Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Quan hệ giữa triết học và khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.27 KB, 20 trang )

Trường Đạ
i
học Bách Khoa Hà Nội
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Đề tài:
MỐI QUAN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC
GV duyệ
t:
PGS. TS. Trần Thành

Hà nội,
t
háng 11 năm 2013
1
MỤC LỤC
I. LỜI GIỚI THIỆU……………………………………………3
II. PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP SIÊU HÌNH VỚI KHOA
HỌC……………………………………………………………4
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC….8
IV. KẾT LUẬN………………………………………………18
2
I. LỜI GIỚI THIỆU
Trong

những

năm

gần


đây,

cuộc

cách

mạng

khoa

học

kỹ

thuật
hiện

đại

phát

triển

như



bão,

cũng


như

những

biến

động

cách

mạng
lớn

lao

làm

thay

đổi

tận

gốc

rễ

bộ


mặt

của

cuộc

sống



hội,

đòi

hỏi

các
nhà

triết

học



các

nhà

khoa


học

chuyên

môn

giải

quyết

đúng

đắn


kịp

thời

những

yêu

cầu



luận




thực

tiễn

cấp

bách.

Sự

giải

đáp

này
chỉ



thể

thực

hiện

được

trên




sở

nắm

vững



vận

dụng

một

cách
đúng

đắn



sáng

tạo

thế


giới

quan



phương

pháp

luận

triết

học

của
chủ

nghĩa

Mác

– Lênin.

Do

đó

việc


nghiên

cứu

những

vấn

đề

về

mối
quan

hệ

giữa

triết

học



khoa

học


cụ

thể



vấn

đề

về

chức

năng
phương

pháp

luận

của

triết

học

đối

với


các

khoa

học

cụ

thể



ý

nghĩa
quan

trọng.
Vấn đề về mối quan hệ giữa triết học và khoa học (KH) nói chung,
đặc biệt là vấn đề về chức năng phương pháp luận của triết học đối với
khoa học cụ thể, vốn là những vấn đề hết sức quan trọng trong di sản triết
học của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin. Vấn đề này cũng đã được
nhiều tác giả ở nước ta bắt đầu nghiên cứu từ những năm 1960 – 1970.
Vào hè năm 1965, nói chuyện ở Ủy ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước,
đồng chí Phạm Văn Đồng dặn dò: “Các đồng chí cần tự rèn luyện và giúp
người khác rèn luyện phương pháp và tác phong con người làm công tác
khoa học và kỹ thuật, phương pháp suy nghĩ, phương pháp làm việc,
phương pháp nghiên cứu, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp
trình bày, … và tác phong điều tra, nghiên cứu, tác phong chính xác, …”.

Đối với Nhà trường đồng chí nói: “ Ở trường Đại học, điều chủ yếu là
học phương pháp bên cạnh việc học được điều này điều nọ. Điều này điều
nọ có người nói là sau 8 – 10 năm, có thể là sau 15 năm sẽ trở nên lạc
hậu. Cái còn lại đáng quý là phương pháp. Nếu anh tự vũ trang được một
phương pháp vững mạnh thì anh dùng nó suốt đời vì anh phải học mãi
mãi.” (Bài nói chuyện trước Đại hội Đại biểu lần thứ tư Hội liên hiệp học
sinh đại học Việt Nam). Như vậy, ngay từ những thập niên 1960 – 1970,
các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã thấy rõ được tầm quan trọng
của việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Triết học Mác và Các Khoa học cụ
thể, và chỉ có việc nắm vững, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo những tư
tưởng về các vấn đề này của các tác giả kinh điển của Chủ nghĩa Mác –
Lê-nin mới có thể thực hiện được những vấn đề mà các đồng chí lãnh đạo
đã dặn dò.
Triết học tác động vào KH trước tiên là thông qua thế giới quan và
phươngpháp luận khoa học. Như chúng ta đã biết, V.I.Lênin đã nói đến ý
nghĩa to lớn của phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác đối
3
với KH. Chủ nghĩa duy vật biện chứng, với tính cách là phương pháp
luận của KH, giúp cho việc khái quát và giải thích đúng đắn những thành
tựu mới của khoa học. Trong những điều kiện ngày nay, khi KH đang ra
sức tìm kiếm một lý luận khái quát mới, những tư tưởng mới, thì việc chú
ý đến những vấn đề phương pháp luận là đặc biệt quan trọng. Con đường
để làm phong phú và phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng chính là ở
đây và tác động chủ yếu của nó đối với sự phát triển của khoa học cũng
chính là ở đây. Nếu chúng ta không hiểu điều này thì cũng có nghĩa là
không hiểu gì về vai trò tích cực của triết học cũng như về con đường
phát triển của nó một cách sáng tạo.
Trên đây ta đã thấy được tầm quan trọng của vấn đề về mối liên hệ
giữa triết học và các ngành khoa học. Vì thời gian nghiên cứu không
được nhiều, đề tài này chỉ mang tính thu thập lại một số kết quả của

những người đi trước với ý tưởng nêu lại một cách khái quát và ngắn gọn
về một vấn đề có ý nghĩa to lớn – mối liên hệ giữa triết học và KH.
II. PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP SIÊU HÌNH VỚI KHOA HỌC
Vào thế kỷ XIX, trong lịch sử triết học và khoa học, người ta nói
đến phương pháp siêu hình là một phương pháp nhận thức khoa học,
được đưa vào khoa học từ nửa cuối thế kỷ XV và là yếu tố thúc đẩy sự
phát triển nhanh chóng của khoa học. Đó là phương pháp nhận thức áp
dụng trong khoa học với nội dung là tập hợp, phân loại các tài liệu, sau
đó mới so sánh, phân tích chia ra từng loại, từng hạng và tìm mối quan hệ
giữa các đối tượng tĩnh tại. Về phương pháp này, Ph.Ăngghen nhận xét:
“Nhưng phương pháp nghiên cứu ấy đồng thời cũng truyền lại cho chúng
ta thói quen là xem xét các sự vật và các quá trình tự nhiên trong trạng
thái cô lập của chúng, ở bên ngoài mối liên hệ to lớn chung, và do đó
không xem xét chúng trong vận động mà là trong trạng thái tĩnh, không
xem xét chúng về căn bản là tiến hóa mà lại vĩnh viễn cố định; không
xem xét chúng trong trạng thái sống mà lại xem xét chúng trong trạng
thái chết. Và khi các nhận xét này được Bêcơn và Lốccơ đem từ KH sang
triết học thì nó đã tạo ra một sự hạn chế đặc biệt của những thế kỷ vừa
qua, tạo ra phương pháp tư duy siêu hình”. Như vậy, từ một phương pháp
nhận thức khoa học, khi chuyển sang triết học, đã trở thành một phương
pháp tư duy có ý nghĩa phổ biến trong các hoạt động khoa học thời bấy
giờ, và cả trong mọi hoạt động khác của con người. Từ đó, phương pháp
tư duy siêu hình cũng có nghĩa là một quan điểm triết học trong việc xem
xét trạng thái tồn tại của thế giới – quan điểm siêu hình, phép siêu hình
đối lập với quan điểm biện chứng, phép biện chứng.
4
Quan điểm biện chứng và quan điểm siêu hình là hai cách xem xét
trạng thái tồn tại của thế giới, đối lập nhau nhưng đồng thời cũng là hai
cách tiếp cận thế giới khác nhau: cách tiếp cận toàn bộ và cách tiếp cận
trừu tượng hóa.

