ
có tính chất quốc gia với sự hiện diện của vua, hoàng thân và đình thần; tuyệt
đối cấm nữ giới cho dù họ có là người trong Hoàng gia, nhưng họ có thể tới
điện Phụng Tiên để thực hiện việc thờ tự.
Điện cũng là nơi lưu trữ nhiều bảo vật của nhà Nguyễn, nhưng đến
tháng 2 năm 1947, toàn bộ đã bị thất thoát cũng như đốt cháy theo điện
trong chiến dịch tiêu thổ của Việt Minh. Hiện giờ chỉ còn lại cửa Tam Quan và
vòng tường thành còn tương đối nguyên vẹn.
5.2 Kiến trúc
Điện Phụng tiên là một tòa nhà kép to lớn, to ngang Thế Miếu nhưng có

thêm mái lưa ở phía trước. Phần chính doanh có 9 gian 2 chái, mỗi gian thờ
một vua; phần tiền doanh có 11 gian. Mái điện được lợp ngói ống hoàng lưu
ly cùng với ngói câu đầu trích thủy; phần nền thì được lát bằng gạch Bát
Tràng tráng men. Sân trước điện khá rộng cũng được lát bằng gạch Bát
Tràng. Sát hiên trước có một hàng chậu sứ trồng cây cảnh được đặt trên các
đôn bằng đá chạm. Cuối sân có một bể cạn lớn làm bằng đá, bên trong có một
hòn non bộ, xây bằng đá tựa vào một bức bình phong giăng dài phía sau cửa
tam quan. Ở giữa mặt trước khuôn viên có vòng thành bao quanh
5.3 Hoạt động
Khi còn hoạt động với chức năng thờ tự của mình, điện Phụng Tiên là
một đền thờ nguy nga lộng lẫy với rất nhiều đồ tự mà khi sinh thời các vua
Nguyễn đã dùng. Một người Pháp tên Robert R. de la Susse đã gọi điện Phụng
Tiên là một bảo tàng ở Hoàng cung Huế, qua lời mô tả của Susse : “Năm 1913
điện trông như một bảo tàng với việc hầu hết các bảo vật của các Vua và
Hoàng hậu đều được thống kê và đưa vào tủ kính để ở đầu điện”
Đồ được đặt trong tủ có rất nhiều loại: các khẩu súng hỏa mai nguyên do
Pháp chế tạo của vua Tự Đức, các đồ đồng do người Việt đúc ở thời Minh
Mạng, các loại đồ đồng tráng men, bộ sưu tập tiền đồng, các bảo vật của các
đời vua và các chậu lung với cây cỏ, canh san hô được làm bằng vàng và
ngọc, cùng với các đồ dùng của vua Tự Đức Trong số đó bảo vật đặc biệt
nhất là hai bộ đồ thờ "tam sự" bằng ngọc bích, hai đĩa lớn đường kính 40 cm;
hai bức trấn phong bằng ngọc thạch nguyên bản. Ngoài ra điện còn lưu trữ
các bảo ấn, các kim sách, vương miện, đồ uống trà làm bằng vàng nguyên
chất.
Về việc chăm sóc hương khói, như trong phần lịch sử có nói về sự phân
biệt nam nữ trong thờ cúng ở Điện Phụng Tiên và Thế Miếu. Điện Phụng Tiên
do "các cô phụng trực", với đa số là thành viên của Hoàng tộc góa bụa hoặc
không lấy chồng ăn ở trong các ngôi nhà phụ trong khuôn viện điện cho đến
trọng đời, đảm nhiệm (còn Thế Miếu là do Ty Từ Tế phụ trách)
6. Hiển Lâm Các

Hiển Lâm Các là một công trình kiến trúc nằm trong quần thể di tích cố
đô Huế, trong khu vực các miếu thờ, được xây dựng vào năm 1821 và hoàn
thành vào năm 1822 thời vua Minh Mạng, cùng lúc với Thế Miếu.
