Trường Đạ
i
học Sư Phạm Kỹ Thuật Tp. HCM
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Tên đề tà
i
:
MỐI QUAN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC TỰ NHIÊN
GV duyệ
t:
PGS. TS. Đoàn Đức H
i
ếu
HVTH
:
Phạm Mạnh Trường
MSHV
:
09085204024
Lớp
:
Cao học chế
t
ạo máy khóa 09 - 11
Tp. HCM,
t
háng 11 năm 2009
Phạm
Mạnh
Trường
–
MSHV:
09085204024 1
Tiểu
luận
triết
học
-
Mối
quan
hệ
giữa
triết
học
và
khoa
học
tự
nhiên
NHẬN
XÉT
CỦA
GIÁO
VIÊN
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
Tp.
HCM,
tháng
11
năm
2009
Giáo
viên
Phạm
Mạnh
Trường
–
MSHV:
09085204024 2
Tiểu
luận
triết
học
-
Mối
quan
hệ
giữa
triết
học
và
khoa
học
tự
nhiên
MỤC
LỤC
I.
LỜI
GIỚI
THIỆU
..................................................................................................
3
II.
PHÉP
BIỆN
CHỨNG
VÀ
PHÉP
SIÊU
HÌNH
VỚI
KHTN..................................
4
III.
MỐI
QUAN
HỆ
GIỮA
TRIẾT
HỌC
VÀ
KHTN................................................
7
IV.
KẾT
LUẬN
......................................................................................................
15
Phạm
Mạnh
Trường
–
MSHV:
09085204024 3
Tiểu
luận
triết
học
-
Mối
quan
hệ
giữa
triết
học
và
khoa
học
tự
nhiên
I.
LỜI
GIỚI
THIỆU
Trong
những
năm
gần
đây,
cuộc
cách
mạng
khoa
học
kỹ
thuật
hiện
đại
phát
triển
như
vũ
bão,
cũng
như
những
biến
động
cách
mạng
lớn
lao
làm
thay
đổi
tận
gốc
rễ
bộ
mặt
của
cuộc
sống
xã
hội,
đòi
hỏi
các
nhà
triết
học
và
các
nhà
khoa
học
chuyên
môn
giải
quyết
đúng
đắn
và
kịp
thời
những
yêu
cầu
lý
luận
và
thực
tiễn
cấp
bách.
Sự
giải
đáp
này
chỉ
có
thể
thực
hiện
được
trên
cơ
sở
nắm
vững
và
vận
dụng
một
cách
đúng
đắn
và
sáng
tạo
thế
giới
quan
và
phương
pháp
luận
triết
học
của
chủ
nghĩa
Mác
–
Lênin.
Do
đó
việc
nghiên
cứu
những
vấn
đề
về
mối
quan
hệ
giữa
triết
học
và
khoa
học
cụ
thể
và
vấn
đề
về
chức
năng
phương
pháp
luận
của
triết
học
đối
với
các
khoa
học
cụ
thể
có
ý
nghĩa
quan
trọng.
Vấn
đề
về
mối
quan
hệ
về
mối
quan
hệ
giữa
triết
học
và
khoa
học
tự
nhiên
(KHTN)
nói
riêng
hay
khoa
học
cụ
thể
nói
chung,
đặc
biệt
là
vấn
đề
về
chức
năng
phương
pháp
luận
của
triết
học
đối
với
khoa
học
cụ
thể,
vốn
là
những
vấn
đề
hết
sức
quan
trọng
trong
di
sản
triết
học
của
C.Mác,
Ph.Ăngghen
và
V.I.Lênin.
Vấn
đề
này cũng
đã
được
nhiều
tác
giả
ở
nước
ta
bắt
đầu
nghiên
cứu
từ
những
năm
1960
–
1970.
Vào
hè
năm
1965,
nói
chuyện
ở
Ủy
ban
Khoa
học
kỹ
thuật
Nhà
nước,
đồng
chí
Phạm
Văn
Đồng
dặn
dò:
“Các
đồng
chí
cần
tự
rèn
luyện
và
giúp
người
khác
rèn
luyện
phương
pháp
và
tác
phong
con
người
làm
công
tác
khoa
học
và
kỹ
thuật,
phương
pháp suy
nghĩ,
phương
pháp
làm
việc,
phương
pháp
nghiên
cứu,
phương
pháp
giải
quyết
vấn
đề,
phương
pháp
trình
bày,
…
và
tác
phong
điều
tra,
nghiên
cứu,
tác
phong
chính xác,
…”.
