Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

đề án xây dựng chuẩn mực kiểm toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.07 KB, 39 trang )

Đề án môn học GVHD:GS.TS. Nguyễn Quang Quynh
PHN I
C S Lí LUN XY DNG CHUN MC KIM TON
1.1. Lý lun chung v chun mc kim toỏn v nguyờn tc xõy dng
chun mc kim toỏn
1.1.1. Chun mc kim toỏn
Kim toỏn ó hỡnh thnh v phỏt trin t th k XV, Chõu u.
Cựng vi s phỏt trin ca kinh doanh, ngi ta thy xut hin mt vn
mi: gian ln ti chớnh. T ú xut hin s cn thit ca kim toỏn iu
tra nhm lm sỏng t nhng mi quan h ti chớnh, vi mc ớch phỏt hin
tỏc gi ca nhng cuc phỏ sn gian ln. T ú n nay cỏc phng phỏp
kim toỏn ó khụng ngng c b sung v phỏt trin cựng vi s phỏt
trin ca hot ng kinh t v s ci tin cỏc cụng c qun lý doanh nghip
(DN). Nm 1948 Hip hi k toỏn viờn cụng chng Hoa K ó ban hnh
cỏc chun mc kim c chp nhn ph bin (GAAS). Tip theo ú chun
mc kim toỏn ln lt ra i cỏc quc gia nh c (1951), c (1964),
Phỏp (1971), Anh (1980),
Vit Nam t nhng nm 90 sau khi chuyn i c ch kinh t,
kim toỏn c lp ó hỡnh thnh, Kim toỏn nh nc cng ó c thnh
lp. T nhng nm u tiờn dự h thng phỏp ch cũn nhiu n gin
nhng nh ý thc trỏch nhim v k cng trong cụng tỏc ti chớnh k toỏn
rt tt gúp phn quan trng a cụng tỏc qun lý ti chớnh i vo nn np.
Kim tra núi chung cng nh kim tra k toỏn núi riờngó c quan tõm
ngay t thi k u xõy dng t nc. Do nhu cu kim toỏn ngy cng
cao, ũi hi phi cú mt h thng chun mc phự hp.
Theo quy nh ti Ngh nh s 105/2004/N - CP v kim toỏn c
lp, chun mc kim toỏn l quy nh v hng dn v cỏc nguyờn tc v
th tc kim toỏn lm c s kim toỏn viờn v doanh nghiờp kim toỏn
thc hin kim toỏn v lm c s kim soỏt cht lng hot ng kim
toỏn.
Nhm phỏt trin v tng cng s phi hp ca ngnh ngh mt


cỏch hi ho trờn ton th gii, IFAC ó u nhim cho IAASB ban hnh H
thng Chun mc Kim toỏn quc t ( International Standard on Auditing
Lê Thị Thu Giang Lớp: Kiểm toán 47A
1
§Ò ¸n m«n häc GVHD:GS.TS. NguyÔn Quang Quynh
ISA). Mỗi thủ tục trình bày về những thủ tục, nguyên tắc cơ bản và thể
thức áp dụng chúng trong một vấn đề cụ thể. Các nguyên tắc cơ bản xuyên
suốt cuộc kiểm toán gồm:
Một là: Chính trực, khách quan và độc lập
Kiểm toán viên phải là người thẳng thắn, trung thực và có lương tâm
nghề nghiệp, phải là người trong sáng.
Kiểm toán viên phải có thái độ vô tư, không bị các lợi ích vật chất chi
phối vì điều đó không phù hợp với tính khách quan chính trực.
Hai là: Bí mật:
Kiểm toán viên phải tôn trọng các bí mật của những thông tin đã thu
thập trong quá trình kiểm toán.
Ba là: Kỹ năng và khả năng
Kiểm toán viên phải là người có năng lực và kỹ thuật, lỹ năng đặc
biệt. Kiểm toán viên phải tiếp tục nhận thức được sự phát triển về kế toán
kiểm toán.
Bốn là: Công việc do người khác thực hiện:
Kiểm toán viên phải chỉ đạo chu đáo, giám sát chặt chẽ và rà soát lại
phần việc đã uỷ thác cho trợ lý và chịu trách nhiệm về soạn thảo và trình
bày các ý kiến nhận xét của mình về các thông tin tài chính.
Năm là: Dẫn chứng bằng tài liệu
Kiểm toán viên phải dẫn chứng bằng tài liệu các vấn đề quan trọng để
cung cấp bằng chứng minh chứng rằng công việc kiểm toán được tiến hành
phù hợp với các nguyên tắc cơ bản.
Sáu là: Lập kế hoạch
Kiểm toán viên phải lập kế hoạch kiểm toán để trợ giúp cho công việc

tiến hành có hiệu quả, đúng thời gian.
Bảy là: Bằng chứng kiểm toán:
Kiểm toán viên cần thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích
hợp thông qua thực hiện các phương pháp cơ bản và tuân thủ. Điều đó giúp
kiểm toán viên rút ra kết luận hợp lý về quá trình kiểm toán làm cơ sở cho
nhận xét về các thông tin tài chính.
Tám là: Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ:
Lª ThÞ Thu Giang Líp: KiÓm to¸n 47A
2
§Ò ¸n m«n häc GVHD:GS.TS. NguyÔn Quang Quynh
Kiểm toán viên cần bảo đảm một cách hợp lý rằng hệ thống kế toán là
thích hợp và mọi thông tin kế toán đều được ghi chép đầy đủ, kịp thời.
Chín là: Kết luận và báo cáo kiểm toán:
Kiểm toán viên phải soát xét lại và đánh giá các kết luận rút ra từ các
bằng chứng đã thu thập được làm căn cứ cho việc diễn đạt các nhận xét của
mình về các thông tin tài chính. Báo cáo kiểm toán cần được diễn đạt rõ
ràng khúc chiết các nhận xét của kiểm toán viên về các thông tin tài chính.
Thông qua hoạt động thực tiễn dần dần ISA đã được một số quốc gia
công nhận là tiêu chuẩn kiểm toán báo cáo tài chính, chúng đã và đang
được chấp nhận rộng rãi trong nền tài chính quốc tế. Phạm vi không chỉ
giới hạn trong kiểm toán báo cáo tài chính của kiểm toán độc lập mà còn áp
dụng cả lĩnh vực khác như trong lĩnh vực công.
Chuẩn mực kiểm toán quốc gia có thể được ban hành bởi Chính phủ,
nhưng thường là do tổ chức nghề nghiệp của kiểm toán độc lập ban hành.
Bên cạnh đó, các tổ chức nghề nghiệp còn ban hành những hướng dẫn,
nghiên cứu và xuất bản những tài liệu tham khảo, các giải thích hay hướng
dẫn về lĩnh vực cụ thể. Thông thường, dưới hình thức hệ thống chuẩn mực
nghề nghiệp cụ thể các chuẩn mực kiểm toán do các tổ chức hiệp hội nghề
nghiệp nghiên cứu, soạn thảo và ban hành cho từng loại hình kiểm toán
hoặc cho kiểm toán nói chung.

Do quan hệ khác nhau giữa chủ thể với khách thể kiểm toán và đối
tượng cụ thể của kiểm toán khác nhau nên để điều chỉnh các quan hệ đó
cũng khác nhau chẳng hạn chuẩn mực cụ thể dung để điểu tiết các chủ thể
khác nhau như kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ.
Cũng từ đó chuẩn mực kiểm toán có thể được biểu hiện ở các hình thức
khác nhau song có thể quy về hai hình thức cơ bản là: Luật kiểm toán và hệ
thống chuẩn mực kiểm toán cụ thể.
Như vậy hình thức cao nhất của chuẩn mực kiểm toán là Luật kiểm
toán được ban hành bởi cơ quan lập pháp (Quốc Hội) sau đó là các văn bản
pháp quy dưới luật do các cơ quan nhà nước ban hành (Bộ Tài Chính) . Với
các chuẩn mực loại này tính pháp lý của quy định đạt mức cao và có ý
nghĩa điều tiết các hành vi của nhiều phía có liên quan. Vì vậy, hình thức
Lª ThÞ Thu Giang Líp: KiÓm to¸n 47A
3
§Ò ¸n m«n häc GVHD:GS.TS. NguyÔn Quang Quynh
này bao hàm những quy định chung nhất với tính pháp lý cao cho kiểm
toán Nhà nước và kiểm toán độc lập.
Các loại chuẩn mực kiểm toán được ban hành phù hợp với tính đa
dạng của bản chất kiểm toán. Chẳng hạn chuẩn mực kiểm toán được thừa
nhận rộng rãi áp dụng cho kiểm toán báo cáo tài chính, chuẩn mực xác thực
áp dụng cho các dịch vụ xác thực thông tin, chuẩn mực về tư vấn áp dụng
cho loại hình dịch vụ tư vấn, chuẩn mực thực hành nghiệp vụ đối với kiểm
toán nội bộ áp dụng cho kiểm toán nội bộ, chuẩn mực kiểm toán nhà nước
áp dụng cho kiểm toán nhà nước,… Hệ thống chuẩn mực này rất cụ thể có
thể hướng dẫn và là cơ sở trực tiếp cho việc thực hành kiểm toán.
Xuất phát từ việc đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn cần phải có lý
luận cho ngành kiểm toán đang phát triển ở Việt Nam. Ở nước ta sự hình
thành và phát triển của kiểm toán xuất phát từ yêu cầu khách quan, đòi hỏi
của quá trình chuyển đổi nền kinh tế.
1.1.2. Cơ sở xây dựng chuẩn mực

