Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Chính sách ổn định kinh tê vĩ mô qua mô hình IS LM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 24 trang )

Bài tiểu luận cuối kỳ
Môn: Kinh tế Vĩ mô
MỤC LỤC
HVTH: Nguyễn Thị Thu Thảo
Bài tiểu luận cuối kỳ
Môn: Kinh tế Vĩ mô
MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam năm vừa qua tuy có dấu hiệu phục hồi nhưng nhìn chung
chưa thoát khỏi giai đoạn trì trệ. Những dấu hiệu bất ổn vĩ mô được cải thiện so với các
năm trước; đặc biệt là nguy cơ lạm phát cao đã được ngăn chặn. Tốc độ tăng CPI từ hơn
18% năm 2011 đã kéo giảm còn 6,81% trong năm 2012; năm 2013 chỉ còn 6,04%. Đây là
kết quả nổi bật nhất trong mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô. Những khó khăn đặt ra trong
năm 2013 vẫn tiếp tục kéo dài trong năm 2014. Do đó thực hiện các chính sách vĩ mô
đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô thì yêu
cầu đặt ra là phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các chính sách vĩ mô trong đó phối hợp
chính sách tài khóa và chính sách tiền tề là mối quan tâm hang đầu của Chính phủ.
Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ là hai công cụ quan trọng trong điều hành,
quản lý kinh tế vĩ mô của bất kỳ một quốc gia nào, nhất là trong thời điểm nền kinh tế có
nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Để giải thích được tại sao phải phối hợp hai chính
sách trên, kinh tế vĩ mô đã sử dụng mô hình IS - LM để phân tích, lí giải. Đặc biệt với
tình hình Việt Nam trong giai đoạn gần đây với rất nhiều biến động thì việc nghiên cứu
mô hình IS - LM và các chính sách kinh tế vĩ mô càng trở nên cần thiết.
Nhận thấy tính cấp thiết trên, tôi lực chọn đề tài “Chính sách ổn định kinh tê vĩ
mô qua mô hình IS - LM”. Qua đề tài có thể hiểu thế nào mô hình IS - LM, qua đó tìm
hiểu về thực trạng phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ thời gian qua.
Trang 2
Bài tiểu luận cuối kỳ
Môn: Kinh tế Vĩ mô
CHƯƠNG I: MÔ HÌNH IS – ML
1.1 Mô hình IS
1.1.1 Khái niệm


Sản lượng cân bằng được xác định khi I = S
Quan sát khi đường IS chính là quan sát sự cân bằng trên thị trường hàng hóa.
Đường IS là tập hợp tất cả các điểm cân bằng trên thị trường hàng hóa. Nó cho
chúng ta biết sản lượng hay thu nhập cân bằng thay đổi như thế nào khi lãi suất thay đổi
“trong điều kiện cố định các yếu tố khác”.
1.1.2 Cách thiết lập đường IS
- Với mức lãi suất i
1,
đầu tư I
1,
tổng cầu là
AD
1
, sản lượng Y
1
. Từ đó ta xác định Điểm A

(Y
1;
i
1
)

là một tổ hợp giữa lãi suất và thu nhập
cân bằng mà ở đó thị trường hàng hóa cân
bằng.
- Giả sử lãi suất giảm từ i
1
xuống i
2

với
mức lãi suất i
2
 I
2
 AD
2
 Y
2
ta có thể xác
định được điểm B (Y
2,
i
2
) là một tổ hợp giữa lãi
suất và thu nhập cân bằng mà ở đó thị trường
hàng hóa cân bằng
- Nối hai điểm A và B ta được một đường IS
1.1.3 Ý nghĩa của đường IS
* Những điểm nằm trên đường IS là những điểm cân bằng trên thị trường hàng hóa
* Ngược lại những điểm nằm ngoài đường IS đều là những điểm không cân bằng
trên thị trường hàng hóa
* Những điểm nằm phía trên bên phải đường IS như điểm K thì thị trường hàng
Trang 3
Bài tiểu luận cuối kỳ
Môn: Kinh tế Vĩ mô
hóa dư thừa cho nên tồn kho ngoài dự kiến
* Những điểm nằm phía trong bê trái IS như điểm H thị trường Hàng hóa thiếu hụt
ngoài dự kiến.
1.1.4 Phương trình đường IS

Đường IS phản ánh những tổ hợp khác nhau về lãi suất và thu nhập mà ở đó thị
trường hàng hóa cân bằng do vậy bất cứ mức sản lượng nào nằm trên đương IS đều thỏa
mãn phương trình:
Y = C + I + G + X - IM
công thức :
Y
mbb
A
i .
'.
1
−=
A
Trong đó:
'm
: Các yếu tố tự định
: Số nhân trong nền kinh tế mở

Y
mdd
A
i .
1
−=

(b = d )
b; d: hệ số phản ánh sự nhạy cảm của đầu tư với lãi xuất
1: hệ số phản ánh sự nhạy cảm của xuất khẩu và lãi suất
Trang 4
Bài tiểu luận cuối kỳ

Môn: Kinh tế Vĩ mô
1.1.5 Độ dốc đường IS

dmY
i
tga
1
=

∆−
=
Độ dốc của đường IS phụ thuộc vào số
nhân chi tiêu (m, m’, m’’) và hệ số góc d
Nếu số nhân chi tiêu càng lớn thì hệ số
góc của đường IS càng nhỏ, đường IS càng
thoải và ngược lại.
Nếu đầu tư càng kém nhạy cảm với lãi
suất (d giảm) thì đường IS càng dốc và ngược lại.
Đường IS có độ dốc xuống do lãi suất cao hơn, tổng cầu sẽ suy giảm dẫn đến thu
nhập cũng suy giảm. Độ dốc của đường IS phụ thuộc vào độ nhạy cảm với lãi suất của
tổng cầu.Nếu những thay đổi trong lãi suất đưa đến dịch chuyển nhỏ của đường cầu,
mức thu nhập cân bằng ít thay đổi và đường IS sẽ rất dốc.
1.1.6 Sự dịch chuyển đường IS
Sự di chuyển dọc theo đường IS cho ta
thấy sự thay đổi của thu nhập do sự biến
động riêng của lãi suất làm dịch chuyển
đường tổng cầu.Ở mức lãi suất nhất
định,những nhân tố ngoài lãi suất có biến
động ( như chi tiêu Chính phủ…) và làm
Trang 5