Đối
với
Nhà
trường
đồng
chí
nói:
“
Ở
trường
Đại
học,
điều
chủ
yếu
là
học phương
pháp
bên
cạnh
việc
học
được
điều
này
điều
nọ.
Điều
này
điều
nọ
có
người
nói
là
sau
8
–
10
năm,
có
thể
là
sau
15
năm
sẽ
trở
nên
lạc
hậu.
Cái
còn
lại
đáng
quý
là phương
pháp.
Nếu
anh
tự
vũ
trang
được
một
phương
pháp
vững
mạnh
thì
anh
dùng
nó suốt
đời
vì
anh
phải
học
mãi
mãi.”
(Bài
nói
chuyện
trước
Đại
hội
Đại
biểu
lần
thứ
tư
Hội
liên
hiệp
học
sinh
đại
học
Việt
Nam).
Như
vậy,
ngay
từ
những
thập
niên
1960
–
1970,
các
đồng
chí
lãnh
đạo
Đảng
và
Nhà
nước
đã
thấy
rõ
được
tầm
quan
trọng
của
việc
nghiên
cứu
mối
quan
hệ
giữa
Triết
học
Mác
và
Các
Khoa
học
cụ
thể,
và
chỉ
có
việc
nắm
vững,
nghiên
cứu
và
vận
dụng
sáng
tạo
những
tư
tưởng
về
các
vấn
đề
này của
các
tác
gia
kinh
điển
của
Chủ
nghĩa
Mác
–
Lê-nin
mới
có
thể
thực
hiện
được những
vấn
đề
mà
các
đồng
chí
lãnh
đạo
đã
dặn
dò.
Triết
học
tác
động
vào
KHTN
trước
tiên
là
thông
qua
thế
giới
quan
và
phương
pháp
luận
khoa
học.
Như
chúng
ta
đã
biết,
V.I.Lênin
đã
nói
đến
ý
nghĩa
to
lớn
của
phương
pháp
biện
chứng
duy
vật
của
chủ
nghĩa
Mác
đối
với
KHTN.
Chủ
nghĩa
duy
vật
biện
chứng,
với
tính
cách
là
phương
pháp
luận
của
KHTN,
giúp
cho
việc
khái
quát
và
giải
thích
đúng
đắn
những
thành
tựu
mới
của
khoa
học.
Trong
những
điều
kiện
ngày
nay,
khi
KHTN
đang
ra
sức
tìm
kiếm
một
lý
luận
khái
quát
mới,
những
tư
tưởng
mới,
thì
việc
chú
ý
đến
những
vấn
đề
phương
pháp
luận
là
đặc
biệt
quan
trọng.
Con
đường
để
làm
phong
phú
và
phát
triển
chủ
nghĩa
duy
vật
biện
chứng
chính
là
ở
đây
và
tác
động
chủ
yếu
của
nó
đối
với
sự
phát
triển
của
khoa
học
cũng
chính
là
ở
đây.
Nếu
chúng
ta
không
hiểu
điều
này
thì
cũng
có
nghĩa
là
không
hiểu
gì
về
vai
trò
tích
cực
của
triết
học
cũng
như
về
con
đường
phát
triển
của
nó
một
cách
sáng
tạo.
Trên
đây
ta
đã
thấy
được
tầm
quan
trọng
của
vấn
đề
về
mối
liên
hệ
giữa
triết
học
và
các
khoa
học
cụ
thể
nói
chung
hay
KHTN
nói
riêng.
Vì
thời
gian
nghiên
cứu
không
được
nhiều,
đề
tài
này
chỉ
mang
tính
thu
thập
lại
một
số
kết
quả
của
những
người
đi
trước
với
ý
tưởng
nêu
lại
một
cách
khái
quát
và
ngắn
gọn
về
một
vấn
đề
có
ý
nghĩa
to
lớn
–
mối
liên
hệ
giữa
triết
học
và
KHTN.
Phạm
Mạnh
Trường
–
MSHV:
09085204024 4
Tiểu
luận
triết
học
-
Mối
quan
hệ
giữa
triết
học
và
khoa
học
tự
nhiên
II.
PHÉP
BIỆN
CHỨNG
VÀ
PHÉP
SIÊU
HÌNH
VỚI
KHTN
Vào
thế
kỷ
XIX,
trong
lịch
sử
triết
học
và
khoa
học,
người
ta
nói
đến
phương
pháp
siêu
hình
là
một
phương
pháp
nhận
thức
khoa
học,
được
đưa
vào
khoa
học
từ
nửa
cuối
thế
kỷ
XV
và
là
yếu
tố
thúc
đẩy
sự
phát
triển
nhanh
chóng
của
khoa
học.
