LỜI NÓI ĐẦU
Mỗi doanh nghiệp được xem như một tế bào sống cấu thành nên toàn bộ nền
kinh tế, là nơi tổ chức kết hợp các yếu tố của quá trình sản xuất để tạo ra của cải vật
chất cho xã hội, tạo nguồn tích lũy cho xã hội phát triển.
Trong những năm gần đây, sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam vô cùng
mạnh mẽ, đặc biệt là việc Việt Nam được tham gia vào tổ chức WTO đã đánh dấu
một bước phát triển mới, đưa nước ta hội nhập toàn diện và sâu rộng vào nền kinh
tế thế giới. Điều đó đã tạo ra nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những thách thức
đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Đứng trước xu thế toàn cầu hóa thì việc một
quốc gia hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp trong quốc gia đó. Khả năng cạnh tranh là nguồn
năng lực thiết yếu để các doanh nghiệp tiếp tục vững bước trên con đường hội nhập
kinh tế. Để tồn tại và phát triển trong một môi trường năng động và cạnh tranh ngày
càng mạnh mẽ đòi hỏi doanh nghiệp phải không ngừng hoàn thiện mình, có đủ khả
năng tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Hướng tới mục tiêu đó, một trong
những vấn đề quan trọng đặt ra đối với các doanh nghiệp là làm thế nào để quản lý
và sử dụng có hiệu quả nhất nguồn vốn của mình.
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn kinh doanh liên tục vận động qua
nhiều hình thái với những đặc điểm khác nhau. Sử dụng có hiệu quả vốn kinh doanh
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất
mở rộng nhằm mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp trên cơ sở tôn trọng các
nguyên tắc tài chính và chấp hành đúng pháp luật của Nhà nước. Vốn lưu động là
một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh, nó tham gia vào hầu hết các giai đoạn
của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Nhiều nhà phân tích tài chính đã ví “Vốn lưu động
của doanh nghiệp như dòng máu tuần hoàn trong cơ thể con người”. Vốn lưu động
được ví như vậy có lẽ bởi sự tương đồng về tính tuần hoàn và sự cần thiết đối với
“cơ thể” doanh nghiệp. Do đó nghiên cứu các biện pháp để quản lý và nâng cao
- 1 -
hiệu quả sử dụng vốn lưu động tuy không phải là vấn đề mới mẻ nhưng luôn luôn
được các doanh nghiệp đặt lên hàng đầu và xuyên suốt trong chặng đường hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình.
Công ty Cổ phần Nội thất Hòa Phát thuộc Tập đoàn Hòa Phát là một Công ty
chuyên sản xuất đồ nội thất văn phòng, gia đình và trường học hàng đầu của Việt
Nam. Mặc dù đã khẳng định được thương hiệu và vị trí của mình trên thị trường
nhưng hoạt động trong nền kinh tế mở với xu thế quốc tế hóa ngày càng mở rộng,
tham gia vào quá trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới thì việc tiếp tục
khẳng định mình và vươn lên tầm cao hơn vẫn luôn là nhiệm vụ hàng đầu mà Công
ty đặt ra. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động để nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh cũng là một nhiệm vụ không nằm ngoài mục tiêu trên. Xuất phát từ thực
tiễn sử dụng và tầm quan trọng của vốn lưu động đối với doanh nghiệp, tôi mạnh
dạn chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty Cổ phần
Nội thất Hòa Phát” làm luận văn thạc sỹ kinh tế với mong muốn đóng góp những
ý kiến nhỏ bé của mình vào sự phát triển chung của Công ty.
2. Mục đích nghiên cứu
Hướng nghiên cứu là kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
Hệ thống hoá cơ sở lý luận về vốn, vốn lưu động, hiệu quả sử dụng vốn, từ đó
hoàn thiện và bổ sung một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động
trong các doanh nghiệp.
Từ việc khảo sát tình hình thực tế tại Công ty Cổ phần Nội thất Hòa Phát qua
các năm, kết hợp với lý luận kinh tế mà cụ thể là lý luận về quản lý tài chính, về
vốn, để tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động
của Công ty, nắm bắt được các thuận lợi cũng như khó khăn mà công ty gặp phải.
Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của
công ty Cổ phần Nội thất Hòa Phát.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Phạm vi nghiên cứu: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty Cổ phần Nội
thất Hòa Phát.
