TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
KHOA GIÁO DỤC
MÔN: GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
ĐỀ TÀI
:
VẤN ĐỀ GIẢNG VIÊN, SINH VIÊN TRONG HỆ THỐNG GIÁO
DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM NÓI CHUNG VÀ HỆ THỐNG GIÁO
DỤC ĐẠI HỌC NGOÀI CÔNG LẬP NÓI RIÊNG
GVGD: PGS. TS. PHẠM LAN HƯƠ NG
NHÓM 03:
1. Trần Công Bình
2. Nguyễn Trung Cang
3. Nguyễn Ngọc Bảo Châu
4. Vũ Hoàng Lan Chi
5. Nguyễn Thành Công
6. Dương Bảo Cường
7. Trần Cao Cường
8. Nguyễn Thị Anh Đào
9. Trần Tiến Đạt
10. Phan Thị Diễm
11. Đỗ Thị Ngọc Diệp
12. Vũ Thị Kim Liên
13. Trần Thị Thu Nhi
14.
Nguyễn Thị Thu Thanh
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 11 năm 2013
Môn: Giáo Dục Đại Học Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Đề tài: Giảng viên và Sinh viên i Nhóm 03
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 03
Họ và tên số thứ tự
Trần Công Bình 10
Nguyễn Trung Cang 11
Nguyễn Ngọc Bảo Châu 13
Vũ Hoàng Lan Chi 14
Nguyễn Thành Công 15
Dương Bảo Cường 17
Trần Cao Cường 18
Nguyễn Thị Anh Đào 20
Trần Tiến Đạt 21
Phan Thị Diễm 23
Đỗ Thị Ngọc Diệp 24
Vũ Thị Kim Liên 53
Trần Thị Thu Nhi 72
Nguyễn Thị Thu Thanh Lớp NVSP18
Môn: Giáo Dục Đại Học Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Đề tài: Giảng viên và Sinh viên ii Nhóm 03
MỤC LỤC
Chương I: Giới thiệu đề tài 1
Chương II: Vấn đề Giảng viên, Sinh viên trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam
nói chung và hệ thống giáo dục đại học ngoài công lập nói riêng 2
I. Tình hình chung về giáo dục Đại học ở Việt Nam 2
1. Khái niệm giáo dục 2
2. Tình hình chung giáo dục Đại học ở Việt Nam 2
2.1. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất 1950 2
2.2. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ 2 1956 2
2.3. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ 3 1979 2
2.4. Nền giáo dục nước nhà sau cải cách kinh tế - xã hội 1986: có những tay đổi
đáng kể 3
2.5 Tình hình giáo dục Việt Nam hiện nay 4
II. Giảng viên và sinh viên trong hệ thống giáo dục đại học việt nam 6
1. Giảng viên 6
1.1. Số lượng giảng viên 6
1.2. Chất lượng giảng viên 8
2. Sinh viên 11
2.1. Một số đặc điểm của sinh viên 11
2.2. Số lượng sinh viên 12
2.3. Chất lượng sinh viên 13
III. Giảng viên và sinh viên trong hệ thống giáo dục đại học ngoài công lập 15
1. Giảng viên 15
1.1. Số lượng giảng viên 15
Môn: Giáo Dục Đại Học Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Đề tài: Giảng viên và Sinh viên iii Nhóm 03
1.2. Chất lượng giảng viên 17
2. Sinh viên 19
2.1 Số lượng sinh viên 19
2.2. Chất lượng sinh viên 21
Chương III: Giải pháp và kiến nghị 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO 27
Môn: Giáo Dục Đại Học Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Đề tài: Giảng viên và Sinh viên 1 Nhóm 03
Chương I: Giới thiệu đề tài
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đầu tư nhiều hơn vào giáo dục, tương
đương một phần trăm trong tổng sản phẩm quốc nội. Tuy nhiên, Giáo dục Việt Nam
nói chung và đại học nói riêng đang được xem là “thời đại khủng hoảng giáo dục”
chính là do việc quản lý yếu kém chứ không phải do thiếu đầu tư.
Hầu hết chúng ta đang có sự bất mãn đối với thực trạng giáo dục Việt Nam hiện
nay, trong đó kể cả người có điều kiện kinh tế và chính trị cao hơn lẫn những người
bình dân đại chúng. Nhiều trường đại học chỉ quan tâm đến chuyện làm sao để tuyển
dụng được nhiều sinh viên nhất chứ không hề quan tâm đến rồi đây các cử nhân, kỹ sư
sẽ đi về đâu? Họ có thể tìm được công ăn việc làm không sau khi ra trường không?
Nguyên nhân này đã dẫn đến tình trạng lao động trong nước “cằn cỗi” ảnh hưởng đến
sự phát triển của nước nhà.
Đứng trước tình trạng trì trệ và lạc hậu của giáo dục làm cản trở sự tăng trưởng
của nền kinh tế nước nhà, nhóm 3 lớp Nghiệp vụ sư phạm giảng viên khoá 19 quyết
định chọn đề tại: “Vấn đề Giảng viên, Sinh viên trong hệ thống giáo dục đại học Việt
Nam nói chung và hệ thống giáo dục đại học ngoài công lập nói riêng”. Trong đề tài
này, nhóm đi sâu tìm hiểu, phân tích và đưa ra giải pháp về tình trạng giáo dục đại học
hiện nay tại Việt Nam. Trong đó, nhóm chú trọng phân tích về khía cạnh giảng viên và
sinh viên trong các trường đại học ngoài công lập.
Thông qua tiểu luận này, nhóm mong rằng sẽ đóng góp một phần ý tưởng về
phát triển giáo dục đại học về mặt giảng viên và sinh viên hiện nay ở các trường
trường đại học Việt Nam nói chung và đại học ngoài công lập nói riêng.
Môn: Giáo Dục Đại Học Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Đề tài: Giảng viên và Sinh viên 2 Nhóm 03
Chương II: Vấn đề Giảng viên, Sinh viên trong hệ thống giáo dục đại học Việt
Nam nói chung và hệ thống giáo dục đại học ngoài công lập nói riêng
I. Tình hình chung về giáo dục Đại học ở Việt Nam
1. Khái niệm giáo dục
Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi hoặc
biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người dạy và người học theo hướng
tích cực. Nghĩa là hoàn thiện nhân cách người học bằng những tác động có ý thức từ
bên ngoài, góp phần đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát triển của con người trong xã
hội đương đại.
2. Tình hình chung giáo dục Đại học ở Việt Nam
2.1. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất 1950
Tháng 7/1950 bản đề án cải cách giáo dục đã được Hội đồng chính phủ thông
qua. Bản đề án mới đã nêu rõ: Nền giáo dục mới phải là nền giáo dục của dân, do dân
và vì dân, được thiết kế trên nguyên tắc “ Dân tộc, khoa học và đại chúng”. Mục tiêu
của giáo dục là giáo dục thế hệ trẻ thành những công dân trung thành với chế độ dân
chủ nhân dân, có phẩm chất, nghị lực phục vụ kháng chiến, phục vụ đất nước. Cơ cấu
nhà trường cải cách gồm hệ thống phổ thông 9 năm và hệ thống giáo dục bình dân,
giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục cao đẳng và đại học.
2.2. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ 2 1956
Sau ngày giải phóng 1954, Miền Bắc có hai hệ thống giáo dục phổ thông cùng
tồn tại: hệ thống giáo dục phổ thông 9 năm do ta xây dựng và hệ thống giáo dục 12
năm ở vùng mới giải phóng do Pháp để lại. Vì vậy tháng 3/1956, Chính phủ đã thông
qua đề án cải cách giáo dục lần thứ 2. Mục tiêu của lần này là: đào tạo, bồi dưỡng thế
hệ trẻ thành những người phát triển về mọi mặt, những công dân tốt, cán bộ tốt trung
thành với nhà nước. Về hệ thống giáo dục, hình thành hệ thống giáo dục 10 năm gồm
3 cấp và giáo dục – đào tạo chuyên nghiệp.