Để xây dựng một hệ thống pháp lý nói chung và chuẩn mực kiểm toán
nói riêng phải dựa trên cơ sở nhất định.
Cơ sở chung của quy định pháp lý là quy phạm pháp lý. Quy phạm
pháp lý có thể bao gồm:
Thứ nhất: Quy phạm điều chỉnh: qui định quyền và nghĩa vụ của các
bên tham gia quan hệ pháp lý.
Thứ hai: Quy phạm bảo vệ: xác định các biện pháp cưỡng chế đối với
hành vi bất hợp pháp.
Thứ ba: Quy phạm định ra các nguyên tắc, định hướng cho các hành vi.
Thứ tư: Quy phạm thủ tục: qui định trình tự thực hiện các quy phạm
nội dung nói trên.
1.1.3. Những chuẩn mực kiểm toán được chấp nhận phổ biến ( GAAS )
GAAS là những chuẩn mực có hiệu lực mà kiểm toán viên phải tuân
thủ khi tiến hành kiểm toán và là cách thức bảo đảm chất lượng công việc
kiểm toán.
Chuẩn mực kiểm toán chung được chấp nhận phổ biến gồm mười
chuẩn mực và được chia thành ba nhóm chuẩn mực sau:
Lª ThÞ Thu Giang Líp: KiÓm to¸n 47A
4
§Ò ¸n m«n häc GVHD:GS.TS. NguyÔn Quang Quynh
Thứ nhất: Nhóm chuẩn mực chung: gồm ba chuẩn mực và được áp
dụng trong tất cả các giai đoạn của một cuộc kiểm toán. Gồm:
Một là: Việc kiểm toán phải do một người hay một nhóm người được
đào tạo nghiệp vụ tương xứng và thành thạo chuyên môn như một kiểm
toán viên thực hiện.
Hai là: Trong tất cả các vấn đề liên quan tới cuộc kiểm toán kiểm toán
viên phải giữ một thái độ độc lập.
Ba là: Kiểm toán viên phải duy trì sự thận trọng nghề nghiệp đúng
mực trong suốt cuộc kiểm toán.
Thứ hai: Nhóm chuẩn mực thực hành: gồm 3 chuẩn mực yêu cầu kiểm

toán viên phải tuân thủ khi thực hiện công việc kiểm toán thực tế:
Một là: Phải lập kế hoạch chu đáo cho công việc kiểm toán và giám
sát chặt chẽ những người trợ giúp nếu có.
Hai là: Phải hiểu biết đầy đủ về hệ thống kiểm toán nội bộ để lập kế
hoạch kiểm toán và xác định nội dung, thời gian và quy mô của những thử
nghiệm sẽ thực hiện.
Ba là: Phải thu được đầy đủ bằng chứng có hiệu lực thông qua việc
kiểm tra, quan sát, thẩm vấn và xác nhận để có được cơ sở hợp lý cho ý
kiến về báo cáo tài chính được kiểm toán.
Thứ ba: Nhóm chuẩn mực báo cáo: gồm bốn chuẩn mực cung cấp cho
kiểm toán viên những chỉ dẫn để lập báo cáo kiểm toán. Gồm:
Một là: Báo cáo kiểm toán phải xác nhận bảng khai tài chính có được
trình bày phù hợp với những nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng rãi
hay không.
Hai là: Báo cáo kiểm toán phải chỉ ra các trường hợp không nhất quán
về nguyên tắc giữa kỳ này với các kỳ trước.
Ba là: Phải xem xét các khai báo trên bảng khai tài chính có đầy đủ
một cách hợp lý không trừ những trường hợp khác được chỉ ra trong báo
cáo.
Bốn là: Báo cáo kiểm toán phải đưa ra ý kiến về toàn bộ bảng khai tài
chính hoặc khẳng định không thể đưa ra ý kiến được kèm theo việc nêu rõ
lý do. Trong mọi trường hợp ký tên vào báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên
Lª ThÞ Thu Giang Líp: KiÓm to¸n 47A
5
§Ò ¸n m«n häc GVHD:GS.TS. NguyÔn Quang Quynh
phải nêu rõ trong báo cáo đặc điểm cuộc kiểm toán và mức độ trách nhiệm
của kiểm toán viên.
1.1.4.Nguyên tắc xây dựng Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam
1.1.4.1. Phân loại chuẩn mực kiểm toán
Chuẩn mực kiểm toán dù biểu hiện ở hình thức nào: luật pháp hay

chuẩn mực cụ thể đều phải xuất phát từ những nhận thức đúng về bản chất
của lĩnh vực được thể hiện và mối liên hệ của nó với các lĩnh vực có liên
quan. Những nhận thức này phải đặt trong mối quan hệ giữa cái chung và
cái riêng cùng hàng loạt mối quan hệ khác. Đồng thời để thống nhất về
nhận thức, những vấn đề cơ bản và các mối liên hệ này cũng cần được thể
chế hoá đầy đủ.
Trong xây dựng chuẩn mực kiểm toán điều đặc biệt chú ý là hệ thống
chuẩn mực kiểm toán gồm 2 phân hệ riêng biệt:
Thứ nhất: Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp:
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp là những qui tắc cụ thể hướng dẫn
cho các thành viên ứng xử và hoạt động một cách trung thực phục vụ cho
lợi ích chung của nghề nghiệp và xã hội.
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp yêu cầu mỗi kiểm toán viên phải là
người có đạo đức, và mỗi tổ chức kiểm toán phải là cộng đồng của những
người có đạo đức. Vì thế đạo đức nghề nghiệp được xác định rõ rang, công
bố và trở thành yêu cầu bắt buộc trong nghề kiểm toán. Đạo đức nghề
nghiệp không chỉ giúp quản lý và giám sát chặt chẽ mọi kiểm toán viên và
tổ chức kiểm toán mà còn là tiêu chuần đánh giá hành vi đạo đức của kiểm
toán viên.
Nói cách khác, bên cạnh và cùng với pháp luật việc tuân thủ các
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp giúp các thành viên luôn duy trì thái độ
nghề nghiệp đúng đắn, góp phần bảo vệ và nâng cao uy tín nghề. Các vấn
đề về đaọ đức nghề nghiệp có thể bị chi phối bởi pháp luật (Ví dụ: vấn đề
bảo mật), hoặc không bị chi phối bởi pháp luật ( Ví dụ: Việc kiểm toán viên
phải luôn đi tìm sự hoàn hảo trong công việc).
Như vậy, đạo đức nghề nghiệp được hiểu là những chỉ dẫn để các
kiểm toán viên luôn duy trì thái độ nghề nghiệp đúng đắn nhằm bảo vệ và
nâng cao uy tín nghề nghiệp.
Lª ThÞ Thu Giang Líp: KiÓm to¸n 47A
6