Bài tiểu luận cuối kỳ
Môn: Kinh tế Vĩ mô
dịch chuyển đường tổng cầu, cũng làm dịch chuyển đường IS.
Thông qua mô hình số nhân tác động đến sản lượng cân bằng (Y)
1.2. Mô hình LM
1.2.1 Khái niệm
Mục đích xây dựng đường LM nhằm mô tả sự tác động của sản lượng hay thu nhập
với lãi suất cân bằng.
Quan sát đường ML chính là quan sát sự cân bằng trên thị trường tiền tệ.
Đường LM là tập hợp tất cả các điểm cân bằng trên thị trường tiền tệ, nó cho chúng
ta biết lãi suất cân bằng thay đổi như thế nào khi thu nhập thay đổi, trong điều kiện cố
định các yếu tố khác.
1.2.2 Thiết lập đường LM
Muốn xây dựng đường LM ta bắt đầu từ sự thay đổi của thu nhập
Với thu nhập
Giả định rằng mức cung tiền cố định tại MS, với mức thu nhập ở Y
1
, đường cầu
tiền là LP
1
và điểm cân bằng của thị trường tiền tệ là E
1
với mức lãi suất là i
1
, từ đó có thể
xác định điểm A của tổ hợp (i
1,
Y
1
) là tổ hợp giữa lãi suất và thu nhập mà ở đó thị trường

tiền tệ cân bằng .
Trang 6
Bài tiểu luận cuối kỳ
Môn: Kinh tế Vĩ mô
Khi thu nhập tăng Y
1
đến Y
2
đường cầu tiền dịch chuyển lên LP
2
với điểm cân bằng
E
2
có lãi suất cân bằng i
2.
Từ đó có thể xác định điểm B của tổ hợp (i
2,
Y
2
) . Đường đi qua
2 điểm A, B của đồ thị trên là đường LM.
Cũng có thể xây dựng đường LM bằng công thức:


LP = k.Y - hi
Khi thu nhập tăng lên đòi hỏi một lượng cầu tiền tăng thêm, dẫn đến tăng lãi suất
do cung tiền không đổi.
Đường LM có độ dốc nghiêng đi lên bởi khi thu nhập tăng, lãi suất phải tăng
theo để giảm bớt cầu tiền nhằm duy trì sự cân bằng của thị trường tiền tệ khi cung tiền
không đổi.Khi cầu tiền nhạy cảm với thu nhập và kém nhạy nhạy cảm với lãi suất thì

đường LM sẽ dốc .Nếu mức cung tiền tăng lên, đường LM sẽ dịch chuyển sang phải.
Ứng với những mức thu nhập (Y
1;
Y
2
) lãi suất sẽ thấp hơn để khuyến khích mọi người giữ
thêm phần tiền cung ứng mới gia tăng.
1.2.3 Ý nghĩa của đường LM
Những điểm nằm trên đường LM là những điểm cân bằng trên thị trường tiền tệ.
Ngược lại những điểm nằm ngoài đường LM đều là những điểm không cân bằng
trên thị trường tiền tệ (H, K)
Những điểm nằm phía trên (bên trái) LM như điểm H tiền tệ dư cung tiền tệ
Những điểm nằm phía dưới (bên phải) LM như điểm K tiền tệ dư cầu tiền tệ
Trang 7
Bài tiểu luận cuối kỳ
Môn: Kinh tế Vĩ mô
1.3. Cân bằng đồng thời trên cả 2 thị trường hàng hóa và tiền tệ.
Đường IS phản ánh cá trạng thái cân bằng của thị trường hàng hóa với các tổ hợp
khác nhau giữa lãi suất và thu nhập. Đường LM phản ánh các trạng thái cân bằng của thị
trường tiền tệ cũng như của những tổ hợp này. Tác động qua lại giữa 2 thị trường ấn định
mức lãi suất và thu nhập cân bằng đồng thời cho cả 2 thị trường.
Mô hình IS - LM cho biết trạng thái cân bằng đồng thời đó xảy ra tại giao điểm
của 2 đường IS và LM.
Từ đồ thị cho thấy:
Ở mức thu nhập nhỏ hơn Y
1
, thị trường hàng hóa cân bằng tại điểm ứng với lãi suất
nhỏ hơn i
1
. Nhưng với mức lãi suất này thị trường tiền tệ cân bằng tại điểm ứng với mức

Trang 8
Bài tiểu luận cuối kỳ
Môn: Kinh tế Vĩ mô
thu nhập lớn hơn Y
1,
như vậy cầu tiền thấp hơn cung tiền đã có nên lãi suất phải giảm
xuống để tổng cầu và thu nhập tăng lên tới điểm với lãi suất i
1
thì cả 2 thị trường mới
cùng cân bằng.
1.4. Sự phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô trên mô hình IS-LM.
Nếu chính phủ sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô môt cách riêng rẽ, độc
lập thì sẽ gây ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế.
1.4.1 Tác động của chính sách tài khóa
Trong nền kinh tế đóng, giả sử Chính phủ
sử dụng chính sách tài khóa mở rộng,
bằng việc tăng chi tiêu của Chính phủ
thêm một lượng là ∆G, khi đó tổng chi
tiêu của nền kinh tế tăng, tổng cầu tăng,
đường IS dịch chuyển sang phải từ IS đến
IS
1
do tổng cầu tăng, cầu tiền tăng, đẩy lãi
suất tăng lên từ i
0
đến i
1
. Lãi suất tăng là nguyên nhân làm giảm đầu tư (đây chính là hiện
tượng tháo lui đầu tư).
* EE

