Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

đặc điểm dịch tễ học, chẩn đoán và điều trị bệnh giun truyền qua đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (725.52 KB, 51 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh do nhiễm giun truyền qua đất (GTQĐ) là những bệnh do các loại
giun có thể thực hiện chu kỳ phát triển của chúng mà không cần có sự tham
gia của vật chủ trung gian (VCTG): sự phát triển của trứng và ấu trùng (AT)
xảy ra ở môi trường bên ngoài, ở ngoài cơ thể vật chủ (như giun đũa, giun tóc,
giun móc, giun lươn, giun kim) [11].
Nhiễm GTQĐ (Soil Transmitted Helminthes-STHs) là một trong những
bệnh phổ biến nhất ở những người sống trong điều kiện thiếu vệ sinh, ở
những quốc gia đang phát triển. Có khoảng hơn 300 triệu người nhiễm giun
nặng, hơn 150.000 các ca tử vong mỗi năm (Crompton 1999; Montresor và
cs, 2002). Nhiễm giun truyền qua đất ảnh hưởng tới sự phát triển về thể
chất, tinh thần và trí tuệ của con người, gây trở ngại đến sự phát triển kinh
tế (De Silva và cs, 2003). Gánh nặng của bệnh GTQĐ tác động một cách
mạn tính, âm ỉ, kéo dài ảnh hưởng tới sức khỏe và tình trạng dinh dưỡng
của vật chủ mà chúng ký sinh (Stephenson, Latham and Ottesen 2000;
Stoltzfus and others 1997).
Bệnh GTQĐ, phổ biến là giun đũa, giun tóc, giun móc Các bệnh giun
này có hầu hết ở các nước trên thế giới, nhưng tỷ lệ cao ở các nước có khí hậu
nhiệt đới và cận nhiệt đới. Theo thông báo của WHO (1987), ước tính khoảng
hơn một tỷ người trên thế giới nhiễm các loại giun này, khoảng 2 tỷ người có
yếu tố nguy cơ [87]. Sự nhiễm các loại giun này có liên quan chặt chẽ với tình
trạng cuộc sống thiếu thốn và nghèo nàn. Các bệnh giun này không những
phổ biến mà nó còn gây nhiều tác hại, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con
người, đặc biệt đối với trẻ em: làm giảm khả năng phát triển về thể chất, trí
tuệ, thậm chí còn là nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp dẫn đến tử vong.
Theo A. Montresor, D.W.T. Crompton (1998), có hơn 1 tỷ người nhiễm giun
đũa với ít nhất 60.000 người tử vong/năm; 1,4 tỷ người nhiễm giun tóc với
1
10.000 người tử vong/năm và 1,3 tỷ người nhiễm giun móc, mỏ với 65.000
người tử vong/năm [73].
Việt Nam là nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, là điều kiện thuận lợi


cho bệnh giun tồn tại và phát triển. Theo Ngô Chân (1992), trên 95% người
Việt Nam mang mầm bệnh giun sán [8], trong đó mỗi người nhiễm từ 1-3 loài
giun [40]. Vì vậy, việc nghiên cứu dịch tễ học, các phương pháp chẩn đoán,
điều trị, phòng bệnh GTQĐ là một trong những vấn đề cần được ưu tiên
trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng [28]. Nếu chỉ điều trị đơn thuần cũng làm
giảm rõ rệt tỷ lệ nhiễm (TLN) và cường độ nhiễm (CĐN) các loại giun, song
tỷ lệ (TL) tái nhiễm cao (51-68%) do môi trường vẫn bị ô nhiễm nặng nề [25].
Với mục đích bổ sung vào dẫn liệu về tình hình nhiễm, chẩn đoán và
điều trị bệnh GTQĐ, góp phần vào việc phòng chống bệnh giun sán tại
Việt Nam nói chung, chúng tôi thực hiện chuyên để này nhằm nội dung:
“Cập nhật tình hình dịch tễ học, chẩn đoán và điều trị bệnh giun truyền
qua đất trên thế giới và tại Việt Nam giai đoạn hiện nay chủ yếu là giun
đũa, giun tóc và giun móc”.
2
1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU BỆNH GIUN TRUYỀN QUA ĐẤT
Tuy không thấy những vết tích của giun sán trong những tầng địa chất cổ
xưa và trong các hóa thạch, do cấu tạo của cơ thể giun không bền vững nhưng
vẫn có thể khẳng định: giun sán là những ký sinh trùng (KST) có lịch sử xuất
hiện rất sớm [40].
1.1. Lịch sử nghiên cứu giun đũa
Giun đũa tuy đã được đề cập từ lâu trong lịch sử y học nhưng Edward
Tyson-một quý tộc người Anh là người đầu tiên chính thức mô tả vào năm
1683 [61]. Ông đã thấy giun ở ruột người với hình dạng giống như giun ở đất,
với tên ông đặt là “Lumbricus teres”. Sau đó các nhà khoa học khác đã đặt
nhiều tên khác nhau: Ascaris lumbricoides (Linnaeus, 1758), Lumbricoides
vulgaris (Merat, 1821)…Đến tận năm 1915, Ủy ban Quốc tế gồm 66 thành
viên của các nước đã chính thức xác nhận tên giun đũa trên danh mục động
vật học là Ascaris lumbricoides [61].
1.2. Lịch sử nghiên cứu giun tóc
Năm 1760, Wrisberg H.A và cộng sự đã phát hiện giun tóc ở ruột một

cháu gái 5 tuổi từ một vụ tả. Năm 1761, Roederes, Butter đã mô tả về hình
dạng và đặt tên là Trichuris. Sau đó với nhiều cách đặt tên khác nhau: Ascaris
trichiura (Linnaeus, 1771; Stiles, 1901), Trichocephalus hominis (Schrank,
1788)…Đến năm 1941, những Chuyên gia ký sinh trùng Châu Mỹ thống nhất
cách gọi tên là Trichuris trichiura [61].
1.3. Lịch sử nghiên cứu giun móc
Năm 1838, Dubini đã phát hiện ra giun móc trưởng thành trên một tử thi
phụ nữ người Milan. Năm 1843, ông đã mô tả tỉ mỉ về loại ký sinh trùng này
và đặt tên là Agchylostoma duodenale. Sau đó, nhiều tác giả khác ở Ai Cập
cũng đã phát hiện giun móc trên người và mô tả tỉ mỉ hơn.
3
Với nhiều tên gọi khác nhau: Ancylostoma duodenale (Creplin, 1845),
Uncinaria duodenale (Railliet, 1885)…Đến năm 1915, Ủy ban quốc tế gồm
66 nhà khoa học thống nhất cách gọi tên giun móc là Ancylostoma duodenale
trên danh mục động vật học [61].
Năm 1902, Stiles C.W đã mô tả một loại giun tròn giống với A.
duodenale, nhưng có cấu tạo khác nhau ít nhiều, ông đã mô tả và đặt tên là
Necator americanus [61].
Ở Việt Nam, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đã có những điều tra đầu
tiên ở người: đó là công trình của Mathis, Léger, Salamon, Nevew và
Maurriquand…Đặc biệt là công trình của Mathis, Léger (1911) đã điều tra cơ
bản, toàn diện về các loại giun đường ruột, tiếp đó là những nghiên cứu (NC)
điều trị bằng thuốc Tây y.
Sau năm 1954 đến nay, nhất là từ khi đất nước được thống nhất đã có rất
nhiều công trình NC trên lĩnh vực về các bệnh giun như: NC điều tra cơ bản,
NC về hình thể, đặc điểm sinh học, phân bố dịch tễ, bệnh học, phương pháp
(PP) phòng chống…[36], [42].
2. DỊCH TỄ HỌC BỆNH GIUN TRUYỀN QUA ĐẤT
2.1. Tác nhân gây bệnh
2.1.1. Bệnh giun đũa

