Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

BÀI 2 một số giải pháp tăng cường xuất khẩu, lấy lại thăng bằng xuất nhập ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.35 KB, 24 trang )

Lời Cảm Ơn
Lời đầu tiên chúng em xin gửi lời cảm ơn tới trường Đại Học Công
Nghiệp TP Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho chúng em có được một môi trường
học tập thoải mái về cơ sở hạ tầng cũng như vật chất.
Chúng em xin cảm ơn thầy cô khoa quản trị kinh doanh đã giúp chúng em có
thêm nhiều kiến thức mới về các môn quản trị. Qua đó chúng em có thể nhận thức
được đầy đủ và toàn diện về môn học và giúp ích cho công việc sau này của chúng
em.
Đặc biệt chúng em xin cảm ơn thầy Nguyễn Dụng Tuấn đã tận tình giúp đỡ
chúng em hoàn thành bài tiểu luận này. Hi vọng thong qua những nỗ lực tìm hiểu
của các thành viên nhóm chúng em sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về xuất nhập khẩu
hàng hóa của Việt Nam.
Do thời gian và kiến thức của chúng em còn có hạn, nên bài viết không thể
tránh những thiếu sót. Chúng em mong nhận được sự góp ý của thầy và các bạn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
PHOTO QUANG TUẤN
ĐT: 0972.246.583 & 0166.922.4176
Gmail: ; Fabook: vttuan85
Lời Mở Đầu
Hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay là xu thế tất yếu khách quan. Trong những
năm gần đây, xu thế toàn cầu hóa kinh tế gắn liền với sự phát triển của khoa học kĩ
thuật, sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất do phân công lao động quốc tế
diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Kinh tế thị trường là một nền kinh tế mở, do đó mỗi
nước cần có những quan hệ với thị trường thế giới, không một quốc gia nào tách
khỏi thị trường thế giới mà có thể phát triển nền kinh tế của mình. Theo xu thế
chung của thế giới, Việt Nam cũng đang từng bước hội nhập nền kinh tế thế giới.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế là vấn đề quan trọng trong
công cuộc đổi mới.
Xuất nhập khẩu là một trong những hình thức của nền kinh tế dối ngoại đối
với mỗi quốc gia, đặc biệt là quốc gia đang phát triển như nước ta, ngoại thương có


tác dụng rất lớn rất quan trọng. Việc mở rộng giao lưu kinh tế với thế giới sẽ mở
rộng thị trường xuất nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tiếp tu được khoa
học công nghệ tiên tiến và tạo được môi trường thuận lợi dể phát triển kinh tế. Tuy
nhiên mỗi quốc gia có mỗi đặc điểmvề kinh tế chính trị, văn hóa rất riêng biệt Do
đó cần phải nhận rõ tầm quan trọng của xuất nhập khẩu, tình hình thực tế về ngoại
thương của nước ta để đề ra những giải pháp, chiến lược thích hợp dể phát triển hội
nhập kinh tế. Bên caanhj đó việc trao đổi hàng hóa giữa các quố gia đem đến nhiều
thuận lợi nhưng gặp cũng không ít khó khăn.
Nhằm hiểu biết rõ hơn về vấn đề kinh tế trên, nhóm chúng em xin chọn đề
tài” một số giải pháp tăng cường xuất khẩu, lấy lại thăng bằng xuất nhập ở Việt
nam”.
Chương 1: Cơ Sở Lý Luận Về Xuất _ Nhập Khẩu
1. Khái niệm xuất nhập khẩu hàng hóa.
a. Khái niệm xuất khẩu hàng hóa.
Xuất khẩu là việc cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở
dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt
động mua bán và trao đổi hàng hoá (Bao gồm cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá
vô hình) trong nước. Khi sản xuất phát triển và trao đổi hàng hoá giữa các quốc
gia có lợi, hoạt động này mở rộng phạm vi ra ngoài biên giới của các quốc gia
hoặc thị trường nội địa và khu chế xuất ở trong nước.
Xuất khẩu là một hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương, xuất hiện từ
lâu đời, ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu. Hình thức
cơ bản ban đầu của nó là hoạt động trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia, cho đến
nay nó đã rất phát triển và được thể hiện thông qua nhiều hình thức. Hoạt động
xuất khẩu ngày nay diễn ra trên phạm vi toàn cầu, trong tất cả các ngành, các lĩnh
vực của nền kinh tế, không chỉ là hàng hoá hữu hình mà cả hàng hoá vô hình với
tỷ trọng ngày càng lớn.
b. Khái niệm nhập khẩu hàng hóa.
Nhập khẩu của doanh nghiệp là hoạt động mua hàng hóa và dịch vụ từ nước
ngoàI phục vụ cho nhu cầu trong nước hoặc táI xuất nhằm phục vụ mục đích thu

lợi nhuận. Hay nhập khẩu là việc mua hàng hóa từ các tổ chức kinh tế, các công ty
nước ngoàI và tiến hành tiêu thụ hàng hóa nhập khẩu tại thị trường nội địa hoặc
táI xuất khẩu với mục đích thu lợi nhuận và nối liền sản xuất với tiêu dùng
2. Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân.
a. Vai trò của nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân.
Bất kì quốc gia nào cũng không thể tự sản xuất để đáp ứng một cách đầy đủ
mọi nhu cầu trong nước, đặc biệt trong xu thế ngày nay, đời sống nhân dân ngày
càng nâng cao, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, thoát khỏi nền kinh tế
tự cung tự cấp, lạc hậu. Mục tiêu phát triển nền kinh tế quốc dân dựa rất nhiều về
lợi thế so sánh, ở đó mỗi quốc gia sẽ đẩy mạnh sản xuất có lợi thế để phục vụ cho
nhu cầu trong nước và xuất khẩu đi các quốc gia khác. Trong thực tế không có
quốc gia nào là có lợi thế về tất cả các mặt hàng, các lĩnh vực, sự bổ sung hàng
hoá giữa các quốc gia đã đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu. Những quốc gia
phát triển thường xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu rất nhiều và ngược lại những
nước kém phát triển thì kim nghạch nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu.
Với Việt Nam, một quốc gia mới chuyển sang nền kinh tế thị trưường gần 20
năm lại chịu nhiều hậu quả từ sự tàn phá chiến tranh. Do đó hoạt dộng nhập khẩu
đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình khôi phục nền kinh tế và tiến tới
quá trình CNH – HĐH đất nước. Cụ thể những vai trò những vai trò được thể hiện
rõ nét như sau:
+ Trước hết nhập khẩu sẽ bổ xung kịp thời những hàng hoá còn thiếu mà
trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không đủ tiêu dùng làm cân đối
kinh tế, đảm bảo cho sự phát triển ổn định và bền vững, khai thác tối đa khả năng
và tiềm năng của nền kinh tế.
+ Nhập khẩu làm đa dạng hoá hàng tiêu dùng trong nước, phong phú chủng
loại hàng hoá, mở rộng khả năng tiêu dùng, nâng cao mức sống của người dân.
+ Nhập khẩu xoá bỏ tình trạng độc quyền toàn khu vực và trên thế giới, xoá
bỏ nền kinh tế lạc hậu tự cung, tự cấp. Tiến tới sự hợp tác giữa các quốc gia là cầu
nối thông suốt của nền kinh tế tiên tiến trong và ngoài nước, tạo lợi thế để phát
huy lợi thế so sánh trên cơ sở CNH.