1
, Y
0
tăng lên Y
1
, i
0
tăng lên i
1
, i tăng làm cho đầu tư I giảm sút  Tác động
lấn át. Như vậy: Tăng chi tiêu chính phủ sẽ làm giảm một hay nhiều thành tố khác của chi
tiêu tư nhân. Tác động lấn át đầu tư tư nhân. Tăng chi tiêu chính phủ nhưng không tăng
cung tiền, giúp sản lượng tăng, lãi suất tăng, nhưng i tăng làm giảm cầu đầu tư tư nhân.
Quy mô tháo lui đầu tư phụ thuộc vào độ dốc của đường LM.Nếu tăng mức cung tiền vừa
đủ để duy trì mức lãi suất i
0
thì LM sẽ dịch chuyển đến LM
1
, sản lượng cân bằng tại E
2
,
thu nhập tăng nhưng lãi suất không tăng nên không gây hệ quả thoái lui đầu tư →chính
sách tài chính mở rộng sẽ đạt được hiệu quả tốt hơn khi thực hiện cùng với chính sách
tiền tệ nới lỏng.
* Chính phủ sử dụng chính sách tài khóa thắt chặt :IS
0
→IS
2
: E
0

→E
2
khi đó Y
0
Trang 9
Bài tiểu luận cuối kỳ
Môn: Kinh tế Vĩ mô
giảm xuống Y
2
, i
0
giảm xuống i
2
.Nhưng do i giảm→ I tăng→Y tăng làm giảm hoặc vô
hiệu hóa chính sách này, nền kinh tế lại rơi vào tình trạng tăng trưởng nóng trở lại
1.4.2 Sự tác động của chính sách tiền tệ
* Chính sách tiền tệ lỏng: LM
0
→LM
1
thì E
0
→E
1
khi đó Y
0
tăng lên Y
1
,i
0

giảm i
1
.
Mà i giảm làm cho I tăng dẫn đến Y càng tăng quá mức nền kinh tế rơi vào tăng trưởng
nóng.
* Chính sách tiền tệ thắt chặt: LM
0
→LM
2
thì E
0
→E
2
khi đó Y
0
giảm xuống Y
2
, i
0
tăng lên i
2

Do đó cần phải phối hợp giữa
chính sách tài khóa và chính sách tiền
tệ để khắc phục những nhược điểm khi
sử dụng riêng rẽ từng chính sách đã
nêu trên.
Trong nền kinh tế đóng, sự
phối hợp giữa chính sách tài khóa và
chính sách tiền tệ tùy thuộc vào các

công cụ mà Chính phủ đưa ra, phụ
thuộc vào độ dốc của đường IS và
đường LM, đồng thời phụ thuộc vào
mức độ phản ứng, mức độ tác động của hai chính sách này. Chúng ta có thể xem xét một
số trường hợp sau:
1.4.3 Mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa
Chính sách tiền tệ (CSTT) và chính sách tài khóa (CSTK) là hai công cụ quản lý
kinh tế vĩ mô quan trọng, mỗi chính sách có mục tiêu riêng, nhưng đều cùng theo đuổi
mục tiêu chung là tăng trưởng kinh tế bền vững và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Nội dung cơ bản của CSTK là kiểm soát thu chi ngân sách do những khoản thu chi
này có tác động trực tiếp đến tăng trưởng, lạm phát và nhiều chỉ số kinh tế vĩ mô khác. Vì
Trang 10
Bài tiểu luận cuối kỳ
Môn: Kinh tế Vĩ mô
thế, CSTK được coi là một trong những chính sách quan trọng đối với việc ổn định và
thực thi chính sách kinh tế vĩ mô, một CSTK vững mạnh sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
và làm cơ sở để các doanh nghiệp đưa ra các quyết định đầu tư lớn. Trong mối quan hệ
với giá cả, CSTK là một trong những nguyên nhân cơ bản của lạm phát, một sự nới lỏng
CSTK đều gây áp lực tăng giá cả hàng hóa dịch vụ trên hai kênh là thúc đẩy tăng tổng
cầu và tài trợ thâm hụt.
CSTT là công cụ của NHTW để điều tiết quá trình cung ứng tiền, lãi suất và tín
dụng, kết quả là chi phối dòng chu chuyển tiền và khối lượng tiền để đạt mục tiêu chính
sách đề ra. Một CSTT nới lỏng sẽ làm tăng cung tiền, giảm lãi suất, qua đó thúc đẩy tăng
tổng cầu và gây áp lực lạm phát nếu cung tiền tăng quá mức so với sản lượng tiềm năng.
CSTK tác động đến CSTT trước hết qua kênh tài trợ thâm hụt ngân sách: Nếu thâm
hụt ngân sách được tài trợ từ vay nước ngoài sẽ ảnh hưởng đến cán cân thanh toán, nếu
tài trợ bằng cách vay từ NHTW thì sẽ làm tăng lượng tiền cung ứng và mặt bằng giá cả,
nếu thâm hụt ngân sách được bù đắp bằng cách vay từ các NHTM thì nguồn vốn cho vay
các khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sẽ giảm, hạn chế năng lực đầu tư của các khu vực
kinh tế này và ảnh hưởng xấu đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, CSTK còn ảnh