Tác nhân gây bệnh giun đũa là giun đũa (Ascaris lumbricoides). Đó là
những giun tròn to, con cái dài 25-40 cm, con đực dài 15-24 cm.
Cấu tạo của giun đũa trưởng thành: Giun đũa trưởng thành hình ống, 2
đầu thon nhọn, màu trắng sữa hoặc hơi hồng. Bao bọc bên ngoài là lớp vỏ
cứng, chia thành những ngấn vòng quanh thân. Dưới lớp vỏ là lớp hạ bì cấu
tạo thành tủy môi, dưới lớp hạ bì là lớp cơ, bên trong là xoang thân. Đầu giun
đũa tận cùng bằng 3 môi bao quanh vùng miệng trong đó có 1 môi lưng và 2
4
môi bụng. Trên môi lưng có 2 núm môi, trên môi bụng có 1 núm môi. Đuôi
nhọn, hậu môn ở gần cuối đuôi sát với bụng. Con đực thường cong, có gai
sinh dục. Con cái đuôi hình nón thẳng. Con cái có lỗ sinh dục ở 1/3 dưới của
thân ở mặt bụng, ở vị trí này thân giun hơi thắt lại. Bộ phận sinh dục cái phát
triển gồm 2 ống chia làm 2 phần, phần đầu nhỏ coi như buồng trứng, phần sau
lớn dần được coi như ống dẫn trứng. Hai ống dẫn trứng đổ vào âm đạo. Bộ
phận sinh dục đực là một ống nhỏ, phần đầu nhỏ hơn có tác dụng như tinh
hoàn, phần sau to có tác dụng như ống dẫn tinh, cuối cùng là ống phóng tinh
đổ ra phía sau của lỗ hậu môn.
Hình 1. Hình ảnh giun đũa trưởng thành
Giun đũa khi ký sinh trong ruột non của người, đẻ ra trong một ngày
khoảng 245.000 trứng, các trứng này đều ở giai đoạn phôi chưa bắt đầu phát
triển và không có khả năng làm lây nhiễm cho người. Trứng chỉ là nhiễm cho
người ở giai đoạn nhiễm, nghĩa là trứng đã phát triển thành ấu trùng nằm sẵn
trong vỏ, người ta thường gọi là trứng đã chín. Trước giai đoạn nhiễm
(infectant), trứng chỉ có thể phát triển ở môi trường bên ngoài. Trứng cùng
với phân rơi vào đất, ở đó nó gặp các điều kiện thuận lợi như nhiệt độ thích
hợp, độ ẩm đầy đủ và oxy tự do. Trứng giun đũa có 2 loại:
* Trứng giun đũa đã được thụ tinh: Hình bầu dục hoặc hơi tròn, kích
thước trung bình 45-75 μm x 40-60 μm, vỏ dày, ngoài là lớp albumin xù xì,
bên trong là khối nhân mịn, màu vàng tươi. Ngoài ra còn gặp trứng giun đũa
5

đã thụ tinh bị bóc vở bán phần. Hình thể giống trứng đã thụ tinh, lớp vỏ ngoài
bị mất, chỉ còn lại một lớp vỏ dày, nhẵn không màu.
* Trứng giun đũa chưa được thụ tinh: Hình bầu dục, kích thước lớn hơn
trứng giun đũa đã được thụ tinh khoảng 90 μm. Vỏ có 2 lớp, ngoài là lớp
albumin xù xì, lớp vỏ trong mảnh hơn, bên trong chứa đầy hạt to, tròn, chiết
quang. Ngoài ra còn gặp trứng giun đũa chưa thụ tinh bị bóc vỏ bán phần mất
lớp albumin: hình thể giống trứng giun đũa chưa được thụ tinh, lớp vỏ ngoài
bị mất, chỉ có 1 vỏ nhẵn, mỏng có 2 đường viền, không màu, bên trong có các
hạt to, tròn, chiết quang.
Hình 2. Hình ảnh trứng giun đũa
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của trứng giun đũa:
* Điều kiện nhiệt độ: Nhiệt độ thuận lợi nhất mà trứng phát triển thành
ấu trùng nằm trong vỏ bọc là 25-30
0
C. Ở nhiệt độ này, sự phát triển được
hoàn thành trong vòng 10-15 ngày. Ở nhiệt độ thấp hơn, thời ký phát triển của
trứng thành AT kéo dài thêm.Ở nhiệt độ cao hơn, thời kỳ phát triển rút ngắn
lại. Giới hạn nhiệt độ chịu đựng được để trứng phát triển là 12-36
0
C. Nếu
nhiệt độ ở gần mức tối đa hoặc tối thiểu chịu đựng được thì chỉ có một tỷ lệ
nhỏ trứng phát triển được.
Trứng giun đũa chịu đựng được những tác động khác nhau của môi
trường bên ngoài. Trứng giun đũa bền vững nhất với nhiệt độ thấp. Trên thực
nghiệm làm lạnh đóng băng ở -1 đến 5 độ C cũng không ảnh hưởng đến sức
sống của trứng ở những giai đoạn phát triển khác nhau. Trứng giun đũa vẫn
6
còn sống, sau khi đã ở nhiệt độ âm 27
0
C trong 10 ngày. Do vậy, trong điều