Về quan điểm biện chứng trong việc xem xét trạng thái của thế giới,
lịch sử triết học cũng đã biết đến nhiều người thời cổ Hy Lạp, trong đó có
người đầu tiên diễn đạt được rõ ràng nội dung là Hêracơlít mà
Ph.Ăngghen đã tóm tắt như sau: “mọi vật đều tồn tại nhưng đồng thời lại
không tồn tại, vì mọi vật đều trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi,
mọi vật đều luôn luôn ở trong quá trình xuất hiện và biến đi”. Và tiếp
ngay đó, ông đã nói lên nhận xét về giá trị và hạn chế quan điểm nói trên
trong việc nhận thức thế giới: “Nhưng dù đã nắm đúng tính chất chung
của toàn bộ bức tranh các hiện tượng đến thế nào đi nữa, quan điểm ấy
vẫn không đủ để giải thích những chi tiết kêt thành toàn bộ bức tranh ấy;
và chừng nào chúng ta chưa giải thích nổi các chi tiết thì chúng ta cũng
chưa thể có một quan niệm rõ rệt về bức tranh chung được”. Và để giải
thích được các chi tiết trong bức tranh chung luôn luôn vận động, biến
hóa đó, Arixtốt đã đề ra nguyên tắc đồng nhất trừu tượng, cơ sở của cách
tiếp cận trừu tượng trong việc nhận thức các đối tượng cụ thể trong hiện
thực. Tình hình đó nói rằng, để nhận thức được đúng đắn thế giới vốn
diễn biến một cách khách quan và biện chứng, cần có sự kêt hợp của cả
hai: cách tiếp cận nhận thức toàn bộ - biện chứng và trừu tượng – siêu
hình. Chỉ có như vậy mới có thể kết hợp được ưu điểm của cả hai cách
tiếp cận mà Ph.Ăng ghen cũng đã nói: “Nếu về chi tiết, chủ nghĩa siêu
hình là đúng hơn so với những người Hy Lạp, thì về toàn thể, những
người Hy Lạp lại đúng hơn so với chủ nghĩa siêu hình”. Trong thực tế
cuộc sống thường ngày và thường không tự giác, mọi người bình thường
đều đã kết hợp sử dụng cả hai cách tiếp cận trên. Trong khoa học, tình
hình cũng như vậy, nhưng do đặc điểm tư duy lý luận, đã có những vấn
đề phức tạp hơn.
Tư duy lý luận trong khoa học bao giờ cũng phải dựa trên các khái
niệm được định nghĩa một cách chặt chẽ. Các khái niệm này phản ánh
những đối tượng khách quan, nằm trong mối quan hệ chằng chịt với
những đối tượng khác, và tất cả luôn luôn ở trong trạng thái vận động. Rõ

ràng là sự phản ánh này chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở của cách tiếp
cận trừu tượng – siêu hình. Cách tiếp cận này cho phép trừu tượng hóa
các yếu tố, các mối liên hệ hoặc các tác động qua lại không ảnh hưởng
lớn đến trạng thái tồn tại của đối tượng được phản ánh trong khái niệm.
Chẳng hạn, một hòn bi thép được bắn vào một hòn bi thép khác đang
5
đứng yên, làm cho hòn này chuyển động. Trong thực tế, sự va chạm giữa
hai hòn bi bao giờ cũng gây ra sự biến dạng và tỏa nhiệt. Có nghĩa là
năng lượng cơ học từ hòn bi thứ nhất truyền sang hòn bi thứ hai không
được bảo toàn, tức là có hao hụt, do có một phần cơ năng biến thành
nhiệt năng. Tuy vậy, những sự biến dạng và tỏa nhiệt nói trên trong thực
tế là rât nhỏ, nhỏ đến mức mà người ta có thể bỏ qua, coi như không có –
trừu tượng hóa – mà việc nghiên cứu cũng không bị ảnh hưởng, các kết
luận của nó vẫn được coi là đúng, vì khi áp dụng vào các tính toán kỹ
thuật vẫn đem lại kết quả đúng như dự đoán (tất nhiên trong phạm vi sai
số cho phép).
Như vậy, cách tiếp cận này đưa đến những khái niệm chỉ phản ánh
gần đúng những đối tượng khách quan, dựa trên một cái khuôn chung
được quy định bởi các nguyên tắc siêu hình. Rõ ràng là cái khuôn siêu
hình này, tức là quan điểm siêu hình về trạng thái thế giới, không phản
ánh đúng trạng thái tồn tại của thế giới xét toàn bộ, nhưng ở trong một
phạm vi nào đó thì nó phản ánh gần đúng, nên các khái niệm được xây
dựng trên cơ sở các quan điểm siêu hình vẫn được sử dụng làm bậc thang
của quá trình nhận thức các đối tượng khách quan nằm trong phạm vi ấy.
Đó là phạm vi của thế giới trung bình (thế giới trung bình là thế giới nằm
giữa thế giới vĩ mô – vũ trụ và thế giới vi mô – nguyên tử).
Phạm vi các hiện tượng của thế giới trung bình mà con người có thể
trực quan được là rất hẹp, các mối liên hệ giữa sự vật thu nhận được qua
trực quan cũng không nhiều, nhưng để có được các khái niệm, con người
đã phải áp dụng cách tiếp cận trừu tượng – siêu hình và cách tiếp cận này

phù hợp với quan điểm siêu hình về trạng thái thế giới. Trong thí dụ nói ở
đoạn trên, khi trừu tượng hóa sự biến dạng và sự tỏa nhiệt trong sự va
chạm của hai hòn bi, sự nghiên cứu sẽ đơn giản hơn rất nhiều, mặt khác
sự trừu tượng hóa đó thì hiện tượng xảy ra lại phù hợp với quan niệm siêu
hình là vận chất và vận động là tách rời nhau.
Trong giai đoạn đầu của sự phát triển của vật lý học – giai đoạn cơ
học – đặc điểm của đối tượng nghiên cứu là các sự vật của thế giới trung
bình, đã tạo ra sự thống nhất giữa hai mặt của phép siêu hình – quan điểm
về cách tiếp cận nhận thức và quan điểm về trạng thái – nhờ đó đã thúc
đẩy sự phát triển của cơ học, đem lại nhiều thành tựu rực rỡ. Đó là biểu
hiện tích cực của chủ nghĩa duy vật siêu hình, trong giai đoạn đầu của sự
phát triển của vật lý học.
Nhưng vật lý học càng phát triển, nhất là từ giai đoạn sau cơ học,
với các đối tượng nghiên cứu là hình thức vận động của vật chất, bề
6
ngoài rất khác nhau và rất khác với vận động cơ học (nhiệt, quang, điện
từ), cách tiếp cận nhận thức trừu tượng – siêu hình, tách rời từng dạng
vận động để nghiện cứu đã không phù hợp, đòi hỏi phải chuyển mạnh
sang cách tiếp cận nhận thức toàn bộ - biện chứng ở những mức độ khác
nhau, tùy theo đối tượng nghiên cứu. Ở đây xuất hiện mâu thuẫn giữa
một bên là đối tượng nhận thức giai đoạn sau cơ học, đòi hỏi phải thay
đổi cách tiếp cận nhận thức (cách tiếp cận nhận thức trừu tượng siêu hình
mang tính tương đối không đáp ứng được) và một bên là quan điểm về
trạng thái được cố định ở các khái niệm (thể hiện sự cứng nhắc của các
nguyên tắc siêu hình). Về mâu thuẫn này, Ăngghen cũng đã đề cập tới
khi ông nói rằng: “Phương pháp tư duy siêu hình dù là chính đáng và cần
thiết đến đâu đi nữa trong nhiều lĩnh vực, thì sớm hay muộn thế nào nó
cũng vấp phải một hàng rào mà vượt qua hàng rào đó thì nó sẽ trở thành
phiến diện, chật hẹp, trừu tượng và sa vào những mâu thuẫn không thể
nào giải quyết được”.