hưởng đến dòng vốn quốc tế và khả năng của NHTW trong việc kiểm soát luồng ngoại
tệ, nếu chính sách thu chi ngân sách không hợp lý thì sẽ tác động tiêu cực đến hiệu quả
phân bổ nguồn lực và làm tăng rủi ro liên quan đến dòng vốn quốc tế.
CSTT tác động đến CSTK tùy theo mức độ điều chỉnh các công cụ CSTT, một
CSTT thắt chặt sẽ làm giảm đầu tư, khả năng thu thuế và nguồn thu ngân sách, một sự
giảm giá nội tệ sẽ làm gia tăng khoản nợ Chính phủ bằng ngoại tệ qui đổi, nếu NHTW
điều chỉnh tăng lãi suất thì giá trái phiếu Chính phủ sẽ giảm và ảnh hưởng đến khả năng
cân đối ngân sách.
Các khoản thu chi của Chính phủ được phản ánh rõ qua các giao dịch trên tài khoản
kho bạc mở tại NHTW hoặc các NHTM, tiền gửi kho bạc tăng cao sẽ làm giảm nguồn
vốn khả dụng của các NHTM, qua đó làm tăng lãi suất liên ngân hàng. Tiền gửi của
Chính phủ tại NHTW chiếm tỉ trọng lớn trong tiền cơ bản, nên cũng là yếu tố quan trọng
Trang 11
Bài tiểu luận cuối kỳ
Môn: Kinh tế Vĩ mô
làm thay đổi tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, việc chuyển tiền hai chiều
trên tài khoản của Chính phủ tại NHTW sẽ gây biến động đến tiền cơ bản. Đây là những
yếu tố gây áp lực đến việc kiểm soát cung tiền và thực thi CSTT, việc kiểm soát cung tiền
và lãi suất sẽ khó khăn hơn nếu một phần tiền gửi kho bạc được gửi tại các NHTM.
Để hạn chế những tác động bất lợi giữa CSTK và CSTT, cả hai chính sách này phải
nhất quán về mặt mục tiêu, phải tạo ra sự đồng bộ và bổ sung cho nhau trong quá trình
thực thi. Khi bù đắp thâm hụt ngân sách, Bộ Tài chính có thể phát hành trái phiếu Chính
phủ và NHTW mua vào, tạo thêm công cụ để điều tiết thị trường tiền tệ. Trong quá trình
thực thi CSTK, việc tài trợ thâm hụt và các khoản thu chi lớn của Chính phủ phải có kế
hoạch và được thông báo trước cho NHTW, giúp NHTW dự báo được diễn biến cung tiền
để kịp thời điều chỉnh theo mục tiêu đề ra và đảm bảo hiệu quả của CSTT.
Mối quan hệ giữa CSTT và CSTK cũng được chứng minh qua mô hình IS-LM.
Theo mô hình này, tăng chi tiêu của Chính phủ có tác động làm tăng cung tiền, làm giảm
lãi suất trên thị trường tiền tệ. Ngược lại, tăng thu thuế có tác động làm tăng lãi suất vì
khi đó cung tiền giảm. Mô hình IS-LM giúp các nhà hoạch định chính sách điều chỉnh

CSTT và CSTK, để có tác động thích hợp lên tổng cầu và lãi suất trong nền kinh tế. Bên
cạnh đó, mô hình Timbergen của nhà kinh tế học cùng tên người Hà Lan có thể giúp các
nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô tìm kiếm được sự phối hợp hiệu quả giữa CSTT
và CSTK
1. 4.4 Sự phối hợp chính sách tài khoá mở rộng và chính sách tiền tệ mở rộng
Trang 12
Bài tiểu luận cuối kỳ
Môn: Kinh tế Vĩ mô
Khi Chính phủ sử dụng chính sách
tài khoá lỏng (tăng chi tiêu, giảm thuế) thì
tổng cầu sẽ tăng lên, đường IS sẽ dịch
chuyển sang phải từ IS0 → IS1 nền kinh tế
đạt trạng thái cân bằng tại E0. Kết quả là
lãi suất tăng từ i0 → i1, mức sản lượng cân
bằng tăng từ Y0 → Y1. Do lãi suất tăng,
đầu tư giảm, xảy ra hiện tượng tháo lui đầu
tư.
Khi Chính phủ sử dụng chính sách
tài khoá mở rộng (tăng chi tiêu, giảm
thuế) và chính sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền), đường IS sẽ dịch chuyển đến IS2,
đường LM dịch chuyển đến LM2.
Để tránh được hiện tượng tháo lui đầu tư, Chính phủ phải kết hợp chính sách tiền
tệ lỏng và chính sách tiền tệ lỏng. Đó là việc Chính phủ tăng mức cung tiền và duy trì
mức lãi suất i0, đường LM dịch chuyển sang phải từ LM0 → LM1 nền kinh tế đạt trạng
thái cân bằng mới tại E2, lúc này lãi suất giảm từ i1 về mức lãi suất ban đầu i0, sản lượng
cân bằng tăng lên từ Y1 → Y2. Kết quả của việc phối hợp hai chính sách là: Thu nhập
tăng nhanh từ Y0 → Y2 và ổn định được lãi suất
1.4.5 Sự phối hợp giữa chính sách tài khoá chặt và chính sách tiền tệ chặt
Chính sách tài khoá chặt (chính sách tài khoá thắt chặt) là chính sách sử dụng nhằm
tăng thuế T, giảm chi tiêu G để giảm

tổng cầu AD và thu hẹp phạm vi phát
triển của nền kinh tế.
Hình trên miêu tả Chính phủ sử
dụng chính sách tài khoá thắt chặt và
chính sách tiền tệ thắt chặt làm giảm
sản lượng cân bằng của nền kinh tế từ
Y
0
→ Y
2
, lãi suất cân bằng không đổi.
Chính sách tiền tệ chặt (chính sách
Trang 13
Bài tiểu luận cuối kỳ
Môn: Kinh tế Vĩ mô
tiền tệ thắt chặt) sử dụng nhằm giảm mức cung tiền MS, tăng lãi suất i để giảm tổng cầu
AD nhằm giảm sản lượng cân bằng Y
Khi Nhà nước sử dụng chính sách tài khoá chặt đường IS sẽ dịch chuyển sang trái, IS
giảm từ IS
0
→ IS
1
nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng mới, sản lượng cân bằng giảm từ Y
0
→ Y
1
, lãi suất giảm từ i
0
→ i
1