§Ò ¸n m«n häc GVHD:GS.TS. NguyÔn Quang Quynh
Về nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp bao gồm các nguyên tắc cơ bản
sau: Chính trực, Khách quan, Độc lập, Bí mật, Các chuẩn mực nghiệp vụ,
Trình độ nghiệp vụ, Đạo đức ứng xử.
Thứ hai: Chuẩn mực chuyên môn về kiểm toán
Phân hệ này xây dựng trên nhận thức thống nhất về bản chất, chức
năng, đối tượng, khách thể, phương pháp kiểm toán cùng những chuẩn mực
đang được chấp nhận phổ biến (GAAS).
Chuẩn mực kiểm toán là những quy định tối thiểu cần thiết nhưng
cũng phải cụ thể đến mức có thể điều tiết được hành vi và đo lường được
chất lượng công việc của kiểm toán viên. Theo kinh nghiệm của các nước
phát triển việc cụ thể hoá được thực hiện theo ba bước:
Bước I: Lựa chọn các văn bản chỉ đạo của IFAC áp dụng cho kiểm
toán từng nước.
Bước II: Cụ thể hoá văn bản trên thành các chuẩn mực cụ thể.
Bước III: Giải thích chuẩn mực.
1.1.4.2. Nguyên tắc xây dựng Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
Trong thực tiễn kiểm toán của nước nhất là những nước mới hình
thành hoạt động kiểm toán các chuẩn mực cụ thể thường được nghiên cứu,
vận dụng từ những chuẩn mực phổ biến. Việc lựa chọn những chuẩn mực
cụ thể cũng phải xuất phát từ đặc điểm văn hoá, truyền thống đạo đức và
trình độ tổ chức ở những mặt hoạt động được chi phối của từng nước.
Ở Việt Nam kiểm toán đã trở thành công cụ đắc lực có vai trò quan
trọng trong việc thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát tình hình tài
chính, tổ chức sắp xếp nhân lực trong các tổ chức, doanh nghiệp, các cơ
quan hành chính sự nghiệp. Điều cơ bản là phải sử dụng có hiệu quả các
nguồn tài chính, tài nguyên, tài sản quốc gia. Điều này đòi hỏi kiểm toán
phải sớm hoàn thiện các chuẩn mực pháp lý, chuẩn mực về nghiệp vụ kiểm
toán trong đó có cả xây dựng một quy trình kiểm toán vì các chuẩn mực
này sẽ là cơ sở, là đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển và đảm bảo chất lượng

cho mỗi cuộc kiểm toán nói riêng và hoạt động kiểm toán nói chung.
Nguyên tắc cơ bản xây dựng chuẩn mực kiểm toán ở nước ta có thể
bao gồm năm nguyên tắc sau:
Lª ThÞ Thu Giang Líp: KiÓm to¸n 47A
7
§Ò ¸n m«n häc GVHD:GS.TS. NguyÔn Quang Quynh
Thứ nhất: Xây dựng chuẩn mực kiểm toán phải xuất phát từ thực tiễn,
quản lý phải phù hợp với môi trường pháp luật, môi trường hạch toán kế
toán ở Việt Nam.
Việc xây dựng chuẩn mực kiểm toán cũng như các loại chuẩn mực
khác phải luôn gắn chặt với việc thực hiện các chuẩn mực đó vì đạo lý và
công bằng sinh ra từ ý chí và quyền lực mà ý chí và quyền lực lại xuất phát
từ thực tiễn. Xét về mặt biện chứng đây là mối quan liên hệ giữa thực tiễn
có trước song khoa học phải có tác dụng hướng dẫn. Do đó chuẩn mực
không phải là cái vĩnh cửu, càng không thể có trước thực tiễn cũng không
thể không có khi thực tiễn tồn tại. Kiểm toán cần có hệ thống chuẩn mực và
cần hoàn thiện nó từng bước.
Việt Nam đang nhận được sự đầu tư khá lớn từ nước ngoài trong khi
mỗi nhà đầu tư đều mong muốn rằng đầu tư của họ phải có hiệu quả cao
nhất và họ thường gắn với một đơn vị kiểm toán cụ thể. Sự lớn mạnh của
nhà đầu tư đòi hỏi phạm vi hoạt động của kiểm toán phải mở rộng tương
ứng.
Trên thực tế, hoạt động kiểm toán đã không còn là của một tổ chức,
một quốc gia mà nó đã vượt qua biên giới của từng nước và xâm nhập đan
xen lẫn nhau trên cùng một địa bàn, một nước. Việc quản lý từng chương
trình dự án nói riêng và quản lý ở tầm cao hơn - quản lý ở tầm vĩ mô ngày
càng gia tăng và phức tạp. Do đó, cơ sở tốt nhất để tiến hành quản lý là
phải có một khung pháp lý, một hệ thống pháp luật quy định rõ rang cụ thể.
Không thể xây dựng một hệ thống chuẩn mực kiểm toán tách rời hay trái
ngược với hệ thống pháp lý chung mà phải là hoạt động gắn với một hệ

thống pháp lý. Vì vậy, xây dựng hệ thống pháp lý kiểm toán không thể
không xem xét kỹ lưỡng quan hệ pháp lý trong từng phân hệ, từng văn bản,
từng điều khoản cụ thể…
Trong hệ thống pháp lý về kiểm toán bao gồm nhiều hình thức khác
nhau: Sắc lệnh, Pháp lệnh, Chuẩn mực, Chế độ, Quy chế,… Mỗi hình thức
có thể thực hiện trên các chủ thể kiểm toán khác nhau: Kiểm toán nhà
nước, Kiểm toán độc lập, Kiểm toán nội bộ. Chúng ta cần phải thống nhất
các văn bản pháp lý cần xây dựng chung hoặc riêng cho các chủ thể kiểm
Lª ThÞ Thu Giang Líp: KiÓm to¸n 47A
8
§Ò ¸n m«n häc GVHD:GS.TS. NguyÔn Quang Quynh
toán, trong đó thống nhất chuẩn mực cụ thể chỉ quy định về những vấn đề
về kiểm toán viên và công tác kiểm toán.
Thứ hai: Xây dựng chuẩn mực kiểm toán phải xuất phát từ yêu cầu và
nguyên tắc của hoạt động kiểm toán.
Yêu cầu của một cuộc kiểm toán xét về khía cạnh chất lượng bao gồm
tính hiệu lực, tính hiệu quả và tính kinh tế.
Tính hiệu quả là việc sử dụng tối thiểu các nguồn lực nhưng vẫn đảm
bảo đạt được mục tiêu của đơn vị. Có nghĩa là kết quả được tạo ra nhiều
hơn so với mục đích, mục tiêu hoặc kế hoạch nhưng vẫn sử dụng đúng
nguồn lực đã được xác định, hoặc kết quả tạo ra đúng như mục tiêu, mục
đích hoặc kế hoạch nhưng nguồn lực sử dụng lại ít đi. Nói cách khác tính
hiệu quả nhằm hướng đến việc cải tiến hoạt động để giảm giá thành hoặc
nguồn lực sử dụng trên một đơn vị kết quả tạo ra. Như vậy tính hiệu quả
liên quan mật thiết giữa “ yếu tố đầu vào” và “kết quả đầu ra” được thể
hiện qua chỉ tiêu năng suất đạt được.
Tính hiệu lực được xác định như là một khái niệm hướng đến cái đích
cuối cùng là đánh giá mức độ thực hiện các mục tiêu, mục đích đã được
định trước cho một hoạt động hoặc một chương trình đã được thực hiện(đạt
được kết quả thoã đáng từ việc sử dụng nguồn lực và các hoạt động của tổ

chức). Vì vậy, điểm quan trọng trong tính hiệu lực là phải xem xét giữa kết
quả mong đợi trong kế hoạch với kết quả thực tế qua hoạt động.
Tính kinh tế có thể định nghĩa là “ tối thiểu hoá chi phí cho các nguồn
lực sẽ được sử dụng nhưng vẫn đảm bảo đạt được kết quả đầu ra có chất
lượng phù hợp. Như vậy, nội dung của tính kinh tế nhấn mạnh đến yếu tố
đầu vào tức là việc có được tất cả các nguồn lực để sử dụng hoặc cần đến.
Khi kiểm toán tính kinh tế kiểm toán viên cố gắng xem xét các nguồn lực
có được sử dụng đúng số lượng, địa điểm, thời gian, chủng loại và giá cả
hay không. Cụ thể hơn là kiểm toán viên xem xét đơn vị có khả năng giảm
thấp chi phí hơn việc chi tiêu so với quy định nhưng vẫn đạt được nguồn
lực như mong muốn hay không? Hoặc khi đơn vị đã có những nguồn lực
đó rồi còn có cách lựa chọn nào khác để giảm được chi phí so với hiện tại
hay không?
Lª ThÞ Thu Giang Líp: KiÓm to¸n 47A
9
§Ò ¸n m«n häc GVHD:GS.TS. NguyÔn Quang Quynh
Ngoài ra các nguyên tắc cơ bản của hoạt động kiểm toán còn bao gồm
việc tuân thủ pháp luật, tính độc lập, khách quan… cũng được đặc biệt coi
trọng khi xây dựng và thực hiện chuẩn mực kiểm toán.
Thực tế, chuẩn mực kiểm toán thể hiện ở hình thức pháp luật hay hệ
thống chuẩn mực cụ thể cũng phải xuất phát từ cơ sở lý luận khoa học cụ
thể. Đó là những nhận thức đúng đắn về loại hình kiểm toán và đối tượng
kiểm toán cụ thể. Đồng thời khi xây dựng chuẩn mực kiểm toán pahỉ tuân
thủ nguyên tắc thống nhất trong việc thiết kế các nội dung. Có nghĩa là khi
xây dựng các chuẩn mực cụ thể vừa phải đáp ứng được đầy đủ các nguyên
tắc mà không được có mâu thuẫn hay ngoại trừ một nguyên tắc nào. Mỗi
nguyên tắc được đặt trong tổng thể các nguyên tắc khác cùng làm căn cứ
cho việc xây dựng các chuẩn mực được dễ dàng, hợp lý và khoa học.
Thứ ba: Phải hội nhập với thông lệ kiểm toán phổ biến của kiểm toán
quốc tế trên cơ sở những nguyên lý chung, những kỹ thuật chung của kiểm