kiện khí hậu ôn hòa, trứng giun đũa có thể trải qua mùa đông, khi thời tiết ấm
dần chúng sẽ phát triển sang giai đoạn nhiễm, làm cho người thường bị lây
vào mùa xuân. Trứng giun đũa chịu nhiệt độ kém. Sự phát triển của trứng bị
gián đoạn, tuy sức sống của chúng vẫn được duy trì ở 45
0
C trứng sống được
một giờ, ở 50
0
C chúng chết sau vài giây.
* Điều kiện ẩm ướt: Những điều kiện quan trọng nhất để trứng phát triển
là độ ẩm vừa đủ, tính chất của đất, độ xốp của đất; điều này tạo ra sự
thoáng khí làm cho oxy thấm được vào đất. Ở đất cát, sự bay hơi của khí
ẩm xảy ra nhanh chóng, trứng giun chết nhanh. Nhiệt độ càng cao thì càng
cần độ cao để trứng hoàn thành sự phát triển; nếu độ ẩm giảm đột ngột thì
trứng chết rất nhiều.
* Điều kiện cần có oxy tự do: Nếu không có oxy thì trứng giun đũa
không thể phát triển được, nhưng chúng vẫn còn sống 3 tháng trong mùa hè
và lâu hơn nữa trong mùa khác. Ở đáy các ao sâu, áp suất riêng phần thấp của
oxy làm cho trứng không phát triển được, trong những hồ ao nhỏ, sạch sẽ, nếu
có cây cỏ trong ao thì trứng giun đũa có thể hoàn thành sự phát triển được.
Trong thiên nhiên, khó tồn tại lâu dài những điều kiện thuận lợi để trứng giun
phát triển (dao động của nhiệt độ, độ ẩm và các điều kiện khí hậu địa lý).
Điều này sẽ kéo dài hoặc làm hạn chế sự phát triển của trứng giun.
2.1.2. Bệnh giun tóc
Tác nhân gây bệnh giun tóc là giun tóc (Trichocephalus trichiuris). Đó là
những giun tròn, nhỏ, con đực dài 2,5-3cm, con cái dài 4-5cm, có đuôi hình
xoắn ốc. Giun tóc sống ở manh tràng và những đoạn gần đó của ruột non và
ruộ già, bám vào thành ruột bằng đầu nhọn, nhỏ (như sợi tóc), xuyên sâu vào
lớp niêm mạc.
Cấu tạo cơ thể của giun tóc giống các loại giun khác, đuôi cong, đuôi con

đực có gai giao hợp.
7
Hình 3. Hình ảnh giun tóc trưởng thành
*Hình thể của trứng giun tóc: Trứng giun tóc hình bầu dục, hai cực có
hai nút trong. Vỏ dày có 2 lớp, kích thước 30x50μm, khi mới bài xuất bên
trong là một khối nhân có hạt, để lâu cố hình phôi dâu hoặc hình AT, màu
vàng sẫm.
Hình 4. Hình ảnh trứng giun tóc
Con cái đẻ khoảng 2.000 trứng/ngày, được thải ra cùng với phân ở giai
đoạn chưa phát triển hết. Sự phân chia của trứng và sự phát triển của AT đến
giai đoạn nhiễm xảy ra ở môi trường bên ngoài khi có các điều kiện thuận lợi.
Thời gian trứng chín là 15-120 ngày, tùy theo nhiệt độ (15-30
0
C) và độ ẩm
của đất. Ở nhiệt độ 35
0
C, quá trình này xảy ra nhanh hơn 11 ngày nhưng có
đến 50% trứng bị chết [11]. Ở nhiệt độ thấp hơn, thời gian phát triển của
trứng sẽ kéo dài (đến 19 ngày ở 25
0
C, 57 ngày ở 20
0
C). Để cho trứng chín
được ở môi trường bên ngoài có độ ẩm thích hợp, thì nhiệt độ của đất có một
ý nghĩa lớn. Điều kiện bắt buộc để trứng phát triển được là phải có oxy. Trong
8
môi trường không có oxy, trứng không phát triển nữa tuy vậy nó vẫn còn sống
được thêm một thời gian (10 ngày ở 30
0
C) và lâu hơn ở nhiệt độ thấp hơn.

Những trứng vừa mới đẻ ra rất nhạy cảm với sự thiếu oxy và khô hanh.
Trứng giun tóc sau một thời gian ở môi trường bên ngoài sẽ chịu được khô
hanh và ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp. Điều này là do tính chất của vỏ bọc
trứng, vỏ bọc này nếu ở ngoài càng lâu thì càng trở nên không thẩm thấu đối
với nước. Ngoài ra, màu nâu tự nhiên của trứng sẽ thẩm khi trứng ở trong
phân và làm cho trứng càng chịu đựng được bức xạ mặt trời. Do vậy, trứng
giun tóc bền vững hơn trứng giun đũa.
2.1.3. Bệnh giun móc
Tác nhân gây bệnh giun móc là giun móc (Ankylostoma duodenalis và
Necator americanus), giống nhau về mặt hình thái và mặt sinh học. Cả hai
loại đều là những giun tròn nhỏ, sống ở tá tràng. Chiều dài của giun cái
khoảng 1,0-1,8cm (Ankylostoma duodenlais) và 1,0-1,3cm (Necator
americanus) giun đực nhỏ hơn. Giun móc hình ống, màu trắng sữa, hơi hồng
hoặc có màu đỏ nếu đã hút máu.
Cấu tạo cơ quan: Đầu giun móc có bao miệng, hơi phình và cong về phía
mặt lưng. Miệng có 4 móc sắp xếp 2 bên cân đối. Hai bên bao miệng có tuyến
chất tiết chống đông máu. Thực quản tiếp nối với miệng chiếm 1/6 chiều dài
cơ thể, tiếp theo thực quản là ruột, hậu môn đổ ra phía bụng gần tận cùng
đuôi. Đuôi con cái thon nhọn, đuôi con đực xòe rộng, phần xòe của đuôi có
cốt cứng như chân ếch với hình dánh khác nhau. Bộ phận sinh dục phát triển,
con cái có 2 buồng trứng đổ vào ống sinh dục ở 1/3 giữa thân về phía bụng.
Con đực có tinh hoàn, ống dẫn tinh dẫn tới lỗ sinh dục ở hậu môn. Phần cuối
của bộ phận sinh dục là đôi gai sinh dục. Ngoài ra giun móc còn có thần kinh,
bài tiết phát triển đơn giản. Bao bọc bên ngoài là lớp vỏ cứng, dưới lớp vỏ là
lớp hạ bì, lớp cơ. Giun móc tuần hoàn bằng lớp xoang thân, sự trao đổi chất
diễn ra trong dịch xoang.
9

Hình 5. Hỉnh ảnh giun móc trưởng thành
* Hình thể của trứng giun móc: Trứng giun móc hình bầu dục, vỏ mỏng,

kích thước 50x60μm. Về cấu tạo, khi trứng mới bài xuất ra khỏi cơ thể có từ
4-8 nhân. Sau 4-8 giờ, trứng có hình phôi dâu. Sau 12-48 giờ, trứng có hình
ảnh ấu trùng. Trứng giun móc thường có màu xám nhạt, giữa nhân và vỏ có
khoảng trống sáng.
* Hình thể ấu trùng: Khi mới thoát vỏ, AT có kích thước dài 0,2-0,3mm,
chiều ngang 17-20μm. Thực quản có 2 ụ phình, giữa 2 ụ phình có một eo thắt
gọi là ấu trùng giai đoạn I. Ấu trùng giai đoạn II dài 0,4-0,5mm, chiều ngang
20μm. Thực quản có hình trụ. Ấu trùng giai đoạn III có kích thước lớn hơn
khoảng 560μm, chiều ngang 24μm.
Trứng theo phân ra ngoài, phát triển thành AT kho có nhiệt độ thích hợp,
độ ẩm cao và không khí. Nhiệt độ thuận lợi từ 15-35
0
C (tối thiểu 30-32
0
C). Ở
điều kiện này, sau 24-36 giờ thì AT chín và rời khỏi vỏ bọc. AT (larve) sống
ở trong đất bằng chất hữu cơ và lột xác hai lần trong vòng 5-10 ngày, từ AT
có túi phình ở thực quản (larve rhabditoide). AT strongyloide nếu gặp điều
kiện không thuận lợi ở môi trường bên ngoài, có thể có một vỏ bọc mỏng,
sáng óng ánh (AT có kén). AT strongyloide là AT nhiễm (invasive state)
nghĩa là có khả năng xâm nhập cơ thể người.
Trứng và AT giun móc chịu đựng rất kém những điều kiện bất lợi của
môi trường bên ngoài. Những AT có kén có sức chịu đựng tốt hơn và có thể
sống trong đất từ 3 tuần đến vài tháng ở nhiệt độ dưới 10
0
C và trên 50
0
C thì
10
chúng không phát triển được. Trứng và AT giun móc chịu đựng kém tác dụng

