Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

TIỂU LUẬN KINH TẾ VĨ MÔ TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 2008 TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
Khoa Kinh tế Quốc tế
TIỂU LUẬN KINH TẾ VĨ MÔ
Tên đề tài:
TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
2008 TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Nhóm thực hiện: Nhóm 2_Lớp Pháp 3_Khối 2 KT_K48
GV hướng dẫn: ThS. Hoàng Xuân Bình
Hà Nội, Tháng 5 năm 2010
2
MỤC LỤC
MỤC LỤC 3
A/ LỜI MỞ ĐẦU 4
B/ PHẦN NỘI DUNG 5
I. Lý luận chung về khủng hoảng kinh tế 5
1. Khái niệm 5
2. Phân loại 5
3. Chu kỳ của khủng hoảng kinh tế 7
4. Nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng kinh tế 8
5. Tác động của khủng hoảng kinh tế 9
II/Khủng hoảng kinh tế ảnh hưởng đến Việt Nam 10
1. Bối cảnh và nguyên nhân khủng hoảng 10
2. Kinh tế Việt Nam trước tác động của khủng hoảng 13
3. Thị trường bất động sản chống trọi với khủng hoảng kinh tế 2008 16
4. Thị trường chứng khoán Việt Nam 2008 21
5. Hệ thống ngân hàng thương mại trước tác động của khủng hoảng 2008 23
3
A/ LỜI MỞ ĐẦU
Khủng hoảng kinh tế là một hiện tượng có tính chu kì của nền kinh tế. Nó tồn tại
và xuất hiện như một phần không thể thiếu. Bởi khủng hoảng không chỉ gây những ảnh
hưởng tiêu cực mà đồng thời ở một góc nhìn khác nó cũng tác động tích cực đến nền kinh


tế. Đây là lí do để chúng tôi lựa chọn đề tài này.
Từ đầu thế kỉ XX đến nay, kinh tế thế giới đã xảy ra nhiều cuộc khủng hoảng tài
chính – kinh tế khu vực và trên phạm vi toàn cầu. Trước năm 2008, cuộc khủng hoàng
1929-1933 được coi là cuộc khủng hoảng lớn nhất và để lại nhiều thiệt hại nặng nề cho
nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, tháng 9 năm 2008 đã chứng kiến một cơn bão khủng
hoảng trầm trọng hơn xuất phát từ Mĩ. Cuộc khủng hoảng này đã làm cho kinh tế thế giới
nhanh chóng rơi vào suy thoái, kim ngạch thương mại sụt giảm mạnh, thất nghiệp tăng,
lòng tin của các nhà đầu tư giảm sút nghiêm trọng.
Cho đến nay, tức năm 2010, nền kinh tế thế giới vẫn chưa thực sự giải quyết những
hậu quả để lại của cuộc khủng hoảng. Vì vậy, khủng hoảng 2008 có thể coi là một vấn đề
mang tính thời sự. Cuộc khủng hoảng này không chỉ gây điêu đứng nền kinh tế Mỹ, mà
hậu quả của nó còn lan rộng ra khắp các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam. Việt Nam
là một nền kinh tế mở, và đang phát triển. Từ khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam có
nhiều tương tác và liên hệ trực tiếp hơn với nền kinh tế toàn cầu nên Việt Nam cũng chịu
nhiều ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng trên khắp các phương diện: thị trường chứng
khoán, bất động sản, ngân hàng, hệ thống tài chính,…
Bài tiểu luận của nhóm được viết nhằm trình bày có hệ thống những vấn đề tổng
quan về khủng hoảng kinh tế. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu từ khái niệm của khủng hoảng
kinh tế, cho đến nguyên nhân, tác động của nó đến nền kinh tế quốc dân. Từ nền kiến
thức cơ bản đó, ta có thể phân tích và hiểu cặn kẽ về ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
2008 tới nền kinh tế Việt Nam. Hi vọng rằng qua bài tiểu luận của nhóm, người đọc sẽ
thu nhận được cho bản thân những kiến thức cơ bản về khủng hoảng kinh tế - một khái
niệm cơ bản của kinh tế học cũng như những nhận thức, tri thức về nền kinh tế Việt Nam
đã chịu những tàn phá như thế nào trong cơn bão khủng hoảng đó.
4
B/ PHẦN NỘI DUNG
I. Lý luận chung về khủng hoảng kinh tế
1. Khái niệm
“Nếu như trong sản xuất hàng hóa giản đơn, với sự phát triển của chức năng phương
tiện thanh toán của tiền tệ đã làm xuất hiện khả năng nổ ra khủng hoảng kinh tế, thì đến

chủ nghĩa tư bản, khi nền sản xuất xã hội hóa cao độ, khủng hoảng kinh tế là điều không
thể tránh khỏi” ( Giáo trình NNLCB của Chủ nghĩa Mác-Lênin ). Như vậy, khủng hoảng
kinh tế là thuật ngữ đã xuất hiện rất lâu trong công cuộc phát triển kinh tế.
Trước hết, để hiểu hơn về khủng hoảng kinh tế, ta đi tìm hiểu thuật ngữ “suy thoái
kinh tế”. Suy thoái kinh tế theo định nghĩa của kinh tế học vĩ mô là sự suy giảm tổng sản
phẩm quốc nội thực ( GNP ) trong thời gian hai hoặc lớn hơn hai quý liên tiếp trong năm.
Hay nói theo cách khác thì suy thoái kinh tế là tốc độ tăng trưởng kinh tế âm liên tiếp
trong hai quý. Suy thoái kinh tế là sự tụt giảm của tất cả các hoạt động kinh tế bao gồm cả
việc làm, đầu tư và lợi nhuận doanh nghiệp, kéo theo cả giảm phát ( hạ giá cả ) và lạm
phát ( tăng nhanh giá cả).
Theo học thuyết kinh tế của Các-mác, khủng hoảng kinh tế là sự suy giảm các hoạt
động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kì kinh tế. Khủng hoảng
kinh tế ám chỉ thời gian chuyển biến rất nhanh sang giai đoạn suy thoái kinh tế. Như vậy
ta có thể kết luận rằng sự suy thoái kinh tế trầm trọng và lâu dài được gọi là khủng hoảng
kinh tế.
2. Phân loại
2.1. Khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa
Trong suốt quá trình phát triển, nền kinh tế của toàn Thế giới đã phải trải qua nhiều
cuộc khủng hoảng khác nhau nhưng hình thức khủng hoảng đầu tiên và phổ biến nhất là
“Khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa”. Khủng hoảng này nổ ra đầu tiên vào năm 1825 và
nhiều năm tiếp theo.
Ví dụ: cuộc khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa gâu ra hậu quả nặng nề nhất là vào năm
1929 kéo dài tới năm 1933.
5
Với kiểu khủng hoảng kinh tế này thì tình trạng thừa hàng hoá không phải là thừa so
với nhu cầu xã hội mà là thừa so với sức mua có hạn của quần chúng lao động, kéo theo
sản xuất giảm sút, vốn đầu tư bị rút bớt, tỉ lệ thất nghiệp tăng cao và tỉ lệ tái sản xuất bị
rối loạn. Khi nổ ra khủng hoảng thì hàng hoá không được tiêu thụ, sản xuất bị thu hẹp,
nhiều doanh nghiệp bị vỡ nợ, phá sản, thợ thuyền bị thất nghiệp, thị trường bị rối loạn,
hàng hoá thì bị phá huỷ. Hàng triệu người lao động lâm vào tình trạng đói khổ vì họ