Hiển Lâm Các nằm trong khu vực miếu thờ trong hoàng thành Huế, cao
17m và là công trình kiến trúc cao nhất trong Hoàng Thành. Đây được xem là
đài kỷ niệm ghi nhớ công tích của các vua nhà Nguyễn và các quan đại thần
có công lớn của triều đại.
6.1 Kiến trúc
Hiển Lâm Các được kiến trúc bằng gỗ cao tầng, xây dựng trên khối nền
cao hình chữ nhật, lát gạch Bát Tràng, xây bó bằng gạch vồ, vôi vữa và đắp
nổi mảnh sành để trang trí. Từ dưới bước lên mặt nền bằng hai hệ thống bậc
cấp đá Thanh, ở trước và sau mỗi hệ thống có 9 cấp bậc. Hai bên thành bậc
cấp đắp hình rồng ở giữa là giới hạn lối đi dành riêng cho vua.
Kiến trúc của Hiển Lâm các được chia làm 3 phần rõ rệt chia làm 3 phần
mái chính. Tầng 1 có tất cả 5 gian, kiến trúc của tầng 1 được xem là sắc sảo
với những bản điêu khắc đạt đến trình độ điêu khắc tinh xảo. Tại các cột, kèo
của tầng 1, các bản điêu khắc có in hình rồng, hoa, lá có giá trị rất cao về mặt
kiến trúc. Ở hàng cột 3 tính từ mặt trước, dựng một dãy đố bản, giữa mỗi
gian trổ một cửa vòm. Các hệ thống kèo, liên ba, đố bản ở tầng này đều chạm
nổi các mô típ hình rồng cách điệu hoá thành dây leo lá cuốn. Trên cửa giữa
treo tấm hoành phi lớn đề ba chữ "Hiển Lâm Các" trên nền sơn màu lục,
khung chạm 9 con rồng vờn mây sơn son thếp vàng.
Chiếc cầu thang nhỏ bằng gỗ được bắc lên tầng 2 được xem là một tác
phẩm giá trị nhất của Hiển Lâm Các. Tầng 2 được chia làm 3 gian và tầng 3
chỉ có 1 gian. Trên cùng của tầng 3 có đựng một bình rượu màu vàng.
Kết cấu của kiến trúc Hiển Lâm Các khá vững chãi một phần nhờ vào sức
chống đỡ của 24 cột. Độc đáo của Hiển Lâm Các nhất chính là công trình này
được làm hoàn toàn bằng gỗ và có tất cả 12 mái, 4 cột chính chạy suốt chiếu
cao của Hiển Lâm Các 13 m Diện tích mặt bằng Hiển Lâm Các là 300m².
6.2 Tình trạng

Hiển Lâm Các là công trình đẹp và độc đáo của khu vực Hoàng Thành.
Nó là công trình được bảo quản tốt và được trùng tu nhiều lần, lần mới nhất
vào năm 2001 (được xem là lần trùng tu hoàn chỉnh nhất).
Cụm từ Hiển Lâm Các, Thế Miếu và Cửu Đỉnh là 3 cụm từ mà mọi người
luôn nhắc liền nhau để cho thấy sự liên kết về mặt kiến trúc cũng như về công
dụng, chức năng của các công trình này và là một tổng thể không thể tách
rời, chính sự phối hợp với bố cục xung quanh cùng cảnh quan khiến cho giá
trị của Hiển Lâm Các rất quan trọng. Các đời vua Nguyễn, tất cả các công
trình xây dựng đều phải thấp hơn Hiển Lâm Các
7. Cửu Đỉnh
Cửu Đỉnh của nhà Nguyễn (tiếng Hán: 阮朝九鼎) là chín cái đỉnh bằng
đồng, đặt ở trước sân Thế miếu trong Hoàng thành Huế. Cửu Đỉnh được vua
Minh Mạng ra lệnh đúc vào mùa đông năm 1835 và khánh thành vào ngày 1
tháng 3 năm 1837. Trong thời kỳ chiến tranh Đông Dương rồi chiến tranh
Việt Nam, theo đó là suy thoái của thời kỳ bao cấp (1945 - 1981), Cửu Đỉnh
vẫn không dời chuyển và còn nguyên vẹn tới ngày nay.