của các chất tẩy uế.
2.2. Vị trí phân loại
- Giun đũa: Thuộc nhóm giun tròn (Nematoda), lớp Sacernentea, bộ
Spirurida.
- Giun tóc: Thuộc nhóm giun tròn (Nematoda), lớp Adenophorea
(Aphasmidia).
- Giun móc: Thuộc nhóm giun tròn (Nematoda), lớp Sacernentea, bộ
Rhabditida.
2.3. Chu kỳ sinh học
2.3.1. Giun đũa
Sơ đồ 1. Chu kỳ sinh học của giun đũa
Cả giun đực và giun cái trưởng thành đều sống ký sinh ở ruột non, sau
khi giao hợp, giun cái sẽ đẻ trứng. Trứng theo phân ra ngoại cảnh, gặp điều
kiện thuận lợi (nhiệt độ, độ ẩm, oxy), trứng giun sẽ phát triển thành trứng
mang AT. Trứng có AT nhiễm vào người qua đường tiêu hóa. Khi vào tới dạ
dày, AT giun đũa thoát khỏi vỏ trứng nhờ sức co bóp của dạ dày và tác động
của dịch vị. AT xuống ruột non, chui qua các mao mạch ở ruột vào tĩnh mạch
mạc treo để đi về gan. Thời gian qua gan sau 3-7 ngày. Sau đó, AT đi theo
tĩnh mạch trên gan để vào tĩnh mạch chủ và vào tim phải. Từ tim phải, AT
theo động mạch phổi để vào phổi. Tại phổi, AT tiếp tục phát triển tới giai
11
đoạn IV rồi di chuyển theo các nhánh phế, khí quản để tới vùng hầu họng.
Khi người nuốt AT sẽ xuống đường tiêu hóa và dừng lại ở ruột non để phát
triển thành giun đũa trưởng thành.
Giai đoạn AT của giun đũa chu du trong cơ thể, có thể lạc chỗ và ở lại
các bộ phận hay ở các mô của cơ thể như: hạch bạch huyết, não, tủy. Tại
Bệnh viện Nam Hà (cũ) gặp giun đũa trưởng thành ở một ổ áp xe mông, Bệnh
viện Việt Đức gặp giun ở động mạch đùi sâu [40], [42]. Thời gian hoàn thành
chu kỳ giun đũa mất khỏng 65-70 ngày. Giun đũa trưởng thành sống trong cơ
thể người khoảng 12-13 tháng.

2.3.2. Giun tóc
Sơ đồ 2. Chu kỳ sinh học của giun tóc
Giun tóc đực và giun cái trưởng thành ký sinh ở đại tràng, chủ yếu ở
vùng manh tràng. Khi ký sinh, giun tóc cắm phần đầu vào niêm mạc ruột để
hút máu và phần đuôi của giun ở ngoài lòng ruột. Sau khi giao hợp, giun cái
đẻ trứng. Trứng theo phân ra ngoại cảnh, gặp điều kiện thuận lợi (nhiệt độ, độ
ẩm, oxy), trứng giun sẽ phát triển thành trứng mang AT.
Người ăn phải trứng giun tóc có AT lẫn trong rau, nước uống…trứng
qua miệng, thực quản tới dạ dày. Nhờ sức co bóp cơ học và tác dụng dịch
vị của dạ dày làm cho AT thoát khỏi vỏ trứng. Ấu trùng di chuyển thẳng
12
tới manh tràng để phát triển thành giun tóc trưởng thành. Thời gian hoàn
thành chu kỳ giun tóc khoảng 30 ngày. Giun tóc sống trong ruột người
khoảng 5-6 năm.
Ngoài lây nhiễm qua đường tiêu hóa, giun đũa và giun tóc còn có khả
năng nhiễm vào cơ thể qua đường hô hấp.
2.3.3. Giun móc
Sơ đồ 3. Chu kỳ sinh học của giun móc
Giun móc đực và cái trưởng thành ký sinh ở tá tràng, sau khi giao hợp,
giun cái sẽ đẻ trứng. Khi ký sinh phần đầu của ruột non, giun ngoạm vào niêm
mạc ruột để chiếm thức ăn và hút máu. Sau khi giun cái đẻ trứng, trứng theo
phân ra ngoại cảnh, gặp điều kiện thuận lợi (nhiệt độ, độ ẩm, oxy), trứng giun
sẽ phát triển thành trứng mang AT giai đoạn I sau 24 giờ, ấu trùng này phát
triển và lớn lên nhờ các chất hữu cơ ở trong đất thành ấu trùng giai đoạn III.
AT giai đoạn III có các hướng động đặc biệt có khả năng chui qua da vào
người. Ngoài những yếu tố nêu trên, tính chất thổ nhưỡng cũng có ảnh hưởng
tới sự phát triển của AT. Đất màu, phù sa ven sông, đất mùi tạo điều kiện
thuận lợi cho AT phát triển; đất mặn, đất mặn hạn chế sự phát triển của AT.
13
Sau khi xuyên qua da, AT theo đường tĩnh mạch về tim phải. Từ tim

phải, AT theo động mạch phổi để tới phổi. Từ phế nang, AT di chuyển theo
các nhánh phế quản tới khí quản rồi lên vùng hầu họng rồi được nuốt xuống
ruột. AT dừng lại ở tá tràng và phát triển thành giun móc trưởng thành. Thời
gian hoàn thành chu kỳ giun móc khoảng 3-4 tuần. Giun trưởng thành có thể
sống trong ruột người khoảng 10-15 năm.
Đối với Necator americanus chỉ nhiễm theo con đường qua da như trên.
Còn Ancylostoma duodenale ngoài con đường nhiễm qua da còn nhiễm qua
đường tiêu hóa: ấu trùng theo thực phẩm vào ruột non của người. Ở ruột ấu
trùng chui vào niêm mạc ruột, rồi chui ra lòng ruột để phát triển thành thể
trưởng thành (không có giai đoạn chu du). Tuy nhiên, một số AT trở nên
ngừng phát triển và ở tình trạng ngủ trong tổ chức (cơ hoặc ruột) một thời
gian dài (khoảng 200 ngày), trước khi chúng phát triển thành thể trưởng
thành. Trong trường hợp này thời gian từ khi nhiễm đến khi đẻ trứng sẽ kéo
dài, khoảng vài tháng [1], [75].
2.4. Quá trình truyền nhiễm giun truyền qua đất
2.4.1. Nguồn truyền nhiễm
2.4.1.1. Bệnh giun đũa
Nguồn tuyền nhiễm là người, đặc biệt là trẻ em.
2.4.1.2. Bệnh giun tóc
Nguồn truyền nhiễm của giun tóc là người, nhưng trứng giun tóc cần
phải chín ở trong đất, nghĩa là ngoài cơ thể. Do vậy, bệnh giun tóc không thể
lây bệnh từ người bệnh sang người lành bằng cách tiếp xúc trực tiếp [11].
2.4.1.3. Bệnh giun móc
Nguồn truyền nhiễm bệnh giun móc là người. Người mắc bệnh giun móc
giải phóng ra cùng với phân rất nhiều trứng, trứng nở thành AT sau 24 giờ, ở
trong đất, AT này phát triển thành “AT nhiễm” có khả năng xâm nhập vào cơ
thể sau 5-10 ngày.
14
2.4.2. Yếu tố truyền nhiễm
2.4.2.1. Bệnh giun đũa

