Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

đề cương môn tổ chức bộ máy nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.33 KB, 36 trang )

Câu 1: Phân tích nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam theo HP 1992(sửa đổi, bổ
sung)
Trả lời:
Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp năm 2013,
đây là sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng của đất nước. Hiến pháp thể hiện
những nội dung mới quan trọng nhằm thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; quy định đầy đủ, rõ nét về chủ thể là
Nhân dân trong Hiến pháp, về quyền lực của Nhà nước thuộc về Nhân dân.
Nguyên tắc được thể hiện qua các nội dung đó là:
- Nhân dân tham gia kiểm soát hoạt động của bộ máy nhà nước:
+ Thứ nhất, ngay Lời nói đầu Hiến pháp 2013 thể hiện: " Nhân dân Việt Nam
xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh" đã thể hiện rõ trách nhiệm của nhân dân trong việc xây
dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp. Điều 2 Hiến pháp năm 2013, đã thể hiện nhất
quán quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đề cao quyền làm chủ của nhân dân
trong Hiến pháp là nhà nước của dân, do dân và vì dân, đồng thời thể hiện đất nước
Việt Nam là do chính nhân dân làm chủ, nhân dân là chủ thể quan trọng trong xây
dựng và bảo vệ đất nước. Lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 từ Nhân dân được viết
hoa, đây không phải đơn thuần là cách thể hiện từ ngữ mà là diễn đạt ý nghĩa của
một chủ thể quan trọng của đất nước theo tư tưởng của Bác Hồ. Người viết:
“Nước ta là nước dân chủ,
Bao nhiêu lợi ích đều là vì dân,
Công việc đổi mới và xây dựng là trách nhiệm của dân,
Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra,
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên,
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Chính vì lẽ đó mà từ Nhân dân được viết hoa là thể hiện đầy đủ và sâu sắc tư tưởng
của Bác Hồ về vai trò của Nhân dân.
+ Thứ hai, khoản 2 Điều 4 Hiến pháp năm 2013, đây là điểm bổ sung mới quan
trọng, vì vai trò làm chủ của Nhân dân đối với nước, Nhân dân giao phó trách


nhiệm cho Đảng để lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Vì vậy, Đảng phải chịu sự giám
sát và chịu trách nhiệm trước nhân dân trong việc lãnh đạo của mình.
- Nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia xây dựng bộ máy nhà nước :
+ Thứ nhất, tại Điều 6 Hiến pháp năm 2013, quy định đa dang hơn về thực hiện
quyền lực của Nhân dân so với Hiến pháp năm 1992, đặc biệt thể hiện quyền lực
nhà nước bằng dân chủ trực tiếp đã làm rõ hơn, sâu sắc hơn vai trò làm chủ của
Nhân dân.
+ Thứ hai, Điều 53 Hiến pháp năm 2013, đã khẳng định quyền sở hữu của Nhân
dân và Nhân dân ủy quyền cho Nhà nước đại diện Nhân dân để sở hữu và thống
nhất quản lý, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về việc quản lý tài sản do Nhân dân
ủy quyền.
+ Thứ ba, Điều 65 Hiến pháp năm 2013, thể hiện trách nhiệm của lực lượng vũ
trang là tuyệt đối trung thành với Nhân dân và trước hết là phải bảo vệ Nhân dân là
một chủ thể làm chủ đất nước, sau đó là bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội
chủ nghĩa.
+ Thứ tư, Điều 69 Hiến pháp năm 2013, đã nhấn mạnh vai trò của Nhân dân là chủ
thể tối cao của quyền lực Nhà nước, tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về Nhân
dân. Nhân dân ủy thác thực hiện quyền lực cao nhất cho Quốc hội để thực hiện
quyền lập hiến như đề xuất sửa đổi Hiến pháp, thành lập Ủy ban dự thảo Hiến
pháp, thảo luận và biểu quyết thông qua Hiến pháp, khi có ít nhất 2/3 tổng số đại
biểu Quốc hội biểu quyết tán thành; việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc
hội quyết định
- Nhà nước thừa nhận và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân:
+ Lần đầu tiên trong Hiến pháp năm 2013 ghi nhận quyền con người, quyền cơ bản
của công dân tại chương II, đặt trang trọng sau chương I quy định về chế độ chính
trị. Hiến pháp năm 2013 đã có những nhận thức mới về đề cao nhân tố con người,
coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.
+ Điều 14 Hiến pháp năm 2013, đây là những nguyên tắc căn bản đề cao trách
nhiệm của Nhà nước trong mối quan hệ với quyền con người, quyền công dân, là

cơ sở hiến định để mọi người và công dân bảo vệ và thực hiện quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Ngoài việc thể hiện quyền làm chủ của
Nhân dân trong Hiến pháp, còn thể hiện các cam kết của Việt Nam trong việc thực
hiện các điều ước quốc tế liên quan đến quyền con người mà Việt Nam là thành
viên.
 Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện nhất quán tư tưởng của Bác Hồ, của Đảng
về vị trí, vai trò của Nhân dân trong lịch sử đấu tranh, xây dựng và bảo vệ
đất nước trải qua mấy ngàn năm lịch sử. Tư tưởng lấy dân làm gốc của Bác
Hồ đã được lịch sử chứng minh qua các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc,
chính vì vậy, Hiến pháp năm 2013 là sự kết tinh và thể hiện tính đúng đắn về
quyền làm chủ của Nhân dân đối với đất nước, hướng đến mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh mà Đảng, Nhà nước và
Nhân dân đã lựa chọn
Câu 2: Trình bày vai trò của việc đảm bảo pháp chế của xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam?
Trả lời:
Về vai trò, pháp luật XHCN có 5 vai trò.
Một là pháp luật là phương tiện quan trọng và chủ yếu để xây dựng chế độ mới,
là công cụ chủ yếu để nhà nước XHCN thực hiện nhiệm vụ quản lý mọi mặt đối
với đời sống XH.
Hai là pháp luật XHCN là cơ sở để xây dựng hoàn thiện bộ máy nhà nước, để
nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước.
Ba là pháp luật XHCN là phương tiện quan trọng để thực hiện quyền lực nhân
dân, đảm bảo phát huy dân chủ.
Bốn là pháp luật XHCN là phương tiện quan trọng để thông qua đó, Đảng Cộng
sản thực hiện sự lãnh đạo đối với nhà nước và đối với toàn xã hội.
Năm là vai trò của pháp luật XHCN còn được thể hiện rõ trong các mối quan hệ
giữa pháp luật – kinh tế, pháp luật – xã hội, pháp luật - hệ thống chính trị, pháp luật
– đạo đức tư tưởng.
Trong thời gian qua, do yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, vai trò của

pháp luật ngày càng được coi trọng trong đời sống xã hội. Cùng thời gian ấy, nước
ta đã xây dựng được một số lượng lớn các văn bản pháp luật, trước hết là Hiến
pháp năm 1992 - hiến pháp của thời kỳ đổi mới đất nước. Tiếp đó là hàng loạt bộ
luật , đạo luật ra đời. Có thể nói, số lượng các bộ luật và đạo luật được ban hành
trong thời kỳ đổi mới nhiều hơn số lượng văn bản pháp luật của mấy chục năm
trước đây. Kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Nhờ đó, đã tạo ra cơ
sở pháp lý thúc đẩy quá trình hình thành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
thúc đẩy quá trình phát triển nền dân chủ XHCN, hoàn thiện nhà nước, mở rộng
quan hệ đối ngoại .
Câu 1: quan điểm về đổi mới hoạt động của quốc hội,hội đồng nhân dân
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xhcn Việt Nam
• Quốc hội:
Thực tiễn tổ chức và hoạt động của Quốc hội khóa XII Quốc hội khóa XII
được bầu ra và hoạt động trong điều kiện sau 20 năm đổi mới, đất nước ta
đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng đây cũng là thời điểm kinh tế -
xã hội trong nước và trên thế giới vừa thuận lợi, vừa khó khăn, tiềm ẩn
những yếu tố phức tạp. Đặc điểm nổi bật của giai đoạn này là kinh tế thế
giới có nhiều biến động tiêu cực; quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế
được mở rộng; khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ; xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN trở thành một nhiệm vụ chiến lược; cả nước bước
vào thực hiện kế hoạch 5 năm (2006-2010) và chiến lược phát triển kinh tế-
xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI; cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của
Quốc hội được hoàn thiện một bước; hoạt động lập pháp được đẩy mạnh
Có 3 yêu cầu lớn đặt ra cho Quốc hội khóa XII là tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh; hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ hội nhập
kinh tế quốc tế. Bối cảnh lịch sử và yêu cầu nhiệm vụ đã tác động sâu sắc tới
tổ chức và hoạt động của Quốc hội khóa XII. Tổ chức của Quốc hội khóa
XII tiếp tục được đổi mới. Số lượng ĐBQH chuyên trách tăng lên gần đạt
30% tổng số ĐBQH, tạo điều kiện bố trí các thành viên chuyên trách ở các