Cửu Đỉnh gồm chín cái đỉnh đồng, mỗi đỉnh có một tên riêng ứng với một
thuỵ hiệu của mỗi vị hoàng đế triều Nguyễn. Trên mỗi đỉnh, người ta đều
chạm khắc 17 bức họa tiết và 1 bức họa thư, gồm các chủ đề về vũ trụ, núi
sông, chim thú, sản vật, vũ khí, tập hợp thành bức tranh toàn cảnh của đất
nước Việt Nam thống nhất thời nhà Nguyễn.
7.1 Quá trình thiết kế và đúc đỉnh
7.1.1 Khởi công
Đỉnh là thứ trọng khí được đúc bằng kim loại, thường có hai quai (tai)
và ba chân, nguyên nghĩa là đồ để nấu ăn thời xa xưa. Nhưng đỉnh cũng là
tượng pháp để tượng trưng cho quyền lực thống trị của nhà nước quân chủ.
Trước thời vua Nguyễn Thánh Tổ, các chúa và vua nhà Nguyễn đã cho
đúc nhiều vạc đồng để xác định quyền uy của triều đại. Đỉnh kì thực chính là
vạc nhưng mặt khác, đỉnh có ý nghĩa thiêng liêng tôn kính hơn.
Theo quan niệm Dịch học, quẻ Đỉnh (鼎卦) gồm quẻ Ly (離卦) ở trên và

quẻ Tốn (巽卦) ở dưới, mà tự quẻ Ly đã có đức thông minh, sáng suốt, quẻ
Tốn có đức vui, thuận. Vậy quẻ Đỉnh có đủ đức sáng suốt, vui thuận, đắc trung,
cương nhu ứng viện nhau để làm việc đời, hanh thông, rất tốt. Do đó theo
truyền thuyết, khi Hạ Vũ trị thủy, chia chín châu, đúc cửu đỉnh đặt ở kinh đô
nhà Hạ. Thành Thang diệt Hạ Kiệt, lấy cửu đỉnh của nhà Hạ mang về kinh đô
nhà Thương. Chu Vũ Vương diệt Trụ Vương, lại dời cửu đỉnh về Lạc Ấp. Với ý
nghĩa ấy của cửu đỉnh, tháng 10 âm lịch năm 1835, vua Minh Mạng xuống dụ
chỉ cho Nội các, sai đúc cửu đỉnh riêng cho triều đại của mình, triều Nguyễn.
Dụ chỉ như sau:
“Đỉnh là để tỏ ra ngôi vị đã đúng, danh mệnh đã tụ lại. Thực là đồ quý trọng ở nhà tôn
miếu. Xưa các minh vương đời Tam đại lấy kim loại do các quan mục bá chín châu dâng
cống, đúc chín cái đỉnh để làm vật báu truyền lại đời sau. Quy chế điển lễ ấy thực to lớn
lắm ! Trẫm kính nối nghiệp trước, vâng theo đường lối rõ ràng. Nay muốn phỏng theo đời
xưa, đúc chín cái đỉnh để ở nhà Thế miếu Đó là để tỏ ý mong rằng muôn năm bền vững,
dõi truyền đời sau. Chuẩn cho quan phần việc theo đúng kiểu mẫu mới định mà đúc.”
Nhà vua phái hai viên quan khoa đạo và hai viên quản vệ đôn đốc tiến
hành công việc, quan lại ở bộ Công cũng phải thường xuyên xem xét.
7.1.2 Thiết kế và chế tạo
Sử sách không ghi rõ về quá trình thiết kế, vẽ kiểu Cửu Đỉnh nên rất khó
để xác định xem hình dáng của Cửu Đỉnh bây giờ có phải được giữ nguyên
như thiết kế ban đầu hay đã bị sửa đổi trong quá trình chế tạo. Nhìn chung,
cả chín chiếc đỉnh đều có dáng chung giống nhau: bầu tròn, cổ thắt, miệng
loe, trên miệng có hai quai, dưới bầu có ba chân.