.
Để kìm hãm bớt tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế tránh nền kinh tế rơi vào tình
trạng quá nóng, Nhà nước có thể phối hợp với chính sách tiền tệ thắt chặt. Nhà nước
giảm mức cung tiền, tăng lãi suất i, đường LM sẽ dịch chuyển sang trái LM giảm từ LM
0
→ LM
1
. Nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng mới là E
2
, lãi suất tăng từ i
1
→ i
2
, sản lượng
giảm từ Y
1
→ Y
2
.
Kết quả của việc phối hợp hai chính sách đã làm cho sản lượng giảm nhanh, lãi
suất i không thay đổi, tránh được nền kinh tế rơi vào trạng thái tăng trưởng quá nóng.
Trang 14
Bài tiểu luận cuối kỳ
Môn: Kinh tế Vĩ mô
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA,
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM NHỮNG NĂM QUA.
Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ là hai công cụ trọng yếu trong việc quản
lý, điều tiết vĩ mô, đảm
bảo
cân đối thu- chi ngân sách nhà nước, ổn định tiền tệ, tăng

trưởng kinh tế bền vững… Là hai chính sách quan trọng trong điều hành kinh tế vĩ mô
nhằm mục tiêu phát triển ổn định và bền vững, chính sách tài khóa v
à
c
h
í
nh
sách tiền
tệ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có tác động qua lại với nhau và đến nền kinh tế.
Chính sách tiền tệ chỉ có thể thành công nếu có sự phối hợp với chính sách tài khóa và
ngược lại. Lý tưởng nhất là chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ phối hợp được đầy
đủ với nhau cùng với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
2.1 Tổng quan tình hình kinh tế Việt Nam những năm qua
Trong những năm qua nền kinh tế Việt Nam có nhiều biến động song song với đó là
hiện tượng lạm phát cao và kéo dài, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức trung
bình.
Biểu đồ 1: Tốc độ tăng GDP giai đoạn 2007 – 2013
Nguồn: Tổng cục thống kê
Các số liệu thống kê cho thấy, GDP nước ta năm 2007, đạt mức 8,46% sau đó sụt
giảm năm 2008 ở mức 6,31% và 2009 là 5,32%, năm 2010 lại tăng lên 6,78%, hai năm
tiếp theo 2011 và 2012 lại tiếp tục sụt giảm và ở mức 5,89% và 5,03%, cuối cùng có dấu
hiệu tăng lên ở năm 2013 đạt 5.42%. Sự sụt giảm của GDP các năm 2007 – 2009 có thể
giải thích là do suy thoái kinh tế chung của thế giới, Đến năm 2010, hướng phục hồi gợi
mở, nhiều nhận định đều chung lạc quan: những gì khó khăn nhất đã qua, hay nền kinh tế
đã chạm đáy. Tuy nhiên, năm 2011 và 2012, triển vọng phục hồi càng xấu đi và năm 2012
có tỷ lệ tăng GDP thấp nhất trong vòng nhiều năm nhưng điều cần nhấn mạnh là sự
“không bình thường” trong giai đoạn 2007 đến nay.
Trang 15
Bài tiểu luận cuối kỳ
Môn: Kinh tế Vĩ mô

Cuộc khủng hoảng nổ ra, vào năm 2009 Việt Nam nhanh chóng có ứng xử mà điển
hình là gói kích cầu 1 tỷ USD qua bù lãi suất. Gói hỗ trợ này là tác động chính đối với lãi
suất cho vay khá mềm trong năm 2009. Tuy nhiên, những năm sau đó lãi suất cho vay
liên tục leo thang, đặc biệt là sự ngột ngạt năm 2011. Nửa cuối 2012 và đến 2013 lãi suất
cho vay mới bắt đầu hạ nhiệt khi lạm phát được kiềm chế.
Biểu đồ 2: Tình hình tín dụng và lãi vay bình quân.

Nguồn: Trung tâm nghiên cứu, Tập đoàn Đầu tư Phát triển Việt Nam
Bàng 1: Tốc độ tăng cung tiền và tín dụng giai đoạn 2007 – 2013
Một số chỉ tiêu
20
07
20
08
20
09
20
10
20
11
20
12
20
13
Tốc độ tăng M2(%)
41
.2
20
.3
27

.5
29
.8 12
22
.4
Tốc độ tăng tín dụng
(%)
48
.9
23
.4
37
.5
31
.2
10
.9
8.
9
7.
18
M2/GDP danh nghĩa 1. 1. 1. 1. 0. 1.
Trang 16
Bài tiểu luận cuối kỳ
Môn: Kinh tế Vĩ mô
(lần) 16 08 23 34 7 1
Tín dụng/ GDP danh
nghĩa (lần)
0.
9

0.
86
1.
06
1.
16
0.
65
0.
6
Tỷ lệ cho vay/ Huy
động (LDR) -
0.
95
1.
01
1.
01
0.
7
0.
6
Nguồn: Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia
Lạm phát của Việt Nam hội tụ đủ các nguyên nhân: Lạm phát vừa do cầu kéo, vừa
do chi phí đẩy và vừa do lạm phát kỳ vọng; vừa có nguyên nhân từ yếu tố tiền tệ, vừa
có nguyên nhân từ yếu tố phi tiền tệ. Đặc biệt, nhiều nguyên nhân được tích lũy từ nhiều
năm qua như: (i) Mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào mở rộng đầu tư, nhưng đầu tư lại
kém hiệu quả, nhất là đầu tư công; (ii) Giá cả của nhiều mặt hàng như điện, xăng,…
được điều chỉnh tăng; (iii) Nới lỏng chính sách tiền tệ của những năm trước…Thực tế,
lạm phát ở Việt Nam luôn vượt quá một con số kể từ năm 2007 đến nay (trừ năm