không có khả năng thanh toán.
2.2. Khủng hoảng tài chính (KHTC)
Được định nghĩa là trạng thái chấn động của hệ thống tài chính, từ hệ thống lưu
thông tiền tệ, tín dụng, đến tài chính nhà nước. Biểu hiện của khủng hoảng này chủ yếu là
ở sự mất ổn định, mất cân đối giữa thu và chi, thiếu hụt nghiêm trọng và kéo dài các
nguồn vốn ngân sách nhà nước và tín dụng của ngân hàng, kéo theo lạm phát, đồng tiền
mất giá nghiêm trọng. KHTC bắt nguồn từ sự thiếu hụt ngân sách do đề phòng và chuẩn
bị chiến tranh, tăng cường lực lượng quân sự, hoặc do chi tiêu vào phúc lợi xã hội quá sức
chịu đựng của nền kinh tế, hoặc đầu tư nhiều mà không có hiệu quả, tất cả đều có thể dẫn
đến KHTC. Khủng hoảng thị trường tài chính xảy ra khi những món nợ đến hạn không
thu hồi được, do việc cấp phát vốn, cấp tín dụng không kiểm tra, kiểm soát, không xem
xét khả năng hoàn vốn của những đơn vị vay hoặc, do giá chứng khoán cổ phần đột nhiên
giảm sút.
Ví dụ: Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính nặng nề nhất đã xảy ra tại các nước Châu Á
năm 1997.
2.3. Khủng hoảng tiền tệ và tín dụng (KHTT-TD)
Là sự chấn động, rối loạn của hệ thống lưu thông tiền tệ và tín dụng, nảy sinh do
khủng hoảng chu kì của sản xuất (khủng hoảng kinh tế) hoặc do các sự kiện đặc biệt thất
thường về kinh tế và chính trị. Trên thị trường tiền tệ, KHTT-TD biểu hiện dưới dạng
thiếu tiền cho vay và tăng cao lãi suất. Trong thời kì khủng hoảng tiền tệ, trong lĩnh vực
tín dụng và thương mại xảy ra việc thủ tiêu có tính chất cưỡng bức một phần số dư nợ lẫn
nhau của các nhà kinh doanh về kì phiếu và giảm khối lượng tín dụng thương mại. Trong
lĩnh vực tín dụng quốc tế, KHTT - TD biểu hiện: sự đứt quãng tức thời các mối quan hệ
tín dụng quốc tế và sự phá sản của những người vay tiền nước ngoài, sự ách tắc của người
6
xuất khẩu do các ngân hàng không cho họ vay thêm những khoản tín dụng mới; sự thiếu
hụt lớn của các bảng cân đối thanh toán, và giảm sút lớn xuất khẩu tư bản. Ảnh hưởng của
KHTT - TD cũng biểu hiện cả trên thị trường chứng khoán và trong lĩnh vực lưu thông
tiền tệ. Đặc trưng của nó là "nạn đói tiền" hay là sự "rối loạn" toàn bộ lưu thông tiền tệ, và
sự mất giá đồng tiền. Khủng hoảng tiền tệ, với ý nghĩa là khủng hoảng thị trường tín dụng

ngắn hạn, thường gây ra khủng hoảng thị trường vốn (tư bản) là nơi cấp phát các khoản
tín dụng dài hạn, dẫn đến khủng hoảng tài chính - tiền tệ.
Ví dụ: Một trong những cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ nghiêm trọng đã xảy ra vào
nửa cuối năm 1997 ở các nước Đông Nam Á (Thái Lan, Inđônêxia, Philippin, Malaixia)
và một số nước Đông Á khác, và ở cả một số nước phát triển Châu Âu.
3. Chu kỳ của khủng hoảng kinh tế
Nền kinh tế trong chủ nghĩa tư bản đã trải qua nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế với
quy mô lớn nhỏ khác nhau. Dựa trên đó, các nhà nghiên cứu đã tính được chu kỳ của
khủng hoảng kinh tế. Chu kỳ của khủng hoảng kinh tế chính là khoảng thời gian nền kinh
tế tư bản chủ nghĩa vận động từ đầu cuộc khủng hoảng này đến đầu cuộc khủng hoảng
sau.
Nhìn chung, cứ từ 8 đến 12 năm lại xuất hiện một cuộc khủng hoảng kinh tế. Chu
kỳ kinh tế gồm 4 giai đoạn: Khủng hoảng, Tiêu điều, Phục hồi, Hưng thịnh.
• Khủng hoảng là giai đoạn khởi điểm của chu kỳ kinh tế mới. Ở giai đoạn
này, hàng hóa ế thừa, giá cả giảm mạnh, sản xuất đình trệ, xí nghiệp đóng
cửa, công nhân thất nghiệp hàng loạt, tiền công hạ xuống. Nhà tư bản mất
khả năng thanh toán các khoản nợ dẫn đến phá sản nên lực lượng sản xuất
bị phá hoại nghiêm trọng.
• Tiêu điều là giai đoan sản xuất ở trạng thái trì trệ, không còn tiếp tục đi
xuống nhưng cũng không tăng lên, thương nghiệp đình đốn, tư bản không
có nơi đầu tư. Trong giai đoạn này, để thoát khỏi tình trạng bế tắc, các nhà
tư bản còn trụ lại được tìm cách giảm chi phí bằng việc hạ thấp tiền công,
tăng cường độ và thời gian lao động của công nhân làm cho sản xuất vẫn có
lời trong tình hình hạ giá.
7
• Phục hồi là giai đoạn mà các xí nghiệp được khôi phục và mở rộng sản xuất.
Công nhân lại được thu hút vào làm việc, mức sản xuất đạt đến quy mô cũ,
vật giá tăng lên, lợi nhuận của tư bản do đó cũng tăng lên.
• Hưng thịnh là giai đoạn sản xuất phát triển vượt quá điểm cao nhất mà chu
kì trước đã đạt được. Nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hóa tăng, xí nghiệp

được mở rộng và xây dựng thêm. Nhu cầu tín dụng tăng, ngân hàng tung
tiền cho vay, năng lực sản xuất lại vượt quá sức mua cảu xã hội. Do đó lại
tạo điều kiện cho một cuộc khủng hoảng kinh tế mới.
4. Nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng kinh tế
Mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản chính là nguyên nhân chính dẫn đến khủng
hoảng kinh tế. Đó chính là mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất
với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
Để hiểu rõ được mâu thuẫn này, ta phải xem xét đến phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bao gồm lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất. Trong khi lực lượng sản xuất có công cụ sản xuất luôn được cải tiến nhờ sự sáng
tạo vượt bậc của con người, nhờ có sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật được áp dụng vào
sản xuất và do đó nó mang tính xã hội hoá cao. Còn về quan hệ sản xuất lại mang tính tư
hữu hoá bởi nó thuộc sở hữu của các nhà tư bản nên quy mô của nó hay cung cách tổ
chức phụ thuộc vào đó. Do vậy sinh ra mâu thuẫn. Mâu thuẫn này được thể hiện qua:
+ Mâu thuẫn giữa tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng xí nghiệp rất chặt chẽ và khoa
học với khuynh hướng tự phát vô chính phủ trong toàn xã hội.
+ Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích luỹ, mở rộng không có giới hạn của tư bản với
sự sức mua ngày càng eo hẹp của quần chúng do bị bần cùng hoá.
+ Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư bản và giai cấp lao động làm thuê.
Sự mâu thuẫn này có thể là nguyên nhân chính gây ra các cuộc khủng hoảng kinh tế
kéo theo nó là các vụ bãi công, biểu tình đòi lại quyền lợi của chính họ qua sự bóc lột
nặng nề của các chủ tư biển thông qua giá trị thặng dư.
8
Đây là ba mâu thuẫn cơ bản dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế. Bên cạnh đó cũng có
nhiều nguyên nhân khác như sự đối lập và mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị gây ra
khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa.
5. Tác động của khủng hoảng kinh tế
Có thể nói, không một quốc gia, không một doanh nghiệp, không một người dân
nào trên thế giới không chịu ít nhiều tác động của khủng hoảng kinh tế. Khủng hoảng
kinh tế đã khiến hàng loạt các vấn đề yếu kém và tồn tại của kinh tế thế giới được bộc lộ