Ở phần cổ đỉnh, bên phải ghi năm đúc đều là "Minh Mạng thập lục niên
Ất Mùi" tức là năm 1835. Nhưng mỗi đỉnh cũng có nét riêng. Cũng là quai
đỉnh hình chữ U úp, nhưng góc đáy của nó ở các Cao đỉnh, Nhân đỉnh, Dụ đỉnh
và Huyền đỉnh thì vuông góc, còn ở các đỉnh khác lại uốn cong. Mặt quai thì
tùy đỉnh mà bện thừng, cong vỏ măng, cong lòng máng, phẳng bẹt hay có gờ,
triện hoặc để trơn. Phần lớn cổ các đỉnh có hình lòng máng, nhưng ở Cao
đỉnh, Dụ đỉnh lại để thẳng. Vành miệng của Thuần đỉnh, Dụ đỉnh và Huyền

đỉnh đều cong nửa vỏ măng, còn ở các đỉnh khác thì thẳng đứng với gờ
vuông. Vai nhiều đỉnh có gờ đơn hoặc gờ kép, nhưng một số đỉnh để trơn. Đáy
bầu đỉnh phần lớn cong một phần của khối cầu, nhưng ở một số đỉnh khác lại
bằng và hơi lõm lên. Chỉ có chân Dụ đỉnh là được tạo đáy thẳng hơi chếch,
còn ở các đỉnh khác đều công dạng chân quỳ. Các mảng hình được chạm trên
bàu của đỉnh, mỗi đỉnh có 18 mảng hình
Cửu Đỉnh đúc xong vào tháng 5 âm lịch năm 1836. Vua Minh Mạng
xuống lệnh chọn thợ khéo chạm khắc các hình trang trí chạm nổi vào mỗi
đỉnh. Nhân đó, nhà vua thưởng cho người Đốc biện và binh lính trông coi một
tháng tiền lương, thợ và người làm thưởng chung cho 300 quan tiền. Đồng
thời, vua cũng sai bộ Lễ sắm sửa lễ vật tạ ơn thần linh giúp đỡ cho việc đúc
Cửu Đỉnh được thành công. Tuy vậy, công việc gắn hình chạm nổi mất khá
nhiều thời gian. Việc gì đến cũng phải đến, 8 tháng sau, vào mùa xuân năm
1837, Cửu Đỉnh chính thức hoàn thành
7.1.3 Khánh thành
Đại lễ khánh thành và đặt Cửu Đỉnh diễn ra vào ngày 1 tháng 3 năm
1837 tức ngày quý mão tháng giêng âm lịch năm Đinh Dậu, niên hiệu Minh
Mạng thứ 18. Đích thân hoàng đế Minh Mạng đứng ra chủ trì buổi lễ. Chín
chiếc đỉnh lần lượt được đặt ở sân của Thế Miếu, sát với Hiển Lâm Các, dưới
chân mỗi đỉnh đều kê bằng tảng đá.
Bắt đầu buổi lễ, nhà vua cùng quần thần đến miếu tế cáo. Lễ xong, nhà
vua dụ bảo các quan rằng:
“Trẫm xem xét đời xưa, đúc đỉnh theo hình các vật, nhưng đồ cổ còn ít, những người
biên chép ghi lại có chỗ không đúng, chép ra toàn là của vạc nấu ăn, còn như đỉnh cao lớn
và nặng, thì không những gần đây không có mà đến đời Tam đại cũng ít nghe thấy. Nay
bắt chước người xưa mà lấy ý thêm bớt, đúc thành chín đỉnh to, sừng sững đứng cao, nguy
nga kiên cố, không chút sứt mẻ, đáng làm của báu, con con cháu cháu, giữ mãi không bao
giờ hết. Vậy thông dụ cho 31 trực tỉnh và thành Trấn Tây đều được biết.”