cơ quan của Quốc hội. Chất lượng đại biểu được chú trọng. Số lượng thành
viên UBTVQH đã được cơ cấu theo hướng tăng lên so với nhiệm kỳ khóa
XI. Tổng số các cơ quan của Quốc hội nhiều hơn do chia tách Ủy ban Kinh
tế và Ủy ban pháp luật (khóa XI) thành 4 Ủy ban. Tổ chức bộ máy giúp việc
được kiện toàn, chất lượng tham mưu, giúp việc của VPQH, Văn phòng
Đoàn ĐBQH và HĐND các tỉnh, thành phố được cải thiện rõ nét Hoạt
động của Quốc hội trên các lĩnh vực lập pháp, giám sát, quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước và hoạt động đối ngoại có những bước tiến mới.
Hoạt động lập pháp được chú trọng hơn về chất lượng, quy trình lập pháp
tiếp tục được cải tiến ở một số khâu phù hợp. Hoạt động giám sát có trọng
tâm, trọng điểm, tăng cường về nội dung, đổi mới cách thức thực hiện, tập
trung vào những vấn đề bức xúc của thực tiễn, được đông đảo quần chúng
nhân dân quan tâm. Việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước
ngày càng có hiệu quả, thực chất hơn. Bên cạnh đó, hoạt động ngoại giao
nghị viện trong nhiệm kỳ qua đã đạt được những kết quả quan trọng, góp
phần hiệu quả vào công tác đối ngoại chung, nâng cao vị thế, hình ảnh của
Việt Nam trên trường quốc tế. Phương thức, chế độ làm việc của Quốc hội
ngày càng trở nên khoa học, nề nếp, phát huy dân chủ, chủ động, sáng tạo
trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Hoạt động của Quốc hội
ngày càng thu hút sự quan tâm của nhân dân cả nước, qua đó góp phần củng
cố niềm tin của nhân dân vào Quốc hội nói riêng và hệ thống chính trị nói
chung. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm này, cơ cấu tổ chức của Quốc
hội cũng còn một số điểm bất cập. Cụ thể như: số đại biểu chuyên trách tăng
lên nhưng vẫn còn thiếu so với yêu cầu, nhiệm vụ; phạm vi chức năng,
nhiệm vụ của các Ủy ban còn rộng; vị trí, địa vị pháp lý của Đoàn ĐBQH
chưa được xác định thật cụ thể; tính chuyên môn hóa của bộ máy giúp việc
chưa cao. Các điều kiện bảo đảm hoạt động còn thiếu. Hoạt động của Quốc
hội vẫn còn một số tồn tại nhất định trong từng lĩnh vực lập pháp, giám sát,
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước… Nhiệm kỳ Quốc hội khóa
XIII cũng là khoảng thời gian cả nước bắt đầu thực hiện Cương lĩnh xây

dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm
2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 do Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua. Bối cảnh quốc tế cũng
đang có những thay đổi sâu sắc và sẽ có những tác động đến việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của hệ thống chính trị nói chung, của Quốc hội nói
riêng. Để Quốc hội khóa XIII có thể hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của
mình, việc tiếp nối, kế thừa những kết quả đã đạt được, cũng như tìm kiếm
các giải pháp xử lý những vấn đề còn tồn tại trong thực tiễn tổ chức và hoạt
động của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII có ý nghĩa rất quan trọng. 2. Đổi mới
cơ cấu, tổ chức của Quốc hội Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận,
đánh giá thực trạng, nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm, yêu cầu thực
tiễn, đề tài đã đề xuất một số kiến nghị nhằm đổi mới cơ cấu, tổ chức của
Quốc hội. Trong đó, tập trung vào hai vấn đề lớn: 2.1. Tiếp tục làm rõ cơ sở
lý luận và thực tiễn về sự phân công chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan
trong cơ cấu tổ chức Quốc hội Xác định rõ ràng hơn phạm vi hoạt động,
thẩm quyền của các cơ quan của Quốc hội và ĐBQH, đặc biệt là ĐBQH
chuyên trách trong các lĩnh vực cụ thể để tránh chồng chéo khi thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn. Nghiên cứu phân định rõ và quy định đầy đủ hơn mối
quan hệ giữa các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH với các cơ quan nhà nước.
Hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục, các bước tiến hành trong hoạt
động của Quốc hội. 2.2. Nghiên cứu thành lập mới, tách một số uỷ ban của
Quốc hội theo từng lĩnh vực hoạt động chuyên sâu. Luật tổ chức Quốc hội
(sửa đổi) năm 2007 mới giải quyết được việc tách 2 ủy ban thành 4 ủy ban
với lý do cho rằng cần kiểm nghiệm thực tiễn, khi chín muồi sẽ xem xét,
quyết định việc tiếp tục tách hay thành lập thêm các ủy ban khác. Qua thực
tiễn hoạt động của Quốc hội cho thấy, bên cạnh việc nâng cao chất lượng
ĐBQH, tăng cường số lượng đại biểu chuyên trách, còn cần phải đổi mới,
củng cố về tổ chức bộ máy nhằm bảo đảm tính chuyên sâu. Có như vậy, các
Ủy ban (với tính chất là những “trụ cột” chính trong hoạt động của Quốc
hội) mới có điều kiện đi sâu vào việc xem xét những vấn đề cụ thể, tham

mưu, giúp Quốc hội thực sự có chất lượng, hiệu quả. Đề tài đề xuất việc tiếp
tục nghiên cứu cụ thể việc chia, tách và thành lập mới một số uỷ ban. Theo
đó, nghiên cứu tách Uỷ ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và
Nhi đồng thành 02 uỷ ban là: Ủy ban Văn hóa, Giáo dục và Ủy ban Thanh
niên, Thiếu niên và Nhi đồng. Nghiên cứu tách Ủy ban Kinh tế hiện nay
thành 03 ủy ban là: Ủy ban gắn với các lĩnh vực kế hoạch - đầu tư, xây dựng
cơ sở hạ tầng và đô thị; Ủy ban gắn với các lĩnh vực nông nghiệp, nông dân
và nông thôn; Ủy ban gắn với lĩnh vực công nghiệp và thương mại và các
lĩnh vực kinh tế khác. Nghiên cứu tách Ủy ban về các vấn đề xã hội thành 2
ủy ban là: Ủy ban lao động và việc làm; Ủy ban chính sách xã hội. Nghiên
cứu tách Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường thành 2 ủy ban là: Ủy
ban Khoa học và Công nghệ; Ủy ban Tài nguyên và Môi trường. Nghiên cứu
thành lập các Ủy ban gồm: Uỷ ban công tác dân nguyện trên cơ sở Ban Dân
nguyện của UBTVQH; Ủy ban về công tác kiều bào của Quốc hội; nghiên
cứu chuyển Viện NCLP thuộc UBTVQH thành cơ quan của Quốc hội. Việc
nghiên cứu đổi mới về cơ cấu, tổ chức của Quốc hội là một quá trình lâu dài,
không thể nóng vội và cần được đặt trong tổng thể chủ trương đổi mới, kiện
toàn tổ chức bộ máy nhà nước của Đảng ta. Do đó, những nghiên cứu đề
xuất nêu trên cần được nhìn nhận với tính cách là những nghiên cứu, kiến
nghị mang tính bước đầu trong tiến trình đổi mới, hoàn thiện cơ cấu tổ chức
và hoạt động của Quốc hội. 3. Đổi mới hoạt động của Quốc hội Các giải
pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội được xác định theo
từng lĩnh vực cụ thể. Đối với hoạt động lập pháp, Đề tài đã tập trung trình
bày ba giải pháp: - Một là, tăng cường pháp chế trong hoạt động lập pháp.
Để thực hiện định hướng này cần tiến hành nghiên cứu sửa đổi Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật nhằm quy định cụ thể hơn trách nhiệm của
các chủ thể có thẩm quyền trong các công đoạn của quy trình lập pháp. Tăng
cường trách nhiệm của cơ quan soạn thảo trong việc xây dựng hệ thống
chính sách của dự án luật và đánh giá sự tác động của các chính sách. Từ đó,
nâng cao trách nhiệm, minh bạch hoá được các quyền và nghĩa vụ của các