Để giải quyết những mâu thuẫn trên đã xuất hiện những tư tưởng
biện chứng trong một số nhà triết học và khoa học ngay trong giai đoạn
cơ học và tiếp diễn cho đến thế kỷ XIX khi Mác, Ăngghen sáng lập ra
chủ nghĩa duy vật biện chứng. Ngoài các tiền đề về kinh tế - xã hội, về lý
luận, sự xuất hiện của triết học Mác còn dựa trên các tiền đề về KH tự
nhiên, trong đó có ba phát minh lớn là định luật bảo toàn và chuyển hóa
năng lượng, thuyết tế bào và thuyết tiến hóa, đã chứng minh cho phép
biện chứng về mặt tự nhiên. Nhưng các tư tưởng biện chứng về mặt tự
nhiên cũng không thể làm thay đổi được nền móng của tòa lâu đài vật lý
học cổ điển, bao gồm hệ thống khái niệm quán triệt các nguyên tắc siêu
hình, và in sâu trong đầu óc của các nhà khoa học. Ph.Ăngghen đã nhận
xét: “… nền triết học cận đại, tuy cũng có những đại biểu suất sắc của
phép biện chứng (như Đềcác, Spinôda) nhưng lại ngày càng sa lầy vào
phương pháp tư duy gọi là siêu hình, …”. Mãi đến khi vật lý học chuyển
sang thời kỳ hiện đại, với đối tượng nghiên cứu là thế giới vi mô, có cấu
trúc và quy luật vận động khác hẳn so với thế giới vĩ mô, lúc này hệ
thống các khái niệm của vật lý học cổ điển mới sụp đổ hoàn toàn, cùng
với quan điểm cơ học và chủ nghĩa duy vật siêu hình. Từ đây, quan điểm
biện chứng về trạng thái tồn tại của thế giới và quan điểm tiếp cận nhận
thức toàn bộ - biện chứng là thống nhất, và chính trên ý nghĩa này mà
V.I.Lênin nói rằng vật lý học hiện đại đẻ ra chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Tất nhiên, không nên hiểu sự sụp đổ của hệ thống các khái niệm
của vật lý học cổ điển, có nghĩa là sự ra đời của một hệ thống các khái
niệm mới tách rời hoàn toàn các khái niệm cũ. Ngoài những khái niệm
7
mới được xây dựng do đặc điểm riêng của thế giới vi mô, nhiều tên gọi
các khái niệm trong hệ thống cũ vẫn được duy trì, với điều kiện là cần
hiểu được nội hàm của chúng trên cơ sở của lôgic biện chứng.
Tóm lại, khi nói về phép siêu hình và phép biện chứng, với tính
cách là những quan điểm triết học, chúng ta cần phân biệt hai mặt: mặt

nói về cách xem xét trạng thái tồn tại của thế giới, vắn tắt là quan điểm về
trạng thái, và mặt nói về cách tiếp cận nhận thức, vắn tắt là quan điểm về
tiếp cận nhận thức. Ở mặt thứ nhất, hai phép siêu hình và biện chứng là
hoàn toàn đối lập, còn ở mặt thứ hai, hai mặt này nói lên hai cực bao gồm
trong đó các mức độ trừu tượng hóa trong quá trình phản ánh đối tượng
nhận thức. Với cách hiểu nói trên, chúng ta có thể giải thích được các đặc
điểm trong lịch sử phát triển của cuộc đấu tranh triết học trong KH. Khi
mà khoa học ngày càng đạt đến tầm cao mới thì phép biện chứng càng
thể hiện vai trò to lớn của nó, đúng như Ph.Ăngghen đã nói: “là phương
pháp tư duy duy nhất, cao nhất và thích hợp nhất với giai đoạn phát triển
hiện nay của KH”.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC
Ngay từ thời cổ đại, khi triết học còn đang bao gồm cả các khoa học
– nền triết học tự nhiên – thì trong sự phát triển nhận thức của con người
đã có sự tác động qua lại giữa các tư tưởng triết học và việc nhận thức
các đối tượng cụ thể, tức là giữa cái chung và cái riêng. Ph.Ăngghen dẫn
lời của Arixtốt nói rằng những triết gia đầu tiên đã khẳng định như sau:
“Cái mà từ đó mọi vật được tạo thành, mà từ đó mọi vật xuất hiện như từ
một cái đầu tiên, và trở về đó với tư cách là cái cuối cùng … thì luôn luôn
vẫn y nguyên như thế với tính cách là bản thể và chỉ thay đổi trong những
quy định của nó, cái đó là nguyên tố là căn nguyên của mọi vật …. Chính
vì thế mà họ cho rằng không có cái nào sinh ra và mất đi, vì rằng giới tự
nhiên ấy được bảo toàn mãi mãi”. Và Ph.Ăngghen nhận xét: “Như thế
chủ nghĩa duy vật tự nhiên và tự phát đã hiện ra hoàn toàn rõ nét, chủ
nghĩa duy vật này trong giai đoạn phát triển đầu tiên của nó, coi một cách
hoàn toàn tự nhiên, tính thống nhất trong sự muôn vẻ vô tận của những
hiện tượng tự nhiên là một điều dĩ nhiên và tìm sự thống nhất ấy ở một
vật hữu hình nào đó, một vật đặc biệt nào đó, như Talét, ở nước vậy”. Và
chúng ta đã biết ở các nhà triết học cổ đại khác, vật hữu hình ấy lại là
không khí (Anaximen), là lửa (Hêracơlít), là cả bốn yếu tố đất, nước, lửa,

không khí (Arixtốt). Đối với một số nhà triết học khác, thì đó không phải
là vật hữu hình, như Pitago là “con số”, Anaximanđơrơ là “cái vô hạn”,
Lơxip và Đêmôcrít là “nguyên tử”. Trong các triết gia đó, chưa ai giải
thích nguồn gốc của vận động, và chỉ có Pitago là người đầu tiên nêu ra ý
8
tưởng về tính quy luật của vũ trụ và Hêracơlít là người đầu tiên nêu lên ý
tưởng về tính quy luật của sự vận động là phép biện chứng; và Arixtốt đã
vận dụng phép biện chứng – mặc dù ở những lúc khác, ông lại phản đối
phép biện chứng – để nêu lên đặc tính của vật chất ban đầu là hai cặp tính
đối lập nhau: nóng – lạnh, khô - ẩm, và cho rằng tất cả những sự biến đổi
trong thế giới là do kêt quả của sự đấu tranh của các đặc tính đối kháng
ban đầu đó. Nhưngdo trình độ hiểu biết về tự nhiên hồi đó còn ít ỏi và rời
rạc, mang tính trực quan là chính, chưa cho phép tiến hành những khái
quát khoa học dưới sự chỉ đạo của tư tưởng triết học, để rút ra những yếu
tố vật lý có tính chất là nguyên lý lý luận, liên kết thành hệ thống – tức là
tạo ra một bức tranh khoa học thống nhất về thế giới – cho phép giải thích
được đúng đắn sự đa dạng của các hiện tượng trong tự nhiên và tiên đoán
những diễn biến trong tương lai. Chính vì thế mà trong một thời gian dài,
mặc dù triết học đã có những tư tưởng thiên tài, nhưng chưa đem lại kết
quả cụ thể nào cho khoa học, như Ph.Ăngghen đã nhận xét: “KH hiện đại,
mà cũng chỉ có KH hiện đại, mới đạt đến một trình độ phát triển khoa
học, có hệ thống và toàn diện, ngược lại với những trực giác thiên tài của
những người thời cổ trong triết học về tự nhiên và với những phát hiện
của người Arập, cực kỳ quan trọng, nhưng có tính rời rạc và phần nhiều
đã biến mất, không mang lại kết quả gì”.
Những điều vừa trình bày ở trên chỉ ra mối quan hệ đầu tiên giữa
triết học và các nghành KH: cả triết học và khoa học đều phải nhận thức
cái phổ biến, cái bản chất, nhưng sự khác nhau là: một bên nhiệm vụ
nhận thức là cái chung ở mức trừu tượng và khái quát cao nhất, đưa đến
những quan điểm có ý nghĩa tiên đề, còn một bên là nhận thức cái riêng,