Ngày hôm sau, vua Minh Mạng thiết triều ở điện Thái Hòa, quần thần
đều cúi lạy chúc mừng. Nhà vua ban yến cho các quan văn võ từ ngũ phẩm

trở lên, đồng thời xuống lệnh thưởng hậu cho các viên giám tu, đốc biện và
các thợ đúc Cửu Đỉnh. Quan lại trấn thủ ở các tỉnh đều dâng biểu chúc mừng
Trải qua hơn 170 năm biến động, Cửu Đỉnh vẫn không hề thay đổi vị trí,
còn lại nguyên vẹn cho tới ngày nay.
7.2 Vị trí đặt Cửu Đỉnh
Cửu Đỉnh đặt ở trước Hiển Lâm Các theo một hàng ngang, đối diện với
Thế Miếu, phía nam hoàng thành Huế. Cao đỉnh được đặt ở trên đường thần
đạo chạy từ Miếu Môn qua Hiển Lâm Các đến gian giữa của Thế Miếu - nơi
đặt án và khám thờ vua Nguyễn Thế Tổ. Cao đỉnh kê ở chính giữa trong số
Cửu Đỉnh và là đỉnh duy nhất được nhích về phía trước 3 mét với hàm ý tôn
vinh vị vua sáng lập triều đại.
Lấy Cao đỉnh làm chuẩn, bên trái lần lượt là Nhân đỉnh, Anh đỉnh, Thuần
đỉnh, Dụ đình; bên phải lần lượt là Chương đỉnh, Nghị đỉnh, Tuyên đỉnh,
Huyền đỉnh. Nhân đỉnh đối diện với án thờ vua Nguyễn Thánh Tổ, Chương
đỉnh dối diện với án thờ vua Nguyễn Hiến Tổ, Anh đỉnh đối diện với án thờ
vua Nguyễn Dực Tông, Nghị đỉnh đối diện với án thờ vua Nguyễn Giản Tông,
Thuần đỉnh đối diện với án thờ vua Nguyễn Cảnh Tông, Tuyên đỉnh đối diện
với án thờ vua Nguyễn Hoằng Tông, Dụ đỉnh đối diện với án thờ vua Hàm
Nghi, Huyền đỉnh đối diện với án thờ vua Duy Tân
7.3 Họa tiết chạm nổi trên Cửu Đỉnh
Tháng 10 âm lịch năm 1835, khi ban chỉ dụ sai đúc Cửu Đỉnh, vua Minh
Mạng cũng căn dặn bộ Công rằng:
“Nay đúc đỉnh, khắc các hình tượng sông, núi và mọi vật cũng không cần phải khắc
đủ cả, duy phải khắc rõ tên, hiệu và xứ sở để tiện nhận xét. Đó là cái ý người xưa vẽ hình
mọi vật.”
Tổng cộng có 162 tấm họa tiết chạm nổi tinh xảo trên bàu của tất cả 9
chiếc đỉnh, mỗi đỉnh gồm 18 tấm, chia làm ba tầng, mỗi tầng có sáu hình xen
kẽ với 6 mảng trống, trong đó tầng trên và tầng dưới bố trí lệch đi một
khoảng so với tầng giữa. Mảng hình chính ở mặt trước thuộc tầng giữa được
khắc tên đỉnh với lối chữ chân phương, từng nét mạch lạc, khối chữ vuông

vức các hình chạm nổi trên Cửu Đỉnh được sắp xếp theo trật tự trang trí chặt
chẽ.
Nhìn chung tầng giữa tập trung những hình quan trọng nhất: lấy tên
đỉnh làm nội dung trang trí chính, đối lại phía sau là các mô hình thể hiện vũ
trụ như các tinh cầu hay các biểu tượng thiên nhiên mạnh mẽ và thần bí, hai
bên trên đỉnh là hình các núi cao hùng vĩ, trập trùng và đối lại bên kia là biển
cả mênh mông hay cửa sông rộng mở, rồi tiếp theo cả hai bên là những con
sông lớn của Việt Nam
Tầng trên và tầng dưới không có hình ở hai phía trước và sau, mà dàn
sang hai bên nhưng vẫn mang tính đăng đối. Ở tầng trên, thứ tự từ trước ra
sau là những cây to quý (riêng ở Cao đỉnh thay bằng hình rồng, ở Anh đỉnh là
ve sầu và ở Tuyên đỉnh là tổ yến) đối xứng với những cây ăn quả lưu niên.