Thường giun đũa phải trưởng thành ở ngoài cơ thể người. Điều này
quyết định các yếu tố truyền nhiễm, không thể có sự lây truyền trực tiếp từ
người sang người. Đất có ý nghĩa quan trọng nhất trong cơ chế truyền bệnh
giun đũa. Rau quả (rau sống, dưa chuột, hành…) bị nhiễm bẩn khi dùng phân
tươi để bón cây, cũng có thể truyền bệnh. Nước, ruồi giữ vai trò thứ yếu.
2.4.2.2. Bệnh giun tóc
Yếu tố truyền nhiễm cơ bản là đất và nước bị nhiễm trứng giun tóc. Ruồi
và tay bẩn cũng có một vai trò nhất định trong việc truyền bệnh.
2.4.2.3. Bệnh giun móc
Những yếu tố và sinh hoạt như sàn nhà bằng đất, đi chân đất, ăn rau quả
không rửa sạch, dùng phân tươi để bón cây…đều có một vai trò lớn trong việc
làm lây bệnh.
2.4.3. Khối cảm thụ
* Tuổi: Mọi lứa tuổi đều có thể nhiễm bệnh. Tuy nhiên, giun đũa thì trẻ
em mắc nhiều hơn.
* Giới: Không có sự khác nhau về giới trong nhiễm giun truyền qua đất.
* Nghề nghiệp: Do đặc điểm KST liên quan mật thiết với sinh địa cảnh,
tập quán canh tác…nên trong bệnh giun truyền qua đất có tính chất nghề
nghiệp rất rõ rệt ở một số bệnh: nông dân dễ nhiễm giun móc…
* Khả năng miễn dịch: Trẻ em tỷ lệ nhiễm giun đũa cao hơn và cường
độ nhiễm giun cao hơn người lớn trong đó có lý do miễn dịch.
2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến bệnh giun truyền qua đất
2.5.1. Yếu tố địa lý, khí hậu
Trứng giun đũa, tóc và móc không có khả năng phát triển trong cơ thể
người thành giun trưởng thành, muốn lây truyền được, chúng phải có một
15
giai đoạn phát triển ở ngoại cảnh. Các điều kiện thuận lợi cho sự sinh
trưởng và phát triển của trứng giun ở ngoại cảnh là: nhiệt độ, độ ẩm, oxy,
độ pH của đất…
- Nhiệt độ thích hợp cho trứng giun phát triển là 24-30

0
C. Với nhiệt độ
này, đối với trứng giun đũa, sau 12-15 ngày, đối với trứng giun tóc 17-30
ngày, trứng non phát triển thành trứng có ấu trùng và có khả năng lây nhiễm.
Riêng trứng giun móc chỉ sau 24 giờ đã nở thành ấu trùng [4]. Nếu nhiệt độ
thấp, thời gian phát triển trên sẽ kéo dài, có khi tới vài tháng, tỷ lệ trứng hỏng
lên cao, nhiệt độ càng cao, nhiệt độ càng cao làm trứng giun hỏng càng tăng.
Trứng giun đũa sẽ bị hủy hoại ở nhiệt độ trên 60
0
C và (-12
0
C), ở nhiệt độ 0
0
C
có thể vẫn tồn tại. Đối với trứng giun tóc, sẽ bị hỏng phần lớn khi nhiệt độ
trên 50
0
C. Đối với giun móc, nhiệt độ dưới 14
0
C hoặc trên 37
0
C sẽ không phát
triển.
- Độ ẩm từ 80% trở lên là điều kiện tốt để trứng giun phát triển.
- Oxy là yếu tố cần thiết cho trứng giun phát triển, khi trứng bị ngập sâu
dưới nước (>1m chiều sâu) dần dần sẽ bị hỏng. Vì vậy, trong hố xí nước,
trứng giun, áu trùng giun sẽ bị hỏng và chết [4], [32], [61]. Ở những vùng có
khí hậu lạnh, khô làm cho sự phát triển của trứng giun ở ngoại cảnh bị hạn
chế nhiều. Theo các kết quả nghiên cứu, sự tồn tại của trứng giun ở ngoại ô
Mát-xít-cơ-va [14], [76] thì qua mùa lạnh số trứng giun đũa sống sót lại chỉ

còn 1-2%, đến tháng 4 hoặc tháng 5 năm sau mới có điều kiện phát triển
thành AT.
- Chất đất cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của ấu trùng giun như: đất
cát, vùng ven biển, hầm mỏ và các đường hầm nơi mà nhiệt độ và độ ẩm cao
là điều kiện rất thuận lợi cho AT, trứng giun phát triển, đặc biệt là AT trứng
giun móc [4], [9], [20]. Chính vì vậy, những vùng có điều kiện địa lý, khí hậu
khác nhau thì tỷ lệ nhiễm giun khác nhau. Ở Đông Nam Á nói chung, Việt
16
Nam nói riêng có điều kiện địa lý, khí hậu rất thuận lợi cho sự phát triển của
trứng và AT giun, đặc biệt những vùng nông thôn, vùng trồng màu, vùng mỏ.
- Mật độ dân số cao ở những thành phố, thị trấn, đồng bằng tạo điều kiện
thuận lợi lan truyền bệnh giun sán giữa người với người [42].
2.5.2. Yếu tố về con người
Người là vật chủ của giun đũa, giun tóc, giun móc nên những điều kiện
về địa lý, khí hậu chỉ đủ điều kiện cho trứng giun và AT giun tồn tại và phát
triển ở ngoại cảnh. Trứng giun và AT giun sẽ không tồn tại sau một thời gian
nếu như không được nguồn truyền nhiễm bổ sung thêm mầm bệnh. Từ môi
trường, trứng hoặc AT giun có thể vào được cơ thể con người hay không, phụ
thuộc rất nhiều vào yếu tố liên quan đến đời sống sinh hoạt của con người. Tỷ
lệ người nhiễm sẽ giảm đi rất nhiều, nếu như không bị tái nhiễm vì giun có
thời gian sống ở ruột người một thời gian nhất định [24], [43]. Những điều
kiện đã góp phần ảnh hưởng vào quá trình này là:
- Quản lý phân người chưa chặt chẽ:
+ Việc sử dụng phân người làm phân bón, trong khi đó phân chưa được
ủ hay chưa được xư lý.
+ Sử dụng hố xí không hợp vệ sinh.
+ Thói quen phóng uế bừa bãi ra môi trường xung quanh, những nguồn
phân này là một khối lượng mầm bệnh khổng lồ thường xuyên gieo rắc ra
ngoại cảnh. Tiềm năng sinh sản của mỗi loài giun cái rất cao: khoảng 24 vạn
trứng/ngày/con đối với giun đũa, 2000 trứng/ngày/con đối với giun tóc, 9000-