chủ thể, góp phần tăng cường pháp chế trong hoạt động lập pháp. - Hai là,
tiếp tục đổi mới tư duy nâng cao năng lực lập pháp nhằm xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật theo chiều sâu. Lấy việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện
các đạo luật hiện có làm nhiệm vụ trung tâm. Đồng thời đi sâu xây dựng một
số đạo luật mới để “lấp kín” các khoảng trống chưa có luật điều chỉnh. Tiếp
tục đổi mới tư duy, nâng cao năng lực lập pháp của các cơ quan có thẩm
quyền là yếu tố quyết định chất lượng của các đạo luật được thông qua. - Ba
là, phát huy vai trò của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội trong
điều kiện Quốc hội không hoạt động thường xuyên có ý nghĩa rất quan
trọng. Bởi vì, với nhiệm vụ và quyền hạn được giao là thẩm tra các dự án
luật trước khi trình Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban là chỗ dựa
cho ĐBQH xem xét, thảo luận và thông qua dự án luật. Chỗ dựa đó vững
chắc thì ĐBQH có định hướng đúng đắn để bày tỏ quan điểm của mình khi
thảo luận, xem xét, thông qua hay không thông qua dự án luật. Đối với hoạt
động giám sát, Đề tài đưa ra hai giải pháp chủ yếu: - Một là, xác định lại
phạm vi và nội dung giám sát tối cao phù hợp hơn với thực tiễn. Chỉ nên quy
định nội dung và phương thức giám sát tương thích với khả năng và điều
kiện cho phép của một Quốc hội hoạt động không thường xuyên, các ĐBQH
chủ yếu hoạt động kiêm nhiệm. Trước mắt, trong công tác giám sát tối cao,
nên tập trung làm tốt hoạt động chất vấn và xem xét báo cáo tại các kỳ họp
Quốc hội. Đồng thời, từng bước nghiên cứu để có sự điều chỉnh hợp lý về
phạm vi hoạt động giám sát tối cao. - Hai là, đổi mới việc tổ chức thực hiện
các hình thức giám sát. Trong hoạt động xem xét báo cáo cần nghiên cứu
quy định rõ những nội dung cần thiết; tách bạch rõ trách nhiệm cá nhân và
trách nhiệm của tập thể trong công tác quản lý, điều hành; quy định loại báo
cáo nào cần phải được Quốc hội thảo luận tập thể, loại báo cáo nào Quốc hội
thảo luận ở tổ, ở Đoàn ĐBQH, loại báo cáo nào gửi đến ĐBQH để tự nghiên
cứu; hướng dẫn cụ thể “trường hợp cần thiết” Quốc hội phải ra nghị quyết
sau khi xem xét các báo cáo công tác Đối với chất vấn và trả lời chất vấn,
cần củng cố bộ phận tham mưu, giúp việc về hoạt động chất vấn; tăng cường

bồi dưỡng kỹ năng hoạt động của ĐBQH, trong đó có kỹ năng chất vấn; quy
định rõ một số vấn đề về mặt thủ tục trong hoạt động chất vấn và trả lời chất
vấn; hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc tiến hành hoạt động “chất vấn” tại
các cơ quan của Quốc hội Đối với hoạt động xem xét, quyết định những
vấn đề quan trọng của đất nước, Đề tài đưa ra ba giải pháp: - Một là, về kinh
tế - xã hội, cần quyết định cả hệ thống chính sách kinh tế - xã hội dài hạn và
ngắn hạn. Kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của đất nước trong 5 năm,
hàng năm chỉ là ngắn hạn. Quốc hội cần nắm chắc và quyết định chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm. Đối với các quy hoạch, kế hoạch, chương
trình, dự án, Quốc hội cần lựa chọn một số tiêu chí để quyết định phù hợp
- Hai là, về ngân sách, cần nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về ngân sách nhà
nước theo hướng quyết định ngân sách kỳ hạn và dựa vào kết quả đầu ra để
bảo đảm tính công khai, minh bạch, dân chủ và hiệu quả hơn trong đầu tư
công. - Ba là, về vấn đề thẩm tra, đối với một số nghị quyết đặc thù, quan
trọng như nghị quyết về các công trình quan trọng quốc gia cần phải có một
Ủy ban lâm thời gồm các ĐBQH có trình độ chuyên môn phù hợp để tiến
hành thẩm tra. Ngoài một số nội dung cơ bản trên, trong quá trình nghiên
cứu, đề tài cũng đã đề cập đến một số nội dung khác xung quanh thực tiễn tổ
chức và hoạt động của Quốc hội khóa XII. Nhìn chung, kết quả nghiên cứu
đề tài là những thông tin có giá trị tham khảo, góp phần phục vụ công tác
nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về tổ
chức và hoạt động của Quốc hội trong thời gian tới./. Đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động của bộ máy Nhà nước là một nhiệm vụ trọng tâm để
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Để
làm rõ vấn đề này đã có nhiều cơ quan chức năng và nhiều nhà khoa học nêu
lên khá hệ thống và cụ thể. Trong bài viết này tôi muốn làm rõ một số nội
dung chính sau đây: I. Trong nội dung đổi mới tổ chức và phương thức hoạt
động của Nhà nước, vấn đề đầu tiên là phải đổi mới tổ chức và phương thức
hoạt động của Quốc hội. Bởi vì, đây là một trong những nội dung cơ bản của
việc kiện toàn tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Quốc hội là cơ quan quyền
lực Nhà nước cao nhất và là cơ quan Nhà nước duy nhất do cử tri cả nước
bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Quốc
hội bao gồm các đại biểu đại diện cho các tầng lớp nhân dân và cho các
vùng lãnh thổ, là hình ảnh thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc và đại diện cho
ý chí, nguyện vọng của nhân dân, là nơi thực hiện và thể hiện chế độ dân
chủ đại diện vừa là nơi thể hiện và thực hiện dân chủ trực tiếp. Quốc hội vừa
có tư cách nhân dân, vừa có tư cách Nhà nước. Do đó, tổ chức và hoạt động
của Quốc hội có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống tổ chức quyền lực
chính trị và trong bộ máy Nhà nước. Thực tế chỉ ra rằng, muốn xây dựng và
củng cố nền tảng chính trị pháp lý vững chắc cho hệ thống quyền lực chính
trị, quyền lực Nhà nước phải chăm lo xây dựng, củng cố và phát huy vai trò
của Quốc hội trong việc thực hiện các chức năng lập hiến, lập pháp, giám sát
tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Về đổi mới tổ chức và phương thức
hoạt động của Quốc hội có mấy vấn đề sau đây: 1. Cần tiến hành trong tổng
thể đổi mới hệ thống chính trị trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng, vì Đảng là hạt nhân lãnh đạo toàn bộ hệ thống. Nói phương thức lãnh
đạo của Đảng bao gồm những nguyên tắc, quy tắc, cách thức, hình thức biện
pháp mà các tổ chức, các cấp uỷ chọn lựa, sử dụng. Chẳng hạn như về đổi
mới nội dung, phương thức lãnh đạo của các tổ chức đảng ở cơ sở hiện nay
có 3 nội dung cụ thể. Đó là: - Đảng bộ, chi bộ cơ sở phải làm đúng vai trò
hạt nhân lãnh đạo toàn diện ở cơ sở, nắm vững nhiệm vụ phát triển kinh tế là
trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, chăm lo xây dựng chính quyền, mặt
trận và các đoàn thể vững mạnh. - Mọi đảng viên phải nêu cao vai trò tiền
phong, gương mẫu vững vàng về chính trị, có đạo đức trong sáng, lối sống
lành mạnh, gắn bó với nhân dân. - Đổi mới việc ra nghị quyết của đảng bộ,
chi bộ, của cấp uỷ đảng. Xây dựng quy chế làm việc giữa bí thư với những
người đứng đầu chính quyền, mặt trận và các đoàn thể. Đổi mới các cuộc
bầu cử ở cơ sở, tăng cường công tác kiểm tra. Đổi mới phương thức lãnh
đạo, trong đó chú ý đặc trưng phương pháp dân chủ trong lãnh đạo nhân dân