toán đồng thời phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam đặc biệt là truyền thống
văn hoá, đạo đức và đặc điểm quản lý chung có liên quan.
Xuất phát từ quan điểm trong việc lựa chọn những chuẩn mực quốc tế
không thể không tách rời đặc điểm của từng nước, đặc biệt là truyền thống
văn hoá, đạo đức và đặc điểm quản lý chung có liên quan. Khi xây dựng
chuẩn mực kiểm toán chúng ta cần có sự lựa chọn những chuẩn mực cụ thể
phù hợp với nét riêng biệt của nước mình. Ở Việt Nam tuy yêu cầu của mở
cửa và hội nhập buộc chúng ta phải tiếp cận các chuẩn mực và thông lệ
quốc tế song chúng ta chỉ hoà nhập chứ không hoà tan, do đó không thể
vận dụng một cách máy móc một hệ thống chuẩn mực chung nào của
IFAC, INTOSAI. Chính các tổ chức kiểm toán quốc tế cũng chỉ rõ : Các
quốc gia tuỳ điều kiện pháp lý và quản lý cụ thể của mình cần xuất phát từ
chuẩn mực kiểm toán quốc tế để xây dựng một hệ thống chuẩn mực phù
hợp. Với định hướng riêng và nét đặc thù trong quản lý, việc tham khảo và
học hỏi các chuẩn mực kiểm toán của các nước trong khu vực và trên thế
giới là rất cần thiết. Song cần phải nhận biết rõ nguyên tắc này để có
phương hướng rõ ràng trong việc hoạch định chi tiết các mối liên hệ cần
hướng dẫn, điều tiết, từng bước xây dựng chuẩn mực kiểm toán nước ta
đưa kiểm toán nước ta lên tầm cao mới tương xứng với sự phát triển, hoàn
Lª ThÞ Thu Giang Líp: KiÓm to¸n 47A
1
§Ò ¸n m«n häc GVHD:GS.TS. NguyÔn Quang Quynh
thiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tương thích
với xu hướng hội nhập kinh tế.
Thứ tư: Chuẩn mực kiểm toán cần được xây dựng đầy đủ, rõ ràng, dễ
hiểu và bảo đảm tính toàn diện và khả thi cao.
Nguyên tắc này đòi hỏi chuẩn mực kiểm toán phải xác định được các
mối liên hệ tối thiểu cần điều tiết, hướng dẫn. Vì vậy phải tham khảo kinh
nghiệm của các nước trong việc thể hiện các mối quan hệ đó và phải xuất
phát từ thực tiễn Việt Nam, trên cơ sở đó xác định số lượng và cơ cấu các

chuẩn mực. Sau đó, cần có bản giải thích các chuẩn mực để thống nhất
nhận thức và thực hiện. Trong hướng dẫn cần chú ý tính tiên tiến của các
“thước đo” này nhằm từng bước nâng cao tính kỷ cương và nền nếp quản
lý nhưng phải giới hạn ở mức có thể thực hiện được.
Thứ năm: Xây dựng chuẩn mực kiểm toán cần tính đến sự phát triển
lâu dài của kiểm toán ở Việt Nam
Trên thế giới, hoạt động kiểm toán đã xuất hiện từ những năm 30 của
thế kỷ XX, hệ thống chuẩn mực kiểm toán nói chung đã có bề dày lịch sử,
kinh nghiệm cũng như trình độ về kiểm toán đã đạt cung bậc nhất định. Đối
với Việt Nam, kiểm toán có thể xem như là mới bắt đầu. Do đó, trong quá
trình xây dựng chúng ta cần phải có những định hướng cụ thể ở hiện tại
cũng như trong tương lai. Ở nước ta kiểm toán ra đời sau cũng có những
thuận lợi nhất định, chúng ta có thể kế thừa những cái đã có trong hệ thống
chuần mực kiểm toán, có quyền lựa chọn những chuẩn mực cụ thể trong hệ
thống chuẩn mực quốc tế đồng thời phát huy sang tạo những chuẩn mực
kiểm toán đó cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Ngày nay, trong thời đại thông tin chúng ta cần phải có sự linh hoạt
trong lĩnh vực hoạt động này. Khi xây dựng chuẩn mực kiểm toán cần phải
có sự tính toán đến sự phát triển lâu dài của kiểm toán Việt Nam. Đây là
một trong những nguyên tắc quan trọng không thể thiếu khi xây dựng hệ
thống chuẩn mực kiểm toán ở nước ta. Trong điều kiện sự phát triển ngày
càng mạnh mẽ của tri thức đặc biệt là công nghệ thông tin thì việc tin học
hoá phải được tính đến trong chuẩn mực kiểm toán.
Lª ThÞ Thu Giang Líp: KiÓm to¸n 47A
1
§Ò ¸n m«n häc GVHD:GS.TS. NguyÔn Quang Quynh
1.2.Vấn đề xây dựng hệ thống chuẩn mực kiểm toán ở Việt Nam
Ngày 29/01/1994 Nghị định 07/CP của Chính Phủ ban hành “ quy
chế về kểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân” đã đặt nền tảng pháp
lý đầu tiên cho kiểm toán độc lập ở Việt Nam. Tuy nhiên, từ điểm xuất phát

này đến môi trương pháp lý đầy đủ cho hoạt động kiểm toán vẫn còn
khoảng cách khá xa, gồm nhiều vấn đề cần giải quyết. Một trong những
vấn đề đó là việc xây dựng hệ thống CMKTVN, về vấn đề này có một số ý
kiến đóng góp như sau:
Thứ nhất: Phác thảo về hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
Các chuẩn mực kiểm toán được ban hành để hướng dẫn kiểm toán
viên. Do đó, chuẩn mực kiểm toán đóng vai trò chủ yếu trong chuẩn hoá
hoạt động kiểm toán và giải quyết vấn đề trách nhiệm pháp lý của kiểm
toán viên. Có thể chia làm hai loại chuẩn mực kiểm toán:
Một là: Chuẩn mực kiểm toán quốc gia là hệ thống chuẩn mực kiểm
toán có tác dụng trong phạm vi quốc gia. Mỗi quốc gia đều đi đến việc hình
thành một hệ thống chuẩn mực kiểm toán cho mình bao gồm
Các chuẩn mực kiểm toán là những nguyên tắc cơ bản trong việc điều
hành và thực hiện kiểm toán, có tính chất quyết định trách nhiệm nghề
nghiệp của kiểm toán viên.
Các nguyên tắc thực hành là những chỉ dẫn có hiệu lực về các thủ tục
kiểm toán để áp dụng các chuẩn mực kiểm toán. Các nguyên tắc thực hành
được xây dựng trên cơ sở của các chuẩn mực kiểm toán. Mổi nguyên tắc
được ban hành thường giải quyết một vấn đề, ví dụ: kế hoạch kiểm toán,
xem xét và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ, lấy mẫu kiểm toán,… khi
thực tiễn có những vấn đề nảy sinh những nguyên tắc này có thể sửa đổi,
bổ sung hoặc ban hành thêm dựa trên các nguyên lý cơ bản trong chuẩn
mực kiểm toán. Ở Mỹ, các nguyên tắc nguyên tắc thực hành này được gọi
là các thông báo về chuẩn mực kiểm toán(SAS), còn ở Australia chúng
được gọi là thông báo về thực hành kiểm toán(AUP), các SAS được xây
dựng trên cơ sở của GAAS còn các AUP được xây dựng trên cơ sở của
AUS,…
Các hướng dẫn, giải thích về kiểm toán là những hướng dẫn chi tiết
việc áp dụng các nguyên tắc thực hành hoặc những hướng dẫn kiểm toán
Lª ThÞ Thu Giang Líp: KiÓm to¸n 47A