30.000 trứng/ngày/con đối với giun móc [1], [4], [61]. Tuy nhiên, nếu phân
người được xử lý trước khi đme bón cho cây trồng hoặc xây dựng và sử dụng
các loại hố xí hợp vệ sinh thì nguy cơ lan truyền bệnh sẽ giảm đi rất nhiều.
- Do một số thói quen trong ăn uống, sinh hoạt chưa hợp vệ sinh: Như ăn
rau, quả sống chưa rửa sạch, không rửa tay trước khi ăn và sau khi đi đại tiện,
không sử dụng bảo hộ lao động khi tiếp xúc với đất, phân…Trong cộng đồng,
17
với những thói quen thiếu vệ sinh trên đã tạo thành một vòng các mắt xích
khép kín, thuận lợi cho sự lây nhiễm bệnh.
Qua kết quả điều tra sự ô nhiễm môi trường ở ngoại cảnh: 75-100% mẫu
đất có trứng giun, 60-80% mẫu rau có trứng giun không những thế nguồn
trứng còn có ngay trong bụi bặm, ở sàn nhà, sàn lớp học, bàn học sinh [4],
[24], [34], [35].
TLN trứng giun ở đất tại Bắc Giang là 60% đối với trứng giun đũa, 5,2%
đối với trứng giun mỏ [29].
Ở Lạng Sơn, Lai Châu có 35-42% mẫu đất nhiễm trứng giun đũa [16].
Trong số mẫu đất xét nghiệm, mẫu đất trong nhà có TLN trứng giun đũa
cao nhất (93,3%( [42].
Trứng giun tóc trong đất chiếm 16,6% [4].CĐN trứng giun dao động
khoảng 1,4-127 trứng/100 gam đất [26].
Tại Quảng Ninh: ở ngoại thành có 16 trứng giun mỏ/100 gam đất, ở gần
hố xí có 40 trứng giun mỏ/100 gam đất, ở trung du có 01 trứng giun mỏ/12
gam đất, ở miền núi có 01 trứng giun mỏ/580 gam đất. Đối với trứng giun
móc ở giếng đất, 55,5% mẫu nước có trứng giun mỏ và 01 trứng giun mỏ/1,7
lít nước giếng đất [45].
Đối với giun tóc ở phân ủ 30% có trứng chưa bị hủy; 2,4% có ở trên
ruồi; 65% ở rau và 18% ở đất [15], [34].
2.6. Tình hình mắc bệnh giun truyền qua đất
2.6.1. Tình hình mắc bệnh giun truyền qua đất trên thế giới
Năm 1987, trên thế giới có 900-1000 triệu người nhiễm giun đũa, 500-

700 triệu người nhiễm giun tóc và giun móc.
Năm 1991, trên thế giới ước tính có khoảng hơn 1 tỷ người nhiễm giun
đũa, 800-900 triệu người nhiễm giun móc trong đó: 685 triệu người Đông
Nam Á, 132 triệu người ở Châu Phi, 104 triệu người ở Trung Nam Mỹ [75].
18
Theo Later Chan và cs (1994), trên thế giới có 1.471 triệu người nhiễm
giun đũa, 1.048 triệu người nhiễm giun tóc và 1.297 triệu người nhiễm giun
móc, mỏ [59].
Theo Carlo Urbani (1998), trên thê giới có khoảng 1,4 tỷ người nhiễm
giun đũa, 1,4 tỷ người nhiễm giun tóc và 1,3 tỷ người nhiễm giun móc [75].
2.6.1.1. Tình hình nhiễm giun đũa
Giun đũa phân bố rộng khắp trên thế giới nhưng không đều. Những nước
có nền kinh tế thấp, trình độ văn hóa lạc hậu…thường có tỷ lệ nhiễm cao. Vì
vậy Schullz gọi bệnh giun đũa là “vấn đề bị quên lãng ở những dân tộc bị
quên lãng” [39]. TLN giun đũa ở một số nước Tây Phi (51,0%), Đông Phi
(29-44%), Cu Ba (20%), Pháp (8,2%), Mỹ (16,5%) [42]. Châu Á có TLN
giun đũa cao nhất (70%) [92].
Theo Sturchler D., ở những nước có TLN giun đũa từ 50% trở lên trong
những năm 80 là: Ấn Độ, Banglades, Mianma, Indonesia, Malaysia,
Philippine, Trung Quốcm Kenya, các nước Tây Phi, Thổ Nhĩ Kỳ, I-ran,
Afganistan, Brazil, Colombia, Mexico, Peru [38].
2.6.1.2. Tình hình nhiễm giun tóc
Giun tóc có sinh thái giống giun đũa nên phân bố bệnh và TL bệnh của
giun tóc tương tự giun đũa, một số nước nhiệt đới có TLN tới 90%, một số
nước vùng ôn đới có TLN rất thấp [4].
2.6.1.3. Tình hình nhiễm giun móc (Gồm Ancylostoma duodenale và Necator
americanus)
Ancylostoma duodenale và Necator americanus có đặc điểm sinh thái
hoàn toàn giống nhau, chỉ khác nhau một số chi tiết nhỏ về hình thể. Bệnh
giun móc phổ biến ở hấu hết các nước trên thế giới, chủ yếu ở các nước nhiệt

đới từ 45
0
vĩ Bắc đến 30
0
vĩ Nam như: Châu Phi, Nam Á, Đông Nam Á và
một số nước Châu Âu.
19
Ancylostoma duodenale phân bố chủ yếu ở phía Bắc các nước nhiệt đới
và Tây Nam Á [2], [6]. Necator americanus chủ yếu phân bố ở Châu Phí,
vùng cận sa mạc Sahara, miền Đông Ấn Độ, Đông Nam Á [3], [6].
Phân bố của giun móc phụ thuộc vào thổ nhưỡng, phong tục tập quán,
nghề nghiệp và sự phát triển kinh tế. Châu Âu, những khu vực công nghiệp
hầm mỏ thường có tỷ lệ nhiễm cao: Tây Ban Nha (34%), Italia (40%) [40].
Các nước khu vực Đông Nam Á, tỷ lệ nhiễm phụ thuộc vào từng nước,
từng khu vực: Singapor (0,3-6,1%), Lào (2-31%), Campuchia (35-56%),
Đông Nam Trung Quốc (52,5%) [65], [66], [90].
2.6.2. Tình hình mắc bệnh giun truyền qua đất tại Việt Nam
Việt Nam ở vùng Đông Nam Châu Á, có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, mặt
khác có nền kinh tế chưa phát triển, còn nhiều phong tục, tập quán lạc
hậu Tất cả những yếu tố trên đã tạo điều kiện cho bệnh giun sán tồn tại và
phát triển.
Theo kết quả tổng hợp một số số liệu điều tra từ năm 2006-2010 của
Viện SR-KST-CT Trung ương cho thấy TLN chung của các bệnh GTQĐ ở
cộng đồng tại vùng Trung du và miền núi phía Bắc khoảng 65,3%, đồng bằng
Sông Hồng là 58,2%, Bắc Trung Bộ và Duyên Hải miền Trung là 42,2%, Tây
Nguyên 30,2%, Đông Nam Bộ 29% và Đồng bằng Sông Cửu Long khoảng
12-14% [22].
2.6.2.1. Tình hình nhiễm giun đũa
Sự phân bố của bệnh giun đũa ở Việt Nam qua nhiều những công trình
nghiên cứu, qua các điều tra cơ bản các tác giả thấy nổi bật lên những điều