2009).
Biểu đồ 2: Tình hình lạm phát giai đoạn 2007 – 2013.
Nguồn: Tổng cục thống kê
2.2 Phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ:
Trong những năm qua, về cơ bản 2 chính sách tài khóa và tiền tệ đã đạt được sự nhất
quán về mục tiêu điều hành. Tuy vậy, hiệu quả phối hợp trong thực thi 2 chính sách này
Trang 17
Bài tiểu luận cuối kỳ
Môn: Kinh tế Vĩ mô
vẫn còn hạn chế, đôi khi còn thiếu đồng bộ, nhịp nhàng; liều lượng sử dụng 2 chính sách
này chưa phù hợp và hiệu quả.
Năm 2009, nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế do tác
động của cuộc
khủng

ho

ng
tài chính và kinh tế thế giới, chính sách tiền tệ được điều
hành nới lỏng một cách thận trọng và chính sách tài khóa mở rộng (cho vay tăng trưởng
tín dụng cao, tăng đầu tư công, bội chi NSNN năm 2009 tăng lên mức 6,9% GDP ).
Điều này đã giúp Việt Nam tăng trưởng 5,32% và kiềm chế lạm phát ở mức 6,52%.
Bước sang năm 2010, trong khi chính sách tiền tệ đã giảm dần mức độ nới lỏng thì
chính sách tài khóa lại mở rộng quá mức (nhất là trong lĩnh vực đầu tư công để đạt được
mục tiêu tăng trưởng cao hơn năm 2009). Kết quả là, dù tốc độ tăng trưởng năm 2010 đạt
6,78%, nhưng lạm phát 2010 lại tăng tới 11,75% (cao gấp 2 lần so với năm 2009) Thứ
nữa, trong quá trình thực thi chính sách, có những thời điểm chính sách tiền tệ và chính
sách tài khóa được điều hành khá độc lập, thiếu sự phối hợp nhịp nhàng dẫn đến sự xung
đột, triệt tiêu hoặc làm giảm hiệu quả của 1 trong 2 chính sách. Chẳng hạn, khi Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam nỗ lực kéo giảm chi phí đầu vào của hoạt động sản xuất - kinh

doanh bằng công cụ lãi suất, thì Bộ Tài chính lại quyết định điều chỉnh tăng giá xăng
ngay trước hoặc sau thời điểm cắt giảm lãi suất làm tăng chi phí đầu vào cho các hoạt
động sản xuất, tăng nguy cơ lạm phát.
Năm 2011, tỷ lệ lạm phát tăng tốc vào các tháng đầu năm buộc Chính phủ đã phải
đưa ra Nghị quyết 11 với các chính sách tiền tệ thắt chặt và chính sách tài khoá thu hẹp.
Các chính sách này một mặt làm giảm tốc độ tăng giá nhưng mặt khác lại tác động giảm
tốc độ tăng sản lượng của nền kinh tế. Nguyên nhân của tình trạng lạm phát cao trong
năm 2011 về cơ bản là do tiền tệ đã được nới lỏng trong một thời gian dài. So với các
nước trong khu vực, tốc độ tăng cung tiền M2 của Việt Nam khá cao. Tính trung bình giai
đoạn 2000-2010, tốc độ tăng cung tiền M2 của Việt Nam dẫn đầu khu vực với mức tăng
Trang 18
Bài tiểu luận cuối kỳ
Môn: Kinh tế Vĩ mô
31,4%, sau đó là của Trung Quốc (17,8%), Indonesia (13%), Philippines (10,2%),
Malaysia (8,7%) và Thái Lan (6,2%). Riêng năm 2010, tốc độ tăng cung tiền của Việt
Nam thậm chí lên tới 33,3%. Do cung tiền tăng nhanh nên tỷ lệ cung tiền M2 trên GDP
của Việt Nam tăng lên rất nhanh. Từ sau khủng hoảng tài chính 1997-1999, trong khi các
nước trong khu vực có xu hướng duy trì ổn định tỷ lệ cung tiền trên GDP thì tỷ lệ này
luôn có xu hướng tăng ở Việt Nam. Tín dụng tăng nhanh đã giúp giới đầu cơ đẩy giá bất
động sản tăng cao trong một thời gian dài, đặt nền kinh tế trong trạng thái “bong bóng”
bất động sản. “Bong bóng” bất động sản khuyến khích người dân tiết kiệm ít đi và tiêu
dùng nhiều hơn, tạo áp lực cho giá cả… Trước tình hình trên, Chính phủ đã đề ra chủ
trương với các biện pháp mạnh, CPI hằng tháng giảm nhanh, bắt đầu từ 8/2011. Lạm phát
tháng 8/2011 (so cùng kỳ) là 23% đã giảm, đến 8/2012 chỉ còn 5%. Một nguyên nhân
quan trọng của kết quả nêu trên là việc, Ngân hàng Nhà nước đã bơm tiền ra thị trường
bằng các kênh chính thức (như hỗ trợ đầu tư, kể cả trái phiếu chính phủ, hỗ trợ thanh
khoản cho ngân hàng thương mại qua thị trường mở) và sau đó bằng các biện pháp
nghiệp vụ đã thu tiền về nhanh, làm cho việc cung tiền (qua M2) danh nghĩa thì lớn,
nhưng tiền (nhất là tiền mặt) thực sự tham gia lưu thông thì ít hơn.
Chính sách tài khóa trong năm 2012 đã phải đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải, từ