ra ở phạm vi quốc gia, khu vực và thế giới.
Nhìn chung, khi một cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra, tất cả các lĩnh vực của đời
sống bao gồm kinh tế, văn hóa, chính trị-xã hội, … ít nhiều đều chịu ảnh hưởng. Tùy theo
trình độ phát triển của từng quốc gia, từng khu vực mà mức độ ảnh hưởng của các cuộc
khủng hoảng kinh tế cũng khác nhau. Tuy nhiên, cái gì cũng có hai mặt của nó, khủng
hoảng kinh tế nói chung có cả những tác động tiêu cực và tích cực.
5.1 Tác động tiêu cực
Một trong những tác động tiêu cực thường thấy nhất của một cuộc khủng hoảng
kinh tế là tỉ lệ GDP giảm và tỉ lệ thất nghiệp tăng.
Khủng hoảng dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực tùy vào từng quốc gia, từng khu vực.
Mô hình chung, khủng hoảng kinh tế dẫn đến hàng loạt các chỉ số kinh tế giảm. Đây là
dấu hiệu của khủng hoàng khi hàng loạt các chỉ số kinh tế giảm, bắt đầu là chỉ số GDP
giảm mạnh (tổng sản phẩm quốc dân_Gross Domestic Products ), tiếp đến là chỉ số CPI (
chỉ số giá tiêu dùng ). Khi các chỉ số này thụt giảm đồng nghĩa với việc thị trường đi vào
tình trạng bất ổn định. Khi đó, mọi mặt kinh tế của một quốc gia sẽ bị đình trệ, các khoản
nợ quốc gia tăng, khả năng rủi ro lớn và kéo theo các chỉ số về chứng khoán thụt giảm.
Việc các chỉ số về chứng khoán thụt giảm đồng nghĩa với việc chỉ số INDEX giảm khiến
mọi thị trường liên quan giảm theo bao gồm thị trường bất động sản, thị trường tài chính-
ngân hàng, thị trường tiền tệ-tín dụng, . Như vậy, khủng hoảng kinh tế khiến cho chỉ số
GDP giảm mạnh gián tiếp gây ra sự bất ổn trên thị trường làm sức mua của người dân suy
9
giảm, cầu về hàng hóa giảm. Mà cầu giảm dẫn đến cung giảm, nhiều doanh nghiệp phải
đóng cửa sản xuất hoặc phá sản.
Trong trường hợp này, các doanh nghiệp còn trụ lại trên thị trường sẽ giảm cung.
Nếu không giảm cung sẽ dẫn đến đại khủng hoảng hay còn gọi là khủng hoảng thừa. Đây
là khủng hoảng để lại hậu quả nặng nề nhất. Việc cung thị trường giảm sẽ dẫn đến khả
năng sản xuất giảm và lúc đấy dẫn đến thất nghiệp. Thất nghiệp gây ra những tác động
tiêu cực lẫn tích cực đến nền kinh tế. Đối với cá nhân, thất nghiệp gây ra sự mất mát thu
nhập và tổn thương về mặt tâm lí. Đối với xã hội, thất nghiệp chu kì làm cho sản lượng
giảm xuống dưới mực tự nhiên. Lợi ích cơ bản của thất nghiệp là tạo điều kiện để xếp

đúng người vào đúng việc và làm tăng năng suất lao động.
Ngoài ra, một trong các hậu quả khác mà khủng hoảng để lại là lạm phát. Thực chất,
lạm phát không bị gây ra do khủng hoảng mà là do chính sách của nhà nước để giải quyết
cuộc khủng hoảng đó. Các chính sách của nhà nước đưa ra để cứu nền kinh tế đàu tiên là
kích cầu, tức là tăng sức mua với việc trợ giá, đặt giá trần và giá sàn hay giảm thuế nên
khiến tỉ lệ lạm phát tăng.
5.2 Tác động tích cực
Nền kinh tế toàn cầu không thể thoát khỏi quy luật tăng trưởng rồi suy tàn. Khi
khủng hoảng xảy ra, người ta coi đó như hậu quả tất yếu sau một kỳ tăng trưởng nóng và
là dấu hiệu tốt cho thấy một sức sống mới sắp bắt đầu.
Từ đó, khủng hoảng được coi là biện pháp đào thải hiệu quả để loại bỏ một số phần
tử yếu kém, lạc hậu và chỉ có những gì thực sự khỏe mạnh mới có thể tồn tại.
II/Khủng hoảng kinh tế ảnh hưởng đến Việt Nam
1. Bối cảnh và nguyên nhân khủng hoảng
Cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay, nguyên nhân của nó, không bắt nguồn từ
đâu hết ngoài Mỹ. Mỹ là điểm xuất phát đồng thời cũng là trung tâm của cuộc khủng
hoảng, thông qua mối quan hệ mật thiết về tài chính nói riêng và kinh tế nói chung của
Mỹ với nhiều quốc gia trên thế giới, cuộc khủng hoảng tài chính đã lan rộng, dẫn tới sự
đổ vỡ tài chính, suy thoái kinh tế… ở nhiều quốc gia.
10
Có nhiều quan điểm về nguyên nhân của cuộc khủng hoảng , nhưng chúng đều
xoay quanh 1 vài vấn đề cơ bản sau : lãi suất cơ bản, khủng hoảng tài chính dưới chuẩn,
cơ chế giám sát, đòn bẩy tài chính….
Chính sách tiền tệ nới lỏng và chính sách nhà cho người có thu nhập thấp. Ở
Mỹ có chính sách hỗ trợ nhà ở cho người dân được ban hành từ năm 1995 nhằm khuyến
khích và tạo điều kiện cho dân nghèo và các nhóm da màu được vay tiền dễ dàng hơn để
mua nhà. Đến năm 2001, FED lại cắt giảm lãi suất cho vay xuống còn 1.75% và chỉ còn
1% trong những năm 2003 – 2004. Chính sách nhà cho người có thu nhập thấp cùng với
chính sách tiền tệ nới lỏng đã thúc đẩy mở rộng cho vay bất động sản, kể cả đối với
những người có thu nhập và không có khả năng chi trả. Cầu về nhà đất tăng cao cũng