cái riêng này cũng trừu tượng và khái quát nhưng ở mức thấp hơn, và có
biểu hiện ở những đối tượng vật chất có mức trừu tượng nhiều hay ít tùy
theo trình độ phát triển của khoa học từng thời kỳ lịch sử. Cái riêng này,
về sau – từ thời cận đại – khi khoa học đã phát triển đến trình độ cao và
tách khỏi triết học, được gọi là bức tranh KH về thế giới. Mỗi nghành
khoa học cố gắng vạch ra bức tranh riêng cho nghành mình, coi đó là sự
liên kết những quan điểm, những nguyên lý phản ánh những yếu tố phổ
biến, bản chất tồn tại trong tất cả các hiện tượng muôn màu, muôn vẻ
thuộc đối tượng nghiên cứu của mình.
Mọi nghành khoa học đều phải có hệ thống các khái niệm, trên cơ
sở đó xây dựng lý thuyết của mình, và sau khi được kiểm nghiệm, sẽ
được dùng để giải thích các hiện tượng được quan sát, hoặc tiên đoán
những kết quả sẽ xuất hiện trong những hiện tượng mới. Trong các công
việc này – xây dựng các khái niệm và các lý thuyết – các nhà khoa học dù
9
có ý thức hay không, luôn luôn phải giải quyết hai vấn đề, thuộc về đối
tượng nhận thức hay về sự nhận thức đối tượng ấy. Triết học tác động lên
khoa học chính là qua hai vấn đề đó, thông qua các quan điểm của mình,
xoay quanh vấn đề cơ bản của triết học (quan hệ giữa vật chất và ý thức)
với hai mặt của nó và quan điểm về trạng thái tồn tại của thế giới và cách
tiếp cận nhận thức (biện chứng hay siêu hình). Các nhà khoa học không
có lập trường triết học rõ ràng, dứt khoát, thường hay dao động xung
quanh các quan điểm nói trên, ngay đối vơi các nhà bác học lớn như
A.Anhstanh, N.Bo, ….
Do tinh thần cơ bản của khoa học, đa số các nhà khoa học có lập
trường duy vật, có thể có ý thức hay tự phát, mức độ triệt để nhiều hay ít,
nhưng trong giai đoạn cổ điển (từ cuối thế kỷ XIX trở về trước), do đặc
điểm của đối tượng nghiên cứu là thế giới vĩ mô, phương pháp nhận thức
cơ bản của họ là siêu hình. Chính phương pháp nhận thức siêu hình đã
giúp các nhà khoa học cổ điển khái quát xây dựng các bức tranh khoa học

về thế giới, cũng có tính siêu hình; các bức tranh này, một mặt là cơ sở để
phát triển khoa học, nhưng mặt khác, do được coi là cuối cùng, bất biến,
lại gây khó khăn cho sự phát triển của khoa học, khi phát hiện những hiện
tượng mới không thể đưa vào khuôn khổ của bức tranh đã được xây
dựng. Tình hình này đặc biệt nghiêm trọng khi đối tượng nhận thức
chuyển từ vĩ mô sang vi mô. Ở các nhà khoa học có lập trường không
triệt để, dễ dàng có sự chuyển biến về thế giới quan từ duy vật sang duy
tâm, khi có những hiện tượng mới mà với phương pháp nhận thức siêu
hình, họ không thể nào giải thích được, Thuyết bất khả tri cũng xuất hiện
từ đó.
Nếu trong vật lý học cổ điển, do các đối tượng nghiên cứu nói
chung là trực quan được, và đều ở trong cùng một tầng cấu trúc vĩ mô,
nên đã có tác dụng nuôi dưỡng lập trường duy vật ở các nhà khoa học, thì
những đặc điểm vừa nêu trên của thế giới vi mô lại tạo điều kiện khách
quan cho sự xuất hiện lập trường duy tâm ở các nhà nghiên cứu. Lập
trường này lại được củng cố khi quan điểm siêu hình, vốn là cơ sở của
nhận thức của vật lý học cổ điển và đã ăn sâu trong ý thức của nhiều nhà
khoa học, bị phá sản trước nhiều hiện tượng vật lý mới mà họ không thể
giải thích được vì không hiểu phép biện chứng. Với đặc điểm của thế giới
vi mô, các nhà khoa học phải dựa vào kết quả quan sát, đo lường vĩ mô
để xây dựng các lý thuyết được hình thức hóa rất cao và sử dụng công cụ
toán học rất trừu tượng. Nhưng có một điều mà họ ít chú ý là chính các lý
thuyết toán học mà các nhà khoa học đã sử dụng đã ẩn dấu trong đó phép
biện chứng, và chính nhờ đó mà các lý thuyết, sau khi được thực nghiệm
10
xác nhận, đã có thể phản ánh đúng đắn sự diễn biến của các đối tượng vi
mô tồn tại khách quan. Khoa học hiện đại đòi hỏi một phương pháp nhận
thức mới ra đời – phương pháp biện chứng – thay thế cho phương pháp
nhận thức cũ – phương pháp siêu hình, đúng như nhận định của
V.I.Lênin: “vật lý học hiện đại đang đẻ ra chủ nghĩa duy vật biện chứng

và điều tất yếu để vật lý học thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng – khi chuyển
từ vật lý học cổ điển sang vật lý học hiện đại – là chủ nghĩa duy vật biện
chứng phải thay thế chủ nghĩa duy vật siêu hình”. Như vậy trong quá
trình phát triển của mình, KH từ thời cận đại đến nay đã trải qua hai thời
kỳ với hai cơ sở triết học: thời kỳ cổ điển là chủ nghĩa duy vật siêu hình
và thời kỳ hiện đại là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Triết học Mác – Lênin nghiên cứu những thuộc tính và những quy
luật chung nhất của các hệ thống vật chất khác nhau của tự nhiên và xã
hội, cũng như của các hệ thống nhận thức thế giới của con người. Về thực
chất, chính chủ nghĩa duy vật biện chứng là một lý thuyết triết học chung
nhất của các hệ thống vật chất và tinh thần. Nó đem lại một bức tranh
nhất định về thế giới xem như vật chất đang vận động (phương diện thế
giới quan) và đông thời nó cũng là phương pháp luận của nhận thức khoa
học (phương diện logic – nhận thức luận).
Ở một mức độ nào đó, các thuộc tính và các quy luật phổ biến của
các hệ thống cũng được nghiên cứu trong các nghành KH cơ bản – những
khoa học đưa thông tin về các biểu hiện cụ thể của các thuộc tính và các
quy luật này. Nhưng mỗi bộ môn khoa học cụ thể chỉ nghiên cứu những
hình thức vật chất và vận động nhất định hay những bộ phận hữu hạn của
thế giới. Khác với cái đó, triết học Mác – Lênin cố gắng vạch ra một cái
chung, ổn định và bất biến trong vô số những thuộc tính và những quy
luật riêng lẻ cụ thể và điều đó dẫn đến sự nhận thức những thuộc tính và
quy luật phổ biến của tồn tại của vật chất. Chẳng hạn, trong KH tự nhiên,
người ta đã xác định hàng loạt những quy luật đặc trưng cho mối quan hệ
qua lại của các thuộc tính và các khuynh hướng biến đổi đối lập của các
khách thể vật chất: các quy luật tương tác giữa điện tích dương và điện
tích âm, giữa hạt và phản hạt, giữa hút và đẩy trong kết cấu của vật thể,
giữa kết hợp và phân ly của các nguyên tử trong phân tử, các quy luật cân
bằng động học trong các hệ thống,…. Mỗi quy luật này đều tác động
trong những phạm vi cục bộ. Nhưng trong kết cấu của tất cả các quy luật