Đó
là
phương
pháp
nhận
thức
áp
dụng
trong
khoa
học
với
nội
dung
là
tập
hợp,
phân
loại
các
tài
liệu,
sau
đó
mới
so
sánh,
phân
tích
chia
ra
từng
loại,
từng
hạng
và
tìm
mối
quan
hệ
giữa
các
đối
tượng
tĩnh
tại.
Về
phương
pháp
này,
Ph.Ăngghen
nhận
xét:
“Nhưng
phương
pháp
nghiên
cứu
ấy
đồng
thời
cũng
truyền
lại
cho
chúng
ta
thói
quen
là
xem
xét
các
sự
vật
và
các
quá
trình
tự
nhiên
trong
trạng
thái
cô
lập
của
chúng,
ở
bên
ngoài mối
liên
hệ
to
lớn
chung,
và
do
đó
không
xem
xét
chúng
trong
vận
động
mà
là
trong trạng
thái
tĩnh,
không
xem
xét
chúng
về
căn
bản
là
tiến
hóa
mà
lại
vĩnh
viễn
cố
định; không
xem
xét
chúng
trong
trạng
thái
sống
mà
lại
xem
xét
chúng
trong
trạng
thái
chết.
Và
khi
các
nhận
xét
này
được
Bêcơn
và
Lốccơ
đem
từ
KHTN
sang
triết
học
thì
nó
đã tạo
ra
một
sự
hạn
chế
đặc
biệt
của
những
thế
kỷ
vừa
qua,
tạo
ra
phương
pháp
tư
duy siêu
hình”.
Như
vậy,
từ
một
phương
pháp
nhận
thức
khoa
học,
khi
chuyển
sang
triết
học,
đã
trở
thành
một
phương
pháp
tư
duy
có
ý
nghĩa
phổ
biến
trong
các
hoạt
động
khoa
học
thời
bấy
giờ,
và
cả
trong
mọi
hoạt
động
khác
của
con
người.
Từ
đó,
phương
pháp
tư
duy
siêu
hình
cũng
có
nghĩa
là
một
quan
điểm
triết
học
trong
việc
xem
xét
trạng
thái
tồn
tại
của
thế
giới
–
quan
điểm
siêu
hình,
phép
siêu
hình
đối
lập
với
quan
điểm
biện
chứng,
phép
biện
chứng.
Quan
điểm
biện
chứng
và
quan
điểm
siêu
hình
là
hai
cách
xem
xét
trạng
thái
tồn
tại
của
thế
giới,
đối
lập
nhau
nhưng
đồng
thời
cũng
là
hai
cách
tiếp
cận
thế
giới
khác
nhau:
cách
tiếp
cận
toàn
bộ
và
cách
tiếp
cận
trừu
tượng
hóa.
Về
quan
điểm
biện
chứng
trong
việc
xem
xét
trạng
thái
của
thế
giới,
lịch
sử
triết
học
cũng
đã
biết
đến
nhiều
người
thời
cổ
Hy
Lạp,
trong
đó
có
người
đầu
tiên
diễn
đạt
được
rõ
ràng
nội
dung
là
Hêracơlít
mà
Ph.Ăngghen
đã
tóm
tắt
như
sau:
“mọi
vật
đều tồn
tại
nhưng
đồng
thời
lại
không
tồn
tại,
vì
mọi
vật
đều
trôi
đi,
mọi
vật
đều
không
ngừng
thay
đổi,
mọi
vật
đều
luôn
luôn
ở
trong
quá
trình
xuất
hiện
và
biến
đi”.
Và
tiếp
ngay
đó,
ông
đã
nói
lên
nhận
xét
về
giá
trị
và
hạn
chế
quan
điểm
nói
trên
trong
việc
nhận
thức
thế
giới:
“Nhưng
dù
đã
nắm
đúng
tính
chất
chung
của
toàn
bộ
bức
tranh
các
hiện
tượng
đến
thế
nào
đi
nữa,
quan
điểm
ấy
vẫn
không
đủ
để
giải
thích
những
chi
tiết kêt
thành
toàn
bộ
bức
tranh
ấy;
và
chừng
nào
chúng
ta
chưa
giải
thích
nổi
các
chi
tiết
thì
chúng
ta
cũng
chưa
thể
có
một
quan
niệm
rõ
rệt
về
bức
tranh
chung
được”.
Và
để giải
thích
được
các
chi
tiết
trong
bức
tranh
chung
luôn
luôn
vận
động,
biến
hóa
đó, Arixtốt
đã
đề
ra
nguyên
tắc
đồng
nhất
trừu
tượng,
cơ
sở
của
cách
tiếp
cận
trừu
tượng trong
việc
nhận
thức
các
đối
tượng
cụ
thể
trong
hiện
thực.