- 2 -
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tổng hợp: thu thập số liệu và các tài liệu liên quan đến vấn đề
nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích: xử lý, phân tích các số liệu thu thập được.
- Phương pháp suy luận biện chứng.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Hệ thống hóa lý luận về hiệu quả sử dụng vốn lưu động của các doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường.
Đánh giá thực trạng và phân tích các nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả sử
dụng vốn lưu động của Công ty Cổ phần Nội thất Hòa Phát.
Đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả vốn lưu động của
Công ty Cổ phần Nội thất Hòa Phát.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động
trong doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động tại Công ty
Cổ phần Nội thất Hòa Phát.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tại Công ty
Cổ phần Nội thất Hòa Phát
- 3 -
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VỀ VỐN LƯU ĐỘNG VÀ HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP
1.1 Vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Đối với một quốc gia, sự phát triển kinh tế là một trong những mục tiêu được
ưu tiên hàng đầu. Sự phát triển kinh tế là một trong những chỉ tiêu quan trọng để
đánh giá tiềm lực của một quốc gia trên trường quốc tế. Để quá trình vận hành nền
kinh tế đạt được hiệu quả cần có sự phối hợp hài hòa giữa các thành viên bên trong
nó. Trong đó, doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển
chung của bất kỳ nền kinh tế nào. Các doanh nghiệp được hình thành, đi vào hoạt
động và phát triển với nhiều hình thức kinh doanh khác nhau. Có doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, cũng có doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu
công ích xã hội. Và xét cho cùng thì mọi hoạt động của doanh nghiệp vẫn là nhằm
đạt đến tối đa hóa giá trị của chủ sở hữu. Bởi lẽ, mỗi doanh nghiệp thuộc về các chủ
sở hữu nhất định và họ chỉ quyết định tiếp tục phát triển khi nhận thấy giá trị đầu tư
của mình tăng lên. Quản lý tài chính doanh nghiệp chính là nhằm thực hiện mục
tiêu đó. Trong giới hạn của luận văn này xin chỉ xét đến hoạt động của doanh
nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận.
1.1.1 Khái niệm vốn kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều loại hình doanh
nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau, bình đẳng trước pháp luật trong việc
lựa chọn ngành nghề cũng như lĩnh vực kinh doanh. Nền kinh tế đang chứng kiến
sự đa dạng về hình thức hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Song về bản chất
tất cả các hoạt động đó đều tìm lời giải đáp cho ba câu hỏi cơ bản của nền kinh tế
đặt ra, đó là: “sản xuất cái gì?”, “sản xuất như thế nào?” và “sản xuất cho ai?”.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp có quyền tự do kinh
doanh. Họ tự xác định tính chất sản phẩm mà họ sẽ tạo ra, họ thương lượng về giá
- 4 -
cả mà họ sẽ trả hoặc nhận và tự xác định xem khách hàng của mình là ai. Các doanh
nghiệp luôn tự vạch ra các mục tiêu kết hợp với mục tiêu của toàn ngành do Nhà
nước hoạch định và phải có những biện pháp cụ thể để thực hiện mục tiêu đó. Có thể
nói mọi hoạt động của doanh nghiệp dưới bất kỳ hình thức nào về bản chất đều nhằm
giải quyết những vấn đề cơ bản của thị trường nhằm mưu cầu lợi nhuận tối ưu.
Để thực hiện được vấn đề này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng tiền
vốn nhất định để thực hiện các khoản đầu tư cần thiết ban đầu như chi phí thành lập
doanh nghiệp, chi phí mua nguyên vật liệu, trả lương, trả lãi tiền vay, nộp thuế,
Ngoài ra còn đầu tư thêm công nghệ, mua sắm máy móc, thiết bị để tái sản xuất mở
rộng, phát triển doanh nghiệp. Vậy vốn là gì?
Theo sự phát triển của lịch sử, các quan điểm về vốn xuất hiện và ngày càng
hoàn thiện, tiêu biểu có các cách hiểu về vốn của một số nhà kinh tế học thuộc các
trường phái kinh tế khác nhau như sau:
Các nhà kinh tế học cổ điển tiếp cận vốn với góc độ hiện vật. Họ cho rằng,
vốn là một trong những yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất kinh doanh. Cách
hiểu này phù hợp với trình độ quản lý kinh tế còn sơ khai-giai đoạn kinh tế học mới
xuất hiện và bắt đầu phát triển.