Tiếp theo là hình những con chim đẹp, quý hiếm (riêng ở Nghị đỉnh thay bằng
hình con sâu dừa) đối xứng với cây lương thực, cuối cùng là những loài hoa
đăng đối với ngũ cốc.
Tầng dưới đăng đối hai nửa từ trước ra sau là cặp đôi gồm những cây
gỗ lớn và cây gia vị với loài thủy hải sản và cây quý (riêng ở Nghị đỉnh thay
bằng cặp chim uyên ương). Tiếp đến là những loài hải vật nhỏ đăng đối với
thuyền bè, xe cộ (riêng ở Anh đỉnh thay bằng lá cờ). Sau cùng là các linh thú
đăng đối với các kiểu vũ khí chiến trận
Nghệ nhân khi thể hiện hình chạm trên Cửu đỉnh đã không phụ thuộc
vào trạng thái tự nhiên của vật thể, cũng như tỷ lệ kích thước của chúng, mà
họ sáng tạo bằng sự sắp xếp lại cho vừa một mảng diện tích tương đương
nhau trên bàu của đỉnh. Vì thế có những vật thể thu nhỏ nhiều, nhưng lại có
những vật thể thu lại không đáng kể; có hình rất khái quát, nhưng lại có hình
khá chi tiết, hình nào cũng được nhìn rất động với những chi tiết đặc thù
Có thể xem 162 hình chạm khắc trên Cửu Đỉnh như một bộ "Dư địa chí,"
bộ bách khoa thư về nước Việt Nam đầu thế kỷ 19 bằng phương pháp tạo
hình; tuy không đầy đủ nhưng điển hình, đúng như yêu cầu của vua Minh
Mạng: "Nay đúc đỉnh, khắc các hình tượng sông, núi và mọi vật cũng không

cần phải khắc đủ cả, duy phải khắc rõ tên, hiệu và xứ sở để tiện nhận xét"
7.4 Ý nghĩa và giá trị của Cửu Đỉnh
7.4.1 Ý nghĩa
Với chức năng là trọng khí đặt ở trước sân tông miếu của nhà Nguyễn, là
báu vật tượng trưng cho đế nghiệp muôn năm vững bền của triều Nguyễn,
tên gọi của mỗi đỉnh đang mang hàm ý của Minh Mạnglà thụy hiệu của các
vua triều Nguyễn.
Chẳng hạn như Cao đỉnh chính là thụy hiệu của Nguyễn Thế Tổ Cao
hoàng đế, Nhân đỉnh là thụy hiệu của chính vua Minh Mạng, Chương đỉnh là
thụy hiệu của vua Thiệu Trị, Anh đỉnh là thụy hiệu của vua Tự Đức, Nghị đỉnh
là thụy hiệu vua Kiến Phúc, Thuần đình là thụy hiệu của vua Đồng Khánh,
Tuyên đỉnh là thụy hiệu của vua Khải Định. Tất nhiên các vua Dục Đức, Hiệp
Hòa bị Tôn Thất Thuyết phế truất và giết chết; vua Hàm Nghi lãnh đạo phong
trào Cần Vương chống Pháp; hai cha con vua Thành Thái, Duy Tân bị người
Pháp phế truất và lưu đày; vua Bảo Đại thoái vị đều không được đặt tên
miếu hiệu và thụy hiệu. Do đó, tên của Dụ đỉnh và Huyền đỉnh không trở
thành thụy hiệu của bất kì vị vua nào triều Nguyễn.
Cửu Đỉnh gắn liền với con số 9, một con số thiêng liêng theo quan niệm
phương Đông, tượng trưng cho Trời, cho sự hoàn thiện tuyệt đối, cho quyền
uy và sức mạnh của người đứng đầu thiên hạ.
Dễ hiểu tại sao số 9 là tư tưởng chủ đạo vua Minh Mạng trong việc đúc
Cửu Đỉnh cho triều đại mình: tất cả các loại cảnh vật đều được chọn lọc và
sắp xếp theo số 9.