2.3. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ 3 1979
Môn: Giáo Dục Đại Học Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Đề tài: Giảng viên và Sinh viên 3 Nhóm 03
Trong điều kiện đất nước đã thống nhất, cùng đi lên xã hội chủ nghĩa, với nhận
thức giáo dục là “nền tảng văn hóa của một nước, là sức mạnh tương lai của một dân
tộc, là cơ sở ban đầu rất trọng yếu trong sự phát triển con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa,” ngày 11/01/1979, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 14/NQ-
TW về cải cách giáo dục lần thứ ba, trong đó tập trung cải cách cả cơ cấu hệ thống
giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục. Cuộc cải cách này nhằm mục đích
thống nhất hai hệ thống giáo dục tồn tại ở hai miền Bắc - Nam (hệ thống giáo dục 10
năm của miền Bắc và hệ 12 năm của miền Nam) trong thời kỳ 1954-1975 và từng
bước phổ cập giáo dục trong toàn dân (thông qua chương trình giáo dục liên tục cho
trẻ em và bổ túc văn hóa cho người lớn). Để thực hiện cuộc cải cách này, trước hết đòi
hỏi nỗ lực xây dựng trường sở, giáo trình, phương tiện sư phạm cần thiết để kéo dài
cấp tiểu học thêm 1 năm và cấp THCS thêm 1 năm đối với hàng triệu học sinh miền
Bắc. Trong điều kiện thiếu thốn chung của nền kinh tế đất nước, việc đầu tư thực hiện
cuộc cải cách hệ thống giáo dục đã khiến chất lượng giáo dục giảm sút trong suốt thập
niên 80 của thế kỷ XX, những dấu hiệu khủng hoảng giáo dục xuất hiện với tình trạng
bỏ học gia tăng, vị thế xã hội và kinh tế của người giáo viên sa sút…
2.4. Nền giáo dục nước nhà sau cải cách kinh tế - xã hội 1986: có những tay đổi
đáng kể
Thay đổi trong cách nhìn nhận vai trò của giáo dục - đào tạo. Quan niệm “giáo
dục như một bộ phận của cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa” đã được thay thế bởi cách
hiểu “đầu tư cho giáo dục là nguồn đầu tư cho phát triển”. Trong Nghị quyết về “Tiếp
tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo” (Hội nghị lần thứ tư của Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa VII tháng 01/1993), Đảng và Nhà nước đã khẳng định quan
điểm: “Giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ được xem là quốc sách
hàng đầu. Coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo là một trong những hướng chính của đầu tư
phát triển”.
Chính sách xã hội hóa giáo dục Khi nền kinh tế nhiều thành phần ra đời và chế
độ “bao cấp” dần bị xóa bỏ, thì vai trò độc quyền của nhà nước trong cung cấp các
dịch vụ y tế và giáo dục dần dần giảm bớt, đồng thời các dịch vụ này không còn miễn
Môn: Giáo Dục Đại Học Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Đề tài: Giảng viên và Sinh viên 4 Nhóm 03
phí. Thông qua Nghị quyết số 90/CP ngày 21/08/1997 về phương hướng và chủ trương
xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, Nhà nước khuyến khích mở rộng
nhiều hình thức giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các loại trường, lớp bán
công, dân lập, tư thục tại thành phố, thị xã, thị trấn và những vùng có kinh tế thuận lợi.
Chính sách đã thành công, thể hiện ở việc ra đời ngày càng nhiều trường tư thục, dân
lập, từ mầm non đến đại học, làm giảm sức ép cho giáo dục công lập trong khi ngân
sách nhà nước còn rất eo hẹp.
Hệ thống giáo dục quốc dân Nghị định số 90/CP ngày 24/11/1993 của Chính
phủ là văn bản đầu tiên thể chế hóa các quy định về hệ thống giáo dục quốc dân, hệ
thống bằng cấp và chứng chỉ cho giáo dục - đào tạo ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Đặc biệt, Luật Giáo dục đã được Quốc hội thông qua ngày 11/12/1998, trở thành bộ
luật đầu tiên quy định cụ thể về hoạt động giáo dục của Việt Nam, tạo ra khung khổ
pháp lý cho hoạt động giáo dục của Việt Nam.
Từ những năm 2000 trở lại đây quy mô giáo dục ĐH và sau ĐH đã tăng đáng
kể. Năm học 2003-2004 có hơn 1.032.000 sinh viên, gần 33.000 học viên cao học và
nghiên cứu sinh. Hàng năm, số sinh viên từ khu vực nông thôn, miền núi đều chiếm
khoảng 70% tổng số tuyển mới.
2.5 Tình hình giáo dục Việt Nam hiện nay
Giáo dục đại học đóng vai trò quan trọng là nhân tố làm thúc đẩy nền kinh tế,
văn hoá, khoa học và xã hội phát triển. Hiện nay, Việt Nam cũng đang chú trọng phát
triển Giáo dục đại học, các trường đại học đã được lập ra ngày càng nhiều ở các vùng
miền của đất nước nhằm đáp ứng nhu cầu của sinh viên. Tuy nhiên, sự quản lý yếu
kém của bộ máy quản lý nhà nước trong giáo dục đã dẫn đến tình trạng “bạo phát bạo
tàn”, số lượng trường tăng lên nhưng chất lượng giáo dục lại giảm xuống. Chúng ta có
thể hình dung giáo dục Việt Nam nói chung và giáo dục Đại học nói riêng hiện nay
được xem là “lạm phát giáo dục”. Khi nền kinh tế Việt Nam lún sâu vào trạng thái
đình lạm (hoạt động sản xuât- kinh doanh đình đốn trong bối cảnh lạm phát vẫn tăng
cao), ngành giáo dục đại học cũng đã đi xuống. Chúng ta khó có thể xác định được
phong trào đóng cửa ngành học đã bắt đầu từ đâu, nhưng điều chắc chắn là phong trào
Môn: Giáo Dục Đại Học Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Đề tài: Giảng viên và Sinh viên 5 Nhóm 03
này đang lan rộng ở cả ba miền Trung, Nam, Bắc. Chẳng hạn, tại miền Trung là
trường hợp của Đại học Đà Nẵng (đóng ngành kinh tế chính trị và thống kê tin học).
Đại học Phạm Văn Đồng (đóng ngành tài chính ngân hàng). Tại Tp.HCM , với số
lượng hơn nửa triệu sinh viên và thuộc loại cao nhất nước về sức cầu học tập cũng có
một số trường đóng cửa ngành học như Đại học Văn Hiến, Đại học Hùng Vương.
Ngay cả một trường công lập có bề dày truyền thống như Đại học Nông lâm cũng đã
tuyên bố có thể phải đóng cửa nhóm ngành cơ khí, nông nghiệp. Ở khu vực phía Bắc,
Đại học Chu Văn An tại Hưng Yên cũng không phải là ngoại lệ. Hiện tượng đóng cửa
ngành học nói lên điều gì? Những trường hợp nêu trên chỉ mang tính minh họa, trong
khi còn khá nhiều trường đại học cũng lâm vào tình trạng như thế. Qua đó cho thấy,
trường Đại học tăng lên trong khi lượng thí sinh tăng không đáng kể, hoặc chủ trương
đại học hóa các trường cao đẳng đã dẫn đến tình trạng mạng lưới bị thừa và lẫn
lộn…Cung tăng trong khi cầu không thỏa mãn được cung, một quy luật tự nhiên mà
giáo dục đại học không được xem là ngoại lệ. Thậm chí trong những năm tới tình hình
tuyển sinh của khối đại học ngoài công lập còn bi đát hơn hiện thời.