ấy, có một cái gì đó thống nhất, bất biến. Trên cơ sở khái quát hóa nội
dung thống nhất này mà hình thành quy luật biện chứng về sự thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập, một quy luật có giá trị phổ biến.
Cũng tương tự như vậy, trong KH tự nhiên và cả khoa học xã hội,
11
người ta đã thiết lập được rất nhiều quy luật riêng lẻ biểu thị những thay
đổi về cơ cấu, chất lượng của các vật do sự thay đổi những đặc trưng về
lượng của chúng gây nên. Nội dung thống nhất của vô số các quy luật này
được biểu thị trong quy luật phổ biến về sự chuyển hóa qua lại giữa các
biến đổi về chất lượng và số lượng. Cũng đúng như vậy, nguyên lý triết
học về nhân quả biểu hiện cái chung, cái thống nhất và ổn định có trong
kết cấu của tất cả các quy luật về sự phát sinh và phát triển của một số
hiện tượng này bởi các hiện tượng khác. Các quy luật phổ biến của tồn tại
đã được nhận thức sẽ trở thành những nguyên lý phương pháp luận của
sự nghiên cứu trong KH. Chẳng hạn, nguyên lý triết học về sự bảo toàn
vật chất và vận động là cơ sở của tất cả các quy luật riêng về sự bảo toàn
những thuộc tính khác nhau của vật chất được diễn đạt trong KH tự
nhiên. Những quy luật bảo toàn này đóng vai trò là những nguyên lý gợi
mở quan trọng nhất khi nghiên cứu các hiện tượng mới và khi đánh giá
giá trị khách quan khả dĩ của các giả thuyết mới được đề xuất. Chẳng
hạn, nếu trong lý thuyết các hạt cơ bản, người ta đề ra những mô hình
biến đổi của các hạt, trong đó giả thiết rằng, các quy luật bảo toàn bị vi
phạm, thì có thể nghi ngờ sự đúng đắn của các mô hình ấy. Trên cơ sở
của các nguyên lý bảo toàn, người ta đã tiên đoán được sự tồn tại của
nơtrinô và một số biến dạng của mêdôn.
Học thuyết duy vật biện chứng về các thuộc tính và các quy luật cơ
bản của các hệ thống vật chất khác nhau thực hiện chức năng tổng hợp
nhất định, thúc đấy sự sát nhập tri thức khoa học. Khuynh hướng tiến tới
sự sát nhập tri thức nằm trong mối tác động qua lại với khuynh hướng
phân nghạch ngày càng sâu sắc của khoa học. Nó xuất phát từ các quy

luật phát triển nội tại của các lý thuyết khoa học. Sau khi lý thuyết đạt
đến sự mô tả thỏa đáng các hiện tượng được nghiên cứu và về cơ bản đã
được xác nhận trong thực tiễn thì bắt đầu thời kỳ xây dựng căn cứ cho
những nguyên lý xuất phát của nó. Việc xây dựng căn cứ này bao gồm sự
giải thích nhân quả của chúng, sự giải đáp những vấn đề như vì sao các
nguyên lý ấy lại có chính nội dung như thế chứ không phải nội dung nào
khác, phạm vi áp dụng của chúng đến đâu, …. Một sự giải thích như vậy
không thể thực hiện được trên cơ sở của bản thân lý thuyết đó, trên cơ sở
nguyên lý vốn có của nó. Để đạt được điều ấy cần vượt ra ngoài giới hạn
của nó và chuyển sang một hệ thống tri thức phổ biến hơn. Bước chuyển
này không thể thực hiện được bằng các phương tiện lôgic thuần túy.
Muốn đạt được điều đó, trước hết cần có các tài liệu thực nghiệm mới và
có sự thuyết giải chúng về mặt lý luận. Đến lượt mình, trong lý thuyết
mới, một lý thuyết phổ biến hơn, nhất định lại sẽ xuất hiện những luận
12
điểm không thể giải thích được theo quan điểm của lôgic nội tại và nội
dung của lý thuyết đó và đòi hỏi phải có một tri thức phổ biến hơn nữa để
xây dựng căn cứ cho mình.
Như vậy, sự cần thiết xây dựng căn cứ cho lý thuyết và cho sự giải
thích nhân quả các luận điểm của nó gây nên sự chuyển sang lý thuyết
ngày càng phổ biến hơn, gây nên sự sát nhập tri thức khoa học. Lý thuyết
mới, lý thuyết phổ biến hơn, không phủ nhận hoàn toàn lý thuyết cũ, nếu
như lý thuyết cũ đó đã được xác nhận về cơ bản trong thực tiễn. Nó chỉ
loại trừ những luận điểm không đúng của lý thuyết cũ và hạn chế phạm vi
áp dụng. Sự phát triển của các lý thuyết hoàn toàn tuân theo và phù hợp
với học thuyết của Lênin về phép biện chứng của chân lý tương đối và
chân lý tuyệt đối.
Nếu thiếu quan điểm về phương pháp luận đúng đắn đối với các
vấn đề về mối liên hệ lẫn nhau giữa các khoa học thì những thành tựu lớn
lớn lao của một nghành khoa học này có thể sinh ra những xu hướng