Theo một số nhà tài chính thì vốn là tổng số tiền do những người có cổ phần
trong công ty đóng góp và họ nhận được phần thu nhập chia cho các chứng khoáng
của công ty. Như vậy, các nhà tài chính đã chú ý đến mặt tài chính của vốn, làm rõ
được nguồn vốn cơ bản của doanh nghiệp đồng thời cho cho các nhà đầu tư thấy
được lợi ích của việc đầu tư, khuyến khích họ tăng cường đầu tư vào mở rộng và
phát triển sản xuất.
Theo David Begg, Standley Fischer, Rudige Dambusch trong cuốn “Kinh tế
học” thì vốn là một loại hàng hóa nhưng được sử dụng tiếp tục vào quá trình sản
xuất kinh doanh tiếp theo. Có hai loại vốn là vốn hiện vật và vốn tài chính. Vốn
hiện vật là dự trữ các loại hàng hóa đã sản xuất ra các hàng hóa và dịch vụ khác.
Vốn tài chính là tiền mặt, tiền gửi ngân hàng,…Đất đai không được coi là vốn.
Một số nhà kinh tế học khác lại cho rằng, vốn bao gồm toàn bộ các yếu tố
- 5 -
kinh tế được bố trí để sản xuất hàng hóa, dịch vụ như tài sản tài chính, các kiến thức
về kinh tế kỹ thuật của doanh nghiệp đã tích lũy được, trình độ quản lý và tác
nghiệp của các cán bộ điều hành cùng chất lượng đội ngũ công nhân viên trong
doanh nghiệp, uy tín, lợi thế của doanh nghiệp.
Một số quan điểm khác lại cho rằng vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư.
Một số quan niệm về vốn ở trên được tiếp cận dưới những góc độ nghiên cứu
khác nhau, trong những điều kiện lịch sử khác nhau. Nhưng tựu chung lại, vốn là
một phạm trù kính tế cơ bản, vốn gắn liền với nền tảng sản xuất hàng hóa. Có thể
hiểu: Vốn là một phạm trù kinh tế. Vốn là biểu hiện bằng tiền của tất cả các giá trị
tài sản được sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là giá
trị ứng ra ban đầu cho các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp nhằm
mục tiêu sinh lời.
Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục nên vốn kinh
doanh của doanh nghiệp cũng vận động không ngừng tạo ra sự tuần hoàn và chu
chuyển của vốn. Cách thức vận động của vốn do phương thức đầu tư của doanh
nghiệp quyết định:
- Đối với đầu tư vào sản xuất kinh doanh thì vốn vận động theo công thức sau:
TLSX
T-H SX- H'- T' ( T' > T )
SLĐ
Vòng tuần hoàn của vốn bắt đầu từ hình thái vốn tiền tệ (T) chuyển hóa
sang hình thái vốn vật tư hàng hóa (H) dưới dạng các TLLĐ và ĐTLĐ, qua quá
trình sản xuất vốn được biểu hiện dưới dạng hình thái thành phẩm hàng hóa (H’)
và cuối cùng lại trở về hình thái vốn tiền tệ (T). Do sự luân chuyển không ngừng
của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên cùng một lúc vốn kinh doanh
của doanh nghiệp thường tồn tại dưới các hình thức khác nhau trong lĩnh vực sản
xuất, lưu thông.
- Đối với đầu tư cho lĩnh vực thương mại, công thức đơn giản hơn:
T - H - T’
- 6 -
- Đối với đầu tư mua trái phiếu hoặc cổ phiếu, góp vốn liên doanh thì công
thức vận động của vốn là:
T - T’
1.1.2 Phân loại vốn kinh doanh
Có rất nhiều cách phân loại vốn kinh doanh tùy theo những góc độ nhìn nhận
khác nhau:
a. Đứng trên góc độ pháp luật, vốn của doanh nghiệp bao gồm:
- Vốn pháp định: là vốn tối thiểu phải có để thành lập doanh nghiệp do pháp
luật quy định đối với từng ngành nghề và từng loại hình sở hữu doanh nghiệp. Dưới
mức vốn pháp định thì không đủ điều kiện thành lập doanh nghiệp.