+ Nhập khẩu sẽ thúc đẩy sản xuất trong nước không ngừng vươn lên, không
ngừng tìm tòi nghiên cứu để sản xuất ra hàng hoá có chất lượng cao, đảm bảo,
tăng cường sức cạnh tranh với hàng ngoại.
+ Nhập khẩu sẽ tạo ra quá trình chuyển giao công nghệ, điều này tạo ra sự
phát triển vượt bậc của nền sản xuất hàng hoá, tạo ra sự cân bằng giữa các quốc
gia về trình độ sản xuất, tiết kiệm chi phí và thời gian.
Ngoài ra nhập khẩu còn có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy xuất khẩu, góp
phần nâng cao giá trị cũng như chất lượng hàng hoá xuất khẩu thông qua trao đổi
hàng hoá đối lưu, giúp Việt Nam nhanh chóng hoà nhập vào nền kinh tế khu vực
và thế giới tham gia nhiều tổ chức kinh tế đặc biệt vững bước để tham gia tổ chức
thương mại thế giới WTO.
Những vai trò to lớn đó của nhập khẩu mỗi quốc gia luôn luôn cố gắng để tận
dụng tối đa, đem lại sự phát triển vượt bậc trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên
để vận dụng tối đa vai trò đó là cả một vấn đề đặt ra với đường lối phát triển của
mỗi quốc gia, với những quan điểm của Đảng lãnh đạo.
b. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân.
- Xuất khẩu là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, giúp chuyển dịch cơ cấu
kinh tế.
Hoạt động xuất khẩu có ý nghĩa rất quan trọng và cần thiết đối với nước ta.
Với một nền kinh tế chậm phát triển, cơ sở vật chất, kỹ thuật lạc hậu, không đồng
bộ như nước ta thì việc đẩy mạnh xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm cải thiện
đời sống, tăng thu ngoại tệ, thúc đẩy phát triển kinh tế là một chiến lược lâu dài.
Để thực hiện được chiến lược lâu dài đó chúng ta phải nhận thức rõ được ý nghĩa
của việc xuất khẩu hàng hoá:
+ Thông qua việc xuất khẩu những mặt hàng có thế mạnh chúng ta có thể
phát huy được lợi thế so sánh, sử dụng hợp lý các nguồn lực, trao đổi các thành
tưu khoa học công nghệ tiên tiến.
+ Thông qua hoạt động xuất khẩu, tính cạnh tranh được nâng cao nên chất
lượng hàng hoá không ngừng được tăng lên, tạo điều kiện nâng cao năng lực sản
xuất thể hiện nội lực kinh tế của đất nước.

Mặt khác hoạt động xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy
sản xuất trong nước phát triển. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho hàng loạt các
ngành sản xuất khác phát triển, đồng thời cũng thúc đẩy các ngành dịch vụ hỗ trợ
hoạt động xuất khẩu như ngành bảo hiểm, hàng hải, thông tin liên lạc quốc tế dịch
vụ tài chính quốc tế đầu tư Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ
sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi mở rộng khả năng cung cấp đầu tư trở lại cho
sản xuất, tạo tiền đề kinh tế kỹ thuật đồng thời nâng cao năng lực sản xuất trong
nước. Điều đó chứng tỏ xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo vốn đưa kỹ
thuật công nghệ nước ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất
nước.
- Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn, nguồn ngoại tệ lớn góp phần quan trọng vào
việc cải thiện cán cân thanh toán.
Cần khẳng định rằng nhập siêu là tình trạng chung ở các nước đang phát
triển. Tình trạng này không dễ khắc phục một sớm một chiều. ở những nước này,
nhu cầu về mọi mặt đều lớn hơn khả năng kinh tế đang có. Để thoả mãn nhu cầu
cho phát triển sản xuất và đời sống nhân dân, việc nhập khẩu đòi hỏi ngày càng
mở rộng. Tuy nhiên, nhập siêu trong bất kỳ hoàn cảnh nào đều không tích cực vì
nó sẽ dẫn đến mất cân bằng trong cán cân thương mại từ đó sẽ dẫn tới sự mất cân
bằng trong cán cân thanh toán. Điều này trở nên rất nguy hiểm , đặc biệt trong
thời kỳ nền kinh tế thế giới biến động thường xuyên như hiện nay.
Việt Nam là một nước đang phát triển, nhu cầu nhập khẩu là rất lớn. Cho nên
việc xuất khẩu ít hơn nhập khẩu là tất yếu. Nhưng việc nhập khẩu nhiều như hiện
nay chỉ nên kéo dài trong một thời gian ngắn nữa và cùng với quá trình phát triển
sản xuất thì chúng ta cần đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu. Điều này sẽ tạo thế vững
chắc cho sự phát triển kinh tế của đất nước.
-Xuất khẩu có tác dụng tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải
thiện đời sống cho người lao động.
Việt Nam là một nước có dân số đông, cơ cấu dân số thuộc loại dân số trẻ. Số
người trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số hơn 80 triệu người.
Hàng năm, số người trong độ tuổi lao động được bổ sung khoảng 1,5-2 triệu

người. Việc giải quyết việc làm cho số người này hoàn toàn không đơn giản. Hơn
nữa, số dân làm việc trong ngành nông nghiệp của nước ta rất lớn nên còn phải
tính đến số người thất nghiệp theo mùa vụ. Thực tế cho thấy vấn đề thất nghiệp là
một vấn đề nan giải mà Việt Nam cũng như nhiều nước khác cần phải giải quyết.
+ Xuất khẩu tạo nguồn vốn để nhập khẩu các sản phẩm tiêu dùng thiết yếu
phục vụ đời sống hàng ngày, nâng cao chất lượng cuộc sống cả về vật chất lẫn
tinh thần.
+ Thông qua xuất khẩu, quy mô của các ngành sản xuất hàng xuất khẩu sẽ
được mở rộng, có thêm nhiều ngành nghề mới từ đó thu hút nhiều lao động vào
làm việc.
+ Xuất khẩu phát triển là tiền đề cho các quan hệ kinh tế đối ngoại khác như
du lịch, xuất khẩu sức lao động, tạo điều kiện đưa lực lượng lao động tham gia
vào quá trình phân công lao động quốc tế. Đây là nhân tố rất quan trọng giải quyết
tình trạng thất nghiệp.
- Hoạt động xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy mối quan hệ kinh tế
đối ngoại của nước ta.
Với đường lối kinh tế “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp”, Đảng ta
đã chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, trong đó chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, đẩy mạnh các quan hệ kinh tế đối ngoại. Mặc
dù xuất khẩu chỉ là một lĩnh vực của kinh tế đối ngoại nhưng lại có quan hệ mật
thiết với các lĩnh vực còn lại như thu hút đầu tư trực tiếp, vay tín dụng quốc tế,
hợp tác và triển khai công nghệ mới. Thực tiễn trong thời gian qua đã chứng tỏ sự
phát triển của hoạt động xuất khẩu và những ngành có liên quan đã thúc đẩy sự
phát triển của các quan hệ tín dụng- vay nợ quốc tế, đầu tư, mở rộng vận tải quốc
tế…Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại này lại tạo tiền đề cho mở rộng
xuất khẩu.
3. Các yếu tố tác động đến xuất nhập khẩu hàng hóa.
Có thể nói các chính sách và quy định của nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Thông qua việc đề ra các chính sách và quy định,

Nhà nước thiết lập môi trường pháp lý nhằm điều chỉnh các hoạt động của các
doanh nghiệp. Chúng ta có thể xem xét tác động của các chính sách đó dưới các
khía cạnh sau :
Dung lượng sản xuất
Dung lượng sản xuất thể hiện số lượng đầu mối tham gia vào sản xuất hàng
hoá xuất nhập khẩu và với số lượng sản xuất lớn thì nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho doanh nghiệp xuất khẩu trong công tác tạo nguồn hàng, song cũng trong thuận
lợi đó,doanh nghiệp có thể phải đương đầu với tính cạnh tranh cao hơn trong việc
tìm bạn hàng xuất khẩu và nguy cơ phá giá hàng hoá bán ra thị trường thế giới.
Tình hình nhân lực.
Một nước có nguồn nhân lực dồi dào là điều kiện thuận lợi để các doanh
nghiệp trong nước xúc tiến xuất nhập khẩu các mặt hàng có sử dụng sức lao động.
Về mặt ngắn hạn, nguồn nhân lực được xem như là không biến đổi, vì vậy chúng
ít tác động tới sự biến động của hoạt động xuất nhập khẩu. Nước ta nguồn nhân
lực dồi dào, giá nhân công rẻ là điều kiện thuận lợi để xuất khẩu các sản phẩm sử
dụng nhiều lao động như hàng thủ công mỹ nghệ, may mặc và nhập khẩu thiết
bị, máy móc kỹ thuật, công nghệ tiên tiến
Nhân tố công nghệ.
Ngày nay, khoa học công nghệ tác động đến tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội
và mang lại nhiều lợi ích, trong xuất nhập khẩu nó cũng mang lại hiệu quả cao.
Nhờ sự phát triển của hệ thống bưu chính viễn thông,các doanh nghiệp ngoại
thương có thể đàm thoại trực tiếp với khách hàng qua telex, fax, điện tín giảm
bớt những chi phí đi lại, xúc tiến hoạt động xuất nhập khẩu. Giúp các nhà kinh
doanh nắm bắt các thông tin về diễn biến thị trường một cách chính xác, kịp thời.
Bên cạnh đó, nhờ có xuất nhập khẩu mà các doanh nghiệp Việt Nam được tiếp
xúc với các thành tựu công nghệ tiên tiến trên thế giới, thay thế, đổi mới công
nghệ trong doanh nghiệp sản xuất. Khoa học công nghệ còn tác động tới các lĩnh
vực như vận tải hàng hoá, các kỹ nghệ nghiệp vụ trong ngân hàng Đó cũng
chính là các yếu tố tác động tới hoạt động xuất nhập khẩu.
Cơ sở hạ tầng.