không những không thúc đẩy sự phát triển của những nghành khác mà
thậm chí còn cản trở chúng. Phép biện chứng dạy rằng do kết quả của
những thay đổi về chất sẽ xuất hiện những tính quy luật mới mà không
thể đồng nhất với những quy luật của các hình thái vận động đơn giản
hơn hoặc không thể quy về chúng. Không tính đến tính độc đáo về chất
của các hiện tượng và những tính quy luật đặc thù của chúng thì không
thể có được nhận thức khoa học. Trí tuệ con người luôn luôn thấy cần
phải tổng hợp các tri thức, nhu cầu này phản ánh bản thân sự thống nhất
vật chất khách quan của thế giới. Nếu nói về những nguồn gốc nhận thức
luận thì có thể nói triết học đã sinh ra từ nhu cầu này.
Sở dĩ các khoa học ngày càng quyện vào nhau, đó là do KH ngày
càng đi sâu vào phép biện chứng của tự nhiên. Nhận thức khoa học là sự
phản ánh những đối tượng tồn tại khách quan cùng với tất cả những tính
chất và những quy luật vốn có của nó. Mối liên hệ lẫn nhau giữa các lĩnh
vực khác nhau của KH hiện đại là sự biểu hiện của những mối liên hệ
khách quan của giới tự nhiên. Sự thâm nhập lẫn nhau của các nghành KH
hiện đại chứng tỏ rằng trong giới tự nhiên, trong sơ sở thống nhất của
mình, là một sự thống nhất của cái đa dạng: không một lĩnh vực nào của
nó lại tách khỏi những lĩnh vực khác, mà nằm trong mối liên hệ trực tiếp
hoặc gián tiếp với nhau, kết hợp với nhau, bằng trăm nghìn những sợi dây
khác nhau, những sự quá độ và chuyển hóa lẫn nhau. Điều này thể hiện
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng trong triết học
Mác – Lênin.
13
Trong lịch sử KH, có hai xu hướng trực tiếp đối lập nhau và tưởng
chừng như bài xích lẫn nhau: một xu hướng muốn chia nhỏ và phân
nghành các khoa học, ngược lại, xu hướng khác lại muốn hợp nhất các
khoa học đã bị phân chia vào một hệ thống chung của tri thức khoa học,
tức là sụ hợp nghành các khoa học. Lúc đầu cả hai xu hướng tác động độc
lập vơi nhau, mặc dầu trong một chừng mực nhất định có chế ước lẫn

nhau. Đến những giai đoạn khác nhau của sự tiến bộ khoa học khi thì xu
hướng này chiếm ưu thế khi thì xu hướng kia chiếm ưu thế. Trong khoa
học tự nhiên hiện đại, ta thấy chúng thống nhất hữu cơ với nhau: sự phân
nghành và phân chia khoa học càng đi xa bao nhiêu thì bản thân KH càng
trở nên gắn liền, hoàn chỉnh và vững chắc bấy nhiêu.
Sở dĩ như vậy là vì hiện nay các nghành KH mới nảy sinh không
những không làm sâu sắc thêm sự phân chia giữa các khoa học như trước
đây đã xảy ra, mà ngược lại, loại bỏ được sự tách biệt nhau đã xảy ra từ
trước. Ta có thể thấy được qua sự xuất hiện của một loạt các nghành KH
mới, thể hiện mối liên hệ lẫn nhau giữa các nghành KH cũ như: nghành
Hóa – Lý, Hóa – Sinh, Hóa – Địa chất, Hóa – Sinh – Địa, …. Như vậy
phép biện chứng của sự phát triển của nhận thức khoa học thể hiện dưới
dạng của sự chế ước lẫn nhau giữa hai xu hướng đối lập nhau – phân
nghành và hợp nghành của tri thức. Đây là đặc điểm nổi bật nhất của KH
hiện đại.
Vì thế, việc nghiên cứu các phạm trù triết học chung và các quy luật
cũng giúp vào sự hiểu biết đúng đắn và sự phát triển của toàn bộ bộ máy
khái quát của khoa học tự nhiên hiện đại, kể cả bộ máy của từng khoa
học. Triết học không nhận giải quyết những vấn đề chung của KH cụ thể
nào, nhưng triết học không thể phát triển được nếu không liên hệ với KH
và bản thân KH cũng sẽ mất mát nhiều thứ nếu mối liên minh của nó với
triết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng bị yếu đi.
Lênin đã từng nhiều lần nhấn mạnh rằng vấn đề cơ bản của bất kỳ
triết học nào cũng là vấn đề về quan hệ giữa tồn tại và ý thức. Tuy nhiên
điều này không có nghĩa là chúng ta cần quy đối tượng của triết học vào
vấn đề cơ bản của nó. Lênin nói rằng quan hệ của ý thức đối với vật chất
là vấn đề cơ bản của triết học, nhưng điều này không có nghĩa rằng đây là
vấn đề duy nhất của nó. Vấn đề là ở chỗ, nếu thiếu vấn đề cơ bản của triết
học thì không có và không thể có triết học khoa học, mặc dầu, như đã nói
ở trên, triết học nghiên cứu không chỉ vấn đề cơ bản ấy mà còn phải

nghiên cứu những quy luật phát triển chung nhất của các hiện tượng tự
nhiên, xã hội và tinh thần, nghiên cứu những vấn đề về thế giới quan,
nghiên cứu lôgic biện chứng và lôgic hình thức và mối tương quan giữa
14
chúng, …. Có những quan niệm tổng hợp về thế giới sản sinh ra từ sự
khái quát hóa của các khoa học cụ thể về tự nhiên, nhưng những quan
niệm ấy không nhất thiết mang tính chất triết học. Những quan niệm loại
đó chỉ có ý nghĩa triết học khi nào cùng với việc nghiên cứu những quy
luật chung nhất của tự nhiên, xã hội, tư duy, chúng đồng thời giải đáp
được vấn đề cơ bản của triết học. Chẳng hạn, về mặt nào đó, nguyên tử
có thể là đối tượng nghiên cứu của triết học khi nào và chừng nào đề cập
tới vấn đề nguyên tử tồn tại độc lập với ý thức của con người và được
phản ánh trong ý thức ấy, còn khi nguyên tử được xét trong mối liên hệ
với các nguyên tử khác dưới góc độ cấu trúc đặc thù và những quy luật
cấu trúc của nó thì khi ấy nguyên tử không còn là đối tượng nghiên cứu
của triết học nữa mà là đối tượng nghiên cứu của KH hay của nghiên cứu
khoa học cụ thể.
Theo như trên thì có thể nói rằng bất cứ khi nào muốn đặt ra và giải
quyết một cách thực sự khoa học những vấn đề triết học, các tác giả
không thể không xác định thái độ của mình đối với vấn đề cơ bản của
triết học. Lênin đã có nhận xét rất quan trọng đối với toàn bộ triết học
Mác – Lênin và toàn bộ tri thức khoa học nói chung, có ý nghĩa lý luận –
phương pháp luận đặc biệt: “Vấn đề lý luận – nhận thức thực sự quan
trọng phân chia những khuynh hướng triết học không phải là ở chỗ xét
xem những điều chúng ta mô tả về những mối liên hệ nhân quả được
chính xác đến lức nào, và những mô tả đó có thể được biểu diễn hay
không trong một công thức toán học chính xác, mà là ở chỗ xét xem
nguồn gốc của sự nhận thức của chúng ta về những mối liên hệ ấy là tính
quy luật khách quan của giới tự nhiên hay là những đặc tính tinh thần của
chúng ta, là năng lực nhận thức vốn có của tinh thần đối với những chân