Cùng với hiện tượng đóng cửa ngành học của nhiều trường đại học, vào tháng
10/2011, Nam Định đã trở thành tỉnh đầu tiên khi chính quyền của địa phương này
công khai thông báo không tuyển dụng công chức là những người tốt nghiệp đại học
dân lập, tư thục hay tại chức. Xin lưu ý, tính chất dân lập hay tư thục là như nhau ở
Việt Nam, được nhìn nhận chung là trường ngoài công lập.
Đây cũng là lần đầu tiên văn bằng của khối trường ngoài công lập bị xúc phạm
đến như vậy. Sự xúc phạm này ngay lập tức đã làm dấy lên một làn sóng phản đối từ
phía hội đồng quản trị và ban giám hiệu của nhiều trường đại học dân lập. Hiểu theo
nghĩa thông thường, hành động của chính quyền tỉnh Nam Định không khác gì một sự
phân biệt đối xử trên phương diện xã hội học.
Nhưng ở một góc cạnh khác, người ta lại nhận ra rằng đã đến lúc gióng lên
tiếng “chuông gọi hồn ai” về thực trạng đào tạo tại nhiều trường đại học ngoài công
lập. Khởi đầu của “đường dây giáo dục phí” dẫn đến Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng là
logic cho sự tiếp nối về cách làm ăn ẩu tả của nhiều trường đại học ngoài công lập.
Môn: Giáo Dục Đại Học Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Đề tài: Giảng viên và Sinh viên 6 Nhóm 03
Hoàn toàn không khác với trường ngoài công lập, ngay các trường cao đẳng
công lập được “nâng cấp” thành đại học và trường trung cấp phát triển thành cao đẳng,
cũng rơi vào tình trạng bình mới rượu cũ. Hiển nhiên, giáo dục là một trong những
lĩnh vực được chú trọng về lượng hơn là chất ở Việt Nam trong vài chục năm qua, dẫn
đến hậu quả là từ năm 2000 đến năm 2011, trong khi số lượng trường đại học từ 69
trường tăng đến trên 160 trường, thì lượng giáo viên được chuẩn đào tạo công nhận
vẫn chỉ gần như một hằng số.
Còn về chất, có thể lấy sự so sánh giữa hoạt động giáo dục đại học ở Việt Nam
với Thái Lan trong giai đoạn 2007-2008 như một bằng chứng. Vào thời gian đó, số
trường đại học ở Việt Nam đã vào khoảng 150 trường, so với chỉ 112 trường ở Thái
Lan. Tuy nhiên, người Thái lại có đến 14.000 tiến sĩ, 35.000 thạc sĩ, trong khi người
Việt chỉ có 5.600 tiến sĩ và 15.000 thạc sĩ.
Thế nhưng tiêu chí so sánh thực chất nhất chính là số bài báo khoa học trên tập
san quốc tế giữa hai quốc gia: ngành giáo dục Việt Nam chỉ có 959 bài, trong khi các
nhà khoa học Thái có đến 4.527 bài, tức gấp gần 5 lần.
Như vậy, chỉ cần so sánh với một trường hợp phát triển trung bình như Thái Lan, đã có
thể thấy thực chất ngành giáo dục Việt Nam ra sao khi số lượng trường đại học nhiều
hơn hẳn, nhưng chất lượng đào tạo lại kém hơn hẳn.
II. Giảng viên và sinh viên trong hệ thống giáo dục đại học việt nam
1. Giảng viên
M ột trong những yếu tố hàng đầu tạo nên chất lượng đào tạo của một trường đại
học là số lượng và chất lượng hàng ngũ giảng viên. Ở đây, số lượng rất quan trọng,
nhưng chất lượng (hay cơ cấu thành phần - phần trăm tiến sĩ, giáo sư …) còn quan
trọng hơn.
1.1. Số lượng giảng viên
Theo số liệu thống kê của Bộ GD&ĐT thì số lượng giảng viên tăng lên rất
nhiều trong những năm gần đây. Vào năm 1987 số lượng giảng viên cả nước là 20.212
người. Vào tháng 8/2008, cả nước có khoảng 52.000 giảng viên. Đến tháng 6/2012 số
Môn: Giáo Dục Đại Học Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Đề tài: Giảng viên và Sinh viên 7 Nhóm 03
lượng giảng viên cả nước tăng lên đến 77.500 giảng viên. Lượng giảng viên tăng lên
này góp phần không nhỏ vào công tác giáo dục đào tạo của nước ta hiện nay.
Số lượng giảng viên tăng lên rất nhiều trong vài năm trở lại đây là bởi vì số
lượng các trường đại học, cao đẳng thành lập một cách ồ ạt. Và để đáp ứng nhu cầu về
đội ngũ giảng dạy vì vậy họ phải tuyển một lượng lớn giảng viên. Theo thống kê của
ngành giáo dục, trong hai năm 2006-2007 có 39 trường được thành lập, bình quân mỗi
năm gần 20 trường. Trong 4 năm, từ 2008 đến 2011, có 45 trường được thành lập, bình
quân mỗi năm là 11. Còn trong 5 năm, từ năm 2006 đến 2011, có 84 trường mới thành
lập, nâng cấp 51 trường (chiếm 61%), thành lập mới 33 trường (39%). Hiện nay, Việt
Nam có 440 trường đại học, cao đẳng, trong đó, có 77 trường ngoài công lập.
Bên cạnh đó, các trường đại học, cao đẳng muốn có lực lượng kế thừa để thay
thế lượng giảng viên về hưu, cũng như là đáp ứng việc mở ngành mới, tăng số lượng
tuyển sinh. Họ đã và đang thực hiện áp dụng chính sách giữ lại các sinh viên tốt
nghiệp loại khá giỏi làm giảng viên. Mặt khác, một số trường đại học, cao đẳng có các
chính sách ưu đãi để thu hút nhân tài từ nguồn sinh viên du học nước ngoài.
Tuy nhiên, so với tốc độ phát triển của các trường đại học và cao đẳng như hiện
nay thì lượng giảng viên đang thiếu hụt một cách trầm trọng.
Theo quy định mới của Bộ Giáo dục & Đào tạo (GD&ĐT), các trường đại học
phải dựa vào tiêu chí: Đội ngũ giảng viên cơ hữu (chính thức) của trường phải đạt từ
25 sinh viên/giảng viên. Nếu xét đúng như tiêu chí trên thì sẽ có rất nhiều trường phải
tạm ngưng tuyển sinh vì hiện nay đa số các trường đại học đều có tỷ lệ giảng viên/sinh
viên khá thấp. ĐH DL Ngoại ngữ tin học TP HCM : 47,3 SV/GV, ĐH Tây Đô: 44,2
SV/GV, ĐH M ở TP HCM : 41,2 SV/GV, ĐH Hồng Bàng: 40,2 SV/GV…;
Như vậy, số sinh viên trên một giảng viên SV/GV trung bình là 28. Với nhiều
trường ngoài công lập, con số này chắc chắn còn cao hơn nhiều, đó là chưa kể sự sai
lệch bởi những con số ảo trong những báo cáo hoặc thuyết minh xin thành lập trường
mới, ngành mới
Môn: Giáo Dục Đại Học Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Đề tài: Giảng viên và Sinh viên 8 Nhóm 03
M ột mặt số trường, lớp, ngành nghề đào tạo và nhu cầu lực lượng giảng viên
tăng lên vùn vụt. Mặt khác số lượng giảng viên nói chung hoặc giảng viên có trình độ
cao (cử nhân khá giỏi, tiến sĩ và giáo sư) lại tăng lên chậm chạp. Theo Nghị quyết 14-
2005/NQ-CP, ngoài một số trường phải đạt đẳng cấp quốc tế với tỉ lệ SV/GV không
quá 20, đến năm 2010 có ít nhất 40% giảng viên đạt trình độ thạc sĩ và 25% đạt trình
độ tiến sĩ. Và đến năm 2020, chỉ tiêu này cao hơn với ít nhất 60% giảng viên đạt trình
độ thạc sĩ và 35% đạt trình độ tiến sĩ.