- Vốn điều lệ: là số vốn do các thành viên đóng góp và ghi vào điều lệ của
doanh nghiệp. Tùy theo từng loại hình doanh nghiệp, từng ngành nghề, vốn điều lệ
không được thấp hơn vốn pháp định.
b. Đứng trên góc độ nguồn hình thành vốn, vốn kinh doanh bao gồm:
- Vốn chủ sở hữu: là số vốn góp do chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng góp. Số
vốn này không phải là một khoản nợ, doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán,
không phải trả lãi suất. Tuy nhiên, lợi nhuận thu được do sản xuất kinh doanh có lãi
của doanh nghiệp sẽ được chia cho các cổ đông theo tỷ lệ phần vốn góp.Tùy theo
từng loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu được hình thành theo các cách thức
khác nhau. Thông thường nguồn vốn này bao gồm vốn góp và lợi nhuận chưa chia.
- Vốn vay: là khoản vốn đầu tư ngoài vốn pháp định được hình thành từ
nguồn vốn đi vay, đi chiếm dụng của các tổ chức, đơn vị, cá nhân và sau một thời
gian nhất định, doanh nghiệp phải hoàn trả cho người cho vay cả lãi và gốc. Phần
vốn vay này doanh nghiệp được sử dụng với những điều kiện nhất định (như thời
gian sử dụng, lãi suất, thế chấp,…) nhưng không thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp. Vốn vay có hai loại là vốn vay ngắn hạn và dài hạn.
c. Đứng trên góc độ thời gian huy động vốn, vốn kinh doanh bao gồm:
- Vốn thường xuyên: là nguồn vốn có tính chất ổn định và dài hạn mà doanh
nghiệp có thể sử dụng để đầu tư vào tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động
- 7 -
tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp. Nguồn vốn này
bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn vay dài hạn của doanh nghiệp.
- Vốn tạm thời: là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1 năm) mà doanh
nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu có tính chất tạm thời, bất thường phát
sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao
gồm các khoản vay ngắn hạn và các khoản chiếm dụng của bạn hàng.
d. Đứng trên góc độ chu chuyển vốn người ta chia toàn bộ vốn của doanh nghiệp
thành hai loại:
- Vốn cố định: là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cố định và các tài
sản dài hạn khác của doanh nghiệp.
- Vốn lưu động: là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản lưu động của
doanh nghiệp.
Mỗi cách phân loại cho ta hiểu rõ thêm về vốn theo từng khía cạn., Mỗi loại vốn
đều có ưu nhược điểm riêng, đòi hỏi phải được quản lý, sử dụng hợp lý và chặt chẽ.
Đồng thời, mỗi loại vốn sẽ phát huy tác dụng trong những điều kiện khác nhau,
trong một cơ cấu vốn thích hợp.
1.2 Vốn lưu động của doanh nghiệp
Doanh nghiệp hoạt động không tách rời với các mối quan hệ với môi trường
xung quanh. Nền kinh tế thị trường càng phát triển đặt ra những điều kiện về chất
lượng, mẫu mã, giá cả của hàng hóa, chất lượng của dịch vụ ngày càng cao hơn,
tinh tế hơn. Do đó, để có đủ sức cạnh tranh các doanh nghiệp buộc phải không
ngừng cải tiến sản phẩm, đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả và chất lượng
cao. Trong sự vận động của thị trường, các mối quan hệ tài chính của doanh nghiệp
được thể hiện rất đa dạng trong toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Để tiến hành sản xuất - kinh doanh, các nhà tài chính doanh nghiệp
phải xử lý các quan hệ tài chính thông qua phương thức giải quyết ba vấn đề cơ bản
quan trọng của tài chính doanh nghiệp. Đó là:
Một là, nên đầu tư dài hạn vào đâu và bao nhiêu cho phù hợp với loại hình
sản xuất kinh doanh đã lựa chọn. Đây chính là chiến lược đầu tư dài hạn của doanh
nghiệp và là cơ sở để dự toán vốn đầu tư.
- 8 -
Hai là, nguồn vốn đầu tư doanh nghiệp có thể khai thác là nguồn nào?
Ba là, doanh nghiệp sẽ quản lý hoạt động tài chính hàng ngày như thế nào?
Đây là các quyết định tài chính ngắn hạn và chúng có liên quan chặt chẽ tới quản lý
vốn lưu động của doanh nghiệp.
Ba vấn đề trên không phải là tất cả các vấn đề của tài chính doanh nghiệp,
nhưng là các vấn đề lớn nhất, quan trọng nhất mà mỗi quyết định về các vấn đề đó
đều có ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Mỗi vấn đề đó
bao gồm nhiều nội dung, nhiều khía cạnh khác nhau. Trong phạm vi luận văn này,
tác giả sẽ chỉ phân tích tới những nội dung cơ bản của công tác quản lý vốn lưu
động trong doanh nghiệp.