và các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở. 2. Đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động của Quốc hội theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, phù hợp với đặc điểm của đất nước, tính chất của
thời đại. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng nêu rõ: Nhà nước ta là công cụ
chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền
của dân, do dân, vì dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
những đặc trưng cơ bản: - Luôn xác định mục tiêu cao nhất là vì con người.
Đặc trưng này thể hiện ngay từ khi thành lập Nhà nước ta và thể hiện đầy đủ
trong các bản hiến pháp từ năm 1946 đến nay.Trong hiến pháp năm 1992, đã
được thể hiện trong 1 chương với 34 điều cụ thể. - Mọi quyền lực Nhà nước
đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước một cách
trực tiếp hoặc thông qua các cơ quan nhà nước do mình bầu ra. - Nhà nước
được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và thể hiện địa vị
tối cao của Hiến pháp, pháp luật trong đời sống xã hội. - Ở đó, quyền lực
Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp. Đây
vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước vừa là quan
điểm chỉ đạo quá trình tiếp tục thực hiện cải cách bộ máy nhà nước. - Là
Nhà nước do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Tiến hành đổi mới phương
thức tổ chức và hoạt động của Quốc hội nhằm kiện toàn tổ chức và phương
thức hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay cần
phải nắm vững các nguyên tắc trên. Mặt khác, cần nhận thức rõ chúng ta xây
dựng Nhà nước pháp quyền trong điều kiện một đảng lãnh đạo và thực hiện
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là công việc hoàn
toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Mặc khác với những kết quả đạt
được qua gần 20 năm đổi mới, nhận thức, yêu cầu của nhân dân ngày một
nâng cao, nhiệm vụ xây dựng bộ máy nhà nước và nguyện vọng của nhân
dân ngày càng đòi hỏi phải có bộ máy trong sạch, vững mạnh, hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả mới đáp ứng tình hình và nhiệm vụ cách mạng. 3. Thực
hiện theo các nguyên tắc chung về tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước

và các nội dung, yêu cầu có tính đặc thù của Quốc hội. Đây là điều rất quan
trọng khi thực hiện đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội.
Các nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là bao
gồm: - Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân,
do dân, và vì dân. Đây là một nguyên tắc rất cơ bản. - Quyền lực Nhà nước
là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây cũng là nội
dung đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. -
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà
nước. - Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam; quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo
dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa đối với công dân. - Tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước Năm nguyên tắc trên là những định
hướng chỉ đạo để tiếp tục đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động của Quốc
hội. Trong quá trình thực hiện đổi mới hoạt động của Quốc hội cần nhận
thức, làm rõ những yêu cầu mang tính đặc thù như: - Tính hiệu quả trong tổ
chức và phương thức hoạt động của Quốc hội – nhất là hiệu quả về kinh tế
và các hiệu quả cụ thể khác. - Tính chuyên nghiệp và hiện đại. Cụ thể là phải
có tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách thích hợp, có bộ máy tham mưu
trình độ cao, có phương thức hoạt động phát huy đầy đủ dân chủ, trí tuệ của
các đại biểu Quốc hội. - Tính minh bạch trong tổ chức và hoạt động. Nguyên
tắc này đòi hỏi trong hoạt động phải quy định rõ về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của mỗi tổ chức, cá nhân trong bộ máy, có cơ chế
tự kiểm tra, thanh tra các hoạt động và có sự giám sát từ phía nhân dân đã
khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí – những điều không thể tồn tại
trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Để
làm tốt những nội dung trên, đòi hỏi phải thực hiện thường xuyên và tập
trung các giải pháp: a. Nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện các chức
năng của Quốc hội đã đề ra. b. Phát huy vai trò, trách nhiệm, nâng cao năng
lực của các đại biểu Quốc hội, bảo đảm họ thực sự là người đại diện cho

nhân dân, vừa có đạo đức, năng lực, có bản lĩnh và các kỹ năng hoạt động
nghị trường, tham gia đóng góp, quyết định được những vấn đề trọng đại của
đất nước. c. Tiếp tục kiện toàn các cơ quan của Quốc hội, thường xuyên tăng
cường quan hệ hai chiều giữa Quốc hội với nhân dân….
a. Đối với Quốc hội
Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
Quốc hội nhằm thực hiện tốt chức năng lập pháp, giám sát tối cao và quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước. Hoàn thiện cơ chế bầu cử đại biểu Quốc
hội để cử tri lựa chọn và bầu những người thực sự tiêu biểu vào Quốc hội. Nâng
cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng cường hợp lý số đại biểu Quốc hội hoạt
động chuyên trách. Tổ chức lại một số uỷ ban của Quốc hội theo hướng chuyên
sâu hơn. Cải tiến, nâng cao chất lượng đại biểu hoạt động của Hội đồng dân tộc,
các Uỷ ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc hội. Đổi mới
quy trình xây dựng luật, tiếp tục giảm việc ban hành pháp lệnh.
Trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, xây dựng chương trình dài
hạn về lập pháp, đổi mới quy trình xây dựng luật, nâng cao chất lượng luật, pháp
lệnh mới ban hành. Bảo đảm để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối
với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, làm tốt chức năng quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước, quyết định và phân bổ ngân sách Nhà nước…hoàn
thiện quy chế về vai trò, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội chuyên trách. Nâng
cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ba cấp.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo Quốc Hội và HDND các cấp.
b. Hội đồng nhân dân
Những năm qua, HĐND các cấp đã có nhiều đổi mới nên hiệu quả hoạt động được
nâng lên rõ rệt; tuy nhiên so với yêu cầu đặt ra còn khá khiêm tốn. Điều này do
nhiều nguyên nhân. Trước hết, do cơ cấu, tổ chức bộ máy của HĐND bất cập, nhân
sự thường biến động. Đối với Thường trực HĐND, có địa phương bố trí Chủ tịch
HĐND hoạt động chuyên trách, nơi bố trí kiêm nhiệm; Chủ tịch HĐND có nơi là
Bí thư cấp ủy cùng cấp, có nơi là Phó bí thư hoặc ủy viên Thường vụ cấp ủy cùng
cấp; Phó chủ tịch HĐND có nơi được cơ cấu ủy viên thường vụ cấp ủy cùng cấp,

có nơi chỉ là cấp ủy viên; Ủy viên Thường trực HĐND có nơi được cơ cấu là cấp
ủy viên cùng cấp, có nơi không là cấp ủy cùng cấp. Các ban HĐND cũng tương tự:
nơi bố trí Trưởng ban chuyên trách, nơi bố trí kiêm nhiệm; có nơi Trưởng ban là
Ủy viên thường vụ cấp ủy cùng cấp, có nơi chỉ là cấp ủy viên, có nơi không là cấp
ủy cùng cấp. Trong khi, mỗi cơ quan chuyên môn thuộc UBND đều có bộ máy
hoàn chỉnh, người đứng đầu thường là cấp ủy viên cùng cấp, có các phòng, ban, bộ
phận tham mưu giúp việc và biên chế hành chính đồng bộ các ban HĐND có
chức năng, nhiệm vụ nặng nề, phụ trách nhiều lĩnh vực thuộc nhiều sở, ngành
nhưng không có người phụ trách chuyên sâu, nhưng chỉ có một đại biểu HĐND
hoạt động chuyên trách, do đó, dù đã sử dụng nhiều biện pháp hỗ trợ song vẫn rất
khó khăn, nhất là khi xây dựng báo cáo thẩm tra, chuẩn bị và tổ chức giám sát Tổ
đại biểu HĐND là một thực thể hiện hữu, có tầm quan trọng đặc biệt, nhưng Luật
Tổ chức HĐND và UBND 2003 chưa đề cập. Theo quy định hiện hành, ở mỗi cấp
hành chính đều có HĐND và UBND hợp thành chính quyền địa phương. Thế
nhưng không có địa phương nào cơ cấu Chủ tịch UBND, Giám đốc hoặc thủ của
cơ quan dân cử còn bất cập, dẫn đến những hạn chế về hiệu lực, hiệu quả hoạt
trưởng sở, ngành kiêm nhiệm như HĐND. So sánh như vậy để thấy rằng cơ cấu tổ
động của HĐND. Cũng theo quy định, các thành viên Thường trực HĐND, chức
các thành viên ban HĐND hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, chịu trách
nhiệm tập thể về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trước HĐND. Nhưng trên
thực tế, hoạt động thường xuyên chỉ vỏn vẹn có vài đại biểu chuyên trách, còn lại
hoạt động kiêm nhiệm. Phần lớn cơ cấu ủy viên các ban, kể cả Trưởng, Phó ban
HĐND do Trưởng, Phó ban của các ban Đảng hoặc cơ quan chuyên môn của
UBND cùng cấp, hay cơ quan Nhà nước cấp dưới kiêm nhiệm. Thực trạng này rất
khó để Thường trực, các ban HĐND hoạt động thường xuyên theo chế độ tập thể.
Mặt khác, cơ chế bảo đảm điều kiện phục vụ hoạt động của HĐND chưa đáp ứng
yêu cầu. Nhiều vướng mắc, chồng chéo về tổ chức và hoạt động của Văn phòng
ĐBQH và HĐND cấp tỉnh đến nay vẫn chưa được tháo gỡ, như: những quy định
về thể chế chưa rõ ràng; chức năng, nhiệm vụ trùng lặp; mối quan hệ trong tổ chức
thực hiện nhiệm vụ không được định hình; tổ chức bộ máy thiếu thống nhất, điều