sau: Bệnh giun đũa là bệnh phổ biến, tỷ lệ nhiễm cao hơn hẳn các bệnh giun
sán khác, TL chung khoảng 80%. Tuy phân bố rộng khắp nhưng TL không
đồng đều giữa các khu vực khác nhau, ở đồng bằng có TLN cao nhất. TLN
cao nhưng cường độ nhiễm không cao, đa số các vùng điều tra có trung bình
dưới15.000 trứng/gam phân. Mọi lứa tuổi đều nhiễm giun đũa, lưa tuổi cao
20
nhất là 5-9 tuổi. Không có sự khác nhau về CĐN và TLN giữa nam và nữ.
Nhiễm giun đũa phối hợp với nhiễm nhiều loại giun khác rất phổ biến (89%).
Tình trạng tái nhiễm rất nghiêm trọng, sau 6 tháng TL tái nhiễm là 68%. TLN
giun đũa có khuynh hướng tăng lên ở miền núi và miền Nam, do di dân từ
miền xuôi đến tất cả các vùng kinh tế mới, mang theo cả tập quán dùng phân
tươi bón ruộng. Về mùa nhiễm, qua xét nghiệm ở miền Bắc, xác định TL
trứng giun đũa phát triển đến giai đoạn nhiễm cho thấy: tháng 5&9 có khả
năng nhiễm cao nhất [26].
2.6.2.2. Tình hình nhiễm giun tóc
Do chu kỳ của giun tóc giống giun đũa, do trứng cũng có vỏ dày, có sức
đề kháng giống giun đũa, nên phân bố bệnh giun tóc ở Việt Nam có những
đặc điểm tương tự giun đũa [25]. TLN và CĐN giun tóc thấp hơn giun đũa,
TLN chung khoảng 52% [36]. Số lượng trứng trung bình/gam phân dưới 1000
trứng ở đa số các vùng được điều tra. Về lứa tuổi nhiễm bệnh, trẻ em dưới 1
tuổi hầu như không bị nhiễm giun tóc. Như vậy, bệnh giun tóc không nhiễm
sớm như bệnh giun đũa, nguyên nhân có thể do giun tóc có mật độ khuếch tán
ngoại cảnh thấp hơn so với giun đũa; lứa tuổi 2-3 tuổi vẫn có mức độ nhiễm
giun tóc thấp, như vậy chứng tỏ giun tóc thường nhiễm muộn; ở lứa tuổi trên
3 tuổi bệnh giun tóc tuy tăng dần theo tuổi nhưng không có hiện tượng tăng
vọt và đột biến; ở lứa tuổi cao hơn 35-60 tuổi, bệnh giun tóc chưa có những
biểu hiện giảm TL bệnh. Điều này chứng tỏ tuổi thọ của giun tóc dài hơn
nhiều so với giun đũa nên bệnh khó tự hết và không có hiện tượng giảm bệnh
tự nhiên theo tuổi. TL tái nhiễm giun tóc thấp hơn, sau 6 tháng điều trị TL tái
nhiễm khoảng 51%.

2.6.2.3. Tình hình nhiễm giun móc
Việt Nam được xếp vào vùng lưu hành giun móc trên thế giới. Qua điều
tra các tác giả đều có một số nhận xét: TLN giun móc khá cao, dứng hàng thứ
2 sau giun đũa: Phạm Tử Dương (81-83%, 1957), Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-
21
Côn trùng Trung ương (32,1-53,3%, 1960-1970), Phạm Văn Thân (30-40%,
1967-1972). CĐN giun móc bình thường nhìn chung không cao, đa số ở các
vùng điều tra số trứng trung bình trên 1 gam phân dưới 1000 trứng.
Nguyên nhân của sự phân bổ TL ở các vùng khác nhau là do tính chất
thổ nhưỡng, điều kiện vệ sinh và canh tác ở từng vùng khác nhau. Nghề
nghiệp ảnh hưởng lớn đến nhiễm giun móc: Nông dân có TLN cao hơn ngư
dân (76% so với 55%) [30]; Người trồng rau màu cao hơn trồng lúa (69% so
với 22%), nông thôn cao hơn thành thị, công nhân mỏ than cao hơn các nghề
khác [26], [40], [44].
Nhiễm giun móc liên quan rõ rệt với tuổi: TL và CĐN tăng dần theo
tuổi, trẻ em thấp hơn người lớn (44% so với 64%), do họ phải lao động nhiều,
tiếp xúc nhiều với phân và đất [30], [31], [40]. Liên quan về giới: tỷ lệ nhiễm
ở nữ cao hơn ở nam, nhưng sự khác biệt này chỉ có ở người lớn độ tuổi lao
động, đặc biệt những phụ nữ ở những vùng nông thôn còn dùng phân tươi
trong canh tác có tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm cao hơn phụ nữ các vùng
không dùng phân tươi bòn ruộng [4], [10].
Nhiễm giun móc thường phối hợp với các loại giun khác (50-70%). Tỷ lệ
và cường độ tái nhiễm thấp hơn giun đũa và giun tóc, sau 6 tháng điều trị, tỷ
lệ tái nhiễm là 4,4%, đây đặc điểm rất quan trọng trong phòng chống bệnh
giun móc, sẽ cho chúng ta kết quả tốt. Bệnh nhiễm giun móc vẫn giữ tinh chất
khu trú ở từng địa phương, song có xu hướng giảm ở nhiều vùng do ngày
càng phát triển tập quán di giầy dép nhiều hơn. Mùa nhiễm bệnh: qua xét
nghiệm đất tìm ấu trùng giun móc hàng tháng tại một điểm ở miền Bắc thấy,
tháng 4&7 có khả năng nhiễm cao nhất.
Theo Cao Bá Lợi (2010), nghiên cứu cho thấy: TLN giun móc/mỏ ở nữ