Tình
hình
đó
nói
rằng,
để nhận
thức
được
đúng
đắn
thế
giới
vốn
diễn
biến
một
cách
khách
quan
và
biện
chứng, cần
có
sự
kêt
hợp
của
cả
hai:
cách
tiếp
cận
nhận
thức
toàn
bộ
-
biện
chứng
và
trừu
tượng
–
siêu
hình.
Chỉ
có
như
vậy
mới
có
thể
kết
hợp
được
ưu
điểm
của
cả
hai
cách
tiếp
cận
mà
Ph.Ăng
ghen
cũng
đã
nói:
“Nếu
về
chi
tiết,
chủ
nghĩa
siêu
hình
là
đúng
hơn
so
với
những
người
Hy
Lạp,
thì
về
toàn
thể,
những
người
Hy
Lạp
lại
đúng
hơn
so với
chủ
nghĩa
siêu
hình”.
Trong
thực
tế
cuộc
sống
thường
ngày
và
thường
không
tự
giác,
mọi
người
bình
thường
đều
đã
kết
hợp
sử
dụng
cả
hai
cách
tiếp
cận
trên.
Trong
khoa
học,
tình
hình
cũng
như
vậy,
nhưng
do
đặc
điểm
tư
duy
lý
luận,
đã
có
những
vấn
đề
phức
tạp
hơn.
Tư
duy
lý
luận
trong
khoa
học
bao
giờ
cũng
phải
dựa
trên
các
khái
niệm
được
định
nghĩa
một
cách
chặt
chẽ.
Các
khái
niệm
này
phản
ánh
những
đối
tượng
khách
quan,
nằm
trong
mối
quan
hệ
chằng
chịt
với
những
đối
tượng
khác,
và
tất
cả
luôn
luôn
Phạm
Mạnh
Trường
–
MSHV:
09085204024 5
Tiểu
luận
triết
học
-
Mối
quan
hệ
giữa
triết
học
và
khoa
học
tự
nhiên
ở
trong
trạng
thái
vận
động.
Rõ
ràng
là
sự
phản
ánh
này
chỉ
có
thể
được
thực
hiện
trên
cơ
sở
của
cách
tiếp
cận
trừu
tượng
–
siêu
hình.
Cách
tiếp
cận
này
cho
phép
trừu
tượng
hóa
các
yếu
tố,
các
mối
liên
hệ
hoặc
các
tác
động
qua
lại
không
ảnh
hưởng
lớn
đến
trạng
thái
tồn
tại
của
đối
tượng
được
phản
ánh
trong
khái
niệm.
Chẳng
hạn,
một
hòn
bi
thép
được
bắn
vào
một
hòn
bi
thép
khác
đang
đứng
yên,
làm
cho
hòn
này
chuyển
động.
Trong
thực
tế,
sự
va
chạm
giữa
hai
hòn
bi
bao
giờ
cũng
gây
ra
sự
biến
dạng
và tỏa
nhiệt.
Có
nghĩa
là
năng
lượng
cơ
học
từ
hòn
bi
thứ
nhất
truyền
sang
hòn
bi
thứ
hai không
được
bảo
toàn,
tức
là
có
hao
hụt,
do
có
một
phần
cơ
năng
biến
thành
nhiệt
năng.
Tuy
vậy,
những
sự
biến
dạng
và
tỏa
nhiệt
nói
trên
trong
thực
tế
là
rât
nhỏ,
nhỏ
đến
mức
mà
người
ta
có
thể
bỏ
qua,
coi
như
không
có
–
trừu
tượng
hóa
–
mà
việc
nghiên
cứu
cũng
không
bị
ảnh
hưởng,
các
kết
luận
của
nó
vẫn
được
coi
là
đúng,
vì
khi
áp
dụng
vào
các
tính
toán
kỹ
thuật
vẫn
đem
lại
kết
quả
đúng
như
dự
đoán
(tất
nhiên
trong
phạm
vi
sai
số
cho
phép).
Như
vậy,
cách
tiếp
cận
này
đưa
đến
những
khái
niệm
chỉ
phản
ánh
gần
đúng
những
đối
tượng
khách
quan,
dựa
trên
một
cái
khuôn
chung
được
quy
định
bởi
các
nguyên
tắc
siêu
hình.