Trước hết là những lý luận chung về vốn lưu động cũng như công tác quản lý
vốn lưu động của doanh nghiệp.
1.2.1 Khái niệm vốn lưu động
Vốn lưu động là giá trị của toàn bộ tài sản lưu động mà doanh nghiệp đã đầu
tư vào quá trình sản xuất kinh doanh, đó là số vốn bằng tiền ứng ra để mua sắm các
tài sản lưu động sản xuất và các tài sản lưu động lưu thông nhằm đảm bảo cho quá
trình tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, ngoài các TLLĐ, các
doanh nghiệp còn có các ĐTLĐ. Khác với các TLLĐ, các ĐTLĐ (như
nguyên, nhiên vật liệu, bán thành phẩm,…) chỉ tham gia vào một chu kỳ sản
xuất và không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được
chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm.
Những đối tượng lao động nói trên nếu xét về hình thái hiện vật được
gọi là các tài sản lưu động, còn về hình thái giá trị được gọi là vốn lưu động
của doanh nghiệp.
* Tài sản lưu động: là những tài sản ngắn hạn, thường xuyên luân
chuyển trong quá trình kinh doanh. Trong các doanh nghiệp người ta thường
chia tài sản lưu động thành hai loai: Tài sản lưu động sản xuấT và tài sản lưu
động trong lưu thông.
- 9 -
- Tài sản lưu động trong sản xuất bao gồm các loại nguyên, nhiên, vật liệu,
phụ tùng thay thế, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang,…đang trong quá trình dự trữ
sản xuất.
- Tài sản lưu động trong lưu thông bao gồm các sản phẩm thành phẩm chờ
tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, các khoản vốn trong thanh toán, các khoản chi phí
chờ kết chuyển, chi phí trả trước,…
Trong quá trình sản xuất kinh doanh các tài sản lưu động sản xuất và tài sản
lưu động lưu thông luôn vận động, thay thế và chuyển hóa lẫn nhau, đảm bảo cho
quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục và thuận lợi.
Trong bản cân đối tài sản của doanh nghiệp thì tài sản lưu động chủ yếu để
thể hiện ở các bộ phận là tiền mặt, các chứng khoán có tính thanh khoản cao, các
khoản phải thu và dự trữ tồn kho.
Giá trị của các loại tài sản lưu động của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
thường chiếm từ 25% đến 50% tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp. Vì vậy, quản
lý và sử dụng vốn lưu động hợp lý có ảnh hưởng rất quan trọng đến việc hoàn
thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp, trong đó có công tác nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn.
* Đặc điểm của tài sản lưu động:
- Tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh.
- Thay đổi hình thái vật chất ban đầu để cấu tạo nên thực thể sản phẩm.
- Giá trị luân chuyển một lần vào giá thành sản phẩm làm ra.
1.2.2 Đặc điểm của vốn lưu động:
Là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động nên đặc điểm vận động của vốn
lưu động luôn chịu sự chi phối bởi những đặc điểm của tài sản lưu động.
Vốn lưu động tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh và bị hao mòn
hoàn toàn trong quá trình sản xuất đó. Giá trị của nó chuyển hết một lần vào giá trị
sản phẩm để cấu thành nên sản phẩm.
Vốn lưu động được chuyển hóa qua nhiều hình thái khác nhau, bắt đầu là
tiền tệ sang hình thái vật tư, hàng hóa dự trữ. Khi vật tư dự trữ được đưa vào sản
- 10 -
xuất, chúng ta chế tạo thành các bán thành phẩm. Sau khi sản phẩm sản xuất ra được
tiêu thụ, vốn lưu động quay về hình thái tiền tệ ban đầu của nó. Quá trình sản xuất kinh
doanh diễn ra liên tục, không ngừng cho nên vốn lưu động cũng tuần hoàn không
ngừng, có tính chất chu kỳ tạo thành sự chu chuyển của vốn lưu động. Tương ứng với
một chu kỳ kinh doanh thì vốn lưu động cũng hoàn thành một vòng chu chuyển.