Cơ sở hạ tầng tốt là một yếu tố không thể thiếu nhằm góp phần thúcđẩy hoạt
động xuất nhập khẩu. Cơ sở hạ tầng bao gồm: đường xá, bến bãi, hệ thống vận tải,
hệ thống thông tin, hệ thống ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất
nhập khẩu. Nếu các hoạt động này là hiện đại sẽ thúc đẩy hiệu quả xuất nhập
khẩu, ngược lại nó sẽ kìm hãm tiến trình xuất nhập khẩu.
Các chính sách và quy định của Nhà nước.
Thông qua việc đề ra các chính sách và quy định, Nhà nước thiết lập môi
trường pháp lý nhằm điều chỉnh các hoạt động của các doanh nghiệp nên nó có
ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu. Chúng ta có thể xem xét tác
động của các chính sách đó dưới các khía cạnh sau.
Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh tỷ lệ giữa giá trị của hai đồng tiền của hai
nước với nhau.
Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng thực hiện
chiến lược hướng ngoại, đẩy mạnh xuất nhập khẩu. Một tỷ giá hối đoái chính thức
được điều chỉnh theo quá trình lạm phát có liên quan gọi là tỷ giá hối đoái được
điều chỉnh theo quá trình lạm phát có liên quan hay là tỷ giá hối đoái được điều
chỉnh theo quá trình lạm phát có liên quan hay là tỷ giá hối đoái thực tế. Trong
quan hệ buôn bán ngoại thương, tỷ giá hối đoái có vai trò quan trọng, tác động lớn
tới hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu. Tỷ giá hối đoái tăng hay giảm sẽ làm thay
đổi giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu, ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Có thể đưa ra ví dụ trong xuất khẩu như: Nếu
tỷ giá hối đoái chính thức là không đổi và tỷ giá hối đoái thực tế tăng lên thì các
nhà xuất khẩu các sản phẩm sơ chế, là người bán theo mức giá cả quốc tế nằm
ngoài tầm kiểm soát của họ sẽ bị thiệt. Họ phải chịu chi phí cao hơn do lạm phát
trong nước. Hàng xuất khẩu trở nên kém sinh lợi do ngoại tệ thu được phải bán
với tỷ giá hối đoái chính thức cố định không được tăng lên để bù lại chi phí sản
xuất cao hơn. Các nhà xuât khẩu các sản phẩm chế tạo có thể làm tăng giá cả xuất
khẩu của họ để bù đắp lại chi phí nội địa cao hơn, nhưng kết quả khả năng chiếm
lĩnh thị trường sẽ giảm. Họ chỉ có thể giữ nguyên mức giá tính theo ngoại hối và

lợi nhuận thấp. Nếu tình trạng ngược lại là tỷ giá hối đoái thực tế giảm so với tỷ
giá hối đoái chính thức, khi đó sẽ có lợi cho các nhà xuất khẩu nhưng lại bất lợi
cho các nhà nhập khẩu.
Thuế quan và quota.
Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chịu ảnh hưởng
trực tiếp của thuế xuất nhập khẩu và quota.
Thuế xuất khẩu có xu thế làm giảm xuất khẩu và do đó làm giảm nguồn thu
ngoại tệ của đất nước. Tuy nhiên, đối với nước ta hiện nay, thực hiện chủ trương
khuyến khích xuất khẩu nên hầu hết các mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt các mặt
hàng nông sản, không phải chịu thuế xuất khẩu.
Thuế nhập khẩu có xu thế làm giảm nhập khẩu và do đó làm tăng nguồn thu
ngoại tệ của đất nước. Hiện nay ở nước ta, rất nhiều mặt hàng phải chịu thuế nhập
khẩu để hạn chế nhập khẩu nhằm bảo vệ các ngành sản xuất các mặt hàng đồng
nhất ở trong nước. Nhưng bắt đầu giai đoạn này, thực hiện chủ trương hội nhập
với thế giới, tham gia vào AFTA,nước ta đang tiến dần tới việc xoá bỏ dần một số
hình thức bảo hộ bằng thuế nhập khẩu.
Còn quota là hình thức hạn chế về số lượng xuất nhập khẩu, có tác động một
mặt làm giảm số đầu mối tham gia xuất nhập khẩu trực tiếp, mặt khác tạo cơ hội
thuận lợi cho những người xin được quota xuất nhập khẩu.
Các chính sách khác của Nhà nước.
Các chính sách khác của Nhà nước như xây dựng các mặt hàng chủ lực, trực
tiếp gia công xuất khẩu, đầu tư cho xuất nhập khẩu, lập các khu chế xuất, các
chính sách tín dụng xuất nhập khẩu cũng góp phần to lớn tác động tới tình hình
xuất nhập khẩu của một quốc gia. Tuỳ theo mức độ can thiệp, tính chất và phương
pháp sử dụng các chính sách trên mà hiệu quả và mức độ ảnh hưởng của nó tới
lĩnh vực xuất nhập khẩu sẽ như thế nào. Bên cạnh các chính sách trên, nhóm các
chính sách hỗ trợ mang tính thể chế - tổ chức, các khung pháp lý và hệ thống hành
chính cũng là một trong các nhân tố tác động trực tiếp tới hoạt động xuất nhập
khẩu của các doanh nghiệp.
Những thay đổi cơ bản trong quản lý quá trình xuất nhập khẩu của Nhà nước

cũng ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu. Đặc biệt là từ khi ra đời Nghị định
57/1998NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành
thì quyền tự do kinh doanh của thương nhân được mở rộng tạo ra một bước tiến
mới, họ được quyền kinh doanh tất cả những gì mà pháp luật cho phép, tạo ra một
môi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp. Thủ tục xin phép đăng
ký kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp với những điều kiện ràng buộc về vốn,
tiêu chuẩn, nghiệp vụ đối với doanh nghiệp đã được dỡ bỏ. Từ khi thi hành nghị
định này ( 1/9/1998 ) nước ta đã có hơn 30.000 doanh nghiệp được quyền tham
gia kinh doanh xuất nhập khẩu, sự tăng lên về con số này khó tránh khỏi tình trạng
tranh mua, tranh bán, giá cả cạnh tranh, ép giá, dìm giá , làm cho nhiều doanh
nghiệp bước đầu chưa tìm được lối thoát nên hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu
còn thấp.
Những thay đổi về thủ tục thông quan xuất nhập khẩu hàng hóa tại các cửa
khẩu, việc áp dụng các luật thuế mới đối với hàng hóa xuất nhập khẩu cũng ảnh
hưởng đến quá trình xuất nhập khẩu. Nhà nước luôn luôn tạo điều kiện để xúc tiến
nhanh quá trình xuất nhập khẩu nhưng việc áp dụng các văn bản đã được ban hành
xem ra vẫn còn tồn tại một khoảng cách khá xa giưã văn bản và thực tế, giữa nói
và làm, nhiều khi vẫn còn xảy ra " cuộc chiến " giữa " luật và lệ ".
Nhân tố tài nguyên thiên nhiên và địa lý.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên là một trong những nhân tố quan trọng làm cơ
sở cho quốc gia xây dựng cơ cấu ngành và vùng để xuất nhập khẩu. Nó góp phần
ảnh hưởng đến loại hàng, quy mô hàng xuất nhập khẩu của quốc gia.
Vị trí địa lý có vai trò như là nhân tố tích cực hoặc tiêu cực đối với sự phát
triển kinh tế cũng như xuất nhập khẩu của một quốc gia. Vị trí địa lý thuận lợi là
điều kiện cho phép một quốc gia tranh thủ được phân công lao động quốc tế, hoặc
thúc đẩy xuất nhập khẩu dịch vụ như du lịch, vận tải, ngân hàng
Ảnh hưởng của tình hình kinh tế - xã hội thế giới.
Trong xu thế toàn cầu hoá thì phụ thuộc giữa các nước ngày càng tăng, vì vậy
mà mỗi sự biến động của tình hình kinh tế - xã hội ở nước ngoài đều có những ảnh
hưởng nhất định đến hoạt động kinh tế trong nước. Lĩnh vực hoạt động xuất nhập