1
§Ò ¸n m«n häc GVHD:GS.TS. NguyÔn Quang Quynh
những ngành nghề đặc biệt, đặc thù mà kiểm toán viên có thể áp dụng khi
tiến hành kiểm toán.
Như vậy, chuẩn mực kiểm toán quốc gia là một hệ thống chung nhất
đến chi tiết, quá trình chi tiết hoá cũng chính là quá trình “mềm hoá” để có
thể vận dụng phù hợp với thực tế:
Các nguyên tắc thực hành, các hướng dẫn giải thích về kiểm toán có
thể điều chỉnh, phát sinh theo thực tiễn kiểm toán.
Các giải thích, hướng dẫn về kiểm toán không có tính chất bắt buộc
như các chuẩn mực và các nguyên tắc thực hành.
Hai là: Chuẩn mực kiểm toán quốc tế
Nhằm phát triển và tăng cường sự phối hợp nghiệp vụ kế toán trên
phạm vi toàn thế giới các chuẩn mực phải có sự hài hoà.(Hiến chương của
liên đoàn kế toán quốc tế IFAC ban hành các nguyên tắc chỉ đạo kiểm toán
quốc tế, các nguyên tắc này được ban hành trên cơ sở tổng hợp ý kiến và
biểu quyết của các nước thành viên đối với từng vấn đề. Từ tháng 1 năm
1980 đến tháng 7 năm 1990 đã có 29 nguyên tắc được phê chuẩn và ban
hành về nhiều vấn đề quan trọng của kiểm toán).
Khác với các chuẩn mực quốc gia, chuẩn mực kiểm toán quốc tế
không có tính chất bắt buộc. Các nước chưa có chuẩn mực kiểm toán quốc
gia sẽ được khuyến cáo nên dựa vào hệ thống chuẩn mực kiểm toán quốc tế
để xây dựng chuẩn mực kiểm toán cho mình.
Như vậy, có thể phác thảo một số định hướng trong việc xây dựng hệ
thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam như sau:
Xây dựng trên căn bản chuẩn mực kiểm toán quốc tế, để hệ thống
chuẩn mực kiểm toán Việt Nam khi ra đời đã phù hợp với các chuẩn mực
quốc tế thuận lợi trong việc hoà nhập với hoạt động kiểm toán quốc tế,
giảm bớt các điều chỉnh sau này.
Những vấn đề chuẩn mực kiểm toán quốc tế chưa đề cập tới sẽ tham

khảo hệ thống chuẩn mực kiểm toán của các nước phát triển và các nước
trong khu vực kết hợp với việc xem xét thực tiễn ở Việt Nam.
Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam nên xây dựng thành từng bộ
phận từ các nguyên lý cơ bản đến hướng dẫn chi tiết với mức độ cưỡng bức
khác nhau có thể áp dụng uyển chuyển trong thực tế.
Lª ThÞ Thu Giang Líp: KiÓm to¸n 47A
1
§Ò ¸n m«n häc GVHD:GS.TS. NguyÔn Quang Quynh
Thứ hai: Quá trình hình thành Hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán
Quá trình hình thành hệ thống chuẩn mực kiểm toán là một quá trình
lâu dài trong suốt lịch sử phát triển của hoạt động kiểm toán. Có thể hình
dung quá trình này diễn ra theo hai hướng:
Thứ nhất, đó là quá trình chuẩn hoá hoạt động kiểm toán từ mức độ
một công ty kiểm toán cho đến mức độ toàn thế giới. Từ thực tiễn công tác
kiểm toán, các kiểm toán viên hình thành phương thức tiếp cận của riêng
mình để làm cơ sở thiết kế các thủ tục kiểm toán cho mỗi hoạt động cụ thể.
Các công ty kiểm toán sẽ tập hợp phương thức tiếp cận này để xây dựng
một quy trình kiểm toán chuẩn cho mình làm cơ sở nâng cao chất lượng
kiểm toán và đào tạo kiểm toán viên. Các Hiệp hội nghề nghiệp của kiểm
toán viên sẽ dựa trên các quy trình của công ty để hình thành chuẩn mực
kiểm toán quốc gia và bảo vệ uy tín nghề nghiệp. Sau đó, Liên đoàn kế
toán quốc tế phối hợp các chuẩn mực kiểm toán quốc gia để hình thành
chuẩn mực kiểm toán quốc tế trên cơ sở nhất trí của các nước thành viên.
Thứ hai, đó là quá trình tác động ngược lại của các chuẩn mực được
hình thành. Khi một công ty kiểm toán xây dựng được quy trình kiểm toán
chuẩn của mình các kiểm toán viên nên có trách nhiệm điều chỉnh lại
phương thức tiếp cận của mình cho phù hợp. Các chuẩn mực kiểm toán
quốc gia khi hình thành cũng tác động ngược lại quy trình kiểm toán chuẩn
của các công ty kiểm toán theo hướng tương tự. Và cuối cùng sự ra đời của
chuẩn mực kiểm toán quốc tế cũng có những ảnh hưởng nhất định đến

chuẩn mực kiểm toán các quốc gia.
Từ đó, chúng ta có thể nhận thấy rằng con đường hình thành hệ thống
chuẩn mực kiểm toán ở Việt Nam phải là sự kết hợp giữa các chuẩn mực
kiểm toán quốc tế và thực tiễn công tác kiểm toán Việt Nam.
Lª ThÞ Thu Giang Líp: KiÓm to¸n 47A
1
Đề án môn học GVHD:GS.TS. Nguyễn Quang Quynh
PHN II
THC TRNG XY DNG H THNG CHUN MC
KIM TON VIT NAM
2.1. C s xõy dng H thng Chun mc Kim toỏn Vit Nam
H thng Chun mc Kim toỏn Vit Nam(CMKTVN) xõy dng
trờn c s:
Th nht: Cỏc chun mc quc t v xem xột chun mc kim toỏn
ca cỏc quc gia khỏc
Chun mc kim toỏn quc t (CMKTQT) dng vi mc tiờu t
c nhng chun mc tt nht cho ngh nghip kim toỏn trờn phm vi
ton th gii. Nhng nú phi tho món yờu cu ca nhiu thnh viờn l cỏc
quc gia cú mc phỏt trin khỏc nhau v ngh nghip nờn cỏc chun
mc quc t cng khụng trỏnh khi c hn ch. Do ú, vic xõy dng
chun mc kim toỏn Vit Nam ngoi vic s dng chun mc kim toỏn
quc t lm c s cn xem xột thờm chun mc ca cỏc quc gia khỏc c
bit l cỏc quc gia cú ngh nghip kim toỏn phỏt trin v cỏc quc gia
ang s dng chun mc kim toỏn quc t xõy dng chun mc kim
toỏn quc gia.
Th hai:Cỏc CNKTVN phi phự hp vi c im Vit Nam
Cỏc CMKTVN ngoi yờu cu phi phự hp vi thụng l quc t cũn
cn phi phự hp vi c im Vit Nam m bo kh nng a chun
mc vo thc tin hot ng kim toỏn Vit Nam.
Th ba: H thng CMKTVN phi hng v vic nõng cao cht lng

ca cụng ty kim toỏn ng thi kim soỏt c cht lng ca cỏc cụng ty
kim toỏn quc t hot ng ti Vit Nam.
Th t: H thng CMKTVN phi cú kh nng ng dng cao trong
thc tin cụng tỏc kim toỏn c lp ti Vit Nam.
H thng CMKTVN phi m bo c cỏc bờn liờn quan hiu ỳng
v ỏp dng ỳng trong thc tin hot ng kim toỏn Vit Nam.
Th nm: C ch ban hnh CMKTVN phi gii quyt c mi quan
h gia Nh nc v t chc ngh nghip trong quỏ trỡnh lp quy v kim
soỏt cht lng cụng vic kim toỏn.
Lê Thị Thu Giang Lớp: Kiểm toán 47A
1
§Ò ¸n m«n häc GVHD:GS.TS. NguyÔn Quang Quynh
Hiện nay, Bộ tài chính là người chịu trách nhiệm chính về việc soạn
thảo và ban hành CMKTVN với sự tham gia của các công ty kiểm toán và
các nhà nghiên cứu. Bộ tài chính cũng là người kiểm tra và giám sát chất
lượng kiểm toán tại các công ty kiểm toán. Tuy nhiên, xét về lâu dài kinh
phí và nguồn nhân lực của Bộ tài chính không thể và không nên “bao cấp”
cho toàn bộ công việc này bởi chúng đòi hỏi nhiều thời gian, chi phí và sự
nhạy bén nghề nghiệp mà các cơ quan Nhà nước khó thực hiện được. Do
đó, cần phải có một cơ chế thích hợp hơn, giải quyết đúng đắn quan hệ giữa
Nhà nước và tổ chức nghề nghiệp trong việc xây dựng chuẩn mực.
Thứ sáu: Hệ thống CMKTVN phải phát triển đồng bộ với hệ thống
kế toán
Giữa kiểm toán và kế toán có mối quan hệ với nhau, rất nhiều chuẩn
mực kế toán phải tham chiếu đến chuẩn mực kế toán liên quan. Do đó, cần
phải đảm bảo việc phát triển đồng bộ của các chuẩn mực kiểm toán và hệ
thống kế toán.
Thứ bảy: Quy trình xây dựng các CMKTVN phải chuyển sang
chuyên nghiệp hoá.
Quá trình hình thành nền kinh tế thị trường, nền kinh tế Việt Nam là