Rõ
ràng
là
cái
khuôn
siêu
hình
này,
tức
là
quan
điểm
siêu
hình
về
trạng
thái
thế
giới,
không
phản
ánh
đúng
trạng
thái
tồn
tại
của
thế
giới
xét
toàn
bộ,
nhưng
ở
trong
một
phạm
vi
nào
đó
thì
nó
phản
ánh
gần
đúng,
nên
các
khái
niệm
được
xây
dựng
trên
cơ
sở
các
quan
điểm
siêu
hình
vẫn
được
sử
dụng
làm
bậc
thang
của
quá
trình
nhận
thức
các
đối
tượng
khách
quan
nằm
trong
phạm
vi
ấy.
Đó
là
phạm
vi
của
thế
giới
trung
bình
(thế
giới
trung
bình
là
thế
giới
nằm
giữa
thế
giới
vĩ
mô
–
vũ
trụ
và
thế
giới
vi
mô
–
nguyên
tử).
Phạm
vi
các
hiện
tượng
của
thế
giới
trung
bình
mà
con
người
có
thể
trực
quan được
là
rất
hẹp,
các
mối
liên
hệ
giữa
sự
vật
thu
nhận
được
qua
trực
quan
cũng
không nhiều,
nhưng
để
có
được
các
khái
niệm,
con
người
đã
phải
áp
dụng
cách
tiếp
cận
trừu tượng
–
siêu
hình
và
cách
tiếp
cận
này
phù
hợp
với
quan
điểm
siêu
hình
về
trạng
thái thế
giới.
Trong
thí
dụ
nói
ở
đoạn
trên,
khi
trừu
tượng
hóa
sự
biến
dạng
và
sự
tỏa
nhiệt trong
sự
va
chạm
của
hai
hòn
bi,
sự
nghiên
cứu
sẽ
đơn
giản
hơn
rất
nhiều,
mặt
khác
sự
trừu
tượng
hóa
đó
thì
hiện
tượng
xảy
ra
lại
phù
hợp
với
quan
niệm
siêu
hình
là
vận
chất
và
vận
động
là
tách
rời
nhau.
Trong
giai
đoạn
đầu
của
sự
phát
triển
của
vật
lý
học
–
giai
đoạn
cơ
học
–
đặc
điểm
của
đối
tượng
nghiên
cứu
là
các
sự
vật
của
thế
giới
trung
bình,
đã
tạo
ra
sự
thống
nhất
giữa
hai
mặt
của
phép
siêu
hình
–
quan
điểm
về
cách
tiếp
cận
nhận
thức
và
quan
điểm
về
trạng
thái
–
nhờ
đó
đã
thúc
đẩy
sự
phát
triển
của
cơ
học,
đem
lại
nhiều
thành
tựu
rực
rỡ.
Đó
là
biểu
hiện
tích
cực
của
chủ
nghĩa
duy
vật
siêu
hình,
trong
giai
đoạn
đầu
của
sự
phát
triển
của
vật
lý
học.
Nhưng
vât
lý
học
càng
phát
triển,
nhất
là
từ
giai
đoạn
sau
cơ
học,
với
các
đối
tượng
nghiên
cứu
là
hình
thức
vận
động
của
vật
chất,
bề
ngoài
rất
khác
nhau
và
rất
khác
với
vận
động
cơ
học
(nhiệt,
quang,
điện
từ),
cách
tiếp
cận
nhận
thức
trừu
tượng
–
siêu
hình,
tách
rời
từng
dạng
vận
động
để
nghiện
cứu
đã
không
phù
hợp,
đòi
hỏi
phải
chuyển
mạnh
sang
cách
tiếp
cận
nhận
thức
toàn
bộ
-
biện
chứng
ở
những
mức
độ
khác
nhau,
tùy
theo
đối
tượng
nghiên
cứu.
Ở
đây
xuất
hiện
mâu
thuẫn
giữa
một
bên
là
đối
tượng
nhận
thức
giai
đoạn
sau
cơ
học,
đòi
hỏi
phải
thay
đổi
cách
tiếp
cận
nhận
thức
(cách
tiếp
cận
nhận
thức
trừu
tượng
siêu
hình
mang
tính
tương
đối
không
đáp
ứng
được)
và
một
bên
là
quan
điểm
về
trạng
thái
được
cố
định
ở
các
khái
niệm
(thể
hiện
sự
cứng
nhắc
của
các
nguyên
tắc
siêu
hình).
Về
mâu
thuẫn
này,
Ăngghen
cũng
đã
đề
cập
tới
khi
ông
nói
rằng:
“Phương
pháp
tư
duy
siêu
hình
dù
là
chính
đáng
và
cần
thiết
đến
đâu
đi
nữa
trong
nhiều
lĩnh
vực,
thì
sớm
hay
muộn
thế
nào
nó
cũng
vấp
phải
một
hàng