đồng thời kéo theo giá bất động sản được đẩy lên liên tục, việc này dẫn đến tình trạng đầu
cơ nhà đất tăng cao. Tuy nhiên, khi giá nhà đất giảm mạnh, khách hàng không trả được nợ
dẫn đến tình trạng nợ xấu tăng nhanh và các ngân hàng bị mất khả năng thanh toán.
Khủng hoảng cho vay nhà đất và khủng hoảng tín dụng bắt nguồn từ việc bùng
nổ cho vay cầm cố dưới chuẩn. Cho vay dưới chuẩn là hình thức cho vay phổ biến tại Mỹ,
là các khoản cho vay chất lượng thấp với mức rủi ro cao, trong đó người đi vay là những
người dưới tiêu chuẩn (những người có quá khứ tín dụng yếu kém). Nhìn chung các
khoản vay dưới chuẩn có lãi suất cao hơn lãi suất thị trường nên nó làm tăng thêm khó
khăn tài chính cho người vay, đặc biệt là khi lãi suất thị trường tăng. Lãi suất tăng lên, giá
cả bất động sản giảm nhanh đã gây khó khăn cho hoạt động vay cầm cố dưới chuẩn.
Khủng hoảng trên thị trường cho vay cầm cố dưới chuẩn đã xảy ra khi 1 loạt các vụ tịch
thu tài sản trên thị trường này gia tăng ở Mỹ vào năm 2006 và lây lan thanh cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu vào 7/2007
Đầu năm 2007, chủ nợ cho vay dưới chuẩn lớn là New Century Financial sụp đổ
với khoản thua lỗ 900 triệu USD. Tháng 2/2007. HSBC báo cáo khoản thua lỗ khổng lồ
phát sinh ở trị trường mỹ. Rất nhiều các ngân hàng Pháp, Đức, Canada … cũng chịu
chung số phận. Đỉnh điểm là sự sụp đổ của Lehman Brothers 158 năm tuổi. ngân hàng
cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ, cùng hàng loạt những tên tuổi khác….đã kéo theo rất
nhiều hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng tới nền tài chính toàn cầu.
11
Những sai lầm của hệ thống ngân hàng mỹ trong việc cấp tín dụng quá dễ dãi, nhất
là cấp tín dụng cho kinh doanh bất động sản đã châm ngòi cho một cuộc khủng hoảng.
Trong thời đại toàn cầu hóa, khi các định chế tài chính toàn cầu có mối quan hệ tín dụng
đan xen nhau, cuộc khủng hoảng tài chính của nền kinh tế lớn nhất là Mỹ đã nhanh chóng
lây lan sang các nước khác như hiệu ứng Domino.
Bong bong bất động sản. Lợi nhuận từ việc cho vay cầm cố dưới chuẩn đã khiến
các ngân hàng xem nhẹ khả năng chi trả của khách hàng. Năm 2001, dư nợ cho vay cầm
cố bất động sản là 160 tỷ USD, năm 2004 là 540 tỷ USD và đến năm 2007 thì lên đến
1300 tỷ USD. Ước tính đến cuối quý III/2008, hơn một nửa giá trị thị trường nhà đất Mỹ
là tiền đi vay với 1/3 các khoản này là nợ khó đòi. Việc cầu về nhà ở tăng cao (như đã đề

cập ở trên) đã kéo theo giá nhà tăng, tính chung giai đoạn từ 1997 đến 2008, giá nhà tại
mỹ tăng 124%.Bong bong nhà đất kéo dài suốt giai đoạn 2001-2005.Việc FED tăng lãi
suất từ 1% lên 5,25% đã khiến thị trường bất động sản có phần đóng băng và sụt giảm.
Bong bóng bắt đầu xì hơi từ đấy. 8/2006, chỉ số xây dựng nhà ở giảm 40% so với cùng kì
năm trước đó. Năm 2007, doanh số bán nhà giảm mạnh. Giá nhà đất giảm mạnh đến nỗi
việc bán nhà thu hồi vốn trở nên rất khó khăn, khả năng bù lỗ là không thể. Ngàng công
nghiệp cho vay cầm cố dưới chuẩn chính thức sụp đổ. Giữa năm 2007, những tổ chức đầu
tiên tại Mỹ liên quan đến tín dụng nhà ở thứ cấp bị phá sản.
Buông lỏng quản lý và giám sát đối với hoạt động tài chính. Chính những chính
sách nới lỏng quá mức mà không có sự kiểm soát chặt chẽ từ phía nhà nước, ngoài ra, sự
thiếu minh bạch trong việc vay cầm cố dưới chuẩn và kê khai tài chính đã gây ra cuộc
khủng hoảng tài chính nghiêm trọng ở Mỹ, từ đó gây ra 1 loạt các phản ứng dây chuyền
sang các nước khác.
Đòn bẩy tài chính tăng cao. Đòn bẩy tài chính là việc doanh nghiệp sử dụng
nguồn tài trợ từ các khoản vay thay cho vốn chủ sở hữu, được các doanh nghiệp sử dụng
khi nhu cầu vốn đầu tư khá cao, trong khi vốn chủ sở hữu không đủ để tài trợ. Đòn bẩy tài
chính được tính bằng tỷ lệ Tổng tài sản trên Vốn chủ sở hữu. Như đã đề cập ở trên, bong
bóng bất động sản bị nổ đã làm gia tăng tình trạng mất khả năng trả nợ, trốn nợ…Việc
lạm dụng đòn bẩy tài chính của các doanh nghiệp, tập đoàn để đầu tư vào chứng khoán,
bất động sản… tự biến họ thành những con nợ khổng lồ, không thể nào giải quyết nổi.
12
Đòn bẩy tài chính quá cao cũng chình là nguyên nhân chính cho sự ra di của Bear Stearns,
Freddie Mac và Fannie Mae, Lehman Brothers và Merrill Lynch. Từ những tập đoàn hàng
đầu này, khủng hoảng đã lan ra toàn bộ nước Mỹ và toàn cầu như hiệu ứng domino.
Có rất nhiều quan điểm về nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng 2007, những nguyên
nhân nêu trên chỉ là một phần nhỏ đặc trưng trong cái mớ bòng bong dẫn đến khủng
hoảng. Mỗi nguyên nhân trên chỉ là một mắt xích có quan hệ mật thiết với nhau và thúc
đẩy nhau gây ra hiệu ứng dậy chuyền của khủng hoảng. Nhưng suy cho cùng, tất cả cũng
chỉ đều xuất phát từ long tham về lợi nhuận của các nhà đầu tư, của các định chế tài
chính….đã đẩy bong bóng bất động sản phình to, nổ tung và khi quả bóng nổ tung, tất cả