khẩu là lĩnh vực trực tiếp quan hệ với các chủ thể ở nước ngoài, chịu sự chi phối
và tác động của các nhân tố ở nước ngoài nên nó lại càng rất nhạy cảm. Bất kỳ
một sự thay đổi nào về chính sách xuất nhập khẩu, tình hình lạm phát, thất nghiệp
hay tăng trưởng và suy thoái kinh tế của các nước đều ảnh hưởng tới hoạt động
xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở nước ta.
Nhập khẩu( NK): Là một trong hai lĩnh vực của hoạt động ngoại thương.
Nhập khẩu, trong lý luận thương mại quốc tế, là việc quốc gia này mua hàng
hóa và dịch vụ từ quốc gia khác. Nói cách khác, đây chính là việc nhà sản xuất
nước ngoài cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho người cư trú trong nước. Tuy nhiên,
theo cách thức biên soạn cán cân thanh toán quốc tế của IMF, chỉ có việc mua các
hàng hóa hữu hình mới được coi là nhập khẩu và đưa vào mục cán cân thương
mại. Còn việc mua dịch vụ được tính vào mục cán cân phi thương mại.
Đơn vị tính khi thống kê về nhập khẩu thường là đơn vị tiền tệ (Dollar, triệu
Dollar hay tỷ Dollar) và thường tính trong một khoảng thời gian nhất định. Đôi
khi, nếu chỉ xét tới một mặt hàng cụ thể, đơn vị tính có thể là đơn vị số lượng hoặc
trọng lượng (cái, tấn, v.v )
Nhập khẩu phụ thuộc vào thu nhập của người cư trú trong nước, vào tỷ giá hối
đoái. Thu nhập của người dân trong nước càng cao, thì nhu cầu của hàng đối với
hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu càng cao. Tỷ giá hối đoái tăng, thì giá hàng nhập
khẩu tính bằng nội tệ trở nên cao hơn; do đó, nhu cầu nhập khẩu giảm đi.
Chương 2: Thực Trạng Hoạt Động Xuất Khẩu Hàng Hóa
Tai Việt Nam
I. Thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu.
1. Đánh giá chung về tình trạng xuất nhập khẩu ở Vệt nam.
Kinh tế toàn cầu tiếp tục phục hồi nhưng không vững chắc và không có sự
đồng đều giữa các quốc gia. Các nền kinh tế phát triển vẫn đang phải đối mặt với
những khó khăn như tăng trưởng chậm, thâm hụt tài khóa nghiêm trọng, tỷ lệ thất
nghiệp cao, đặc biệt là các cuộc khủng hoảng nợ quốc gia ở châu Âu gây ra sự bất
ổn tài chính, làm chậm tốc độ phục hồi của kinh tế toàn cầu. Những yếu tố này
chắc chắn sẽ tác động đến thương mại của Việt Nam trong những tháng cuối năm

2012 và cả năm 2013. Với tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu trên GDP ngày càng cao,
Việt Nam sẽ chịu tác động trực tiếp từ cuộc suy giảm kinh tế toàn cầu này.
Tại thị trường trong nước, khu vực doanh nghiệp đã suy yếu nhiều trong thời
gian qua do tình trạng lãi suất cao, nguồn vốn đầu tư nước ngoài suy giảm tạo nên
những sức ép mới lên tỷ giá và cán cân thanh toán. Tuy nhiên, những tác động đối
với hàng xuất khẩu của Việt Nam là không quá lớn bởi hàng xuất khẩu của Việt
Nam chủ yếu là hàng thiết yếu. Do đó, cầu đối với loại hàng này không biến động
suy giảm mạnh do suy thoái kinh tế ở các nước lớn. Thậm chí trong một vài
trường hợp, dưới tác động thu nhập giảm tiêu dùng ở một số nước phát triển
chuyển sang hàng hóa thấp cấp hơn có xuất xứ từ các nước như Việt Nam. Cùng
với diễn biến phức tạp khó lường trên thị trường tài chính thế giới, xu hướng
chuyển biến tích cực của kinh tế trong nước cũng sẽ là những yếu tố tác động
mạnh nhất đến hoạt động xuất, nhập khẩu trong những tháng cuối năm 2012.
Trong đó, một số yếu tố rõ nét nhất cụ thể như sau:
- Thị trường tiêu thụ, đầu ra cho hoạt động xuất khẩu vẫn gặp nhiều khó khăn
và trong ngắn hạn chưa thể phục hồi. Sức tiêu thụ ở nhiều thị trường lớn như Hoa
Kỳ, EU… giảm đáng kể đã và đang khiến nhiều doanh nghiệp thiếu đơn hàng,
nhất là dài hạn. Nếu trước đây phần nhiều doanh nghiệp có đơn hàng 6 tháng hay
1 năm, thì nay phần đông phải "ăn đong" hợp đồng 3 tháng, 2 tháng, thậm chí 1
tháng. Bên cạnh đó, các nước nhập khẩu ngày càng tăng cường hàng rào kỹ thuật,
một số lô hàng thủy sản, rau quả của Việt Nam đã bị cảnh báo là chất lượng chưa
bảo đảm, đặt doanh nghiệp Việt đứng trước nguy cơ mất nhiều thị trường lớn trên
thế giới …
- Mặc dù hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vẫn đang có tính cạnh tranh cao
nhưng lợi thế này đang dần mất đi khi các quốc gia khác cũng đang cố gắng cạnh
tranh bằng việc cung cấp lao động giá rẻ hơn hoặc thông qua các biện pháp nâng
cao năng suất tích cực hơn. Bên cạnh đó, tính từ đầu năm 2012 đến nay, VND đã
tăng 0,72% giá trị so với đồng USD. Trong bối cảnh đồng USD trên thị trường thế
giới liên tục tăng rất mạnh so với nhiều đồng tiền chủ chốt, việc VND tăng giá so
với USD đã gián tiếp khiến VND tăng giá mạnh so với các ngoại tệ khác. So với