1.2. Chất lượng giảng viên
Chất lượng đội ngũ giảng viên đại học được thể hiện chủ yếu qua chất lượng
hoạt động giảng dạy và chất lượng nghiên cứu khoa học của giảng viên.
Liên quan đến hoạt động giảng dạy, thực trạng hiện nay cho thấy có tình trạng
quá tải giờ dạy của đội ngũ đội ngũ giảng viên do việc thành lập ồ ạt các cơ sở giáo
dục đại học cùng với sự gia tăng nhanh chóng về quy mô đào tạo trong khi số lượng
đội ngũ cán bộ giảng dạy không tăng kịp theo tốc độ tăng quy mô. Thực tế này diễn ra
phổ biến, đặc biệt là đối với giảng viên những môn chung như triết học, ngoại ngữ,
kinh tế chính trị… và giảng viên nhóm ngành hấp dẫn như công nghệ thông tin, ngân
hàng, tài chính kế toán Có những giảng viên dạy 1.000 tiết/năm trong khi quy định là
260 tiết/năm. Do thiếu giảng viên, nhiều trường buộc phải sử dụng giáo viên thỉnh
giảng từ các trường ĐH, CĐ khác nên việc giảng viên “chạy sô” là chuyện không còn
hiếm.
Trong khi đó, công tác nghiên cứu khoa học chưa được chú trọng; nội dung
công tác nghiên cứu khoa học không có chất lượng, hiệu quả, không có tính thực tiễn
và khả năng ứng dụng mà chỉ nhằm đối phó hoặc để chấm điểm bình xét thi đua, xét
phong danh hiệu.
Công bố công trình khoa học trên tạp chí quốc tế ngày càng được quan tâm và
chấp nhận như một tiêu chí đánh giá khách quan chất lượng nghiên cứu khoa học.
Công bố quốc tế của Việt Nam được chia thành hai loại tùy theo tác giả đầu mối
(coresponding author) trong nước hay nước ngoài. Loại thứ nhất, gọi là công bố quốc
Môn: Giáo Dục Đại Học Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Đề tài: Giảng viên và Sinh viên 9 Nhóm 03
tế do nội lực, được trích dẫn ít hơn hẳn so với loại thứ hai. Bài báo do nội lực liên quan
trực tiếp đến đầu vào và đầu ra trong nghiên cứu khoa học, do đó có thể dùng làm cơ
sở để đánh giá hiệu quả nghiên cứu khoa học và giúp hình dung cấu trúc các ngành
khoa học nước nhà hiện nay. Để biết khoa học và đại học Việt Nam đang ở đâu, dưới
đây sẽ so sánh công bố quốc tế của một số trường đại học hàng đầu ở Việt Nam với
Thái Lan.
Năng suất nghiên cứu khoa học tính bằng số bài báo quốc tế trên một triệu dân
được dùng để so sánh các nước về mặt số lượng. Về chất lượng có thể dựa trên số lần
trích dẫn trung bình các bài báo công bố năm 2004.
Dựa vào bảng 1 ta thấy, năng suất nghiên cứu khoa học công bố quốc tế của các
nước tăng đều hằng năm theo cấp số nhân. Việt Nam, Thái Lan và Malaysia tăng
trưởng khá nhanh, 16% hàng năm. Tuy nhiên, số công trình Việt Nam vẫn luôn kém
Thái Lan 6,5 lần, Malaysia 9,5 lần.
Bảng 1. Tổng số bài báo quốc tế và tốc độ tăng trưởng của 11 nước và vùng lãnh
thổ Đông Á trong hai năm 2002 và 2007.
Nguồn: ISIKOWLEDGE ( cập nhật ngày 30/10/2008.
2002 2007
Tăng trưởng,
%/năm
Trung Quốc 31721 81006 20
Nhật Bản 59253 62044 1,3
Hàn Quốc 14948 24917 11
Đài Loan 10610 17689 11
Singapore 3863 5903 10
Hong Kong 2862 4007 7
Thái Lan 1547 3353 16
Malaysia 901 2051 16
Môn: Giáo Dục Đại Học Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Đề tài: Giảng viên và Sinh viên 10 Nhóm 03
Việt Nam 324 691 16
Indonesia 400 584 8
Philippines 398 500 3,5
Về cơ cấu, tỉ lệ giảng viên có trình độ thạc sĩ trở lên chiếm chưa tới 50% tổng
số giảng viên đại học, trong đó trình độ tiến sĩ chiếm 10,16% (giảm so với thời điểm
năm 1997) và chỉ có 3,74% giảng viên có chức danh Phó Giáo sư, Giáo sư. Con số này
còn quá thấp so với mục tiêu của Bộ Giáo dục và Đào tạo đề ra là đến năm 2020 phải
đạt ít nhất 35% giảng viên có trình độ tiến sĩ. Đội ngũ giảng viên đại học có trình độ
cao, đặc biệt là các Phó Giáo sư, Giáo sư có độ tuổi trung bình khá cao, phân bố tập
trung chủ yếu ở một số trường đại học lớn tại các khu vực trung tâm.
Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, tổng số giảng viên đại học, cao đẳng ở nước ta
đến nay là 77.500 người, trong đó giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư chiếm
tỷ lệ 3,5%; giảng viên có trình độ tiến sĩ chiếm tỷ lệ khoảng 10% và giảng viên có
trình độ thạc sĩ chiếm tỷ lệ khoảng 40%. Như vậy còn khoảng 50% giảng viên ở các
cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) chưa có bằng Tiến sĩ, Thạc sĩ. Vì vậy nếu qui định
cứng trong Luật GDĐH là giảng viên ĐH phải có trình độ Thạc sĩ trở lên thì khi Luật
có hiệu lực sẽ có khoảng 50% số cán bộ giảng dạy hiện nay không được dạy, đồng
nghĩa với việc giảm 50% qui mô đào tạo.
Từ năm 1976 đến hết năm 2013, sau 37 năm, tổng số GS, PGS đã được công
nhận ở nước ta là 10.453, trong đó có 1.569 GS và 8.884 PGS, nhiều người đã mất và
về hưu. Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, đến năm 2012, tính tỉ lệ bình quân cả nước chỉ
có xấp xỉ 1 GS hoặc PGS trên 2 vạn dân, không quá 5% giảng viên ĐH là GS hoặc
PGS và 560 (nếu kể cả GV thỉnh giảng nữa thì khoảng 300) sinh viên trên 1 GS hoặc
PGS.
GS.TS Ngô Văn Lệ cho biết: “Muốn có được chất lượng tốt trong đào tạo thì
phải xây dựng được một đội ngũ giảng viên đảm bảo cả về chất lượng, số lượng và cơ
sở vật chất phục vụ đào tạo cũng phải đáp ứng đúng nhu cầu. Tuy nhiên, hiện nay số
Môn: Giáo Dục Đại Học Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Đề tài: Giảng viên và Sinh viên 11 Nhóm 03
người có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ lại chiếm tỷ lệ rất thấp nên buộc các trường phải sử
dụng giảng viên có trình độ đại học để dạy đại học”.