đều phải gánh chịu những hậu quả nặng nề.
2. Kinh tế Việt Nam trước tác động của khủng hoảng
Với đà tăng trưởng kinh tế rất ấn tượng và lạc quan trong năm 2007, tác động của
cơn bão khủng hoảng tài chính đến Việt Nam có chậm hơn so với nhiều nước trên thế
giới. Tuy nhiên kinh tế Việt Nam năm 2008 cũng không nằm ngoài dòng chảy của kinh tế
thế giới. Sau đây là một số phân tích về kinh tế Việt Nam trước tác động của khủng hoảng
tài chính 2008.
2.1. FDI
Xu hướng vốn đăng kí vào Việt Nam đang giảm dần về cuối năm 2008. Trong 9
tháng đầu năm 2008, Việt Nam thu hút được 57,12 tỉ USD vốn đầu tư đăng kí, bình quân
gần 6,35 tỉ USD/ tháng, tuy vậy, tháng 10/2008 chỉ có thêm được 2,19 tỉ USD, tháng
11/2008 thêm 3,19 tỉ USD, tháng 12/2008 thêm 1,51 tỉ USD
Năm 2008 cũng chứng kiến sự sụt giảm số lượng dự án FDI. Trong năm này cả
nước đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 1171 dự án, trong khi đó, con số của năm 2007
là 1406 dự án. Số dự án tăng vốn là 311( năm 2008), giảm so với 361 lượt dự án tăng vốn
của năm 2007.
13
2.2. Lạm phát
Trong nửa đầu năm 2008, lạm phát đã trở thành vấn đề hàng đầu của chính sách
kinh tế. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) liên tục leo thang, diễn biến lạm phát cũng rất phức
tạp.
Trong giai đoạn này, USD yếu làm giá cả hàng hóa thế giới, đặc biệt từ các nước
xuất khẩu hàng sang Việt Nam tăng lên tương đối. Giá dầu thô tăng vọt từ 89,4 USD/
thùng (12/2007) lên 147 USD/ thùng(7/2008), giá phôi thép tăng khiến các doanh nghiệp
tranh thủ nhập khẩu. Đà tăng trưởng từ năm 2007 khiến lượng tiền đồng trong nền kinh tế
tăng lên, cao hơn so với sức hấp thụ của nền kinh tế, cộng thêm việc nhập siêu nửa đầu
năm 2008 cao hơn mức nhập siêu cả năm 2007, làm gia tăng áp lực lạm phát.
Trước tình hình trên, chính phủ đã đưa ra một loạt các biện pháp nhằm kiềm chế
lạm phát: thắt chặt tiền tệ, cắt giảm đầu tư chi phí không cần thiết, đẩy mạnh sản xuất,
đảm bảo cân đối các mặt hàng chủ yếu, đẩy mạnh xuất khẩu, chống nhập siêu, triệt để tiết

kiệm trong sản xuất và tiêu dùng, quản lí thị trường, chống đầu cơ, triển khai mở rộng các
chính sách an ninh xã hội, ổn định tình hình kinh tế xã hội. Cùng lúc đó, giá cả hàng hóa
toàn cầu giảm xuống, tạo thuận lợi cho giảm giá đầu vào của sản xuất trong nước. Nhờ
vậy, lạm phát dần có những diễn biến tích cực. Từ tháng 10/2008, xuất hiện dấu hiệu
giảm phát khi CPI giảm xuống 148,20 so với mức 148,48 của tháng 9/2008.
2.3. Chính sách tiền tệ và tài khóa
Trước những dấu hiệu gia tăng lạm phát xuất hiện cuối năm 2007, ngay đầu năm
2008, Ngân hàng nhà nước đã theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt. Thị trường chứng
khoán sụt giảm, nguồn tín dụng ở trong tình trạng khan hiếm, mặt bằng lãi suất lên cao.
Trước tình hình đó, NHNN giảm lãi suất cơ bản, hạ tỉ lệ dự trữ bắt buộc,….
Trong quý IV/2008, chính sách tiền tệ được nới lỏng. Bên cạnh đó, chính phủ sử
dụng kết hợp chính sách tài khóa, với việc ban hành các chính sách thuế nhằm ngăn chặn
suy giảm kinh tế: tăng thuế nhập khẩu và hạ thuế xuất khẩu một số mặt hàng nhằm ổn
định đầu vào sản xuất, khuyến khích xuất khẩu.
Tỷ giá VNĐ/USD trong suốt năm 2008 cũng diễn biến rất phức tạp. Trong 3 tháng
đầu năm, tỷ giá VNĐ/USD trên thị trường liên ngân hàng liên tục sụt giảm. Từ giữa tháng
14
3 đến cuối tháng 7/2008, tỷ giá tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh từ giữa tháng 6/2008.
USD cùng với giá vàng tăng mạnh lên gần 19 triệu đồng/lượng. Từ nửa cuối tháng
7/2008, tỷ giá giảm dần và đi vào ổn định. So với cuối năm 2007, tỷ giá VNĐ/USD tăng
khoảng 9%, đẩy chi phí nhập khẩu, chi phí sản xuất kinh doanh của những ngành hàng có
đầu tư lớn vào nguyên liệu nhập khẩu, chi phí vay nợ ngoại tệ tăng cao.
2.4 Xuất nhập khẩu
Năm 2008 đã chứng kiến những biến động chưa từng có về giá hàng hóa xuất nhập
khẩu. Nửa đầu năm, giá hàng hóa trên thị trường thế giới leo thang đã gây áp lực tăng chi
phí nhập khẩu và đẩy nhập siêu lên cao, thúc đẩy tăng kim ngạch xuất khẩu.
Từ cuối tháng 7/2008, tác động của khủng hoảng tới hoạt động xuất nhập khẩu
Việt Nam thể hiện rõ rệt. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đồng loạt giảm giá mạnh, đặc
biệt ở mặt hàng dầu thô, nông sản, thủy sản… Trong 2 tháng cuối năm, lượng đơn hàng từ
đối tác nước ngoài của nhiều ngành hàng bị hủy bỏ hoặc sụt giảm mạnh.

Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đã có những bước chuyển động mới, mở rộng
thị trường xuất khẩu. Khi những thị trường truyền thống như Mỹ, EU, Nhật Bản gặp khó
khăn, nhiều doanh nghiệp đã chủ động khai thác và mở rộng sang thị trường mới hoặc đã
thâm nhập trước đó.
Trong 5 tháng đầu năm 2008, nhập siêu tăng mạnh, lên tới 14,4 tỉ USD. Tuy nhiên,
liên tiếp trong 7 tháng cuối năm, nhập siêu được kiềm chế ở mức thấp, một phần do giá
hàng hóa nhập khẩu trên thị trường thế giới giảm mạnh, đặc biệt là xăng dầu.
2.5. Thất nghiệp
Khủng hoảng kinh tế 2008 khiến tình trạng thất nghiệp tăng cao trên khắp thế giới.
Xu hướng mất việc diễn biến phức tạp do nhiều doanh nghiệp không nhận được đơn đặt
hàng từ phía nước ngoài, không tiêu thụ được hàng hóa. Số lao động mất việc làm năm
2008 tại 41 tỉnh, thành phố là 66707 người. Dù chính phủ nỗ lực đưa ra nhiều biện pháp
ưu đãi doanh nghiệp, nhiều dự đoán vẫn cho rằng tỉ lệ thất nghiệp ở Việt Nam trong năm
2009 sẽ cao gấp 5 lần so với năm 2008.
15
3. Thị trường bất động sản chống trọi với khủng hoảng kinh tế 2008
Trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế thì tác động qua lại giữa các
nền kinh tế, trong đó có tác động tích cực và tác động tiêu cực là không thể tránh khỏi.
Việc cần thiết là chủ động phân tích, đánh giá rút ra các bài học kinh nghiệm để phát huy
các mặt tích cực và hạn chế tối đa các tác động tiêu cực đối với nền kinh tế của đất nước.
Thị trường bất động sản Việt nam tuy mới hình thành nhưng cũng đã thể hiện tầm quan
trọng, có ảnh hưởng không nhỏ tới các thị trường khác. Câu hỏi đặt ra là thị trường bất
động sản Việt nam có giống thị trường bất động sản Mỹ mà chúng ta đã chứng kiến đợt
khủng hoảng tài chính - tín dụng bất động sản vừa qua, đang tác động mạnh đến hệ thống
tài chính cũng như tín dụng của rất nhiều các quốc gia, các khu vực lớn và nhỏ trên thế
giới?
3.1. Về khủng hoảng tài chính - tín dụng bất động sản tại Hoa Kỳ
Hệ thống tài chính ngân hàng của Mỹ lâm vào tình trạng khủng hoảng từ giữa năm 2007
và đỉnh điểm là tháng 9 năm nay (2008). Cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ cho vay nhà đất
thứ cấp làm sụp đổ 3 trong 5 ngân hàng đầu tư lớn nhất nước Mỹ là Bear Stearns, Merill