quá trình vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của các nước vào thực tiễn phù
hợp với định hướng của Đảng và Nhà nước. Hoạt động kiểm toán và các
CMKTVN cũng không nằm ngoài quy luật đó, trong từng thời kỳ việc nhận
thức đúng yêu cầu của thực tiễn giúp chúng ta xác định những hướng đi
hợp lý cho mình và đạt những mục tiêu đặt ra.
2.2. Quá trình xây dựng Hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam
2.2.1. Bối cảnh và thách thức của quá trình hình thành Hệ thống
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam
Quá trình xây dựng Hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam bắt
đầu chính thức từ tháng 9 – 1997 sau Hội thảo về chuẩn mực kiểm toán
được Bộ Tài Chính và Dự án EROTAPVIET về kế toán và kiểm toán tổ
chức tại Nha Trang. Hội thảo đã xác định phương hướng xây dựng
CMKTVN là dựa trên cơ sở chuẩn mực kiểm toán quốc tế và có những
điều chỉnh thích hợp cho Việt Nam.
Lª ThÞ Thu Giang Líp: KiÓm to¸n 47A
1
§Ò ¸n m«n häc GVHD:GS.TS. NguyÔn Quang Quynh
Quá trình toàn cầu hóa của nền kinh tế trên thế giới diễn ra nhanh
chóng dẫn đến sự gia tăng của nhu cầu thông tin toàn cầu đến nhiều lĩn vực
ngoài các thông tin tài chính lịch sử truyền thống. Vì vậy, các tổ chức độc
lập trên thế giới đã và đang tích cực phát triển các chuẩn mực có liên quan
đến kiểm toán các thông tin khác ngoài thông tin tài chính. Uỷ ban thông lệ
kiểm toán quốc tế đang phát triển một khuôn mẫu mới cho hệ thống chuẩn
mực kiểm toán quốc tế trong đó xác định hướng phát triển của dịch vụ
kiểm toán các thông tin phi tài chính.
Trong khủng hoảng tài chính năm 1997 sự phê phán đã nhằm vào
các công ty kiểm toán đã xác nhận cho các báo cáo tài chính của các công
ty có tình hình tài chính yếu kém. Các tổ chức lập quy đã nhanh chóng rút
ra bài học về vấn đề này bằng cách nâng cao các chuẩn mực kiểm toán liên
quan.

Ở Việt Nam, với sự ra đời của luật Doanh nghiệp cùng những nổ lực
của Chính Phủ trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển đã tạo cơ hội tăng
them của thị trường kiểm toán đang bị trì trệ sau ảnh hưởng của đầu tư
nước ngoài giảm sút do khủng hoảng tài chính ở Châu Âu. Đồng thời việc
bãi bỏ giấy phép hành nghề kiểm toán dẫn đến Bộ tài chính phải có những
biện pháp kiểm soát khác và chuẩn mực kiểm toán trở thành một yêu cầu
bức thiết hơn.
Sự ra đời của thị trường chứng khoán đánh dấu một bước ngoặt trong
lịch sự phát triển kiểm toán độc lập tại Việt Nam. Khi thị trường chứng
khoán phát triển vai trò của kiểm toán độc lập sẽ trở nên quan trọng và yêu
cầu xây dựng Hệ thống CMKTVN sẽ gia tăng để giải quyết các vấn đề đặt
ra tương ứng.
2.2.2. Thực trạng Hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam
Đối với kiểm toán độc lập, ra đời từ những năm 1991. Sau 16 năm
hoạt động hoạt động kiểm toán độc lập đã xác định được vị trí trong nền
kinh tế thị trường, đã góp phần ngăn ngừa và phát hiện lãng phí, thực hiện
công khai minh bạch Báo cáo tài chính, phục vụ đắc lực cho công tác quản
lý, điều hành kinh tế - tài chính của doanh nghiệp và Nhà nước nhất là sau
khi gia nhập WTO và thị trường chứng khoán phát triển.
Lª ThÞ Thu Giang Líp: KiÓm to¸n 47A
1
§Ò ¸n m«n häc GVHD:GS.TS. NguyÔn Quang Quynh
Song hành với sự phát triển kiểm toán độc lập , Nhà nước đã không
ngừng hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho
cho sự tồn tại và phát triển của hoạt động kiểm toán độc lập. Cụ thể Chính
phủ đã ban hành 03 Nghị định về kiểm toán độc lập, Bộ Tài chính đã ban
hành khoảng 25 quyết định, thông tư hướng dẫn về tiêu chuẩn, điều kiện
thành lập và hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán và của kiểm toán viên,
về đăng ký và quản lý hành nghề kiểm toán, về quy chế kiểm soát chất
lượng kiểm toán, về chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán, đã hỗ trợ

sự ra đời của Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) và đặc biệt
là đã xây dựng và ban hành hệ thống 38 chuẩn mực kỹ thuật nghiệp vụ cho
hoạt động kiểm toán.
Thực tế cho thấy, hệ thống 38 chuẩn mực kiểm toán (CMKT) đã thực
sự là cơ sở cho kiểm toán viên, các công ty kiểm toán kiểm tra, đánh giá
các báo cáo tài chính một cách khoa học, khách quan, đồng thời là cơ sở
cho việc chỉ đạo, giám sát, kiểm tra và đánh giá chất lượng dịch vụ kiểm
toán, là cơ sở đào tạo, bồi dưỡng và thi tuyển kiểm toán viên. Việc ban
hành hệ thống 38 CMKT Việt Nam đã đáp ứng yêu cầu cam kết của Việt
Nam với các tổ chức quốc tế trong việc giải ngân vốn ODA và thực hiện
các Hiệp định thương mại song phương, đa phương và gia nhập WTO.
Sau 12 năm ra đời và phát triển cùng hệ thống kiểm toán trên thế
giới kiểm toán Việt Nam đã đạt được một số thành tựu trong xây dựng
chuẩn mực kiểm toán. Bộ tài chính đã ban hành 7 đợt chuẩn mực kiểm
toán, gồm:
Thứ nhất: Chuẩn mực kiểm toán đợt 1 – Ban hành theo Quyết định số
120/1999/QĐ – BTC (27/9/1999):
Một là: Chuẩn mực số 200: Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối
kiểm toán báo cáo tài chính;
Hai là: Chuẩn mực số 210: Hợp đồng kiểm toán;
Ba là: Chuẩn mực số 230: Hồ sơ kiểm toán;
Bốn là: Chuẩn mực số 700: Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính.
Thứ hai: Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam đợt 2 – Ban hành theo
Quyết định 219/2000/QĐ – BTC (29/12/2000):
Lª ThÞ Thu Giang Líp: KiÓm to¸n 47A
1
§Ò ¸n m«n häc GVHD:GS.TS. NguyÔn Quang Quynh
Một là: Chuẩn mực số 250: Xem xét tính tuân thủ pháp luật và các
quy định trong kiểm toán báo cáo tài chính;
Hai là: Chuẩn mực số 310: Hiểu biết về tình hình kinh doanh;

Ba là: Chuẩn mực số 500: Bằng chứng kiểm toán;
Bốn là: Chuẩn mực số 510: Kiểm toán năm đầu tiên - Số dư đầu năm
tài chính;
Năm là: Chuẩn mực số 520: Quy trình phân tích;
Sáu là: Chuẩn mực số 580: Giải trình của Giám đốc.
Thứ ba: Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam đợt 3 – Ban hành theo Quyết
định 143/2001/QĐ – BTC (21/12/2001):
Một là: Chuẩn mực số 240: Gian lận và sai sót;
Hai là: Chuẩn mực số 300: Lập kế hoạch kiểm toán;
Ba là: Chuẩn mực số 400: Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ;
Bốn là: Chuẩn mực số 530: Lấy mẫu kiểm toán và các thủ tục lựa
chọn khác;
Năm là: Chuẩn mực số 540: Kiểm toán các ước tính kế toán;
Sáu là: Chuẩn mực số 610: Sử dụng tư liệu của kiểm toán nội bộ.
Thứ tư: Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam đợt 4 – Ban hành theo Quyết
định 28/2003/QĐ – BTC (14/3/2003):
Một là: Chuẩn mực số 220: Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm
toán;
Hai là: Chuẩn mực số 320: Tính trọng yếu trong kiểm toán;
Ba là: Chuẩn mực số 501: Bằng chứng kiểm toán bổ sung đối với các
khoản mục và sự kiện đặc biệt;- Chuẩn mực số 560: Các sự kiện phát sinh
sau ngày khóa sổ kế toán lập báo cáo tài chính;- Chuẩn mực số 600: Sử
dụng tư liệu của kiểm toán viên khác.
Thứ năm: Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam đợt 5 – Ban hành theo
Quyết định 193/2003/QĐ – BTC (28/11/2003):
Một là: Chuẩn mực số 401: Thực hiện kiểm toán trong môi trường tin
học.
Hai là: Chuẩn mực số 550: Các bên liên quan;
Ba là: Chuẩn mực số 570: Hoạt động liên tục;
Lª ThÞ Thu Giang Líp: KiÓm to¸n 47A