thời điểm đầu năm 2012, VND đã tăng thêm 2,9% giá trị so với đôla Australia,
tăng 5% giá trị so với franc Thuỵ Sỹ, 6,3% giá trị so với đồng Euro, 4,5% giá trị
so với Yên Nhật Xu hướng này phần nào sẽ khiến hoạt động xuất khẩu của
nước ta gặp khó khăn hơn vì giá xuất một số mặt hàng tăng lên, làm giảm tính
cạnh tranh trên thị trường thế giới.
- Đối với nhập khẩu, khó khăn lớn nhất là sức tiêu thụ hàng hóa vẫn chưa có
dấu hiệu cải thiện rõ nét, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong tháng 7 tiếp tục giảm
0,29% - ghi nhận tháng giảm thứ 2 liên tiếp và là tháng giảm mạnh nhất từ đầu
năm 2009 đến nay. Trong khi đó, chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 7 đã giảm tốc,
chỉ tăng 6,1% trong tháng 6 – mức thấp nhất kể từ tháng 3 đến nay.
2. Cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu ở Việt Nam
a. Cơ cấu hàng nhập khẩu ở Việt Nam
Chia làm 3 nhóm chính:
- Nhóm hàng cần nhập khẩu (bao gồm nguyên, nhiên vật liệu, máy móc thiết
bị…): đây là nhóm hàng chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu hàng nhập khẩu ( năm
2011 chiếm 83,8%, ) và tiếp tục có xu hướng tăng trong năm 2012 do nhu cầu
phát triển sản xuất của doanh nghiệp phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu.
- Nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu (bao gồm một số mặt hàng như các
sản phẩm từ sắt thép, đá quý, kim loại quý và sản phẩm…): nhóm hàng này chiếm
tỉ trọng không cao trong cơ cấu hàng nhập khẩu (năm 2011 chiếm 7,3%), nhóm
hàng nhập khẩu này có xu hướng giảm xuống trong năm 2012.
- Nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu (bao gồm ô tô nguyên chiếc dưới 9 chỗ,
linh kiện phụ tùng ô tô xe máy, điện thoại di động, các mặt hàng tiêu dùng
khác…): nhóm hàng này chiếm tỉ trong không cao trong cơ cấu hàng nhập khẩu
nhưng cao hơn nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu (năm 2011 chiếm 8,9%) và
đây là nhóm hàng góp phần nâng cao kim ngạch nhập siêu của Việt nam. Nhóm
hàng này đang có xu hướng tăng mạnh do nhu cầu nhập khẩu hàng tiêu dùng tang
cao.
b. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu.
- Các mặt hàng lợi thế có sẵn( bao gồm gạo, café, cao su……… ): nhóm hàng

này chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam.
- Các mặt hàng tiềm năng( bao gồm: máy tính, thiết bị……… ) nhóm hàng
này mang lại lợi nhuận cao nhưng chưa được đầu tư mạnh nên chiếm tỉ trọng thấp
trong cơ cấu hàng xuất khẩu.
3.Thực trạng tình hình xuất nhập khẩu ở Việt Nam.
a. Giá trị và tốc độ tang trưởng của xuất nhập khẩu
Theo báo cáo của Bộ Công Thương, trong tháng 6 hoạt động xuất nhập khẩu đã sớm hồi
phục và lấy lại tốc độ tăng trưởng. Kim ngạch xuất khẩu trong tháng 6 ước đạt gần 9,8 tỷ USD,
tăng trưởng khoảng 6-7% so với tháng 5. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong 6 tháng đầu
năm lên 52,6 tỷ USD, tăng 22,3% so với cùng kỳ năm trước.
Cơ quan thống kê dự báo, kim ngạch xuất khẩu trong một vài tháng tới sẽ tăng
theo chu kỳ hằng năm, tuy nhiên con số sẽ không lớn. Mặc dù vậy, xuất khẩu vẫn
còn gặp khó ở việc tìm kiếm đối tác. Các đơn vị trong lĩnh vực dệt may, da giày và
một số mặt hàng thuộc ngành nông lâm sản vẫn phải chật vật tìm kiếm đơn hàng
cho từng quý quý, thậm chí từng tháng.
Riêng trong tháng 6, dự báo kim ngạch nhập khẩu sẽ đạt 10,4 tỷ đôla, tăng
khoảng 12-14% so với tháng trước, nâng tổng giá trị nhập khẩu trong 6 tháng đầu
năm lên 53,9 tỷ USD, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước.
Bộ Công Thương đánh giá, khó khăn lớn nhất đối với xuất khẩu là tìm kiếm
đối tác, còn trở ngại ở phía nhập khẩu tiếp tục bắt nguồn từ nội tại, đó là sức tiêu
thụ hàng hóa trong nước vẫn chưa được cải thiện nhiều. Khả năng hấp thụ vốn của
các doanh nghiệp còn ở mức thấp do lượng tồn kho hàng hóa lớn, lãi suất mặc dù
có xu hướng giảm nhưng vẫn cao so với sức chịu đựng của doanh nghiệp.
Trong tháng 5, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 9,1 tỷ USD, chỉ tăng 1,5% so
với tháng 4 và tăng 25,8% so với cùng kỳ. Kim ngạch nhập khẩu trong tháng đạt
khoảng 9,8 tỷ USD, tăng 9,4% so với tháng 4 và tăng 13,2% so với cùng kỳ. Xuất
nhập khẩu hai tháng đổ lại đây đối lập hẳn với tình trạng ì ạch của những tháng
đầu năm cho thấy kinh tế quý hai đã đón nhận một số tín hiệu vui.
Trước đó, Tại kỳ họp Quốc hội, Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết,
ước 6 tháng, xuất khẩu tăng hơn 20% so với cùng kỳ, nhập siêu tương đương

khoản 2,9% tổng kim ngạch xuất khẩu. Chỉ số phát triển doanh nghiệp cũng bắt
đầu bớt tiêu cực hơn. 5 tháng đầu năm có khoảng 21.800 doanh nghiệp giải thể,
ngừng hoạt động, tăng 9,5%, so với cùng kỳ. Tuy nhiên, riêng tháng 5, số doanh
nghiệp “chết” đã bắt đầu giảm khoảng 10% so với tháng 4. "Căn cứ vào các tiêu
chí này có thể nhận thấy nền kinh tế của chúng ta đã vượt qua thời điểm khó khăn
nhất và bắt đầu có xu hướng phát triển tốt", Phó thủ tướng khẳng định.
c. Các mặt hàng chủ yếu.
4. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng giảm xuất khẩu và tăn nhập siêu ở Việt
Nam.
Nguyên nhân giảm xuất khẩu:
Khả năng tang xuất khẩu của Việt Nam còn phụ thuộc vào khá nhiều các sản
phẩm tài nguyên khoáng sản và các nông sản thô. Đây là nhóm hàng hóa trước
nay ít bị hạn chế bởi các nước nhập khẩu.
Mức độ tang kim ngạch chủ yếu phụ thuộc khá nhiều vào tình hình cung
cầu trên thị trường thế giới cũng như khả năng tang sản lượng của việt Nam, nên
các cam kết mở cửa thi trường khi Việt Nam gia nhập WTO hầu như không tác
động đến các hàng này.
Điều đáng lo ngại là nguồn tài nguyên khoáng sản đang cạn dần, nhất là dầu
thô. Đồng thời chính phủ cũng chủ trương giảm dần xuất khẩu khoáng sản thô để
đáp ứng nhu cầu nguyên liệu của các ngành công nghiệp trong tương lai.
TRong tình hình đó sự lệ thuộc quá nhiều vào nhóm sản phẩm này sẽ ảnh
hưởng xấu của sự phát triển hàng xuất khẩu.
Trên thực tế dù hàng xuất khẩu của Việt Nam không bị khống chế bởi hạn
ngạch, nhưng các rào cản kỹ thuật thì vẫn còn nguyên, thậm chí còn được các
nước dựng lên ngày càng nhiều.
Hơn nữa, Việt Nam chưa được các nước nhập khẩu chính thức công nhận là
quốc gia có nền kinh tế thị truongf, nên nguy cơ bị kiện và áp thuế bán phá giá
vẫn bị tác động mạnh đến sức phát triển xuất khẩu.
Hiện nay, thị trường của Việt Nam chủ yếu vẫn là EU, Mỹ, Nhật Bản Và
Trung Quốc chiếm gần 2/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nuocs. Vì Vậy bất kỳ