kiện vật chất chưa bảo đảm; nhận thức về vai trò, chức năng và nhiệm vụ của Văn
phòng cũng chưa đúng, chưa đầy đủ và còn nhiều cách đánh giá khác nhau Giải
pháp khắc phục Về cơ cấu tổ chức, cần bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là
các cấp ủy Đảng đối với HĐND các cấp. Sớm có quy định thống nhất phân công
các đồng chí trong Thường trực cấp ủy, ủy viên thường vụ, ủy viên Ban chấp hành
cấp ủy cùng cấp đảm nhiệm các chức danh chuyên trách của HĐND. Cụ thể: chức
danh Chủ tịch HĐND nên cơ cấu Bí thư hoặc Phó bí thư cấp ủy cùng cấp; chức
danh Phó chủ tịch HĐND nên cơ cấu Ủy viên Ban Thường vụ cấp ủy cùng cấp;
chức danh Ủy viên Thường trực HĐND, Trưởng các ban HĐND hoạt động chuyên
trách là cấp ủy viên cùng cấp. Cấp quận, huyện cơ cấu ít nhất một Trưởng ban
HĐND hoạt động chuyên trách là cấp ủy viên cùng cấp. Cần có quy định hoặc
hướng dẫn về quy chế hoạt động Đảng đoàn HĐND trong lãnh đạo thực hiện chức
năng của HĐND. Cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức
HĐND và UBND. Cụ thể, tại Điều 52 cần điều chỉnh và quy định rõ: Thường trực
HĐND là cơ quan của HĐND. Đối với Thường trực HĐND cấp tỉnh, gồm: Chủ
tịch, không quá 2 Phó chủ tịch và một số Ủy viên Thường trực, các Ủy viên
Thường trực được cơ cấu từ các Trưởng ban của HĐND và Chánh văn phòng
Đoàn ĐBQH và HĐND; cấp huyện gồm Chủ tịch và không quá 2 Phó chủ tịch
HĐND. Thường trực HĐND cấp xã gồm Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND. Tại Điều
54 cần bổ sung và quy định rõ: Trưởng ban, Phó trưởng ban của HĐND cấp tỉnh,
cấp huyện làm việc chuyên trách và có một số đại biểu HĐND hoạt động chuyên
trách ở mỗi ban. Bổ sung quy định về tổ đại biểu HĐND; quy định về tổ chức bộ
máy của Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương. Nghiên cứu trình Quốc hội xem xét, ban hành Luật hoạt động giám sát của
HĐND, giúp HĐND các cấp có đủ cơ sở pháp lý, thống nhất trong tổ chức thực
hiện. Về hoạt động, để nghị quyết HĐND có chất lượng, bảo đảm tính khả thi, cần
tuân thủ đúng tiến độ, quy trình, thủ tục soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của HĐND và UBND. Các ban HĐND chủ động tham gia ngay từ đầu
quá trình soạn thảo; khi thẩm tra, phải tập hợp được trí tuệ của tập thể, thể hiện rõ
chính kiến: đồng ý hoặc không đồng ý ban hành nghị quyết để đại biểu HĐND có

cơ sở xem xét, thảo luận và quyết định. Trong kỳ họp, Chủ tọa phải dành thời gian
thỏa đáng cho việc thảo luận dự thảo nghị quyết, tránh nhận xét chung chung.
Trước khi ký ban hành, các nghị quyết phải được rà soát kỹ về nội dung và kỹ
thuật trình bày văn bản, sau đó tiếp tục theo dõi ban hành các văn bản cụ thể hóa,
đồng thời chú trọng giám sát để nghị quyết sớm đi vào cuộc sống. Cần quan tâm
đặc biệt đến việc xử lý ý kiến, kiến nghị của cử tri. Sau khi tiếp xúc cử tri, các tổ
đại biểu họp phân loại, những nội dung thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp dưới
chuyển cho quận, huyện; nội dung còn lại thì chuyển về Thường trực HĐND để
tổng hợp chuyển cho UBND cùng cấp xem xét, giải quyết. Tại kỳ họp, các ý kiến,
kiến nghị của cử tri phải được chủ tọa gợi ý thảo luận, tìm ra được phương án, giải
pháp và lộ trình giải quyết thấu tình, đạt lý. Các nội dung trả lời của UBND và sở,
ban ngành phải được thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng để cử tri
biết, cùng giám sát. Một vấn đề nữa cần quan tâm là phải hiện đại hóa công tác văn
phòng. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND, nhưng để các cơ quan của
HĐND thực hiện tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ thì việc hiện đại hóa công tác
văn phòng có vai trò quan trọng. Cụ thể, cần tổ chức bộ máy văn phòng gọn, nhẹ,
khoa học; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức văn phòng chuyên nghiệp; trang
thiết bị hiện đại, kỹ thuật tiên tiến gắn liền với ứng dụng thành tựu của công nghệ
tin học và công nghệ truyền thông; đồng thời không ngừng cải tiến nghiệp vụ hành
chính văn phòng phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính hiện nay.
CÂU 2:MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TỔ CHỨC CHÍNH
QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
60 năm qua, cùng với sự lớn mạnh của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền địa phương cũng không ngừng được
củng cố và kiện toàn, đáp ứng kịp thời yêu cầu cách mạng của mỗi thời kỳ, bảo
đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân và đã có những đóng góp to lớn vào
sự nghiệp chung của đất nước, của dân tộc.
Tuy nhiên, trước nhu cầu đổi mới tổ chức chính quyền địa phương nhằm thực hiện
quyền làm chủ của nhân ở địa phương, phát huy quyền chủ động, năng động, sáng
tạo và tăng cường trách nhiệm của địa phương và cơ sở trong cơ chế quản lý mới,

thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền, kế thừa kinh nghiệm và các
giá trị của Hiến pháp 1946 và các bản Hiến pháp sau này, thực tiễn tổ chức chính
quyền địa phương của nước ta và kinh nghiệm của các nước, chúng tôi xin nêu một
số bất cập về lý luận và thực tiễn tổ chức chính quyền địa phương ở nước ta hiện
nay, nhu cầu và hướng đổi mới như sau:
1. Mô hình tổ chức chính quyền địa phương của nước ta hiện nay được tổ chức
theo nguyên tắc nào trong các mối quan hệ: giữa chính quyền trung ương với chính
quyền địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau, giữa Ủy ban
nhân dân với Hội đồng nhân dân cùng cấp và với cơ quan hành chính nhà nước cấp
trên (đối với cấp tỉnh là với Chính phủ) vẫn chưa được giải quyết về lý luận và
thực tiễn. Theo Điều 6 Hiến pháp hiện hành nước ta xác định thì tất cả các cơ quan
nhà nước đều “tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Nhưng
các quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân lại thể hiện rõ tính tập trung về trung ương, về cấp trên. Thực tế là trung ương
và cấp trên không thể nắm, không thể quản được địa phương. Còn địa phương và
cấp dưới cũng không có được quyền chủ động, phát huy sự sáng tạo, năng động
trong việc giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc của mình nên phải “xé rào”
như một số địa phương đã làm trong thời gian vừa qua. Cần nghiên cứu để giải
quyết triệt để vấn đề này.
2. Việc phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ ở nước ta những năm vừa qua chưa
được giải quyết thoả đáng về lý luận và thực tế. Vì thế nên mới có chuyện khi thì ồ
ạt sáp nhập tỉnh (năm 1980 cả nước có 36 tỉnh, ba thành phố trực thuộc trung ương
và một đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo) để rồi sau đó lần lượt chia tách tỉnh trả lại gần
như trước khi nhập tỉnh. Việc xác định vị trí, tính chất và vai trò của từng loại đơn
vị hành chính cũng là vấn đề rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc tổ
chức hợp lý các cấp chính quyền địa phương. Cuối những năm 1970 đến giữa
những năm 1980 chúng ta đã có chủ trương không đúng khi xác định huyện là địa
bàn chiến lược nên đã ban hành một loạt văn bản về xây dựng huyện và tăng cường
cấp huyện, trong khi đơn vị hành chính này một thời gian dài chỉ là “cấp trung
gian”. Do không xác định đúng các đơn vị hành chính nên chúng ta không giải