công nhân ba nông trường chè là 49,9%, CĐN trung bình là 734±54,4
trứng/gam phân [27].
22
Tác giả Nguyễn Thị Việt Hòa và cs (2011), nghiên cứu tại một số xã của
tỉnh Bắc Giang từ 2005-2009 kết quả cho thấy: TLN KST chung là 55,2%,
trong đó giun đũa (43,1%), giun tóc (21,7%), giun móc (3,0%). TLN giun
giảm sau 3 lần điều trị từ 45,4% xuống còn 25,5% [19].
Theo Nguyễn Sơn (2011), TLN giun chung là 49,5-95,4%, trung bình
61,1%, trong đó: giun đũa (36,8-87,5%), giun tóc (4,0-35,5%), giun móc (2,9-
11,8%) [37].
Theo Nguyễn Võ Hinh và cs (2011), TLN giun chung của học sinh 27
trường tiểu học của tỉnh Thừa Thiên Huế (2005-2008) là 7,94%, trong đó:
giun đũa (2,55%), giun tóc (2,96%), giun móc (3,24%) [17].
Theo Nguyễn Trọng Phú và cs (2007), TLN giun chung là 91,0%, trong
đó TLN giun đũa là 66,3%, giun tóc là 63,9%, giun móc là 57,9% [33].
2.7. Tác hại của bệnh giun truyền qua đất
2.7.1. Tác hại của giun đũa
2.7.1.1. Tác hại gây ra do ấu trùng giun đũa
Trong giai đoạn chu du, AT giun đũa gây tổn thương những cơ quan, tổ
chức mà AT đi qua, biểu hiện rõ hơn cả là phổi với hội chứng Loeffler. Tại
đây, AT gây tổn thương phế nang, chảy máu đồng thời gây viêm, dị ứng…
làm cho người bị nhiễm AT giun có biểu hiện ho khan, đau ngực, bạch cầu ái
toan (BCAT) tăng cao trong máu.
Ở Việt Nam, Đặng Văn Ấn, Đỗ Dương Thái, Phạm Trí Tuệ đã NC
hội chứng này bằng thực nghiệm trên người tự nguyện và đi tới nhận định
rằng [41]:
- Nếu nhiễm AT giun đũa, hội chứng Loeffler nhất định sẽ xảy ra ngày
thứ 7 đến ngày thứ 10.
- Mức độ của hội chứng phụ thuộc vào cơ địa bệnh nhân, triệu chứng
rầm rộ trên những người có cơ địa dị ứng.

- Hội chứng tổn thương khác với mô tả của các tác giả cổ điển như sau:
23
+ Tổn thương không nhất thiết khu trú ở vùng dưới đòn hoặc không nhát
thiết giống hình ảnh thâm nhiễm của lao.
+ Các thương tổn giống bệnh cảnh phế quản, phế viêm, bệnh nhân ho
nhiều không sốt.
+ BCAT tăng từ 14-27%.
+ Điện tâm đồ bình thường.
+ Từ ngày thứ 18, triệu chứng bứt đầu giảm và sau 22-28 ngày hội
chứng Loeffler mất hoàn toàn.
- Nguyên nhân của những tổn thương, thống nhất như các tài liệu cổ điển
là do tác động cơ học kích thích của ấu trùng giun đũa và mặt khác do tính
chất gây độc và dị ứng.
2.7.1.2. Tác hại gây ra do giun đũa trưởng thành
Giun đũa trưởng thành trực tiếp chiếm chất dinh dưỡng, gây rối loạn
chuyển hóa và tác động cơ học gây nên biến chứng ngoại khoa nguy hiểm.
NC trẻ em nhiễm giun đũa, với số lượng trung bình 26 giun/người, chế
độ ăn hàng ngày từ 35-50 gam protein, kết quả cho thấy: các em mất đi 4 gam
protein/ngày. Trong những trường hợp nhiễm nhiều giun còn gây rối loạn
chuyển hóa protein [55], [93].
Trẻ suy dinh dưỡng ở nhóm trẻ bị nhiễm giun đũa là 49%, ở nhóm trẻ
không bị nhiễm giun là 32% [79]. Trên những trẻ nhiễm giun đũa sau khi tẩy
giun có cân nặng (theo tuổi) và chiều cao (theo tuổi) tăng hơn so với nhóm
không được điều trị là 0,93kg và 0,65cm [84].
Tripathy và cs NC trên 12 trẻ em từ 5-10 tuổi bị nhiễm giun đũa, với số
lượng giun trung bình 48 con/người, kết quả cho thấy: 7,2% nitrogen và
13,4% chất mỡ bị mất do giun, kết quả này phù hợp với nghiên cứu của
Brown [54], [85] .
Sivalumar và Reddy NC trên 11 trẻ em thấy có 6 em nhiễm giun đũa chỉ
hấp thu được 80% liều viatmin A được uống, 5 em không nhiễm giun hấp thu

24
được 99% lượng vitamin A, sau khi tẩy giun cho các em, theo dõi khả năng
hấp thu vitamin A tăng lên rõ rệt. Kết quả này phù hợp với NC của
Tanumigardjo S.A và cs [83].
Để NC khả năng chiếm vitamin A của giun đũa, Mahalanabis tiến hành
NC trên 28 người nhiễm giun đũa, thấy nồng độ vitamin A trong máu ở mức
thấp hơn so với 10 người trứng (không nhiễm giun). Sau đó tẩy giun cho 14
người, theo dõi nồng độ vitamin A trong máu tăng lên rõ rệt [68].
Kết qủa NC của Carrera và cs thấy những người nhiễm giun đũa khả
năng tiêu hóa Lactose bị giảm sút [58].
Một NC cho thấy, mặc dù nhiễm giun đũa không dẫn đến giảm hấp thu
sắt nhưng nó đã ảnh hưởng đến hấp thu sắt ở những người có đồng thời thiếu
sắt [66].
NC trên những trẻ em nhiễm giun đũa, thấy TL thiếu máu của những trẻ
này là 12,3% hoặc 19,4% [23], [67].
Kết quả NC trên ruột lợn bị nhiễm giun Ascaris suum, dưới kính hiển vi
điện tử cho thấy:
- Có hiện tượng phì đại lớp cơ niêm mạc ruột non, hiện tượng sói mòn
nhu mô niêm mạc ruột, có sự xâm nhập của tế bào mastocyte, tế bào BCAT
và các tế bào đa sản cho các tổ chức tế bào ruột [62], [81].
- Các tổn thương không xảy ra trên toàn bộ bề mặt niêm mạc ruột, chỉ
thấy từng vùng niêm mạc ruột thay đổi, hình thái cao, thấp, phì đại, đặc biệt
xuất hiện các điểm như là tổn thương niêm mạc ruột [70].
Tác động cơ học của giun đũa gây ra những biến chứng nguy hiểm
thường do sự di chuyển của giun hoặc do búi giun cuộn vào nhau gây tắc ruột.
Sự di chuyển của giun do pH của ruột thay đổi, do thuốc làm giun bị kích
động, do người bị sốt cao, do ăn các chất kích thích (ớt, tỏi…).Theo một số
tác giả hiện tượng di chuyển của giun do nhiều giun hơn là trong trường hợp
chỉ có một con giun hoặc có nhiều loại giun [6], [57]. Sự di chuyển của giun
25

×