yếu tố bất lợi nào đến từ các thị trường này cũng đều ảnh hưởng đến mức tang
trưởng chung.
Nguyên nhân tang nhập siêu:
Nhóm hàng nguyên nhiên phụ liệu và vật tư phục vụ sản xuất trong nước và
xuất khẩu: do cùng cơ cấu mặt hàng xuất khẩu (nông sản, tiêu dùng, dệt may, giày
da, điện tử) với các nước trong khu vực và sức cạnh tranh của hàng hoá Việt nam
thấp nên mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu sang các nước Châu Á chưa theo
kịp tốc độ tăng trưởng nhập khẩu từ các nước này. Ngoài ra, lợi thế về vận tải, giá
cả và tính phù hợp nên đa số nhóm hàng này được nhập khẩu chủ yếu từ các nước
trong khu vực.
- Nhu cầu tiêu dùng và sản xuất trong nước luôn ở mức cao với các mặt hàng
thiết yếu trong nước chưa sản xuất được (hoặc sản xuất chưa đáp ứng được nhu
cầu) như: xăng dầu, phân bón, máy móc thiết bị Rất nhiều những mặt hàng này
ngời việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước còn là yếu tố đầu vào cho nhiều
ngành sản xuất và cho xuất khẩu ra các thị trường khác.
- Chưa tận dụng triệt để nguồn nguyên liệu tại chỗ cho sản xuất hàng trong
nước và xuất khẩu, trong khi các chương trình sản xuất thay thế hàng nhập khẩu
vẫn còn những bất cập, đầu tư theo phong trào mà chưa tính hết hiệu quả và ảnh
hưởng xã hội. Công nghiệp phụ trợ của một số ngành sản xuất lớn chưa phát triển
nên phải nhập khẩu nhiều nguyên liệu, máy móc thiết bị, phụ tùng để phục vụ
sản xuất trong nước và xuất khẩu.
- Trong khuôn khổ các hiệp định thương mại với lộ trình cắt giảm thuế quan,
nhiều mặt hàng, sản phẩm của các nước trong khu vực có thế mạnh có cơ hội tiêu
thụ tại thị trường Việt nam nhiều hơn (đặc biệt nhóm hàng công nghiệp của Trung
quốc).
- Chưa có nhiều tập đoàn đa quốc gia lớn thiết lập cơ sở sản xuất cho khu vực
Châu Á- Thái Bình Dương tại Việt nam nên kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng của
các tập đoàn này tại Việt nam thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực.
II. Chiến lược hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta (2010 – 2020)
Mục tiêu tổng quát của chiến lược là tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đến

năm 2020 tăng gấp 3 lần năm 2010, bình quân đầu người đạt trên 2.000 USD, cán
cân thương mại được cân bằng và mục tiêu cụ thể là tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
hàng hóa bình quân 11 - 12%/năm trong thời kỳ 2011 - 2020, trong đó giai đoạn
2011 - 2015 tăng trưởng bình quân 12%/năm; giai đoạn 2016 - 2020 tăng trưởng
bình quân 11%/năm và duy trì tốc độ tăng trưởng khoảng 10% thời kỳ 2021-2030.
Bên cạnh đó, phấn đấu tốc độ tăng trưởng nhập khẩu thấp hơn tăng trưởng xuất
khẩu; giảm dần thâm hụt thương mại, kiểm soát nhập siêu ở mức dưới 10% kim
ngạch xuất khẩu vào năm 2015 và tiến tới cân bằng cán cân thương mại vào năm
2020; thặng dư thương mại thời kỳ 2021 - 2030.
Định hướng xuất khẩu sẽ được phát triển theo mô hình tăng trưởng bền vững
và hợp lý, vừa mở rộng quy mô xuất khẩu, vừa chú trọng nâng cao giá trị gia tăng
xuất khẩu. Định hướng phát triển xuất khẩu đưa ra 4 nhóm ngành cụ thể:
Nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản, sẽ có lộ trình giảm dần xuất khẩu khoáng
sản thô; đầu tư công nghệ để tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, tận dụng cơ hội
thuận lợi về thị trường và giá cả để tăng giá trị xuất khẩu. Định hướng tỷ trọng
nhóm hàng này trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu từ 11,2% năm 2010 xuống còn
4,4% vào năm 2020.
Nhóm hàng nông, lâm, thủy sản (là nhóm hàng có lợi thế và năng lực cạnh
tranh dài hạn nhưng giá trị gia tăng còn thấp), cần nâng cao năng suất, chất lượng
và giá trị gia tăng; chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu hướng mạnh vào chế
biến sâu, phát triển sản phẩm xuất khẩu có ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến.
Nhóm hàng công nghiệp chế biến, chế tạo (là nhóm hàng có tiềm năng phát
triển và thị trường thế giới có nhu cầu) phát triển sản phẩm có hàm lượng công
nghệ và chất xám cao, phát triển công nghiệm hỗ trợ… định hướng tỷ trọng nhóm
hàng này trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu từ 40,1% năm 2010 lên 62,9% vào năm
2020.
Nhóm hàng mới (nằm trong nhóm hàng hoá khác), sẽ rà soát các mặt hàng
mới có kim ngạch hiện nay còn thấp nhưng có tiềm năng tăng trưởng cao trong
thời gian tới để có các chính sách khuyến khích phát triển, tạo sự đột phá trong
xuất khẩu.

Định hướng nhập khẩu, chủ động điều chỉnh nhịp độ tăng trưởng nhập khẩu
hàng hóa, đồng thời phát triển sản xuất nguyên, nhiên, phụ liệu phục vụ các ngành
hàng xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu trong nước và phát triển công nghiệp hỗ trợ,
kiểm soát chặt việc nhập khẩu các mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu, góp
phần giảm nhập siêu trong dài hạn.
Để đạt được các mục tiêu, chiến lược đã đưa ra các giải pháp cụ thể về phát
triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển thị trường, chính sách tài
chính, tín dụng và đầu tư phát triển sản xuất hàng xuất khẩu, đầu tư phát triển cơ
sở hạ tầng, giao nhận kho vận, đào tạo phát triển nguồn nhân lực,v.v…
Ngoài ra, chiến lược giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ,
ngành, địa phương và các hiệp hội ngành hàng xây dựng Chương trình hành động
để thực hiện chiến lược trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào quý I năm 2012.
Bên cạnh đó, giao Bộ Công Thương hướng dẫn các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân
các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương xây dựng Chương trình hành động thực
hiện chiến lược theo chức năng, thẩm quyền.
Chương 3: Giải pháp
Tình hình trên cho thấy, để hạn chế nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán
quốc tế, cần triển khai đồng bộ các giải pháp ngắn hạn liên quan đến chính sách
thuế, các hàng rào kỹ thuật, kể cả biện pháp hành chính trong phạm vi cho
phép,đồng thời với việc phát triển nhanh các mặt hàng có thể sản xuất trong nước
mà ta có lợi thế để hạn chế được nhập khẩu gắn với điều chỉnh cơ cấu kinh tế trên
cơ sở lợi thế so sánh trong giai đoạn tới là hết sức quan trọng và cấp bách, có ý
nghĩa quyết định, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cho nền kinh tế
phát triển nhanh, bền vững. Tuy nhiên, sản xuất trong nước phải đảm bảo hiệu
quả, nâng cao được sức cạnh tranh của sản phẩm. Xin kiến nghị một số giải pháp
như sau:
I. Đối với Nh à N ư ớc
1. Bộ Công Thương
1.1. Các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu
- Sớm triển khai Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình xúc tiến