2. Sinh viên
2.1. Một số đặc điểm của sinh viên
Sinh viên là một nhóm xã hội đặc biệt, đang tiếp thu những kiến thức, kỹ năng
chuyên môn ở các trường cao đẳng, đại học để chuẩn bị cho hoạt động nghề nghiệp
sau khi ra trường.
M ỗi một lứa tuổi khác nhau đều có những đặc điểm tâm lý nổi bật, chịu sự chi
phối của hoạt động chủ đạo. Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng nhất ở lứa
tuổi thanh niên - sinh viên là sự phát triển tự ý thức. Nhờ có tự ý thức phát triển, sinh
viên có những hiểu biết, thái độ, có khả năng đánh giá bản thân để chủ động điều
chỉnh sự phát triển bản thân theo hướng phù hợp với xu thế xã hội. Chẳng hạn sinh
viên đang học ở các trường cao đẳng, đại học sư phạm, họ nhận thức rõ ràng về những
năng lực, phẩm chất của mình, mức độ phù hợp của những đặc điểm đó với yêu cầu
của nghề nghiệp, qua đó họ sẽ xác định rõ ràng mục tiêu học tập, rèn luyện và thể hiện
bằng hành động học tập hàng ngày trong giờ lên lớp, thực tập nghề hay nghiên cứu
khoa học. Nhờ khả năng tự đánh giá phát triển mà sinh viên có thể nhìn nhận, xem xét
năng lực học tập của mình, kết quả học tập cao hay thấp phụ thuộc vào ý thức, thái độ,
vào phương pháp học tập của họ.
Ở sinh viên đã bước đầu hình thành thế giới quan để nhìn nhận, đánh giá vấn đề
cuộc sống, học tập, sinh hoạt hàng ngày. Sinh viên là những trí thức tương lai, ở các
em sớm nảy sinh nhu cầu, khát vọng thành đạt. Học tập ở đại học là cơ hội tốt để sinh
viên được trải nghiệm bản thân, vì thế, sinh viên rất thích khám phá, tìm tòi cái mới,
đồng thời, họ thích bộc lộ những thế mạnh của bản thân, thích học hỏi, trau dồi, trang
bị vốn sống, hiểu biết cho mình, dám đối mặt với thử thách để khẳng định mình.
M ột đặc điểm tâm lý nổi bật nữa ở lứa tuổi này là tình cảm ổn định của sinh
viên, trong đó phải đề cập đến tình cảm nghề nghiệp - một động lực giúp họ học tập
một cách chăm chỉ, sáng tạo, khi họ thực sự yêu thích và đam mê với nghề lựa chọn.
Môn: Giáo Dục Đại Học Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Đề tài: Giảng viên và Sinh viên 12 Nhóm 03
Sinh viên là lứa tuổi đạt đến độ phát triển sung mãn của đời người. Họ là lớp
người giàu nghị lực, giàu ước mơ và hoài bão. Tuy nhiên, do quy luật phát triển không
đồng đều về mặt tâm lý, do những điều kiện, hoàn cảnh sống và cách thức giáo dục
khác nhau, không phải bất cứ sinh viên nào cũng được phát triển tối ưu, độ chín muồi
trong suy nghĩ và hành động còn hạn chế. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào tính tích
cực hoạt động của bản thân mỗi sinh viên. Bên cạnh đó, sự quan tâm đúng mực của
gia đình, phương pháp giáo dục phù hợp từ nhà trường sẽ góp phần phát huy ưu điểm
và khắc phục những hạn chế về mặt tâm lý của sinh viên.
Bên cạnh những mặt tích cực trên đây, mặc dù là những người có trình độ nhất
định, sinh viên không tránh khỏi những hạn chế chung của lứa tuổi thanh niên. Đó là
sự thiếu chín chắn trong suy nghĩ, hành động, đặc biệt, trong việc tiếp thu, học hỏi
những cái mới. Ngày nay, trong xu thế mở cửa, hội nhập quốc tế, trong điều kiện phát
triển công nghệ thông tin, nền văn hoá của chúng ta có nhiều điều kiện giao lưu, tiếp
xúc với các nền văn hoá trên thế giới, kể cả văn hoá phương Đông và phương Tây.
Việc học tập, tiếp thu những tinh hoa, văn hoá của các nền văn hoá khác là cần thiết.
Tuy nhiên, do đặc điểm nhạy cảm, ham thích những điều mới lạ kết hợp với sự bồng
bột, thiếu kinh nghiệm của thanh niên, do đó, sinh viên dễ dàng tiếp nhận cả những nét
văn hoá không phù hợp với chuẩn mực xã hội, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và
không có lợi cho bản thân họ.
Lứa tuổi sinh viên có những nét tâm lý điển hình, đây là thế mạnh của họ so với
các lứa tuổi khác như: tự ý thức cao, có tình cảm nghề nghiệp, có năng lực và tình cảm
trí tuệ phát triển (khao khát đi tìm cái mới, thích tìm tòi, khám phá), có nhu cầu, khát
vọng thành đạt, nhiều mơ ước và thích trải nghiệm, dám đối mặt với thử thách. Song,
do hạn chế của kinh nghiệm sống, sinh viên cũng có hạn chế trong việc chọn lọc, tiếp
thu cái mới. Những yếu tố tâm lý này có tác động chi phối hoạt động học tập, rèn
luyện và phấn đấu của sinh viên
2.2. Số lượng sinh viên
Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, năm học 2011-2012, cả nước có 2.204.313 sinh
viên, tăng 2% so với năm học trước và giảm 3,5 lần so với mức tăng quy mô đào tạo
Môn: Giáo Dục Đại Học Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Đề tài: Giảng viên và Sinh viên 13 Nhóm 03
trước khi có Nghị quyết của Quốc hội. Số lượng sinh viên hệ chính quy của năm học
2011-2012 là 1.741.999 người, chiếm 79% tổng quy mô đào tạo, tăng 16% so với năm
học 2007-2008. Tỉ lệ sinh viên hệ vừa học vừa làm giảm nhanh từ 487.491 sinh viên,
chiếm 36,4% vào năm học 2009-2010 xuống còn 457.795 sinh viên, chiếm 32,4% tổng
quy mô đào tạo năm học 2010-2011 và chỉ còn 28,23% (401.192 sinh viên) vào năm
học 2011-2012.
Số lượng sinh viên tăng lên hằng năm và rất nhiều trong những năm gần đây là
do tốc độ phát triển của các trường đại học, cao đẳng một cách ồ ạt và rầm rộ trong vài
năm trở lại đây. Bên cạnh đó, các trường đại học, cao đẳng trong cả nước đua nhau mở
thêm ngành mới và tăng chỉ tiêu tuyển sinh.
Chỉ tiêu được giao hằng năm về tăng quy mô đào tạo đối với giáo dục đại học
từ năm 2010 tới nay chỉ dừng ở mức khoảng 6-6,5%, giảm 5-6% so với năm 2009 trở
về trước (giai đoạn từ năm 2009 trở về trước, tỉ lệ tăng quy mô giáo dục đại học được
giao luôn ở mức 12-13%/năm). Tỉ lệ sinh viên hệ chính quy, tập trung tăng lên trong
khi số lượng sinh viên hệ phi chính quy giảm dần.
2.3. Chất lượng sinh viên
Chất lượng của sinh viên Việt Nam đang ngày một đi xuống và trong tình trạng
đáng báo động.