lý tiên nghiệm nhất định …”. Ý kiến trên đây của Lênin chứng tỏ một
cách hết sức rõ ràng rằng vấn đề thực tại khách quan và sự phản ánh nó
trong ý thức con người không phải là một vấn đề toán học hay KH tự
nhiên mà là vấn đề triết học (nhận thức luận). Vấn đề ấy không thể được
giải quyết bằng bất cứ phương pháp và lý luận hình thức hay đã được
hình thức hóa nào.
Khi nói đến sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng, cần nhận
thấy rằng cả Ăngghen và Lênin đều muốn nói rằng, dưới ảnh hưởng của
những phát minh vĩ đại nhất, điều cần xem xét lại không phải là bản thân các
nguyên lý của chủ nghĩa duy vật mà là các luận điểm có liên hệ với sự khái
quát KH về mặt triết học. Triết học có tác dụng khái quát hóa dựa trên những
kết quả của các khoa học cụ thể. Nhưng sự khái quát hóa về mặt triết học hay
những kết luận triết học rút ra từ những luận điểm và những phát minh của
15
KH không thể quy về sự phân tích (sự chọn lựa nói chung) các quan điểm của
một bộ môn khoa học riêng biệt nào đó. Những kết luận và những luận điểm
triết học không thể bị thay thế bởi các luận điểm của các khoa học cụ thể,
mặc dầu muốn đi tới những kết luận và luận điểm triết học phải phát hiện và
ứng dụng các luận điểm của khoa học cụ thể. Triết học nghiên cứu các quy
luật của nhận thức, của tư duy lý luận phản ánh thế giới vật chất và do vậy
không thể quy nó về một bộ môn KH, toán học, kỹ thuật, xã hội hay bất cứ
một bộ môn khoa học cụ thể nào khác.
Mọi người đều biết luận điểm của Ph.Ăngghen và luận điểm này đã
được V.I.Lênin giải thích rõ và phát triển thêm rằng cứ mỗi khi trong lĩnh vực
KH, chứ chưa nói đến cuộc sống xã hội, có một phát minh lớn thì chủ nghĩa
duy vật phải mang một hình thức mới hoặc phải thay đổi hình thức của mình.
Nhưng dĩ nhiên ở đây, cả Ăngghen và Lênin đều không nói đến những phát
minh lớn nói chung được thực hiện mỗi năm, mà là những phát minh làm
thay đổi căn bản những quan niệm của chúng ta về thực tại. Chính các phát
minh vạch thời đại này làm phong phú thêm chủ nghĩa duy vật. Sẽ là sai lầm

nếu không thấy được vai trò to lớn của công cụ lôgic, của các phương tiện
toán học, của điều khiển học, của mô hình hóa trong sự phát triển của khoa
học hiện đại. Nhà triết học nào không hiểu được điều này hoặc phủ nhận tầm
quan trọng của những phương tiện khái quát này sẽ là một con người lạc hậu
và ngoài những điều tai hại ra, người ấy sẽ không đem lại được gì cho triết
học và KH.
Triết học tác động vào các nghành KH là thông qua thế giới quan và
phương pháp luận khoa học. Chủ nghĩa duy vật biện chứng mới với tính cách
là phương pháp luận của KH, giúp cho việc khái quát hóa và giải thích đúng
đắn những thành tựu mới của khoa học. Các nhà triết học và KH cần bồi bổ
cho nhau. Các nhà triết học cần tính toán đến sự phát triển của tri thức hiện
đại trong khi nghiên cứu các quy luật, các phạm trù. Còn các nhà KH thì
không nên đối lập các phạm trù của một khoa học cụ thể nào đó đối với các
phạm trù triết học mà phải thấy mối liên hệ lẫn nhau của chúng. Sẽ nguy
hiểm nếu như chúng ta cho phép có một sự tách biệt và gián đoạn trong việc
ứng dụng các phạm trù của KH và triết học. Làm như vậy thế thì cả triết học
và KH đều bị thiệt thòi. Thật vậy, làm như thế thì triết học sẽ tách rời khoa
học. Triết học sẽ biến thành học thuyết kinh viện và không còn đóng được bất
kỳ vai trò tích cực nào nữa trong sự phát triển của tri thức hiện đại. Mặt khác,
trong KH, các phạm trù của các khoa học chuyên môn sẽ chỉ có ý nghĩa kỹ
thuật mà thôi. Ngoài ra, trong trường hợp này, KH sẽ mất đi bộ máy phương
pháp luận của nhận thức khoa học nói chung. Dĩ nhiên, mỗi khoa học đều có
các khái quát lý luận của mình. Có những khoa học là công cụ khái quát cho
16
cả một nhóm các chuyên nghành khác nhau của KH. Nhưng nếu không nhìn
thấy mối liên hệ và sự tác động qua lại của chúng với các phạm trù triết học
phổ biến thì có nghĩa là sẽ làm mất một ưu thế rất quý giá mà triết học đã trao
cho, tức là mất bộ máy phương pháp luận của nó; bộ máy này đã được làm
giàu thêm trong quá trình nghiên cứu các vấn đề phương pháp luận của KH.
Vì rằng lý luận triết học được tóm tắt trong phương pháp. Cho nên tính

hiệu quả của phương pháp phụ thuộc một cách căn bản vào bản chất thế giới
quan của lý luận được tóm tắt trong phương pháp đó. Sự thống nhất giữa
phương pháp biện chứng và lý luận duy vật, đó là cơ sở không gì lay chuyển
nổi của tính khoa học của triết học Mác – Lê nin. Chính xuất phát từ luận đề
này người ta có thể giải thích một cách hợp lý tại sao trong giai đoạn hiện
nay, trong khoa học tự nhiên, những vấn đề phương pháp luận của khoa học
lại được đặt nên hàng đầu đối với các nhà triết học. Khuynh hướng này xuất
hiện, thực chất không phải là do vai trò của thế giới quan giảm sút mà nó chỉ
đánh dấu sự thâm nhập gián tiếp phức tạp hơn nữa của thế giới quan trọng
bản thân tế bào của KH trước tiên thông qua phương pháp luận. Vai trò của
phương pháp luận – tức là của học thuyết triết học phổ biến về phương pháp
của hoạt động thực tiễn và của nhận thức khoa học – ngày càng tăng là do hai
điều kiện khách quan sau đây quyết định:
Thứ nhất, sự phát triển của tri thức đòi hỏi không những phải nắm đối
tượng của nhận thức ngày càng vững về mặt lý luận mà còn phải tích lũy kiến
thức thông tin về bản thân quá trình nhận thức. “Khoa học về khoa học” mà
trung tâm được người ta chú ý là các vấn đề phương pháp luận gắn liền với
cách thức nhận thức thế giới có hiệu quả nhất, đang ngày càng có ý nghĩa to
lớn. Trong việc giải quyết các vấn đề này, nếu không sử dụng những kinh
nghiệm hết sức phong phú của việc xây dựng các phương pháp, những kinh
nghiệm đã có trong triết học của chủ nghĩa duy vật và trong những nhân tố
hợp lý của chủ nghĩa duy tâm, thì đó là một sai lầm hiển nhiên.
Thứ hai, sự tăng cường vai trò của phương pháp luận trong khoa học
hiện đại cũng gắn liền với sự đổ vỡ của quan niệm của suy luận tự biện của
triết học tự nhiên cũ, khi mà KH còn chưa phát triển, chưa đứng được trên
mảnh đất riêng của mình. Chẳng hạn, trong thời thế giới cổ đại, chưa có
những tài liệu thực nghiệm để xây dựng lý thuyết nguyên tử, cho nên lý
thuyết này được xây dựng bằng phương pháp triết học tự nhiên. Do vậy, triết
học bằng cách này hay cách khác đã bổ sung – có khi tốt, có khi xấu – vào
các vấn đề đã có trong KH.