thương mại quốc gia. Tăng cường XTTM ở các thị trường truyền thống, mở rộng
sang thị trường Châu Phi.
- Chỉ đạo các Thương vụ phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các cơ quan liên
quan hỗ trợ doanh nghiệp trong nước mở rộng thị trường xuất khẩu sang thị
trường mới, giải quyết các tranh chấp, cảnh báo các rủi ro và hàng rào kỹ thuật ở
thị trường sở tại, giúp doanh nghiệp yên tâm khi kinh doanh tại thị trường sở tại.
- Đẩy mạnh triển khai các Hiệp định FTA đã ký kết và tận dụng lợi thế các
FTA đem lại, tổ chức phổ biến rộng rãi cho các doanh nghiệp nội dung các Hiệp
định khu vực mậu dịch tự do (FTA) mà Việt Nam đã tham gia ký kết để
tăngcường hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tận dụng lợi thế các FTA.
- Đẩy mạnh các hoạt động đàm phán song phương, đa phương nhằm mở rộng
thị trường thúc đẩy xuất khẩu; rà soát và đàm phán sâu hơn đối với các thỏa thuận
ưu đãi thuế quan song phương giữa Việt Nam với các đối tác trong khu vực như
Lào, Campuchia.
- Nghiên cứu về các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam sang thị
trường Campuchia trong tình hình mới; nghiên cứu báo cáo Chính phủ về các biện
pháp thúc đẩy xuất khẩu và giảm nhập siêu đối với thị trường Trung Quốc.
- Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực xuất khẩu để tạo điều
kiện tối đa cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Cụ thể rút ngắn thời gian cấp Giấy
chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) từ 8 giờ xuống còn 3-4 giờ.
- Phối hợp với các Bộ, ngành, các địa phương tổ chức các Hội nghị giao ban
xuất khẩu với các Tập đoàn, Tổng Công ty, doanh nghiệp, các Hiệp hội ngành
hàng để tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh, trong hoạt động xuất
khẩu,bàn biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu cho từng ngành hàng, mặt hàng.
- Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước xây dựng Đề án “Chương trình hỗ trợ
xuất khẩu” nhằm tháo gỡ khó khăn về vốn, lãi suất cho các doanh nghiệp xuất
khẩu.
1.2. Các biện pháp hạn chế nhập khẩu- Hạn chế tiếp cận ngoại tệ: Ban hành
và triển khai nghiêm túc danh mục mặt hàng không thiết yếu, hàng tiêu dùng
không khuyến khích nhập khẩu và đề nghị Ngân hàng Nhà nước thực hiện biện

pháp hạn chế cho vay ngoại tệ và thanh toán đối với hàng hóa thuộc danh mục
này.
- Điều tiết tiến độ nhập khẩu xăng dầu: Đề nghị các doanh nghiệp đầu mối ưu
tiên sử dụng sản phẩm của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất và dự trữ lưu thông theo
đúng quy định.
- Giấy phép nhập khẩu tự động: Sửa đổi và hướng dẫn thực hiện việc áp dụng
chế độ cấp giấy phép nhập khẩu tự động đối với một số mặt hàng theo hướng
kiểm soát chặt chẽ hơn việc nhập khẩu các hàng tiêu dùng không thiết yếu.
- Về quy định kiểm soát nhập khẩu muối: việc nhập khẩu ngoài hạn ngạch
thuế quan với tất cả các loại muối phải được sự chấp thuận về chất lượng của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
- Cần hoàn thiện danh mục các máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu trong
nước sản xuất được phục vụ thay thế hàng nhập khẩu để phục vụ công tác điều
hành nhập khẩu.
- Cần sớm phối hợp với các Bộ Khoa học công nghệ, Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Y tế, Tài chính xây dựng Đề án thực hiện các biện pháp tang
cường kiểm soát nhập khẩu hàng nông sản, thực phẩm không cần thiết nhập khẩu
để báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
- Triển khai sớm Phương án áp dụng thí điểm việc kiểm tra xuất xứ, chất
lượng hàng hoá, nhất là đối với nông, thuỷ sản, thực phẩm chế biến, thực phẩm
chức năng, mỹ phẩm, thuốc chữa bệnh cho người, thuốc bảo vệ thực vật trước
khi hàng hoá được xếp lên tàu tại nước xuất khẩu hoặc kiểm tra quy trình sản xuất
tại nước ngoài để cấp giấy chứng nhận hàng hoá đủ điều kiện lưu thông trên thị
trường Việt Nam, kiểm tra tại cửa khẩu Việt Nam trước khi hàng hoá được thông
quan.
- Cần triển khai nghiêm việc phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Y tế trong việc kiểm tra, giám sát chứng minh xuất xứ hàng hóa hàng
nhập khẩu, đặc biệt đối với hàng nông sản, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc
bảo vệ thực vật.
- Sớm hoàn thiện Nghị định về các chính sách ưu đãi phát triển công nghiệp

hỗ trợ để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất hàng phụ trợ trong nước.
2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Quản lý ngoại tệ.
Đa số các nước đang phát triển đều quy định cho các nhà xuất khẩu phải
chuyển khoản ngoại tệ thu được vào ngân hàng thương mại được phép kinh doanh
ngoại tệ. Nhưng cũng có nhiều nước cho phép dùng số ngoại tệ thu được do xuất
khẩu để nhập khẩu hàng hoá cần thiết. ở Việt nam, nhà nước cấm gửi ngoại tệ thu
được do xuất khẩu vào các ngân hàng ở nước ngoài.
Tỉ giá hối đoái.
Sự thay đổi tỷ giá hối đoái là nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả xuất
khẩu và đương nhiên nó ảnh hưởng đến việc khuyến khích xuất khẩu. Tỷ giá hối
đoái liên quan chặt chẽ đến quản lý kinh tế vĩ mô. Vì vậy chính sách tỷ giá hối đoái
luôn được xem xét trong bối cảnh của chính sách quản lý kinh tế vĩ mô. Vấn đề là
cần phải có chính sách về tỷ giá hối đoái linh hoạt đáp ứng sự thay đổi nhanh
chóng của thị trường trong và ngoài nước. Bởi vì tỷ giá hối đoái có thể làm cho
những cố gắng trong sản xuất để xuất khẩu tăng thêm phần lớn giá trị hoặc hoàn
toàn uổng công. Một chính sách về tỷ giá linh hoạt là một chính sách luôn giữ cho
kim ngạch xuất khẩu có thể cân bằng với kim ngạch nhập khẩu trong mọi biến
động giá cả ở thị trường nội địa và thị trường thế giới. Không nên để tỷ giá đồng
tiền Việt nam và đồng tiền nước ngoài chênh lệch quá xa so với tỷ giá trên thị
trường.
Chính sách khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất
khẩu.
Việc đẩy mạnh xuất khẩu đòi hỏi phải có một khuôn khổ tổ chức có hiệu quả
để giải quyết các lĩnh vực như: thu thập thông tin, phân phối thông tin và tiếp thị
Những hình thức hỗ trợ xuất khẩu bao gồm việc thành lập các tổ chức đẩy
mạnh xuất khẩu, giúp đỡ cho việc tiếp thị xuất khẩu và hỗ trợ cho các công ty
thương mại. ở Việt nam nên có tổ chức xúc tiến thương mại của các nước tại Việt
nam với mục tiêu: đẩy mạnh đầu tư nước ngoài vào Việt nam và tăng cường xuất
khẩu các sản phẩm của Việt nam ra nước ngoài các tổ chức hỗ trợ xuất khẩu, tập

trung đưa ra các giải pháp để tạo điều kiện cho các nhà xuất khẩu có các điều kiện
dễ dàng như:
- Hỗ trợ ngoại tệ cho các công ty nhập khẩu thông qua các hình thức cho vay
với lãi xuất ưu đãi.
- Cấp các thủ tục đặc biệt.
- Đầu tư vào một số công ty mậu dịch quốc tế.
- Tổ chức trao đổi giữa các nhà hoạch định chính sách với các nhà xuất khẩu
để thống nhất mục tiêu xuất khẩu.
Ngân hàng Nhà nước Việt nam cần trợ cấp về mặt tài chính cho các đơn vị, cơ
sở sản xuất hàng xuất khẩu nhằm thực hiện tốt, nhanh chóng kế hoạch và mục tiêu
của đơn vị dưới hình thức cho vay với lãi xuất ưu đãi. Đặc biệt trợ cấp đối với các
đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu chủ lực, các cơ sơ sản xuất hàng xuất khẩu gặp khó
khăn nhưng sản xuất các mặt hàng xuất khẩu đó mang lại nhiều ngoại tệ và đem lại
hiệu quả kinh tế - xã hội cao cho đất nước.
3. Bộ Tài chính
Thuế xuất khẩu.
Nhà nước ta sử dụng chính sách thuế với tư cách là một công cụ quan trọng để
khuyến khích xuất khẩu. Để khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu và đẩy mạnh
xuất khẩu, vừa qua Nhà nước ta đã áp dụng chính sách miễn giảm thuế, miễn thuế
hầu hết các mặt hàng xuất khẩu, áp dụng thuế xuất khẩu thấp đối với một số mặt
hàng còn chịu thuế, sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế doanh thu, thuế tiêu
thụ đặc biệt.
Việt nam đã có những ưu đãi cần thiết cho nhà đầu tư chẳng hạn: Toàn bộ
thiết bị đầu tư nhập khẩu để hình thành xí nghiệp, nguyên vật liệu nhập khẩu để
sản xuất hàng xuất khẩu đều được miễn thuế nhập khẩu. Tuỳ theo từng dự án, các
nhà đầu tư phải nộp thuế lợi tức 10%, 15%, 20% hoặc 25% (trừ dầu khí, vàng bạc,
đá quý, thuế lợi tức có thể cao hơn). Các dự án đầu tư có thể được miễn giảm thuế
lợi tức tối đa là miễn 4 năm và giảm 4 năm tiếp theo kể từ khi liên doanh có lãi.
Các nhà đầu tư được phép chuyển lợi nhuận về nước hoặc sang nước thứ 3 và chịu
mức thuế chuyển lợi nhuận 5%, 7% hoặc 10% tuỳ theo từng dự án. Trong trường