Theo điều tra của Bộ Giáo Dục năm 2011, cả nước có đến 63 % sinh viên thất
nghiệp vì thiếu kỹ năng.
Tại diễn đàn giáo dục Đại học Việt Nam-Thụy Sỹ đã đề cập đến nghiên cứu
mới đây của Viện Quản lý kinh tế Trung ương Việt Nam thì phần lớn sinh viên tốt
nghiệp các trường đại học, cao đẳng và cả các trường dạy nghề chưa đáp ứng được yêu
cầu kỹ năng ngày càng cao của doanh nghiệp. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, 44% các
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài phải thực hiện đào tạo tại chỗ cho các lao động mới
tuyển. Và 25% các học viên từ các trường đào tạo nghề không đáp ứng được các yêu
cầu về kiến thức chuyên môn cũng như tay nghề trong các doanh nghiệp.
Môn: Giáo Dục Đại Học Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Đề tài: Giảng viên và Sinh viên 14 Nhóm 03
Theo khảo sát của trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn có khoảng
26,2% cử nhân đại học ra trường nhưng không có việc làm. Bên cạnh đó, 70,8% cử
nhân ra trường lại làm những công việc trái ngành nghề được đào tạo, chỉ có khoảng
19% cử nhân làm đúng ngành nghề được đào tạo.
Tình trạng chất lượng sinh viên ngày càng đi xuống có nhiều nguyên nhân. M ột
số nguyên nhân tiêu biểu như:
Cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy của nhiều trường đại học, cao
đẳng không đáp ứng tốt cho việc giảng dạy. Nhiều trường đại học, cao
đẳng phải thuê cơ sở vật chất để giảng dạy. Thư viện trường chỉ được
đầu tư qua loa, chủ yếu là để đối phó. Các đầu sách trong thư viện thiếu
cả về số lượng và chất lượng.
Quy chế giảng dạy vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế: nhiều sinh viên cho
rằng: “chán học, bỏ học, ít học” cũng một phần bắt nguồn từ quy chế
giảng dạy ở các trường đại học. Các chương trình học ở các trường đại
học vẫn còn quá nặng lí thuyết, nhiều giờ học vẫn theo hình thức “thầy
giảng trò chép”, ít thực tế. Hơn nữa, nhiều trường đại học vẫn theo quy
chế chỉ xét điểm tổng kết của sinh viên trong kì thi cuối kì (thi học
phần), những điểm trong kì (thi học trình) chỉ là điều kiện để đánh giá
sinh viên có được tham gia kì thi cuối kì không mà thôi. Quy chế đó đã
dẫn đến tư tưởng xấu ở không ít các bạn sinh viên là: trong năm chỉ cần
thi sao cho “vừa khung” (đạt điểm 5 ở mỗi học trình. Tư tưởng đó dẫn
đến tình trạng sinh viên không tự giác học, lười học, lười chuẩn bị bài
trước khi đến lớp, bài thi học trình thì làm qua loa, miễn là đủ điều kiện.
Tính tự giác của sinh viên ngày càng thấp: Theo thầy Đan Tâm, Nguyên
hiệu trưởng trường Đại học Công Đoàn nhận xét: “Trong thực tế và theo
thống kê xác suất, chỉ có khoảng 20%, tức là 1/5 số sinh viên có bản lĩnh
và ý thức tự giác học tập, còn nữa thì không chăm học và lười học.
Trong thực tế, sinh viên nước ta hiện nay còn quá nhiều thời gian nhàn
rỗi, không đầu tư tối đa cho học tập và nghiên cứu khoa học thì làm sao
Môn: Giáo Dục Đại Học Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Đề tài: Giảng viên và Sinh viên 15 Nhóm 03
trở thành sinh viên giỏi, thành người lao động có tài năng sau khi ra
trường”.
Sử dụng Internet quá nhiều: theo một cuộc khảo sát về thời gian biểu của 100 bạn sinh
viên ở các trường đại học khác nhau tại Hà Nội. Kết quả đã cho thấy, ngoài thời gian
học chính trên trường, thì việc tự học của các bạn chỉ chiếm 9% lượng thời gian trong
một ngày. Trong khi đó, việc sử dụng Internet lại “ngốn” của các bạn tới hơn 21%,
tương đương với việc thời gian trung bình cho việc truy cập mạng là 5 giờ một ngày.
Đối với nhiều bạn sinh viên, lên mạng đọc tin tức hay hỗ trợ cho việc học là không
nhiều, mà thay vào đó là tán gẫu với bạn bè, nghe nhạc, chơi games,…
III. Giảng viên và sinh viên trong hệ thống giáo dục đại học ngoài công lập
1. Giảng viên
1.1. Số lượng giảng viên
Trong xu hướng chung của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, hệ thống giáo
dục đại học ngoài công lập đang lâm vào tình trạng thiếu nguồn nhân lực giảng dạy
một cách trầm trọng. Rất nhiều trường đại học, cao đẳng có lượng giảng cơ hữu rất ít.
Đa số, đội ngũ giảng viên của họ là giảng viên thỉnh giảng từ các trường đại học, cao
đẳng lớn trong cả nước hoặc từ các doanh nghiệp. Với số lượng giảng viên cơ hữu ít
và giảng viên thỉnh giảng cũng không ổn định, do vậy việc đào tạo tại trường cũng rất
khó khăn và thiếu tính liên tục do không có sự thống nhất về mặt chuyên môn của
chương trình đào tạo. Những giảng viên cơ hữu kiêm luôn việc tham gia quản lý các
công việc của trường, do vậy họ không đủ thời gian để nghiên cứu và trao dồi chuyên
môn. Tuy vậy, giảng viên của một số trường ngoài công lập được trả lương cao hơn so
với các trường công lập, họ được trả lương tương xứng với công sức đã bỏ ra. Do vậy,
một số trường công lập, giảng viên chỉ đến giảng dạy cho đủ số tiết quy định, còn phần
lớn họ dành thời gian nhiều để tham gia giảng dạy tại các trường tư.
Theo dự thảo quy chế trường đại học tư thục đưa ra quy định: các trường phải
có tối thiểu 20% giảng viên cơ hữu. Lập tức, nhiều trường đại học, cao đẳng đã
có nhiều ý kiến phản đối với lý do không khả thi. Tại nhiều trường, giảng viên cơ hữu
Môn: Giáo Dục Đại Học Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Đề tài: Giảng viên và Sinh viên 16 Nhóm 03
chỉ chiếm một phần nhỏ trong đội ngũ giảng viên của trường. Trường ĐHDL Cửu
Long (Vĩnh Long) có 72 giảng viên cơ hữu, 333 giáo viên thỉnh giảng. Con số này ở
trường ĐHDL Đông Đô là 70 và 356.
Tuy nhiên, không ít trường, tỷ lệ này đã đạt tới mức 50/50. Trường ĐHDL
Lương Thế Vinh (Nam Định) đã có 20 giảng viên cơ hữu, 20 giảng viên thỉnh giảng.
Trường ĐHDL Ngoại ngữ - Tin học TP.HCM có 105 giảng viên cơ hữu, 193 giảng
viên thỉnh giảng. Tại trường ĐHDL Quản lý Kinh doanh Hà Nội, tỷ lệ giảng viên cơ
hữu chiếm tới hơn 52%. Trong số hơn 300 giảng viên, trường ĐHDL Hải Phòng, cũng
có tới 140 giảng viên cơ hữu.
Từ đầu năm 2012, Bộ GD&ĐT đã tiến hành thanh tra các trường ĐH, CĐ trên
cả nước và phát hiện nhiều trường còn khó khăn về cơ sở vật chất và thiếu thốn về đội
ngũ giảng dạy. Trong đó, bảy trường có dưới 50 giảng viên cơ hữu và không hợp đồng
dài hạn, 42 ngành đào tạo đại học chưa có tiến sĩ đúng ngành, 25 ngành cao đẳng chưa
có thạc sĩ đúng ngành.