Lynch, Lehman Brothers (chỉ còn lại Goldman Sachs và Morgan Stanley) và 2 tập đoàn
cung cấp tín dụng thế chấp thứ cấp bất động sản lớn nhất nước Mỹ (chiếm gần một nửa
bất động sản cầm cố trong cả nước, khoảng 5.000 tỷ Đô la Mỹ) là Fannie Mae và Freddie
Mac được Chính phủ tiếp quản. Để cứu vãn thị trường tài chính, tránh một cuộc sụp đổ hệ
thống, Quốc Hội Mỹ đã buộc phải phê chuẩn kế hoạch 700 tỷ USD để hỗ trợ thị trường
tài chính.
Nhiều chuyên gia kinh tế có uy tín trong và ngoài nước đã phân tích các nguyên
nhân của cuộc khủng hoảng tài chính - tín dụng tại các nước, nhưng có thể rút ra một số
nguyên nhân cơ bản sau đây:
16
** Nguyên nhân đầu tiên quan trọng nhất là gia tăng nguồn vốn tài trợ để mua bán
nhà ở thông qua kỹ thuật “chứng khoán hóa bất động sản thế chấp” trong khi hệ thống
kiểm soát không theo kịp là nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng
** Nguyên nhân thứ hai là việc cho vay mua nhà ở dễ dãi “dưới chuẩn” nhưng
thiếu cơ chế kiểm soát
** Nguyên nhân thứ ba là giá bất động sản tại Mỹ tăng liên tục đã lôi kéo các nhà
đầu tư và cả người dân đổ xô vào kinh doanh bất động sản làm cung vượt quá cầu
3.2. Đối chiếu với thị trường bất động sản Việt Nam
Kể từ khi đất nước thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế được vận hành theo cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thị trường bất động sản cũng được điều
chỉnh theo cơ chế chung. Tuy vậy, thị trường bất động sản Việt nam do mới hình thành
nên có những đặc điểm khác so với các thị trường bất động sản Mỹ. Cụ thể như sau:
Ở Việt Nam chưa có khung pháp lý cho việc chứng khoán hóa bất động sản nên
chưa có việc các ngân hàng phát hành trái phiếu cho bất động sản thế chấp. Vì vậy, tuy có
hạn chế về huy động vốn cho thị trường bất động sản nhưng chưa có những rủi ro do
“chứng khoán hóa” bất động sản gây nên.
Dư nợ tín dụng cho lĩnh vực bất động sản vẫn nằm trong phạm vi an toàn. Theo
báo cáo của Ngân hàng Nhà nước dư nợ tín dụng cho bất động sản khoảng 115,5 ngàn tỷ
đồng chiếm khoảng 9,15% tổng dư nợ. Sản phẩm của thị trường bất động sản Việt nam
mà chiếm phần lớn là nhà ở được bán trực tiếp cho người có nhu cầu để ở.

Quan hệ cung - cầu trên thị trường bất động sản Việt nam vẫn mất cân đối theo
hướng cầu luôn lớn hơn cung và xu hướng này vẫn còn kéo dài trong tương lai vì tốc độ
đô thị hoá vẫn tăng cao trong thời gian tới dẫn đến nhu cầu về nhà ở, hạ tầng khu công
nghiệp, khách sạn, văn phòng cho thuê tăng nhanh. Riêng nhu cầu về nhà ở thì để đạt
17
được mục tiêu về diện tích nhà ở bình quân đầu người theo Định hướng phát triển nhà ở
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt từ 12m2/người hiện nay, tăng lên 20 m2/người vào
năm 2020, mỗi năm cần có khoảng 35 triệu m2 nhà xây mới tại các đô thị.
Tuy tiềm năng của thị trường bất động sản Việt nam còn rất lớn, nhưng thị trường
cũng có dấu hiệu thiếu ổn định và tiềm ẩn nhiều rủi ro, thể hiện qua những điểm sau:
Thứ nhất: Trong năm 2006, 2007 tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đã xảy ra
tình trạng giá văn phòng cho thuê, căn hộ cao cấp, giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất
để xây dựng nhà ở riêng lẻ tăng đột biến, cục bộ ở một số dự án, một số khu vực nhất
định. Theo thống kê, giá các căn hộ chung cư cao tầng tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà
nội tháng 10/2007 tăng khoảng 30% so với năm 2006, cuối tháng 1, đầu tháng 2 năm
2008 tăng khoảng 50% so với năm 2006. Tỷ lệ lấp đầy các văn phòng cho thuê loại A và
B tại Thành phố Hồ Chí Minh là trên 95%, với giá thuê trung bình trên 50
USD/1m2/tháng. Tại những khu vực giá bất động sản tăng đột biến đã có hiện tượng đầu
cơ, mua đi bán lại, các nhà đầu tư găm, giữ hàng không đưa ra thị trường, nhằm đẩy giá
lên cao.
Thứ hai: Hàng hoá bất động sản, nhất là nhà ở có cơ cấu không hợp lý, chủ yếu
các doanh nghiệp đầu tư loại nhà cao cấp, diện tích rộng và giá thành lớn chỉ phù hợp với
đối tượng có thu nhập cao, trong khi đó nhu cầu và khả năng của phân khúc thị trường
này chỉ chiếm khoảng 5% thị trường nhà ở. Thị trường thiếu hàng hoá có quy mô và giá
cả phù hợp với đa số nhu cầu của thị trường, thiếu loại nhà ở cho thuê phù hợp với nhu
cầu của đối tượng thu nhập trung bình và thấp. Đây cũng là biểu hiện của quan hệ cung
cầu không phù hợp và cũng là một trong những nguyên nhân gây ra khủng hoảng.
Thứ ba: Lợi nhuận cao trên thị trường bất động sản trong thời gian vừa qua đã thu
hút nhiều công ty, tập đoàn lớn thành lập công ty kinh doanh bất động sản. Nhiều ngân
hàng có quỹ hoặc công ty kinh doanh bất động sản, xuất hiện đầu tư nội bộ khó kiểm soát.