thu ngân sách nhà nước (NSNN), chi NSNN, đến thâm hụt NSNN, nợ công và tác động
của chính sách quản lý giá cả đến NSNN nói riêng, đến ổn định kinh tế vĩ mô nói chung.
Tổng thu ngân sách năm 2012 ước đạt 741.500 tỷ đồng, tăng 5,3% so với 2011. Do thị
trường nhà đất gần như tê liệt, năm 2012 chứng kiến thất thu từ thuế sử dụng đất và nhà
ở. Theo HSBC, thu từ thuế sử dụng đất và nhà ở giảm 24,7% trong năm 2012. Nhập khẩu
ít cũng kéo thuế nhập khẩu giảm 3,2%. Thu ngân sách nội địa không tăng đáng kể so với
dự toán, nhưng thu từ dầu mỏ tăng mạnh (28,7%) do giá cả tăng. Còn tổng chi ngân sách
ước đạt 904.100 tỷ đồng, tăng 14,6% và gần bằng mức dự toán cả năm. Bội chi ngân sách
là hơn 160 nghìn tỷ, bằng với mức dự toán cả năm là 4,8%. Tổng giá trị trái phiếu Chính
phủ tính tới tháng 9 vào khoảng 22 tỷ USD (ADB), tương đương 80% tổng thu ngân
sách. Riêng trong năm 2012, tổng khối lượng trái phiếu chính phủ và có bảo lãnh phát
Trang 19
Bài tiểu luận cuối kỳ
Môn: Kinh tế Vĩ mô
hành tại các tổ chức là 163,3 nghìn tỷ đồng (7,8 tỷ USD), ngoài ra khoảng hơn 50 nghìn
tỷ trái phiếu cũng được phát hành tại Ngân hàng Phát triển (bảo lãnh) và Ngân hàng
Chính sách Xã hội.
Về chính sách tiền tệ Ngân Hàng Nhà Nước thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng
trong suốt cả năm 2012 thông qua việc lần lượt hạ lãi suất cơ bản gần như mỗi quý 1
điểm phần trăm. Trong cả năm 2012, mặt bằng lãi suất cơ bản đã thấp hơn 6 điểm phần
trăm so với hồi đầu năm. Lần cắt giảm gần đây nhất vào cuối tháng 12 được hậu thuẫn
bởi lạm phát thấp một cách bất thường vào những tháng cuối cùng của năm.
Tăng trưởng tín dụng từ mức âm trong nửa đầu năm chuyển sang phía dương trong
nửa cuối năm, lên mức 8,91% vào cuối năm 2012 so với 2011. Mặc dù đã vượt qua dự
báo 5% của nhiều chuyên gia, song con số này vẫn thấp hơn mục tiêu điều hành từ 1-3
điểm phần trăm, cho thấy những diễn biến thực không khả quan như mong đợi. Vào cuối
tháng 12/2012, tổng huy động vốn tăng 20,32%, đưa M2 tăng 22.4% so với cuối năm
2011.
Cho đến năm 2013, chính sách tiền tệ thắt chặt của năm 2011 đã phát huy tác dụng,
làm cho tỷ lệ lạm phát ở mức thấp 2 năm liên tiếp 2012 và 2013, chỉ 6,81% và 6,04% so

với mức 18,13% năm 2011 và 11,75% năm 2010. Tỷ lệ lạm phát thấp trong hai năm 2012
và 2013 là một thành công lớn của chính sách tiền tệ trong việc kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô. 2013 Chính phủ chủ trương thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ,
triệt để tiết kiệm đảm bảo mục thiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát. Nhìn
chung, phối hợp của hai chính sách vĩ mô này vẫn còn nhiều hạn chế, có những lúc còn
chưa thực sự nhịp nhàng. Lúc CSTT “thắt” quá chặt, trong khi CSTK lại mở rộng; có lúc
tín dụng mở rất nhanh nhưng đầu tư nhà nước lại mở chậm. Liều lượng và mức độ sử
dụng các công cụ từng thời kỳ, giai đoạn chưa tạo ra sức mạnh kết hợp tổng thể. Sự phối
hợp trong việc hoạch định và thực hiện mục tiêu chính sách ở tầm ngắn hạn và dài hạn,
sự phối hợp trong việc sử dụng các công cụ còn hạn chế.
2.3 Những hạn chế trong sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài
khóa
Trang 20
Bài tiểu luận cuối kỳ
Môn: Kinh tế Vĩ mô
Bên cạnh những mặt đạt được trên thì còn có một số điểm chưa “tương
thích” giữa hai chính sách.
Thứ nhất, chính sách tiền tệ phải theo đuổi nhiều mục tiêu và chưa có sự độc lập
tương đối.
Trên thế giới, ở các nước có ngân hàng trung ương (NHTW) độc lập, NHTW
được chủ động thực thi các công cụ của chính sách tiền tệ và bị cấm cho chính phủ vay
không theo điều kiện thị trường, đồng thời phải có trách nhiệm giải trình trước Quốc
hội và trước công chúng các quyết định của mình. Các nhà hoạch định chính sách tiền
tệ phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng của chính sách tiền tệ, và không thể bị
gây áp lực làm chính sách tiền tệ đi chệch hướng.
Đối
với một số quốc gia theo đuổi
lạm phát mục tiêu, NHTW chỉ thực hiện mục tiêu duy nhất là kiểm soát lạm phát
Ở Việt Nam, tại
Đ