Qua thanh tra, nhiều trường ĐH, CĐ và nhiều ngành học đang bị thiếu giảng
viên. Đơn cử như trường đại học Văn Hiến (TP Hồ Chí Minh) có 4.947 sinh viên
nhưng chỉ có 57 giảng viên cơ hữu, tỷ lệ sinh viên/giảng viên là gần 87/1; trường cao
đẳng Công nghệ thông tin TP Hồ Chí Minh có 6.420 sinh viên nhưng chỉ có 76 giảng
viên, tỷ lệ sinh viên/giảng viên là 84,5/1.
Tại nhiều cơ sở đào tạo, nhất là các cơ sở mới được thành lập và cơ sở tư thục,
số lượng giảng viên thỉnh giảng cao hơn nhiều lần so với đội ngũ cán bộ cơ hữu làm
ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng đào tạo của nhà trường. Một số trường có số
lượng giảng viên thỉnh giảng gấp 2 lần số giảng viên cơ hữu; cá biệt có trường chỉ có
53 giảng viên cơ hữu, trong khi số giảng viên thỉnh giảng là 375. Không ít trường hợp
danh sách giảng viên thỉnh giảng của một số trường trùng nhau, tập trung vào một số
Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ. Việc sử dụng quá đông giảng viên thỉnh giảng một mặt
làm cho cơ sở đào tạo khó chủ động thực hiện kế hoạch đề ra và chất lượng đào tạo
không cao do giảng viên thỉnh giảng ít có điều kiện tham gia sinh hoạt chuyên môn tại
Môn: Giáo Dục Đại Học Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Đề tài: Giảng viên và Sinh viên 17 Nhóm 03
cơ sở thỉnh giảng và không có thời gian tập trung nghiên cứu, nâng cao chất lượng
giảng dạy.
Bảng 2: Cơ cấu giảng viên cơ hữu và giảng viên thỉnh giảng
Để thực hiện đúng như tiêu chí của Bộ GD&ĐT, nhiều trường cũng gấp rút
tuyển dụng giảng viên cơ hữu nhưng để tuyển được đội ngũ giảng viên này thì lại rất
khó. Ông Nguyễn Mạnh Hùng, hiệu trưởng trường đại học Nguyễn Tất Thành, cho
biết: “trường đang có nhu cầu tuyển thêm 150 giảng viên, ưu tiên người có trình độ
thạc sĩ, tiến sĩ nhưng hiện rất khó tuyển vì không có nguồn”. Tại Trường đại học Văn
Lang, tổng quy mô đào tạo hiện nay của trường là 10.000 sinh viên, thì phải cần
khoảng 400 giảng viên nhưng hiện số giảng viên của trường chỉ đạt khoảng 320, như
vậy trường sẽ cần phải tuyển thêm 80 giảng viên nhưng hiện vẫn chưa có nguồn tuyển.
Tương tự, nhiều trường đại học, cao đẳng tại Tp. Hồ Chí M inh cho biết: Tuyển
được người có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ rất khó nên nhiều trường đành phải tuyển những
người có trình độ đại học rồi từ đó tổ chức đào tạo dần lên thạc sĩ, tiến sĩ thì may ra
mới đủ được số lượng giảng viên cơ hữu theo đúng tiêu chuẩn đặt ra.
1.2. Chất lượng giảng viên
Chất lượng đội ngũ giảng viên tại các trường đại học, cao đẳng đang được các
nhà quản lý giáo dục và xã hội quan tâm, đặc biệt là đội ngũ giảng viên tại các trường
Năm học 2006-2007 2007-2008 2008-2009
Tổng số GV (người) 22.792 26.798 30.121
GV
cơ
hữu
Tổng số 16.536 18.827 21.075
Công lập 14.750 16.360 18.270
Ngoài công lập 1.786 2.467 2.805
GV
thỉnh
giảng
Tổng số 6.256 7.971 9.046
Công lập 3.233 4.213 4.624
Ngoài công lập 3.023 3.758 4.422
Môn: Giáo Dục Đại Học Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Đề tài: Giảng viên và Sinh viên 18 Nhóm 03
đại học, cao đẳng ngoài công lập. Bởi vì, đội ngũ giảng viên chưa được kiểm định chất
lượng và do các trường tuyển “đại trà” nhằm đảm bảo số lượng giảng viên cơ hữu theo
quy định nhưng chưa thể hiện được chất lượng của giáo dục. Tuy nhiên, "người nhà"
hay "người mời" thì điều đáng quan tâm hơn cả là chất lượng đội ngũ giảng viên.
Trường ĐHDL Quản lý Kinh doanh Hà Nội thì dạy kinh nghiệm thực tế kinh doanh
cho sinh viên bằng cách nhận giảng viên là những người đã từng hành nghề "đi buôn".
Trường ĐHDL Thăng Long, ĐHDL Văn Hiến và nhiều trường khác dùng cách "sinh
viên đánh giá giảng viên" để tạo động lực cải thiện chất lượng giảng dạy của người
thầy. Mới đây, trường ĐHDL Phương Đông vừa tiếp nhận một trường hợp giảng viên
đã hoàn thành chương trình sau ĐH ở nước ngoài về và một sinh viên giỏi của trường
ĐH Bách khoa Hà Nội.
Theo ông Trần Trọng Miêng, trường ĐH Mở - Bán công TP.HCM , vẫn có một
thực tế là lực lượng thỉnh giảng thì bận rộn công việc của trường chính, ít thời giờ đầu
tư cải tiến phương pháp giảng dạy nên vẫn theo cách giảng cũ, thậm chí có thầy đọc
cho sinh viên ghi. Còn GVCH, đa số là sinh viên của chính trường mới tốt nghiệp,
chưa vào ngạch giảng viên; một số là cán bộ quản lý tham gia giảng lại ít thời giờ
chuẩn bị, nên cứ theo cách cũ: đọc giáo án, giáo trình tóm tắt cho sinh viên chép.
Tuy nhiên, trong nỗ lực cải thiện chất lượng để hướng tới mục tiêu xa hơn, nhiều
trường ĐH đã có kế hoạch dài hơi để cải thiện chất lượng đội ngũ giảng viên. Tuyển
người mới và cho đi học sau ĐH trong và ngoài nước, là cái cách mà nhiều trường
đang ráo riết thực hiện.
Trường ĐHDL Ngoại ngữ - Tin học TP.HCM có chủ trương: Giảng viên nào đi
học bổ túc, thiếu tiền, nhà trường cho vay. Học ở nước ngoài học bổng ít quá không đủ
thì được nhà trường chu cấp hoặc cho vay tuỳ từng hoàn cảnh, đối tượng. Trước khi đi
đều ký hợp đồng với trường thậm chí để ràng buộc thêm một số người có cả gia đình
ký nếu không về gia đình chịu trách nhiệm.
Trong nỗ lực này, các trường ngoài lập lại "vướng" phải cái khó do quan niệm:
trường dân lập là trường của nó! Theo Hiệu trưởng trường ĐHDL Hải Phòng Trần
Hữu Nghị, giáo viên trường ngoài công lập vẫn còn bị phân biệt đối xử trong bình bầu
Môn: Giáo Dục Đại Học Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Đề tài: Giảng viên và Sinh viên 19 Nhóm 03
các danh hiệu, phong học hàm học vị. Khi đi thi, đi học nghiên cứu sinh, thạc sĩ, các
GVCH của trường dân lập vẫn bị xem như thí sinh tự do, tiền học phí phải trả cao
nhất.