quyết được vấn đề tổ chức mấy cấp chính quyền ở tỉnh, mấy cấp ở thành phố, cấp
nào có Hội đồng nhân dân, còn cấp nào chỉ có Ủy ban nhân dân. Đây là vấn đề
được thảo luận nhiều từ khi soạn thảo Hiến pháp 1992 đến nay vẫn chưa giải quyết
xong (Khác với 3 bản Hiến pháp trước đây, chỉ có Hiến pháp 1992 không quy định
về vấn đề rất quan trọng này mà dành cho Luật quy định, theo tôi là rất không
nên).
Cần nghiên cứu, quy định thêm một cấp đơn vị hành chính có tính chất vùng hoặc
miền gồm một số tỉnh, thành phố để tổ chức bộ máy hành chính gọn nhẹ nhưng có
thẩm quyền cụ thể, đại diện cho Chính phủ để kịp thời chỉ đạo và kiểm soát hoạt
động chính quyền địa phương. Cấp đơn vị hành chính này ở nước ta trước đây đã
từng có là cấp Kỳ thời Pháp thuộc và thời kỳ đầu sau Cách mạng tháng Tám năm
1945, cấp Bộ theo Hiến pháp 1946, cấp Chiến khu và sau đó là Liên khu thời kỳ
kháng chiến chống Pháp. Trên thế giới, ở các nhà nước đơn nhất cũng có đơn vị
hành chính này, như Pháp, Italia cũng có đơn vị hành chính vùng, có chính quyền
cấp vùng để đại diện cho Chính phủ.
Hiện nay, Chính phủ và các Bộ đều có Văn phòng 2 đặt tại Thành phố Hồ Chí
Minh. Nhưng đây là cơ quan được lập ra từ sau ngày giải phóng miền Nam năm
1975 để tiếp quản các cơ sở tương ứng của chính quyền Sài Gòn, có vai trò quan
trọng trong những năm đầu sau giải phóng. Địa vị pháp lý các Văn phòng 2 của
Chính phủ và các Bộ cho đến nay là không còn phù hợp vì chức năng, thẩm quyền
và trách nhiệm rất mờ nhạt, không rõ ràng, hoạt động không hiệu quả, lãng phí về
trụ sở, phương tiện, kinh phí và nhân sự v.v., rất cần phải được tổ chức lại.
3. Cần nghiên cứu và giải quyết dứt điểm mô hình tổ chức chính quyền ở địa bàn
nông thôn và đô thị, chứ không thể tổ chức như nhau trong khi giữa hai địa bàn này
có nhiều khác nhau về điều kiện kinh tế, địa lý, dân cư, kết cấu hạ tầng, nhất là
thành phố trực thuộc trung ương còn có vị trí, vai trò của một trung tâm kinh tế,
chính trị, văn hoá, khoa học v.v , có ảnh hưởng đối với cả một vùng, cũng như đối
với cả nước.
Trước đây, trong quá trình thảo luận về Dự thảo Hiến pháp 1992, cũng như thảo
luận sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp (2001), có nhiều ý kiến rất khác

nhau về mô hình tổ chức chính quyền địa phương các cấp nói chung, thành phố
trực thuộc trung ương nói riêng. Khái quát lại có bốn loại ý kiến, kiến nghị về vấn
đề này là:
Loại ý kiến thứ nhất: đề nghị giữ mô hình tổ chức Hội đồng nhân dân ở ba cấp như
hiện nay. Vì ở cấp hành chính nào cũng cần có Hội đồng nhân dân để đại diện cho
nhân dân ở cấp đó, Hội đồng nhân dân ở ba cấp đã ổn định qua nhiều năm, đã hoạt
động tương đối hiệu quả, không nên làm xáo trộn lớn về tổ chức Hội đồng nhân
dân.
Loại ý kiến thứ hai: đề nghị chỉ tổ chức Hội đồng nhân dân ở hai cấp là cấp tỉnh và
cấp xã. Vì Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn quyết định những
vấn đề quan trọng của địa phương, chính quyền cấp tỉnh có vai trò quản lý toàn
diện các lĩnh vực kinh tế-xã hội trên địa bàn. Hội đồng nhân dân cấp xã là cấp cơ
sở, gắn bó trực tiếp với nhân dân, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân,
quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ở cơ sở. Bỏ Hội đồng
nhân dân ở cấp huyện nhìn chung không ảnh hưởng đến quản lý nhà nước, tạo điều
kiện có thể tăng số lượng đại biểu cho Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và cấp xã.
Loại ý kiến thứ ba: đề nghị giữ mô hình tổ chức Hội đồng nhân dân ở tỉnh, huyện
và xã; nhưng bỏ Hội đồng nhân dân ở quận, phường thuộc thành phố trực thuộc
trung ương; bỏ Hội đồng nhân dân các phường thuộc thị xã và thành phố thuộc
tỉnh.
Loại ý kiến thứ tư: đề nghị chỉ tổ chức Hội đồng nhân dân ở hai cấp là cấp tỉnh và
cấp xã; riêng thành phố trực thuộc trung ương chỉ tổ chức Hội đồng nhân dân ở
một cấp là cấp thành phố [8].
Cần phải nghiên cứu tổ chức các cấp chính quyền địa phương sao cho phù hợp với
tính đa dạng của các địa phương, phản ánh được các đặc điểm và điều kiện đặc thù
của địa phương nhằm phát huy tính chủ động, năng động, các tiềm năng của địa
phương. Tổ chức chính quyền ở các đô thị cần phải được xem xét riêng biệt sao
cho phù hợp và bảo đảm phát triển có kế hoạch, đồng đều, thống nhất trong một đô
thị, chứ không thể quản lý theo kiểu chia tách, cắt khúc như lâu nay.
4. Vấn đề phân cấp chúng ta đã đề ra, đã ban hành một số văn bản pháp luật về vấn

đề này. Nhưng những quy định này còn chung chung, không cụ thể, không rõ ràng,
không nhất quán và còn tản mạn. Để tăng cường tính chủ động, năng động và tự
chịu trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền địa phương, của mỗi tỉnh, thành phố cần
phải phân định rõ và đầy đủ thẩm quyền cho địa phương, cho cấp dưới. Thực hiện
nguyên tắc mà chúng ta đã từng đề ra từ lâu nhưng không thực hiện đúng là: việc
gì, ở cấp nào có điều kiện và khả năng thực hiện tốt nhất thì phân giao đầy đủ
quyền hạn và bảo đảm những điều kiện cần thiết cho cấp đó giải quyết. Cơ quan
được phân giao thẩm quyền phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về các quyết định của
mình. Các cơ quan chính quyền cấp trên tăng cường kiểm tra, giám sát nhưng
không can thiệp, làm thay cấp dưới.
5. Xu hướng chung của các nhà nước dân chủ trên thế giới hiện nay là tổ chức
chính quyền địa phương theo nguyên tắc tự quản. Liên minh Châu Âu năm 1985
đã thông qua Công ước về tự quản địa phương, nên đối với những nước mới muốn
xin gia nhập Liên minh Châu Âu thì một trong những điều kiện đòi hỏi là phải
tham gia Công ước này. Hiện nay Liên hợp quốc đang tiến tới xây dựng và thông
qua Hiến chương quốc tế về tự quản địa phương. Vì vậy, chúng ta cần nghiên cứu
tiếp thu những kinh nghiệm hay của tổ chức tự quản địa phương, những điều kiện
và khả năng có thể áp dụng được ở nước ta để hướng tới đổi mới một cách cơ bản
tổ chức chính quyền địa phương trong giai đoạn mới.
Câu hỏi: quan điểm đổi mới của Quốc hội và Hội đồng nhân dân:
QUAN ĐIỂM KIỆN TOÀN TỔ CHỨC QUỐC HỘI:
Đại hội lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ:
"Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của
Quốc hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, xây dựng chương trình dài
hạn về lập pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới quy trình ban hành và
hướng dẫn thi hành pháp luật. Quốc hội làm tốt chức năng quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước, quyết định và phân bố nguồn ngân sách nhà nước, thực
hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước, trước mắt tập
trung vào những vấn đề bức xúc như sử dụng vốn và tài sản nhà nước, chống tham
nhũng quan liêu"[1].