1
§Ò ¸n m«n häc GVHD:GS.TS. NguyÔn Quang Quynh
Bốn là: Chuẩn mực số 800: Báo cáo kiểm toán về những công việc
kiểm toán đặc biệt;
Năm là: Chuẩn mực số 910: Công tác soát xét báo cáo tài chính;
Sáu là: Chuẩn mực số 920: Kiểm tra thông tin tài chính trên cơ sở các
thủ tục thỏa thuận trước.
Thứ sáu: Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam đợt 6 – Ban hành theo
Quyết định 03/2005/QĐ – BTC (18/01/2005):
Một là: Chuẩn mực số 402: Các yếu tố cần xem xét khi kiểm toán đơn
vị có sử dụng dịch vụ bên ngoài;
Hai là: Chuẩn mực 602: Sử dụng tư liệu của chuyên gia;
Ba là: Chuẩn mực 710: Thông tin có tính so sánh;
Bốn là: Chuẩn mực 720: Những thông tin khác trong tài liệu có báo
cáo tài chính đã kiểm toán;
Năm là: Chuẩn mực 930: Dịch vụ tổng hợp thông tin tài chính;
Sáu là: Chuẩn mực 1000: Kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư
hoàn thành.
Thứ bảy: Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam đợt 7:
Một là: Chuẩn mực 260: Trao đổi các vấn đề quan trọng phát sinh khi
kiểm toán với Ban lãnh đạo đơn vị được kiểm toán;
Hai là: Chuẩn mực 330: Thủ tục kiểm toán trên cơ sở đánh giá rủi ro;
Ba là: Chuẩn mực 505: Thông tin xác nhận từ bên ngoài;
Bốn là: Chuẩn mực 545: Kiểm toán việc xác định và trình bày giá trị
hợp lý.
Tuy nhiên, hiện nay Hệ thống CMKTQT có nhiều thay đổi, các dịch
vụ có liên quan đến hoạt động xác nhận thông tin cũng được phân loại
lại từ năm 2004 thành dịch vụ có đảm bảo và các dịch vụ liên quan. Theo
đánh giá của một số chuyên gia của các tổ chức tài chính quốc tế (như WB,
ADB, ) và thực tế đúng như vậy: Hệ thống CMKT Việt Nam ban hành từ

năm 1999 đến 2005 đã bị lạc hậu, chưa được cập nhật kịp thời với Hệ
thống CMKT quốc tế đã thay đổi, do vậy phần nào ảnh hưởng đến độ tin
cậy của các thông tin được kiểm toán trên cơ sở các CMKT chưa cập nhật.
Vì vậy, yêu cầu đặt ra trước mắt là cần thiết phải cập nhật Hệ thống 38
Lª ThÞ Thu Giang Líp: KiÓm to¸n 47A
2
§Ò ¸n m«n häc GVHD:GS.TS. NguyÔn Quang Quynh
CMKT Việt Nam cho phù hợp với Hệ thống CMKT quốc tế đã thay đổi và
thực tế nền kinh tế thị trường Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ trong những
năm qua nhằm đạt được sự công nhận của quốc tế về chất lượng thông tin
đã được kiểm toán, nhất là trong điều kiện các nhà đầu tư nước ngoài đang
quan tâm đến đầu tư vốn vào thị trường tài chính, thị trường chứng khoán
Việt Nam hiện nay cũng như sắp tới.
Đối với kiểm toán nhà nước, được thành lập từ năm 1994, trong điều
kiện không có tổ chức tiền thân và kinh doanh kiểm toán ở Việt Nam mới
được hình thành, hoạt động kiểm toán của kiểm toán nhà nước trong giai
đoạn đầu chủ yếu được thực hiện dựa trên các quy định hiện hành của Nhà
nước và vận dụng các Chuẩn mực kiểm toán của INTOSAI (Tổ chức Quốc
tế các Cơ quan Kiểm toán tối cao), ASOSAI (Tổ chức các cơ quan Kiểm
toán tối cao Châu Á) và của IFAC (Liên đoàn Kế toán quốc tế); do các
chuẩn mực này thường mang tính định hướng và khuyến cáo chung, thiếu
tính cụ thể khi áp dụng vào tình hình thực tế của mõi quốc gia nên các cuộc
kiểm toán của kiểm toán Nhà nước được thực hiện dựa trên kinh nghiệm về
kiểm tra kế tóan và thanh tra là chủ yếu (với đội ngũ kiểm toán viên ban
đầu được xét tuyển chủ yếu là đã có kinh nghiệm về công tác kiểm tra,
thanh tra thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế). Hạn chế của
việc vận dụng này là các cuộc kiểm toán được thực hiện thiếu sự thống
nhất về trình tự và các bước tác nghiệp; kiểm toán viên lúng túng khi tác
nghiệp kiểm toán; báo cáo kiểm toán thiếu tính thống nhất, thể hiện dưới
nhiều dạng mẫu biểu, nhận xét và kết luận khác nhau; chất lượng và hiệu

quả của hoạt động kiểm toán hạn chế và thiếu ổn định – đây chính là những
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến kết luận và kiến nghị của Kiểm toán Nhà
nước đôi khi chưa chính xác, chứa đựng nhiều sai sót và rủi ro, đồng thời
thiếu cơ sở pháp lí để kiểm soát chất lượng và đạo đức hành nghề của kiểm
toán viên nhà nước.
Để khắc phục tình trạng trên, từ năm 1996, Kiểm toán Nhà nước đã
triển khai nhiều công trình nghiên cứu nhằm vận dụng các kinh nghiệm của
các nước và các khuyến cáo của INTOSAI, ASOSAI để xây dựng Hệ thống
Chuẩn mực của kiểm toán Nhà nước phù hợp với trình độ của Kiểm toán
viên nhà nước, mức độ phát triển của Kiểm toán Nhà nước, đặc điểm, điều
Lª ThÞ Thu Giang Líp: KiÓm to¸n 47A
2
§Ò ¸n m«n häc GVHD:GS.TS. NguyÔn Quang Quynh
kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam và các thông lệ quốc tế. Trên cơ sở các
kết quả nghiên cứu, ngày 24/12/1999, Tổng Kiểm toán Nhà nước đã ban
hành Hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán nhà nước theo Quyết định số
06/1999/QĐ- KTNN làm cơ sở cho việc ban hành các quy định trong tổ
chức quản lý và thực hiện kiểm toán một cách thống nhất. Hệ thống chuẩn
mực được ban hành năm 1999 gồm 14 chuẩn mực và được chia thành 3
nhóm, mỗi nhóm gồm các hướng dẫn và quy định riêng. Cụ thể:
Một là: Nhóm chuẩn mực chung đưa ra các hướng dẫn về tính độc lập
và yêu cầu về khả năng trình độ chuyên môn của các Kiểm toán viên làm
cơ sở cho việc tuyển chọn, đào tạo và bồi dưỡng nhằm trang bị cho các
kiểm toán viên những kiến thức chuyên môn cần thiết đáp ứng được công
việc đòi hỏi chuyên môn cao. Đồng thời đưa ra các hướng dẫn về tính thận
trọng và bảo mật nhằm tránh rủi ro và sai sót có thể có trong quá trình nhận
xét, đánh giá và kết luận về các vấn đề kinh tế - tài chính của đối tượng
kiểm toán.
Hai là: Nhóm chuẩn mực thực hành, đưa ra các hướng dẫn về các quy
định và nguyên tắc cần tuân thủ cho các bước kiểm toán từ khâu lập kế