hợp họ không chuyển lợi nhuận ra khỏi Việt nam mà tái đầu tư ở Việt nam thì
được hoàn lại toàn bộ thuế lợi tức cho số lợi nhuận tái đầu tư đó.
Trong kỳ họp Quốc hội vừa qua, luật thuế giá trị gia tăng đã được thông qua
và sẽ được áp dụng từ 1/1/1999 trong đó quy định mức thuế 0% đối với tất cả các
hàng hoá xuất khẩu và các hàng hoá này còn được thoái trả thuế giá trị gia tăng ở
các khâu trước. Đây thực sự là biện pháp tài chính khuyến khích xuất khẩu tích cực
của Việt nam
Hạn ngạch xuất khẩu.
Hàng năm bộ thương mại công bố danh mục các mặt hàng quản lý bằng hạn
ngạch. Bên cạnh đó giảm dần các mặt hàng quản lý hạn ngạch kể cả xuất khẩu và
nhập khẩu trừ các hạn ngạch đối với các mặt hàng có cam kết số lượng với nước
ngoài mà Việt nam cần phải thực hiện.
Việc dành hạn ngạch xuất khẩu để phân bố cho các địa phương, đơn vị sản
xuất thông qua các bộ, ngành hàng như hiện nay vừa gây phiền hà cho cơ sở, vừa
không phù hợp với kinh tế thị trường. Các địa phương, các đơn vị sản xuất cố
giành cho được quota mặc dù thiếu vốn, không có thị trường, thiếu phương tiện
kinh doanh, không có khả năng thực hiện. Điều đó tất yếu dẫn đến tình trạng mua
bán quota vòng vèo. Do vậy cần hoàn thiện phương thức phân bố quota theo
nguyên tắc “ Một cửa” chỉ phân cho các đơn vị đã có quyền xuất khẩu trực tiếp
theo nhóm hàng xuất khẩu đem lại hiệu quả cao. Tiến tới phân bổ quota theo hình
thức gọi thầu hoặc đấu giá với sự tham gia của các đơn vị sản xuất và đơn vị lưu
thông có vốn và quan hệ thị trường.
Giấy phép xuất khẩu:
Nếu hàng hoá thuộc diện quản lý bằng giấy phép thì các doanh nghiệp tham
gia xuất khẩu phải xin phép xuất khẩu tại cơ quan có thẩm quyền do pháp luật quy
định. ở Việt nam các loại hàng hoá sau đây khi qua các cửa khẩu Việt nam đều
phải có giấy phép xuất khẩu:
- Hàng xuất để thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương.
- Hàng xuất khẩu theo các dự án đầu tư chuyển giao công nghệ của nước
ngoài.

- Hàng uỷ thác xuất khẩu
- Hàng dự hội trợ, triển lãm quảng cáo
Giấy phép xuất khẩu chỉ cấp cho các tổ chức có quyền kinh doanh xuất nhập
khẩu trong phạm vi hạn ngạch quy định cho mặt hàng đó. Đối với những mặt hàng
không quản lý bằng hạn ngạch hoặc đăng ký tại Bộ thương mại không hạn chế số
lượng hoặc giá trị.
Thủ tục hải quan - Xuất khẩu hàng hoá.
Hàng xuất khẩu phải làm thủ tục hải quan khi xuất khẩu theo các quy định
chính thức về xuất khẩu hàng hoá và có khi theo yêu cầu của nước nhập hàng hoá.
Việc làm thủ tục xuất khẩu cho hàng hoá liên quan đến các biện pháp quản lý như:
- Hạn chế số lượng ( Giấy phép xuất khẩu )
- Hạn chế ngoại tệ ( Giám sát ngoại hối )
- Hạn chế tài chính ( Kiểm tra hải quan thuế )
- Nhu cầu thống kê thương mại.
- Kiểm tra số lượng, chất lượng, kiểm tra vệ sinh y tế.
Khi làm thủ tục hải quan thông thường phải kiểm tra tư cách pháp nhân của
doanh nghiệp cũng như kiểm tra các chứng từ có hợp lệ và đúng quy định không.
4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
- Triển khai nghiêm túc các quy định về kiểm tra chất lượng, an toàn thực
phẩm, kiểm dịch động vật, thực vật như: kiểm tra, giám sát vệ sinh an toàn thực
phẩm nông sản trước khi đưa ra thị trường; kiểm tra An toàn, vệ sinh thực phẩm
hàng hóa có nguồn gốc động vật nhập khẩu; quy định trình tự, thủ tục kiểm dịch
thủy sản, sản phẩm thủy sản
- Thực hiện tốt công tác kiểm dịch động vật, thực vật đối với nhóm hàng
nông sản thực phẩm nhập khẩu. Theo quy định của Tổ chức thú y thế giới, sản
phẩm động vật thủy sản nhập khẩu vào Việt Nam phải có giấy chứng nhận kiểm
dịch của cơ quan có thẩm quyền nước xuất khẩu cấp. Tuy nhiên trong thời gian
qua, hầu hết các lô hàng nhập khẩu vào Việt Nam không đáp ứng được các yêu
cầu như không có giấy chứng nhận kiểm dịch, hoặc giấy chứng nhận kiểm dịch
không hợp lệ. Nguyên nhân do trước đây việc quản lý, kiểm soát hàng nhập khẩu

chưa chặt chẽ, không thống nhất giữa các đơn vị được giao nhiệm vụ kiểm dịch,
kiểm soát hàng sản phẩm thủy sản nhập khẩu tại các cửa khẩu. Cần triển khai
nghiêm biện pháp này.
5. Bộ Khoa học và Công nghệ
- Thực hiện công tác kiểm tra quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với các sản
phẩm, hàng hoá đã ban hành và tiếp tục nghiên cứu xây dựng cho các sản phẩm
khác.
- Với một số sản phẩm, hàng hoá đã ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
mà chưa đến thời điểm thực hiện, cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thực
hiện.
- Kiểm tra đầy đủ chất lượng các lô hàng nhập khẩu thuộc diện hạn chế nhập
khẩu theo qui định.
- Tiếp tục tích cực phối hợp trong việc chủ động xây dựng các rào cản kỹ
thuật đối với hàng nhập khẩu chuyên ngành.
6. Bộ Thông tin và Truyền thông
- Sớm triển khai Thông tư hướng dẫn kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng
hoá nhập khẩu và Thông tư ban hành Danh mục hàng hoá nhập khẩu bắt buộc
kiểm tra nhà nước về chất lượng với thiết bị viễn thông (chủ yếu là điện thoại di
động).
- Xem xét áp dụng các biện pháp kỹ thuật đối với điện thoại di động như dán
tem hợp chuẩn, không cho phép nhập khẩu điện thoại di động không có số IMEI.
- Chỉ đạo các cơ quan truyền thông trong việc đưa tin liên quan đến hàng hoá
nhập khẩu, nhập siêu một cách hợp lý và phù hợp

×