Nhiều doanh nghiệp không đủ khả năng tài chính, thiếu kinh nghiệm cũng tham gia đầu
tư kinh doanh bất động sản, nhiều cỏ nhõn cũng đổ xụ vào kinh doanh bất động sản, nên
18
đã nảy sinh hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, đầu tư theo phong trào, đầu tư không
hiệu quả.
Thứ tư: Việc cho vay mua bán bất động sản cũng có biểu hiện cho vay dễ dãi nhất
là vào thời điểm cuối năm 2007. Do bùng nổ sự ra đời các ngân hàng thương mại cổ phần
vào cuối 2006 đầu 2007, tạo áp lực cạnh tranh trong kinh doanh quay vòng vốn nên có
biểu hiện cho vay dễ dãi. Có những ngân hàng cho vay mua bất động sản đến 70% giá trị
bất động sản thế chấp tại thời điểm giá bất động sản cao. Có những ngân hàng cho doanh
nghiệp vay tín chấp hoặc thế chấp bằng chính dự án với số vốn lớn để đầu tư bất động
sản. Như vậy, cũng xuất hiện nguy cơ khi thị trường bất động sản trầm lắng, giá bất động
sản giảm, người vay không có khả năng thanh toán sẽ xuất hiện hiện tượng mất tính thanh
khoản và “tự lỗ”, nếu xử lý không khéo thì cũng có thể có hiện tượng mất niềm tin với
ngân hàng.
Thứ năm: Mặc dù chưa có khung pháp lý cho việc chứng khoán hóa bất động sản
thế chấp, nhưng cũng có hiện tượng có công ty kinh doanh bất động sản ban hành trái
phiếu doanh nghiệp (theo quy định tại Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm
2006 của Chính phủ) và cho người mua trái phiếu quyền ưu tiên mua bất động sản. Theo
quy định, trái phiếu doanh nghiệp cũng có quyền chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố ;
hoặc các chủ đầu tư có dự án bất động sản, tiến hành thành lập doanh nghiệp mới sau đó
cổ phần hóa doanh nghiệp đó. Cách làm đó cũng gần như phát hành trái phiếu bất động
sản, và cũng có sự lan tỏa thông qua chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố.
Thứ sáu: Chính sách tín dụng không ổn định, việc hạn chế cho vay đầu tư kinh
doanh bất động sản và tăng lãi suất cho vay vào những tháng giữa năm 2008, tuy có tác
động hạn chế đầu cơ bất động sản, góp phần “giảm nhiệt” thị trường nhưng làm các chủ
đầu tư khó khăn trong việc huy động vốn, nhiều dự án đã bị kéo dài tiến độ hoặc bị đình
hoãn có thể dẫn đến nguy cơ thiếu hàng hóa xét trong ngắn hạn vài ba năm tới, làm trầm
trọng thêm sự mất cân đối cung cầu, làm thị trường phát triển thiếu ổn định.
Tóm lại dưới góc độ tài chính, thị trường bất động sản Việt Nam không có những

rủi ro do “chứng khoán hóa” bất động sản gây nên nhưng cũng có những biểu hiện tác
19
động ngược từ thị trường bất động sản tới thị trường tài chính, ngân hàng thông qua việc
vay vốn thế chấp để đầu cơ bất động sản nhưng nhỏ hơn về quy mô và mức độ.
Để thị trường bất động sản Việt Nam phát triển lành mạnh, ổn định và bền vững,
góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội cần phải triển khai có hiệu quả
các nhóm giải pháp đã được nêu trong Chỉ thị số 01/2008/CT-TTg ngày 08/01/2008 của
Thủ tướng Chính phủ về một số giải pháp đẩy mạnh phát triển và quản lý thị trường bất
động sản, đồng thời tiếp tục nghiên cứu sâu hơn các định chế tài chính bất động sản của
Mỹ và các nước khác như các quỹ đầu tư, tái thế chấp, tín thác bất động sản để áp dụng
nhằm đa dạng hóa nguồn vốn cho thị trường bất động sản, nhưng kèm theo là cơ chế kiểm
soát hiệu quả.
4. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến thị trường chứng
khoán Việt Nam
Hai năm 2006-2007, thị trường chứng khoán Việt nam phát triển bong bong với
tốc độ chóng mặt và là một trong những nước có tốc độ phát triển TTCK nhanh hàng đầu
thế giới. Nhưng bước sang năm 2008, TTCK Việt Nam cũng lại nằm trong những nước
đứng đầu về tốc độ suy giảm.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm thị trường chứng khoán thế giới chao
đảo. Sắc đỏ trở thành gam màu chủ đạo tràn ngập TTCK các quốc gia, hàng chục nghìn tỉ
USD đã bốc hơi khỏi TTCK. Đa phần TTCK thế giới trong năm 2008 đểu giảm mạnh với
mức tăng trung bình từ 30-40%
TTCK Việt Nam đã có 1 năm đầy biến động, tụt giảm sâu hơn dự đoán nhiều
chuyên gia, VN-Index giảm 66%, Hastc-Index giảm 68%.Cuối năm 2007 vốn hóa thị
trường chiếm 40% GDP (30 tỉ USD) đến hết năm 2008 chỉ còn 13 tỉ USD chiếm 17%
GDP. Năm 2008 TTCK Việt Nam khép lại với 1 số điểm nổi bật: VN-Index và Hastc-
Index giảm mạnh, tính thanh khoản của thị trường kém, thị giá cổ phiếu sụt giảm với
20
nhiều mã cổ phiếu rơi xuống dưới mệnh giá khối ngoại thoái vốn, các cơ quan điều hành
liên tục can thiệp và tâm lý các nhà đầu tư ảm đạm.

4. Thị trường chứng khoán Việt Nam 2008
Nối tiếp đà sụt giảm từ cuối năm 2007, đi xuống là xu hướng chủ đạo của TTCK
năm 2008.
Khởi đầu năm 2008, Việt Nam đã đón nhiều thông tin bất lợi từ chính sách thắt
chặt tiền tệ của nhà nước nhằm khống chế lạm phát ở mức 2 con số. Các biện pháp thắt
chặt tiền tệ đã đẩy lãi suất huy động lên cao. Cùng với sự suy giảm của TTCK, đặc biệt là
thị trường cổ phiếu xuống giá khiến nhiều nhà đầu tư rời bỏ thị trường chuyển sang gửi
tiền ở ngân hàng với độ an toàn và lãi suất cao hơn.
Ngày 25/3/2008 VN-Index đã chính thức phá đáy 500 điểm, đóng cửa tại 496.64
điểm. Sự điều chỉnh biên độ giao động giá cổ phiếu của UBCKNN khiến giảm bớt tình
trạng hoảng loạn bán tháo của nhà đầu tư và thay vào đó là tâm lý đầu cơ mua vào, khiến
thị trường có những dấu hiệu ổn định hơn.
Ngày 3/4/2008 HoSE lên 2% và Hastc lên 3%
Mặc dù vậy, những yếu tố kinh tế vĩ mô vẫn còn xấu nên xu hướng tăng trong
ngắn hạn đã nhanh chóng chấm dứt.
Trong tháng 5/2008 khi lượng cung tăng mạnh ở tất cả các mã cổ phiếu thì lượng
đặt mua lại rất thưa thớt, VN-Index giảm liên tiếp 25 phiên, Hastc giảm liên tiếp 28 phiên,
thị trường gần như mất thanh khoản. Theo thống kê, sức cầu toàn thị trường của cả HoSE
và Hastc trong giai đoạn từ 15/5-15/6 chỉ đạt 140 tỷ/ ngày và đây cũng là mức thấp nhất
kể từ năm 2006.
Bước sang đầu quý III, cung với những dấu hiệu cải thiện của các yếu tố kinh tế vĩ
mô TTCK đã có sự phục hồi trong ngắn hạn.
Đến tận 9/2008 TTCK đã chứng kiến giai đoạn hoạt động sôi nổi nhất của thị
trường: cả HoSE và Hastc đã có những phiên tăng điểm mạnh. Trong giai đoạn này, cổ
phiếu được ưa chuộng nhất là nhóm cổ phiếu dầu khí, nguyên vật liệu và công nghệ.
Chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, TTCK Việt Nam chịu nhiều ảnh
hưởng sâu sắc. Trên TTCK Việt Nam, khối lượng giao dịch giảm dần và xuất hiện hiện
21
tượng khối đầu tư nước ngoài bán ra với quy mô khá lớn. Giai đoạn bán ròng của các khối
nhà đầu tư nước ngoài diễn ra từ đầu tháng 9 và lên mức đỉnh trong tháng 10.