hoạch, nghiên cứu đánh giá về hệ thống kiểm soát của đối tượng sao cho
tiết kiệm thời gian, chi phí cho một cuộc kiểm toán trong khi kết quả kiểm
toán hạn chế được các rủi ro và sai sót có thể có. Đưa ra các hướng dẫn về
đánh giá các trọng yếu và rủi ro, các kỹ thuật thu thập bằng chứng làm cơ
sở dẫn liệu đó trên cơ sở đó kiểm toán viên đưa ra các nhận xét, đánh giá,
tránh suy luận mang tính chủ quan. Đồng thời đưa ra các hướng dẫn về việc
kiểm tra và soát xét chất lượng kiểm toán đảm bảo sản phẩm của kiểm toán
Nhà nước là các Báo cáo kiểm toán có chất lượng cao.
Ba là: Nhóm chuẩn mực báo cáo đưa ra được các quy định cụ thể làm
hướng dẫn về việc các Kiểm toán viên cần làm để lập các Báo cáo kiểm
toán với nội dung và thể thức phù hợp theo yêu cầu của Kiểm toán Nhà
nước đáp ứng các yêu cầu về quản lý.
Bốn là: Hệ thống chuẩn mực chính là căn cứ pháp lý quan trọng để
Kiểm toán Nhà nước ban hành các quy định, quy chế hoạt động và biểu
mẫu báo cáo kiểm toán, đảm bảo việc điều chỉnh hoạt động kiểm toán đạt
hiệu lực và hiệu quả cao. Đồng thời điều chỉnh các hoạt động của Kiểm
Lª ThÞ Thu Giang Líp: KiÓm to¸n 47A
2
§Ò ¸n m«n häc GVHD:GS.TS. NguyÔn Quang Quynh
toán Nhà nước, phương pháp nghiệm vụ do các kiểm toán viên thực hiện đi
vào nề nếp, quy chuẩn hóa các công việc cần phải làm của một cụoc kiểm
toán, làm cơ sở để đánh giá, so sánh và nâng cao chất lượng các cuộc kiểm
toán, rút ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí và giảm thiểu các sai sót, rủi ro
trong hoạt động kiểm toán.
Hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán Nhà nước được ban hành và thực
hiện, bên cạnh những mặt tích cực đang phát huy tác dụng cũng còn tồn tại
nhiều hạn chế cần phải nhanh chóng khắc phục. Cụ thể:
Một là: Hệ thống chuẩn mực áp dụng hiện nay mới chỉ điều chỉnh một
chức năng của kiểm toán Nhà nước là kiểm toán báo cáo tài chính, chưa có
được một hệ thống các chuẩn mực để điều chỉnh các chức năng kiểm toán

khác như kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ. Trong khi đó đây là các
loại hình kiểm toán tương đối phổ biến trên thế giới và đang đan xen trong
hoạt động của kiểm toán Nhà nước.
Hai là: Nhiều chuẩn mực của chúng ta được dịch từ các chuẩn mực
quốc tế, chưa được Việt hóa hoặc hướng dẫn kỹ do đó rất khó hiểu, làm cho
các kiểm toán viên lúng túng khi áp dụng như các chuẩn mực về lập kế
hoạch kiểm toán, khảo sát hệ thống kiểm soát nội bộ, về trọng yếu và rủi ro
kiểm toán. Hoặc có những chuẩn mực bị trùng về nội dung như Chuẩn mực
08 về phân tích tình hình kinh tế và Chuẩn mực số 12 về kiểm tra, phân
tích tổng hợp tổng quát báo cáo tài chính của đối tượng kiểm toán.
Ba là: Từ chuẩn mực 01 đến chuẩn mực số 15 còn có một số điểm
tương đồng với các nước và quốc tế, riêng Chuẩn mực số 14 là rất khác
biệt. Chuẩn mực này quy định về việc lập Báo cáo kiểm toán, tuy nhiên có
nhiều điểm giống như là các quy định về việc xét duyệt quyết toán hàng
năm về báo cáo tài chính.
Bốn là: Hệ thống chuẩn mực này còn rất chung chung, không có các
hướng dẫn cụ thể cho từng lĩnh vực các đối tượng kiểm toán khác nhau như
các đơn vị hành chính sự nghiệp, các dự án đầu tư, các doanh nghiệp nhà
nước, …, do đó khó áp dụng trong thực tiễn hoạt động kiểm toán. Kiểm
toán viên chủ yếu vẫn dựa trên kinh nghiệm bản thân.
Lª ThÞ Thu Giang Líp: KiÓm to¸n 47A
2
§Ò ¸n m«n häc GVHD:GS.TS. NguyÔn Quang Quynh
Hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán nhà nước ban hành năm 1999 đã có
những đóng góp tích cực trong việc nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt
động kiểm toán, tăng cường hiệu lực của Kiểm toán Nhà nước, Tuy nhiên,
Hệ thống Chuẩn mực này cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế bất cập cả về nội
dung, thể thức cũng như những nguyên tắc điều chỉnh cụ thể. Để đáp ứng
yêu cầu phát triển các loại hình hoạt động kiểm toán; mở rộng phạm vi,
nâng cao chát lượng kiểm toán, tăng cường hiệu lực của Kiểm toán Nhà

nước theo Luật Kiểm toán nhà nước và thích ứng với những đòi hỏi của
quá trình hội nhập quốc tế, những thách thức khi thực hiện các cam kết gia
nhập WTO của Việt Nam,… việc nghiên cứu định hướng giải pháp hoàn
thiện Hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán nhà nước được đặt ra không chỉ
mang tính cấp bách mà còn phải được thường xuyên thực hiện phù hợp với
chiến lược phát triển của kiểm toán Nhà nước.
Đối với kiểm toán nội bộ, chưa có Hệ thống Chuẩn mực cụ thể, ,mỗi
lạ hình doanh nghiệp hoạt động có những quy định riêng. Hiện nay, khung
pháp lý cao nhất cho hoạt động kiểm toán nội bộ là Luật doanh nghiệp (cũ
và mới). Khái niệm đầu tiên liên quan đến kiểm toán nội bộ trong luật là
ban kiểm soát do cổ đông bầu ra. Tuy nhiên, vai trò, chức năng của ban
kiếm soát còn quá mơ hồ, làm công việc của thanh tra mang tính chất đột
xuất hơn là thường xuyên.
Các doanh nghiệp nhà nước thì có thêm một số quy định hướng dẫn
về vấn đề kiểm toán nội bộ (Quyết định 832/TC/QQĐ/CĐKT năm 1997).
Theo đó, phòng kiểm toán nội bộ vẫn báo cáo lên tổng giám đốc như một
bộ phận thuộc sự điều hành của tổng giám đốc. Điều này làm giảm tính độc
lập của kiểm toán nội bộ, do đó toàn bộ hệ thống quản lý trong doanh
nghiệp đều là đối tượng đánh giá của kiểm toán nội bộ. Trong khi đó, theo
thông lệ phổ biến trên thế giới, phòng kiểm toán nội bộ chịu trách nhiệm
báo cáo trực tiếp lên cho ban kiểm soát hoặc hội đồng quản trị tức là cấp
cao hơn ban giám đốc.
Lª ThÞ Thu Giang Líp: KiÓm to¸n 47A
2
§Ò ¸n m«n häc GVHD:GS.TS. NguyÔn Quang Quynh
Ở các loại hình công ty khác, hoạt động kiểm toán nội bộ ít nhiều đã
hình thành khi các công ty thực hiện hệ thống quản lý chất lượng hay môi
trường (ISO). Các công ty có được chứng chỉ ISO bắt buộc phải thực hiện
đánh giá nội bộ (thực chất là kiểm toán nội bộ) ít nhất mỗi năm một lần về
mức độ tuân thủ các tiêu chuẩn ISO. Việc đánh giá này thường do một ban

hay một bộ phận - thường gọi là ban ISO hay ban đảm bảo chất lượng -
thực hiện và báo cáo lên tổng giám đốc. Tuy nhiên, do đánh giá nội bộ chỉ
giới hạn ở việc tuân thủ các tiêu chuẩn của ISO (chủ yếu về mặt thủ tục,
văn bản), nên hầu như không giúp cải tiến nhiều về hệ thống kiểm soát ở
công ty. Trong thực tế, nhiều doanh nghiệp thực hiện ISO đã nhận ra điều
này và đã thiết lập bộ phận đánh giá nội bộ ở cấp độ cao hơn, đầy đủ hơn
và thực chất hơn.
Để quản lý các tổ chức tín dụng, thống đốc ngân hàng nhà nước đã
đưa ra Quyết định số 37/2006/QĐ-NHNN ban hành quy chế kiểm toán nội
bộ của tổ chức tín dụng. Quyết định này quy định rõ về tổ chức hoạt
động,nhiệm vụ quyền hạn trách nhiệm của người làm kiểm toán nội bộ,
chính sách quy trình kiểm toán nội bộ, các chế độ và trách nhiệm của cơ
quan liên quan,…
Xu hướng thiết lập hệ thống kiểm toán nội bộ cũng sẽ phát triển trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam.
Các doanh nghiệp này đang ngày càng có đóng góp cao về doanh thu, lợi
nhuận đối với công ty mẹ ở nước ngoài. Và rất nhiều công ty mẹ đó đang
niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ hay ở các thị trường chứng khoán
lớn khác trên thế giới. Do đó, dần dần, các công ty nước ngoài ở Việt Nam
cũng buộc phải tuân thủ những quy định như Luật Sarbanes-Oxley của Mỹ,
tức là phải thực hiện kiểm toán nội bộ. Các công ty này sẽ ngày càng nhận
được nhiều chương trình kiểm toán nội bộ do công ty mẹ thực hiện hoặc sẽ
phải xây dựng bộ phận kiểm toán độc lập của riêng mình.
Lª ThÞ Thu Giang Líp: KiÓm to¸n 47A
2

×