Trước hết, cần phải nhận thức đúng đắn quan điểm chung về cải cách bộ máy nhà
nước là xây dựng và hoàn thiện nhà nước CHXHCN Việt Nam, trong đó có nhiệm
vụ kiện toàn, cải cách tổ chức Quốc hội. Cụ thể là:
- Xây dựng nhà nước XHCN của dân, do dân, vì dân; lấy liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản
lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã
hội, chấm dứt mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân
- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt dộng của nhà nước.
- Tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý
xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức.
- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.
-Các quan điểm cụ thể: Yêu cầu kiện toàn tổ chức và hoạt động của Quốc hội phải
bảo đảm những tiêu chí sau đây:
- Nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Mở rộng dân chủ, hướng tới xây dựng Quốc hội hoạt động thường xuyên.
- Kế thừa phù hợp với đặc điểm truyền thống, văn hoá Việt Nam.
- Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn Việt Nam, đồng thời, kế thừa có chọn lọc kinh
nghiệm của nước ngoài.
Phương án kiện toàn và xây dựng mô hình tổ chức Quốc hội
Phương án 1: Giảm bớt số Uỷ ban thường trực, tăng thêm các ban của các Uỷ ban;
thu hút thêm các đại biểu chuyên trách.
- Thực hiện chức năng lập hiến và lập pháp, Quốc hội cần thành lập Uỷ ban lập
pháp. Trong Uỷ ban này, có thể thành lập nhiều ban theo từng nhiệm vụ và từng
lĩnh vực nhất định. Ví dụ: Ban lập pháp về dân sự - kinh tế, Ban lập pháp về tổ
chức bộ máy nhà nước, Ban thẩm định dự án luật…
- Thành lập Văn phòng cố vấn luật pháp để giúp soạn thảo các dự án luật cho các
ban chuyên ngành hoặc các đại biểu Quốc hội. Các thành viên trong Văn phòng cố
vấn có thể là đại biểu Quốc hội, các luật gia, nhà luật học nổi tiếng có nhiều kinh

nghiệm xây dựng pháp luật và giỏi về chuyên môn…
- Thành lập Uỷ ban thường trực quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước;
trong Uỷ ban này cũng thành lập nhiều ban như: Ban kinh tế, Ban ngân sách, Ban
kiểm tra, Ban văn hoá xã hội…
- Thành lập Uỷ ban giám sát thường trực của Quốc hội. Uỷ ban này gồm nhiều
ban: Ban giám sát tổ chức hoạt động của Chính phủ, Ban giám sát hoạt động các
cơ quan tư pháp, Ban (Hội đồng) bảo hiến…
Tổ chức các Uỷ ban thường trực gồm có Chủ nhiệm Uỷ ban, các Phó Chủ nhiệm
Uỷ ban, thư ký và các thành viên. Mỗi ban có trưởng ban và phó trưởng ban và các
uỷ viên.
Cơ quan thường trực thường xuyên của Quốc hội là Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
(như hiện nay). Ngoài ra, Quốc hội còn có Hội đồng Dân tộc (như hiện nay).
Phương án 2: Kết hợp mô hình tổ chức Quốc hội như quy định của pháp luật hiện
hành với việc thành lập thêm một số uỷ ban thường trực mới và mở rộng các bộ
phận trong từng Uỷ ban nhằm đáp ứng yêu cầu lập pháp đang đặt ra. Ví dụ thành
lập uỷ ban hoặc ban theo chủ đề lập pháp để tập trung nghiên cứu theo chủ đề.
Thực tế một số năm qua cho thấy, hoạt động lập pháp Quốc hội tăng lên đáng kể
về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, với cơ cấu tổ chức Quốc hội như hiện nay
cùng với chất lượng đại biểu Quốc hội còn hạn chế và hình thức hoạt động không
thường xuyên của Quốc hội thì khó thực hiện chức năng Quốc hội là cơ quan duy
nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Lập pháp của Quốc hội hiện nay mới chỉ dừng
ở mức thảo luận và thông qua các dự án chủ yếu do Chính phủ trình. Bản thân các
Uỷ ban của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội hầu như chưa đủ khả năng và điều
kiện trình dự luật ra trước Quốc hội. Quy định tại Điều 48 của Luật Tổ chức Quốc
hội năm 2001 về quyền trình dự án luật của đại biểu là thiếu tính khả thi.
Để khắc phục tình trạng trên, theo phương án này, cần tăng thêm số uỷ ban hoặc
các ban thường trực cho các chủ đề lập pháp để mỗi đại biểu chỉ có thể tham dự
một uỷ ban. Như vậy, các đại biểu mới có điều kiện nghiên cứu và tập trung vào
lĩnh vực được phân công.
Thành lập cơ quan bảo hiến trong Quốc hội: Một trong những dấu hiệu cơ bản của

nhà nước pháp quyền là hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, có nội dung dân
chủ, tiến bộ, phù hợp với thực tiễn khách quan và sự phát triển, được xây dựng trên
cơ sở kỹ thuật pháp lý cao. Để từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, không thể
không thiết lập một cơ quan bảo hiến hoặc là Hội đồng bảo hiến, Uỷ ban bảo hiến
nhằm bảo đảm tính hợp hiến của các đạo luật hoặc các điều khoản của luật và các
hoạt động của Quốc hội; việc bầu cử Quốc hội, các cuộc trưng cầu ý dân và tuyên
bố kết quả; bảo đảm sự thống nhất và đồng bộ, hợp hiến của các đạo luật và các
văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước,
Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao… Tất cả các
văn bản trên khi ban hành, được thực hiện đều phải chuyển đến cơ quan bảo hiến
xem xét. Khi được cơ quan bảo hiến xác định về tính hợp hiến và không mâu
thuẫn của các quy định trong các văn bản thì các văn bản đó mới được ban hành và
thực hiện.
Cơ quan kiểm toán thuộc Quốc hội: Đối với quyền quyết định dự toán ngân sách
nhà nước và phân bổ ngân sách Trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà
nước, Quốc hội chú trọng chặt chẽ dự toán ngân sách, quyết toán chi tiêu ngân
sách của từng bộ, ban, ngành của bộ máy nhà nước, không cần phải gia tăng quyền
hạn cho Quốc hội trong việc phải quyết định tổng thể biên chế nhà nước. Dự toán
thu chi cần phải chi tiết đến từng bộ, ngành. Bộ, ban ngành nào không được Quốc
hội dự chi phải tự động đóng cửa hoạt động. Làm được như vậy sẽ góp phần khẳng
định tính thực quyền và vị trí tối cao của Quốc hội. Vì lẽ đó, để thực hiện hoạt
động này một cách có hiệu quả thì Quốc hội không thể không có một cơ quan kiểm
toán riêng. Cơ quan này tham gia thẩm định tổng quyết toán ngân sách nhà nước,
ngân sách các bộ ngành, kiểm tra tất cả các doanh nghiệp nhà nước, đầu tư xây
dựng cơ bản, các dự án quốc gia và các lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Cơ quan này
ra đời và hoạt động sẽ góp phần đáng kể vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở
Việt Nam hiện nay.
Phương án 3: Tăng hoặc giảm số uỷ ban thường trực căn cứ vào nhu cầu linh hoạt
của thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của quốc tế.
Trên thế giới, việc thiết kế cơ cấu tổ chức Quốc hội có nhiều điểm khác nhau. Có