Triết học đã đi trước KH trên nhiều lĩnh vực, và bằng những tư tưởng
đúng đắn, bằng những dự kiến thiên tài, triết học đã vạch đường cho KH tiến
17
lên và giúp cho KH phương hướng và những công cụ nhận thức để khắc phục
những khó khăn trở ngại vấp phải trên đường đi của mình. Chẳng hạn, tư
tưởng về tính quy luật của sự phát triển, của sự biến đổi đã được nêu lên trong
triết học sớm hơn nhiều thế kỷ trước khi nó được công nhận trong KH. Lý
thuyết nguyên tử cũng được nêu lên hàng nghìn năm trước khi nó có dạng
của lý thuyết KH tự nhiên và được thực nghiệm xác minh. Luận điểm của
Lênin về tính vô hạn và vô tận trong cấu trúc của vật chất, về sự đa dạng chất
lượng của nó là kim chỉ nam phương pháp luận để đánh giá mức độ phổ biến
của bất kỳ bức tranh KH nào về thế giới.
Như vậy, giữa triết học và các khoa học cụ thể có sự thống nhất chứ
không phải sự đồng nhất. Như theo tư tưởng của Lênin, vấn đề cơ bản của
triết học không bao quát toàn bộ nội dung của triết học, vì triết học nghiên
cứu những quy luật chung nhất của sự phát triển của tự nhiên, của xã hội và
của tư duy, nghiên cứu những hình thức đa dạng của hoạt động xã hội, cũng
như nghiên cứu ý nghĩa của thực tiễn, xem thực tiễn không chỉ là cơ sở, là
mục đích, là tiêu chuẩn của trị thức con người mà còn là hiện thực trực tiếp
nữa. Các bộ môn khoa học cụ thể xét các đối tượng của mình trước hết trong
phạm vi các cấu trúc và các quy luật đặc thù của đối tượng ấy, cho nên chúng
mang ý nghĩa của các khoa học cụ thể (riêng), còn triết học khoa học thì dựa
vào các cấu trúc và các quy luật do các khoa học cụ thể xác định mà vạch ra
các mối liên hệ và quan hệ chung nhất, vạch ra các quy luật chung nhất của
hiện thực khách quan và của nhận thức, nghiên cứu các mối quan hệ giữa các
hình thái khác nhau của ý thức với các hình thái khác nhau của tự nhiên và xã
hội (vật chất).
Như vậy, các nghành KH thực tế không thể tồn tại và phát triển tách rời
với triết học khoa học, và ngược lại, triết học khoa học đòi hỏi phải có các
nghành KH, những khoa học này đang vừa tiếp tục phân nghành, lại vừa tiếp

tục hợp nghành và đang dẫn đến những luận điểm và những phát minh đòi
hỏi phải có những kết luận về mặt nhận thức luận. Triết học không chỉ là sự
khái quát các thành tựu của các nghành KH và của thực tiễn loài người, nó
còn liên kết chúng lại thành một khối thống nhất và là cơ sở phương pháp
luận hay tiền đề của sự phát triển hơn nữa của các tri thức khoa học.
IV. Ý NGHĨA VÀ LIÊN HỆ
Để có thể nhận thức được sự vật, đi sâu vào nghiên cứu chúng, khám
phá những bí ẩn của chúng, thì điều quan trọng đối với người nghiên cứu là
phải có trong tay những phương pháp, tức là các hình thức nắm vững hiện
thực về mặt lý luận và thực tiễn, xuất phát từ những quy luật vận động của
khách thể được nghiên cứu. Phương pháp không phải là những quy luật vận
18
động trình bày tùy tiện muốn như thế nào cũng được. Ngược lại, bao giờ nó
cũng được xây dựng trên cơ sở các quy luật khách quan của sự vật mà con
người đã nhận thức được. Phương pháp có nhiều loại, tùy thuộc vào tính chất
của các quy luật mà dựa vào đó phương pháp được xây dựng. Đối với những
khoa học riêng biệt chúng ta có quy luật riêng và đi cùng với nó là phương
pháp riêng. Với những quy luật chung hơn tác động trong nhiều nhóm sự vật
thì ta có phương pháp đặc thù. Nếu là quy luật mang tính phổ biến tác động
trong tất cả mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy thì chúng ta có
phương pháp chung nhất, áp dụng được cho tất cả mọi bộ môn khoa học. Một
phương pháp như vậy chỉ có thể là phương pháp biện chứng vì cơ sở khách
quan của nó là quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy do phép
biện chứng duy vật nghiên cứu. Điều đó có nghĩa là, nắm được phương pháp
biện chứng, tức là “phương pháp nắm sự vật và phản ánh sự vật trong tư
tưởng, chủ yếu là trong sự liên hệ, ràng buộc, vận động, phát sinh và tiêu
vong của sự vật” nhà khoa học sẽ có một công cụ hiệu nghiệm để nghiên cứu
bất kỳ lĩnh vực khoa học nào và ngược lại, trong bất kỳ lĩnh vực khoa học
nào, người nghiên cứu muốn đạt được chân lý thì cũng phải áp dụng phương
pháp biện chứng. Nhà nghiên cứu cần phải tuân theo phương pháp đó, không

phải vì bị ai đó bắt buộc mà vì bản thân khách thể nghiên cứu đòi hỏi phải
như thế: Khách thể đó chỉ bộc lộ bản chất của mình cho người nào trong quá
trình nghiên cứu, sử dụng phương pháp được xây dựng trên cơ sở quy luật
khách quan.
Nói như vậy không có nghĩa là chỉ cần nắm vững và vận dụng phương
pháp biện chứng là đã đủ để đạt tới chân lý trong từng lĩnh vực nghiên cứu cụ
thể. Phương pháp biện chứng là phương pháp chung nhất, phổ biến nhất,
nhưng cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện
sự tồn tại của mình, bất cứ cái riêng nào cũng không được bao quát hoàn toàn
trong cái chung. Vì vậy, phương pháp biện chứng cần phải được cụ thể hóa,
cá biệt hóa cho từng khoa học cụ thể.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng nói chung, phép biện chứng duy vật nói
riêng đã góp phần giúp cho các nhà khoa học nhìn nhận được sự vật đúng
như chúng vốn có, nhờ đó giúp nhà khoa học sớm phát hiện ra được sự thật
và xây dựng các lý thuyết phản ánh sự vật một cách chính xác hơn, tránh
được các sai lầm phiến diện, giản đơn hay máy móc, giáo điều trong công tác
nghiên cứu của mình. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn
hiện nay, khi mà khoa học đã có sự phân ngành ngày càng sâu sắc, khi mà
khoa học đã và đang đi vào những lĩnh vực chuyên môn rất hẹp và do đó dễ
nhìn sự vật một cách phiến diện. Đây cũng là vấn đề hết sức quan trọng trong
bối cảnh của việc tổng hợp tri thức khoa học ngày nay.
19
Bản thân nhận thấy rằng, hai lĩnh vực tri thức này luôn có mối quan hệ
qua lại mật thiết với nhau. Mối liên hệ giữa triết học nói chung, triết học duy
vật biện chứng nói riêng với khoa học là một tất yếu có tính quy luật và ngày
càng phát triển. Chủ nghĩa duy vật biện chứng luôn đặt cho mình nhiệm vụ
phải khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học để làm sâu sắc thêm,
phong phú thêm những nguyên lý, những quy luật của mình. Và mỗi bước
ngoặt của khoa học, trước sự đổ vỡ của những nguyên lý cũ và sự ra đời của
những phát minh mới thì đại đa số các nhà khoa học đều đứng về phía chủ

nghĩa duy vật. Khoa học hiện đại ngày càng chứng tỏ mối liên hệ mật thiết
giữa nó với triết học duy vật biện chứng, chứ không phải với chủ nghĩa duy
tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình. Tuy vậy, vẫn có một số ít những nhà
khoa học, do không nắm vững phép biện chứng, còn chịu ảnh hưởng của các
trào lưu triết học sai lầm, nên thường giải thích những thành tựu mới nhất của
khoa học trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm và đưa khoa học đi lệch sang
phía chủ nghĩa duy tâm. Đây chính là lực cản của sự phát triển khoa học mà
chúng ta cần đấu tranh và loại bỏ.
20

×