- Chín vì tinh tú và hiện tượng thiên nhiên trong vũ trụ là Mặt Trời, Mặt Trăng,
Gió, Sét, Mây, Mưa, Ngũ tinh, Bắc Đẩu, Nam Đẩu
- Chín ngọn núi lớn là Thiên Tôn, Ngự Bình, Thương Sơn, Hồng Lĩnh, Tản Viên,
Duệ Sơn, Đại Lãnh, Hải Vân, Đèo Ngang
- Chín sông lớn là Bến Nghé, sông Hương, sông Gianh, sông Mã, sông Lô, Bạch
Đằng, Thạch Hãn, sông Lam, sông Hồng
- 9 con sông đào và sông khác là kênh Vĩnh Tế, sông Vĩnh Điện, sông Lợi Nông,

sông Vệ, sông Phổ Lợi, sông Thao, sông Cửu An, sông Ngân Hà.
- 9 loài chim, 9 loài cây lương thực, 9 loại rau củ, 9 loài hoa, 9 loại cây lấy quả,
9 loại dược liệu quý, 9 loại cây thân gỗ, 9 loại vũ khí chiến trận, 9 loại thuyền
bè, xe cộ, cờ.
Tất cả những số 9 ấy hòa quyện với nhau tạo nên một bức tranh thiên
nhiên sông núi đất trời Việt Nam hoành tráng
Con số 9 cũng kết thúc một vòng lịch đại đầy đủ, tương ứng với cửu tộc.
Khởi đầu từ CAO tức thế hệ khai sáng và kết thúc ở HUYỀN là thế hệ sau
cùng, khép kín một chu kỳ để đi vào cõi vĩnh hằng. Từ CAO đến HUYỀN trong
hệ thống thế thứ lịch đại, mỗi thế hệ tượng trưng cho một đức tính tốt: CAO,
tức người khởi dựng, tượng trưng cho sự vĩ đại, NHÂN là lòng tốt, tượng
trưng đức, CHƯƠNG là sự gương mẫu, là ánh sáng, ANH là tài giỏi vinh hạnh,
hiển đạt, NGHỊ là ý chí kiên cường, cương nghị, THUẦN là sự hoàn thiện,
phong phú, TUYÊN là sự hài hòa, tinh thông, DỤ là nền tảng sự thịnh vượng
và HUYỀN ứng với nơi sâu thẳm
Chính vì thế, con số 9 ở đây là số nhiều, đầy đủ nhất đến mức hoàn tất, để
rồi sang con số 10 sẽ trở lại từ đầu theo một chu kỳ mới. Qua đó, Minh Mạng
thể hiện ước muốn trường tồn của quốc gia Đại Nam và uy quyền của triều
Nguyễn mãi vững bền đến nhiều đời con cháu ông sau này.
Nhưng chỉ đến đời Bảo Đại - người cháu 6 đời của Minh Mạng, nhà
Nguyễn đã chính thức sụp đổ, kéo theo sự cáo chung của nền quân chủ Việt
Nam
7.4.2 Giá trị
Cửu Đỉnh có thể coi là một cuộc triển lãm những tác phẩm mỹ thuật rất
tinh tế của những nghệ nhân tài hoa, là biểu tượng cho sự giàu đẹp, thống
nhất của đất nước Đại Nam và ước mơ triều đại mãi vững bền, hùng mạnh.
Tất cả 162 mảng hình trên Cửu Đỉnh là 162 bức chạm độc lập, hoàn
chỉnh, là sự kết hợp điêu luyện giữa nghệ thuật đúc và chạm nổi đồ đồng của
Việt Nam, giữa văn hoá dân gian và văn hoá bác học, là bách khoa thư về
cuộc sống con người Việt Nam hồi nửa đầu thế kỉ 19.

Cửu Đỉnh là di sản văn hóa quý hiếm, có giá trị nhiều mặt của văn hóa
Huế nói riêng, Việt Nam nói chung

×