những nước phân các Uỷ ban trong Quốc hội thành Uỷ ban thường trực và Uỷ ban
đặc biệt, trong mỗi Uỷ ban thường trực thì thiết lập các Uỷ ban (Cộng hoà Ấn Độ).
Còn ở Mỹ thì xác định hệ thống Uỷ ban là tổ chức chính thức của Nghị viện, hầu
hết các công việc được làm ở các Uỷ ban. Quốc hội Mỹ có các loại hình Uỷ ban:
Uỷ ban toàn viện (chỉ xem xét các điều ước), Uỷ ban thường trực (thời hạn không
xác định), Uỷ ban đặc biệt, Uỷ ban chọn lọc và Uỷ ban hỗn hợp. Trong các loại
hình Uỷ ban thì Uỷ ban thường trực quan trọng hơn cả. Hạ nghị viện có 22 Uỷ ban
thường trực và Thượng viện có 16, bên cạnh đó có bốn liên Uỷ ban mà thành viên
là nghị sĩ của cả hai viện. Ở Nhật Bản, Quốc hội có 16 Uỷ ban thường trực, khi cần
thiết có thể thành lập một số Uỷ ban đặc biệt để tiến hành điều tra những vấn đề
liên quan đến Chính phủ. Các Uỷ ban thường trực gồm: Uỷ ban về công tác của
Chính phủ, Uỷ ban về chính quyền ở các địa phương, Uỷ ban pháp luật, Uỷ ban tài
chính, Uỷ ban đối ngoại, Uỷ ban giáo dục, xã hội…
Phương án này tính đến việc tăng thêm một số Uỷ ban của Quốc hội so với hiện
nay, căn cứ vào nhu cầu của hoạt động.
Cùng với việc kiện toàn cơ cấu bộ máy với quan điểm hướng tới xây dựng Quốc
hội hoạt động thường xuyên thì cơ cấu đại biểu Quốc hội cần phải thay đổi theo
hướng tăng số đại biểu chuyên trách lên hơn 30% thay vì 25% hiện nay, và về lâu
dài số đại biểu chuyên trách phải đạt 50%. Riêng các đại biểu không chuyên trách
và mang tính đại diện cần phải có quy định và được đào tạo một cách bài bản./.
Câu: mối quan hệ giữa cơ quan quyền lực nhà nước với cơ quan quản lí hành
chính nhà nước?
• Mối quan hệ giữa chính phủ với quốc hội:
Quốc hội quyết định thành lập chính phủ và quy định những nguyên tắc tổ
chức và hoạt động cảu cơ quan này,quy định nhiệm vụ và quyền hạn cho các
cơ quan này.Bầu thủ tướng trong số các đại biểu quốc hội,phê chuẩn đề nghị
của thủ tướng về danh sách các thành viên khác của Chính phủ.Giám sát
hoạt động của Chính phủ bằng việc xét báo cáo hoạt động của chính
phủ,thực hiện việc chất vấn.QH còn giao cho UBTVQH phụ trách việc giám
sát của Chính phủ.UBTV có quyền bãi bỏ các văn bản của Chính phủ,Thủ

tướng nếu trái với các văn bản của UBTVQH,đình chỉ và đề nghị QH bãi bỏ
đối với các văn bản của Chính pủ ,Thủ tướng trái với các văn bản của Quốc
hội.Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước QH về việc thực hiện công việc
được giao.
Chính phủ có quyền trình dự án luật,pháp lệnh trước QH và UBTVQH.Thủ
tướng có quyền đề nghị UBTVQH triệu tập QH họp bất thường.Chính phủ
tổ chức thực hiện các văn bản của QH và UBTVQH.CHính phủ có sự độc
lập về nhân viên,ngoài thủ tướng và các thành viên khác không nhất thiết là
đại biểu QH,Thành viên của UBTVQH không đồng thời là thành viên của
Chính phủ.
Câu hỏi: Đổi mới tư pháp trong điều kiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa?
Trả lời:
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Số: 49-NQ/TW Hà Nội, ngày 02 tháng 06 năm 2005

NGHỊ QUYẾT
của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
Trong những năm qua, thực hiện các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết 08-
NQ/TW, ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới”, công cuộc cải cách tư pháp đã được các cấp ủy, tổ
chức đảng lãnh đạo và tổ chức thực hiện với quyết tâm cao, đạt được nhiều kết
quả. Nhận thức và sự quan tâm đối với công tác tư pháp có nhiều thay đổi theo
hướng tích cực; chất lượng hoạt động tư pháp đã được nâng lên một bước, góp
phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho
sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, những kết quả đó mới là bước đầu và mới tập trung vào giải quyết
những vấn đề bức xúc nhất. Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính sách

hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất
cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế
hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ
tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ
còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm
nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét
xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc
hậu.
Cùng với những mặt hạn chế nêu trên, nhiệm vụ cải cách tư pháp đang đứng trước
nhiều thách thức. Tình hình phạm tội diễn biến phức tạp, với tính chất và hậu quả
ngày càng nghiêm trọng. Các khiếu kiện hành chính, các tranh chấp dân sự, kinh
tế, lao động, các loại khiếu kiện và tranh chấp có yếu tố nước ngoài có chiều
hướng tăng về số lượng và phức tạp, đa dạng hơn. Đòi hỏi của công dân và xã hội
đối với các cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ
dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là
công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu
quả với các loại tội phạm và vi phạm.
Nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải ban hành và thực hiện Chiến lược Cải cách
tư pháp đến năm 2020 phù hợp với quá trình đổi mới công tác lập pháp và chương
trình cải cách hành chính.
I. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CẢI CÁCH TƯ PHÁP
1. Mục tiêu
Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công
lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu
quả và hiệu lực cao.
2. Quan điểm
2.1. Cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo đảm sự ổn
định chính trị, bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân

dân, do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp.
2.2. Cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; gắn với đổi mới công tác lập pháp, cải cách hành
chính.
2.3. Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong quá trình cải cách tư pháp.
Các cơ quan tư pháp, cơ quan bổ trợ tư pháp phải đặt dưới sự giám sát của các cơ
quan dân cử và nhân dân.
2.4. Cải cách tư pháp phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu
đã đạt được của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam: tiếp thu có chọn lọc
những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ
động hội nhập quốc tế; đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội trong tương lai.
2.5. Cải cách tư pháp phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, có trọng tâm,
trọng điểm với những bước đi vững chắc.
II. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHIỆM VỤ CẢI CÁCH TƯ PHÁP
1. Phương hướng
1.1. Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố
tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và
bảo vệ quyền con người.
1.2. Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học
và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó, xác
định tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; xã hội hóa mạnh
mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp.
1.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh
tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa
tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh

nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ; tiến tới thực hiện chế độ thi
tuyển đối với một số chức danh.
1.4. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò giám sát của
các cơ quan dân cử, của công luận và của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.
2. Các nhiệm vụ cải cách tư pháp
2.1. Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục tố tụng
tư pháp
Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục
tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Coi trọng việc hoàn
thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và
tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp
dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm.
Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hương chỉ áp dụng đối với một số ít loại
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong
một số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, quan hệ
dân sự và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm
cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công
nghệ và hội nhập quốc tế.
Quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là người
có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn
để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội
thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác.
Xây dựng cơ chế phát huy sức mạnh của nhân dân, cơ quan, các tổ chức quần
chúng trong phát hiện, phòng ngừa tham nhũng; bảo vệ người trung thực phát hiện,
tố cáo, người điều tra truy tố, xét xử hành vi tham nhũng; khen thưởng người có
công trong đấu tranh phòng chống tham nhũng. Đề cao trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan, tổ chức trong việc ngăn ngừa, kiểm soát các hành vi tham
nhũng.
Hoàn thiện pháp luật dân sự, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức
khi tham gia giao dịch, thúc đẩy các quan hệ dân sự phát triển lành mạnh; hoàn

thiện chế định hợp đồng, bồi thường, bồi hoàn…
Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm quyền hạn tư pháp
trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho điều tra
viên, kiểm sát viên và thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiêm vụ, nâng cao
tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố
tụng của mình. Xác định rõ căn cứ tạm giam; hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm
giam đối với một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết
định việc áp dụng các biện pháp tạm giam.
Từng bước hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt
chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng nghị
đối với bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật; khắc phục tình
trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ. Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút
gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định.
Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực hiện và phát triển các
loại hình dịch vụ từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu
thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đổi mới
thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
người dân tiếp cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến tòa án, tòa án có trách
nhiệm nhận và thụ lý đơn. Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông
qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc
giải quyết đó.
Mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các khiếu kiện hành chính. Đổi mới
mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại tòa án; tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và
cơ quan công quyền trước tòa án.
Từng bước thực hiện việc công khai hóa các bản án, trừ những bản án hình sự về
tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc liên quan đến thuần phong mỹ tục. Xây dựng
cơ chế bảo đảm mọi bản án của tòa án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành,
các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết của tòa án phải nghiêm
chỉnh chấp hành.

2.2. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy
các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
tòa án nhân dân.
Tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành
chính, gồm: tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành
chính cấp huyện; tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét
xử sơ thẩm một số vụ án; tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ
xét xử phúc thẩm. Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét
xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc
thẩm, tái thẩm. Việc thành lập tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của
từng cấp tòa án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân tối cao theo
hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp
luật, có kinh nghiệm trong ngành.

×