Tuy nhiên, một số trường ngoài công lập cũng chú trọng đến chất lượng đào tạo
chẳng hạn như đại học FPT, RMIT. Đối với các trường này, khi tuyển giảng viên đều
thông qua việc thi tuyển, các giảng viên ngoài đáp ứng yêu cầu chuyên môn phải đáp
ứng yêu cầu về ngoại ngữ. Về giáo trình đào tạo đều có sự thống nhất và liên kết chặt
chẽ mang tính hệ thống, các giảng viên tham gia đào tạo đều bám sát theo giáo trình
của nhà trường tránh tình trạng giảng dạy không mạch lạc và rời rạc về kiến thức giữa
môn học. Do vậy, giảng viên tham gia cũng đều là giảng viên giỏi và được trả thù lao
tương xứng với trình độ của họ.
Tóm lại, hầu hết các trường ngoài công lập hiện nay đang thiếu giảng viên cơ
hữu và phần lớn là giảng viên thỉnh giảng nhằm giảm bớt về mặt kinh phí trả lương
giảng viên. Giảng viên cơ hữu lại kiêm nhiệm thêm các công việc của khoa và trường
và không còn thời gian để trao dồi thêm chuyên môn. Không những thế, các trường lại
không chú trọng đến sự phát triển lâu dài của đội ngũ giảng viên về mặt chất lượng
chuyên môn phục vụ cho công tác giảng dạy và phát triển chất lượng tình hình giáo
dục của trường.
2. Sinh viên
2.1 Số lượng sinh viên
Có một nghịch lý xảy ra ở các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập là: số
lượng trường được thành lập ngày càng nhiều, số ngành học và chỉ tiêu tăng tuyển sinh
tăng lên hằng năm. Tuy nhiên, số lượng sinh viên tại các trường đại học, cao đẳng
ngoài công lập đang giảm một cách rõ rệt.
Theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nếu như năm học 2010 - 2011, tỷ lệ
sinh viên ngoài công lập là 15,4%, thì năm 2011 - 2012 giảm xuống 15% và năm 2012
- 2013 còn 14%. Trong khi đó, từ năm 1999 đến năm học 2012 - 2013, các trường đại
Môn: Giáo Dục Đại Học Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Đề tài: Giảng viên và Sinh viên 20 Nhóm 03
học, cao đẳng công lập tăng từ 131 lên 338 trường, ngoài công lập tăng từ 22 lên 83
trường.
Trong kỳ thi tuyển sinh năm 2013, rất nhiều trường ngoài công lập chỉ tuyển
được dưới 50% chỉ tiêu. Thí sinh cứ nộp hồ sơ là được “mời” nhập học nhưng tình
trạng “khát” sinh viên vẫn phổ biến khi rất nhiều trường chỉ tuyển được dưới 50% chỉ
tiêu.
Ở phía Bắc, Trường đại học Chu Văn An là một trong những trường bi đát nhất
vì chỉ nhận được 75 hồ sơ xét tuyển. Trường đại học dân lập Hải Phòng vẫn còn thiếu
hàng trăm chỉ tiêu hệ đại học và càng khó khăn hơn đối với hệ cao đẳng cũng như
trung học chuyên nghiệp. Trường đại học Lương Thế Vinh cũng rơi vào hoàn cảnh
khó khăn tương tự với lượng thí sinh nhập học rất ít ỏi.
Trường đại học Hà Hoa Tiên chỉ nhận được khoảng 200 bộ hồ sơ. Có thể nói
đây cũng là con số “trong mơ” bởi kỳ tuyển sinh năm 2012, trường hầu như không
tuyển được hồ sơ nào và không mở được lớp học nào. Tuy nhiên, khi kết thúc xét
tuyển nguyện vọng đợt 1 (ngày 10/9), lãnh đạo trường cho biết chỉ có khoảng chục bộ
hồ sơ đăng ký học.
Các trường Đại học Thành Tây, Đại học Thành đô, Đại học Nguyễn Trãi… tình
hình cũng không khả quan hơn. Ngay cả một trường ngoài công lập khá lâu năm như
Đại học Dân lập Hải Phòng cũng không ngoại lệ. Theo Hiệu trưởng Trần Hữu Nghị,
trường này chỉ tuyển được khoảng 50%.
Nguyên nhân của tình trạng này được các trường lý giải là do số lượng trường
đại học quá nhiều, thí sinh có nhiều lựa chọn. Trong khi đó, các trường công lập lấy
điểm chuẩn không cao, học phí thấp hơn trường ngoài công lập nên được thí sinh ưu ái
hơn. Theo ông Nguyễn Văn Nhã, Hiệu trưởng trường Đại học Nguyễn Trãi nói "Học
phí cao cùng với việc uy tín của các trường tư không bằng các trường công nên có thể
thí sinh không mặn mà.”
M ột nguyên nhân nữa khiến cho số lượng hồ sơ sinh viên nộp vào các trường
đại học, cao đẳng ngoài công lập bị giảm xuống rõ rệt là: Trong 10 năm trở lại đây,
Môn: Giáo Dục Đại Học Thế Giới và Việt Nam GVGD: PGS.TS. Phạm Lan Hương
Đề tài: Giảng viên và Sinh viên 21 Nhóm 03
trường đại học công lập ở các địa phương ra đời liên tục. Các trường này được nhà
nước đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, cấp đất và học phí thấp hơn rất nhiều so với các
trường ngoài công lập. Nên hầu hết các sinh viên không có điều kiện về kinh tế sẽ
chọn lựa các trường đại học, cao đẳng địa phương. Bên cạnh đó, kết quả tuyển sinh đại
học, cao đẳng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như uy tín, danh tiếng, truyền thống của nhà
trường; số lượng, chất lượng, kinh nghiệm của đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý;
cơ sở vật chất, điều kiện học tập và sinh hoạt, môi trường sư phạm; vị trí địa lý của nhà
trường.
2.2. Chất lượng sinh viên
Hầu hết sinh viên của các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập được xếp
theo diện sinh viên bậc 2 so với các trường công lập. Các sinh viên giỏi có điểm thi
cao thường nộp hồ sơ vào các trường điểm có thương hiệu, có uy tín cao. Đa số các
sinh viên nộp hồ sơ vào các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập có điểm thi thấp
và học lực trung bình khá. Nguyên nhân này làm ảnh hưởng nhiều đến quá trình đào
tạo tại trường và chất lượng đầu ra của sinh viên thường thấp hơn các trường khác.
M ột yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của sinh viên nữa là: ý thức học tập của
sinh viên ngày nay không cao. Khi sinh viên sống xa nhà, sinh viên không còn lo lắng
về giờ giới nghiêm, không phải bận tâm tìm lý do để đi chơi cùng bạn bè, không phải
nghe những lời phàn nàn khi lỡ “ nướng” tới trưa… Nhưng cũng chính vì sự tự do đó
mà sinh viên trì hoãn, bỏ bê việc học tập. Lịch học không hợp lý: Sinh viên thường đi
học nhiều môn học để bổ sung kiến thức cũng như kỹ năng, tuy nhiên các em chưa biết
phân bổ thời gian hợp lý, dẫn đến việc chán nản khi đi học và lo sợ khi đến mùa thi.
Phương pháp học tập không đúng: Không có động lực học, không có hứng thú với
môn học, không có mục tiêu học tập rõ ràng nên sinh viên thường nghỉ học, đợi đến
lúc điểm danh mới vô lớp hoặc đi học nhưng đâu óc không tập trung.
M ức học phí tại các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập quá cao so với các
trường công lập