iề
u
10 của Luật NHNN năm 2010 có quy định: “Thống đốc
NHNN quyết định việc sử dụng công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bao gồm
tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các
công cụ, biện pháp khác theo quy định của Chính phủ”. Nhưng tại Khoản 1,
Đ
iề
u
4
Luật NHNN 2010 quy định: “ Hoạt động của NHNN nhằm ổn định giá trị đồng tiền;
bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng; đảm bảo sự an
toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, bên cạnh nhiệm vụ kiểm soát lạm
phát, thì NHNN còn có nhiệm vụ lớn khác là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế…
Thứ hai, phối hợp chính sách trong việc kiểm soát lãi suất, ổn định thị trường
tiền tệ còn nhiều hạn chế và tồn t

i
.
Trong những năm qua, NSNN thường xuyên thâm hụt ở mức khá cao dẫn đến sức
ép tăng lãi suất trong nền kinh tế thông qua tăng lãi suất phát hành trái phiếu chính
phủ. Năm 2010, lãi suất trái phiếu chính phủ có thời điểm còn cao hơn lãi suất huy
động vốn của các TCTD, gây khó khăn cho hoạt động huy động vốn của các TCTD, tạo
Trang 21
Bài tiểu luận cuối kỳ
Môn: Kinh tế Vĩ mô
sức ép tăng lãi suất, giảm tính hiệu
lực của việc điều hành giảm lãi suất theo chủ
trương của Chính phủ. Trên thực tế, Kho bạc

Nhà nước vẫn gửi tại NHNN ảnh hưởng lớn đến vốn khả dụng và khả năng thanh
toán của NHTM.
Thứ ba, phối hợp chính sách trong việc cung cấp thông tin phục vụ cho công tác
dự báo mức lạm phát còn
hạn
chế
Hiện nay, Bộ Tài chính chưa thiết lập được cơ chế thông tin một cách thường
xuyên về các dòng vốn của thu - chi NSNN và các định chế tài chính do Bộ Tài chính
quản lý, dẫn đến chưa thống kê và kiểm soát được một tỷ lệ đáng kể phương tiện thanh
toán trong nền kinh tế. Ngoài ra, thiếu sự phối hợp chặt chẽ trong việc xác định mục tiêu
dài hạn như dự báo mức lạm phát. Việc cố định mức lạm phát kế hoạch hàng năm, mà
không đưa ra biên độ dao động hợp lý dẫn đến phải điều chỉnh nhiều lần, đã làm mất
lòng tin của công chúng đối với những cam kết của các nhà hoạch định chính sách.
Trang 22
Bài tiểu luận cuối kỳ
Môn: Kinh tế Vĩ mô
CHƯƠNG III : GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHỐI HỢP GIỮA CHÍNH
SÁCH TÀI KHÓA VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
- Tăng cường và hoàn thiện việc thu thập thông tin, phân tích thông tin và trao đổi
thông tin để việc thông qua và thực hiện các chính sách tài khóa và chính sách tiền
tệ được chuẩn xác.
Đ
â
y
là khâu yếu nhất hiện nay, cần phải tăng cường sự phối hợp để
đảm bảo các thông tin được cập nhật kịp thời. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến bất ổn định
các cân đối vĩ mô và đẩy lạm phát tăng cao thời gian qua nằm ở cơ cấu kinh tế
,

h

iệ
u
quả đầu tư. Tình trạng bội chi ngân sách và đặc biệt tình trạng sử dụng thiếu hiệu quả
nguồn vốn đầu tư từ Chính phủ, tăng trưởng tín dụng cao trong những năm gần đây là
những nhân tố trực tiếp dẫn tới tình t
r

ng
lạm phát hiện nay. Vì thế, cần có sự phối
hợp trao đổi thông tin, phối hợp điều hành chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
nhất quán, phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế.
- Thực tế cho thấy, để ổn định thị trường tiền tệ, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
cần được thực hiện theo hướng ổn định lãi suất, ổn định thanh khoản của hệ thống
tài chính, phát triển các phân khúc của thị trường tài chính và phối hợp cung cấp
thông tin.
đ
ể giúp ổn định thanh khoản của hệ thống TCTD, Bộ Tài chính cần trao đổi
thông tin kịp thời về dự kiến các khoản thu chi ngân sách, ngoài ngân sách; kế hoạch
phát hành trái phiếu chính phủ hàng năm, hàng quý để làm cơ sở cho điều hành chính
sách tiền tệ.
- Cần tăng cường sự phối hợp để thực hiện huy động nguồn bù đắp bội chi ngân sách,
cũng như việc huy động trái phiếu chính phủ cho các công trình giao thông thủy lợi
trong thời gian tới, nhất là thời hạn huy động, hình thức huy động, lãi suất huy động,
thời điểm huy động thông qua hình thức trao đổi, lấy ý kiến, để tránh diễn biến không có
lợi trên thị trường tiền tệ, tác động xấu đến kinh tế vĩ mô.
- Tiếp tục sự phối hợp để hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính- ngân sách - tiền tệ để đảm
bảo phù hợp với các thông lệ quốc tế, phục vụ quá trình hội nhập trong thời gian tới.
Đặc
biệt là cơ chế kiểm tra, giám sát, cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt
Trang 23

Bài tiểu luận cuối kỳ
Môn: Kinh tế Vĩ mô
KẾT LUẬN
Từ mô hình IS – LM có thể giúp cho các nhà hoạch định chính sách đưa ra những
chính sách kinh tế phù hợp. Khi phân tích bất kỳ sự thay đổi nào trong chính sách tiền tệ
và tài khóa, điều quan trọng là có thể các chính sách này không độc lập với nhau. Sự
thay đổi trong chính sách này có thể làm tác động tới chính sách kia. Sự phụ thuộc này
có thể làm biến dạng tác động của hai chính sách này. Do đó, cần phải có sự phối hợp
chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh
doanh để phục hồi tăng trưởng và tái cơ cấu kinh tế cho năm 2014 sắp tới.
Trang 24

×