Lần đầu tiên sau 3 năm thành lập, Hastc chứng kiến chỉ số Hastc-Index giảm dưới
mốc 100 điểm, chỉ còn 97.61 điểm vào ngày 27/11 và đây cũng là mức đáy của Hastc-
Index trong năm 2008.
Ngày 10/12/2008, VN-Index xuống đáy thấp nhất trong năm 2008 ở mức 286,85
điểm.
Năm 2008 đầy thăng trầm và song gió với TTCK Việt nam đã kết thúc bằng một
phiên giảm điểm.
Đóng của phiên giao dịch ngày 31/12/2008, VN-Index còn 315.62 điểm(giảm gần
66% so với đầu năm) và trong 245 phiên giao dịch trên HoSE có tận 136 phiên VN-Index
xuống dốc. Trong khi đó, Hastc-Index cũng khép lại năm 2008 bằng một phiên giảm điểm
còn 105.12(giảm gần 68% so với đầu năm).
Tại thời điểm 31/12/2008, sau một năm giá trị vốn hóa của TTCK đã mất đi
269.000 tỷ đồng. Giá trị vốn hóa thị trường của tất cả các cổ phiếu đang niêm yết trên cả
2 sàn hơn 225.300 tỉ đồng trong khi cuối năm 2007 là 494.500 tỷ đồng.
4.2. Thị trường OTC ngủ đông
22
Cùng với sự đi xuống của thị trường niêm yết chính thức, thị trường OTC cũng rơi
vào im ắng. Hầu hết mọi cổ phiếu trên OTC đều bị đóng băng, không giao dịch, một số
tiêu cực đã khiến cho niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường OTC càng yếu đi.
4.3. Thị trường trái phiếu
Thị trường trái phiếu Việt nam chủ yếu giao dịch trái phiếu do Chính phủ phát
hành, trái phiếu doanh nghiệp hầu như vắng bóng.Trong quý I/2008 khối đầu tư nước
ngoài đẩy mạnh mua trái phiếu Chính phủ trên thị trường thứ cấp. Sang quý II, trước
những dấu hiệu bất ổn của tình hình kinh tế vĩ mô, các nhà đầu tư ngoại bắt đầu có xu
hướng rút khỏi thị trường khiến giá trái phiếu trên thị trường thứ cấp giảm mạnh. Sang
quý III và quý IV/2008, thị trường trái phiếu Chính phủ đã có những dấu hiệu phục hồi.
Động thái liên tục cắt giảm lãi suất cơ bản đã có tác dộng tích cực đến nhu cầu đầu tư trái
phiếu của các tổ chức tín dụng trong nước và làm giá trái phiếu tăng trở lại.
5. Hệ thống ngân hàng thương mại trước tác động của khủng hoảng 2008
5.1. Vài nét Ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam

- Các ngân hàng thương mại chú trọng đến 4 trụ cột trong hoạt động:
+ Quy mô tổng tài sản
+ Hiện đại hoá
+ Nguồn nhân lực
+Quản trị điều hành theo chuẩn mực quốc tế
- Giai đoạn 2006 – 2007 là giai đoạn phát triển mạnh mẽ của hệ thống ngân
hàng Việt Nam, tăng trưởng nhanh chóng cả về số lượng lẫn qui mô.
Tổng tài sản (nghìn tỷ đồng) Tăng trưởng tổng tài sản (%)
ABB 17,174 452
SEAB 26,241 157
VP 18,137 79
HBB 23,519 101
EAB 27,425 128
MB 27,777 105
VIB 39,305 138
TCB 39,542 128
EIB 33,710 84
23
STB 64,513 161
ACB 85,392 94
MHB 27,532 47
BIDV 204,511 27
VCB 195,964 17
AGRI 32,897 33
Số lượng ngân hàng qua các năm (2005 – 5/2009)
2005 2006 2007 2008 5/2009
NHTM nhà nước 5 5 5 4 3
NHTM cổ phần 37 34 35 39 41
Ngân hàng liên
doanh

4 5 5 5 5
Chi nhánh ngân
hàng nước ngoài
29 31 41 41 41
- Tốc độ tăng trưởng của hoạt động tín dụng và huy động tiền gửi ở mức rất
cao, đạt trung bình trên 35% /năm trong suốt giai đoạn 2002-2007.
- Mạng lưới hoạt động của các ngân hàng được phát triển rộng rãi và nhanh
chóng, đặc biệt là ngân hàng thương mại cổ phần
24
- Để cạnh tranh về huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu tín dụng, các NHTM
cổ phần thường là người châm ngòi cho các cuộc chạy đua về lãi suất cũng như
hàng loạt chương trình khuyến mại.
5.2 Ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tới các NHTM ở Việt Nam
5.2.1. Nhận định chung
Cuộc khủng hoảng tài chính bùng phát tại Mỹ và lan rộng ra toàn thế giới đã
kéo theo sự sụp độ của hàng loạt các hệ thống tài chính lớn. Theo Chính phủ và
Ngân hàng nhà nước, do chưa có mối liên hệ trực tiếp với thị trường tài chính thế
giới nên hệ thống ngân hàng Việt Nam không chịu ảnh hưởng sâu sắc của cuộc
khủng hoảng 2008.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính làm suy giảm kinh tế toàn cầu đã gây
nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước. Từ đó, mối quan hệ tín dụng của
các NHTM với doanh nghiệp cũng chịu những ảnh hưởng tiêu cực.
5.2.2. Tác động đến hoạt động của ngân hàng thương mại
i) Cuộc chay đua lãi suất giữa các NHTM và những hệ quả
Năm 2007 là thời điểm ngành ngân hàng chứng kiến sự tăng trưởng mạnh
về tín dụng (trên 50%). Tuy nhiên, đầu năm 2008, chịu ảnh hưởng của khủng
hoảng tài chính thế giới, Việt Nam phải đối mặt với tình hình lạm phát cao cũng
như sự sụt giảm mạnh của thị trường bất động sản và chứng khoán. Trước hoàn
cảnh đó, Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã ban hành những chính sách thắt chặt
tiền tệ, còn các ngân hàng do lo ngại rủi ro tín dụng nên thận trọng hơn trong việc

cho vay vốn. Vì lẽ đó, lãi suất cho vay tăng mạnh lại trở thành rào cản đối với các
nhu cầu tín dụng.
Những biện pháp của NHNN cộng với sự khó khăn về thanh khoản của các
NHTM đã gây không ít khó khăn cho các ngân hàng, đặc biệt là hoạt động huy
động vốn. Trong thời kì này, lãi suất huy động và cho vay có những biến động lớn
chưa từng có. Tháng 5/2008 đã bùng phát một cuộc chạy đua lãi suất và tạo ra
những đỉnh điểm nóng trong tháng 6/2008. Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất
đã đạt tới mức kỉ lục đến trên 40%/năm.
25

×