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ vòng luân chuyển của vốn lưu động
Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản
xuất, là một bộ phận hình thành nên thực thể của sản phẩm. Trong cùng một lúc,
vốn lưu động của doanh nghiệp được phổ biến khắp các giai đoạn luân chuyển và
tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau. Muốn cho quá trình tái sản xuất được liên
tục, doanh nghiệp phải có đủ lượng vốn lưu động đầu tư vào các hình thái khác
nhau đó, khiến cho các hình thái có được mức tồn tại hợp lý và đồng bộ với nhau.
Như vậy, cũng đông thời làm cho việc chuyển hóa hình thái của vốn trong quá trình
luân chuyển được thuận lợi.
Vốn lưu động còn là công cụ phản ánh và đánh giá quá trình vận động của
vật tư, hàng hóa cũng tức là phản ánh và kiểm tra quá trình mua sắm, dự trữ sản
xuất, tiêu thụ của doanh nghiệp. Nhưng mặt khác, vốn lưu động luân chyển nhanh
hay chậm còn phản ánh số lượng vật tư sử dụng tiết kiệm hay không, thời gian nằm
ở khâu sản xuất và lưu thông sản phẩm có hợp lý không?
Bởi vậy, thông qua quá trình luân chuyển vốn lưu động còn có thể đánh giá
một cách kịp thời đối với các mặt như mua sắm, dự trữ sản xuất và tiêu thụ của
doanh nghiệp.
1.2.3 Phân loại vốn lưu động
- 11 -
Hàng hóa
Tiêu thụ sản phẩm
Sản phẩm
Sản xuất
Mua vật tư
Vốn bằng tiền Vốn dự trữ sản
xuất
Vốn trong sản
xuất
Để quản lý, sử dụng vốn lưu động có hiệu quả, cần thiết phải tiến hành phân
loại vốn lưu động của doanh nghiệp. Thông thường vốn lưu động được phân loại
theo các tiêu thức khác nhau:
1.2.3.1 Căn cứ qua trình tuần hoàn của vốn lưu động: chia thành 3 loại:
a. Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất gồm:
- Nguyên vật liệu chính hay bán thành phẩm mua ngoài: là những loại
nguyên vật liệu khi tham gia vào sản xuất, chúng cấu tạo nên thực thể sản phẩm.
- Nguyên vật liệu phụ: là những loại vật liệu giúp cho việc hình thành sản
phẩm làm cho sản phẩm bền hơn, đẹp hơn.
- Nhiên liệu: là những loại dự trữ cho sản xuất, có tác dụng cung cấp nhiệt
lượng cho quá trình sản xuất như than, củi, xăng, dầu.
- Vốn phụ tùng thay thế: là giá trị của những chi tiết, phụ tùng, linh kiện máy
móc thiết bị dự trữ cho việc sửa chữa hoặc thay thế những bộ phận của máy móc
thiết bị sản xuất, phương tiện vận tải,…
- Vốn vật liệu đóng gói: là những vật liệu dùng để đóng gói trong quá trình
sản xuất như bao nilon, giấy, hộp carton,…
- Công cụ lao động nhỏ có thể tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh
doanh và giữ nguyên hình thái vật chất nhưng giá trị nhỏ không đủ tiêu chuẩn tài
sản cố định.
b. Vốn lưu động trong quá trình sản xuất:
- Vốn sản phẩm đang chế tạo (bán thành phẩm): là giá trị khối lượng sản
phẩm đang còn trong quá trình chế tạo, đang nằm trên dây chuyền công nghệ, đã
kết thúc một vài quy trình chế biến nhưng còn phải chế biến tiếp mới trở thành
thành phẩm.
- Vốn chi phí trả trước: là những chi phí thực tế đã chi ra trong kỳ, nhưng chi
phí này tương đối lớn có tác dụng cho nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh nên chưa
thể tính hết vào giá thành sản phẩm trong kỳ này mà phải phân bổ dần vào giá thành
sản phẩm của một số kỳ tiếp theo nhằm đảm bảo cho giá thành ổn định như: chi phí
sửa chữa lớn, nghiên cứu, thí nghiệm chế thử sản phẩm, cải tiến kỹ thuật, chi phí
- 12 -
xây dựng, lắp đặt các công trình tạm thời, chi phí về ván khuôn, giàn giáo phải lắp
dùng trong xây dựng cơ bản, tiền lương công nhân nghỉ phép, công cụ xuất dùng…
Loại vốn này được dùng cho quá trình sản xuất, đảm bảo cho quá trình sản
xuất của các bộ phận sản xuất trong dây truyền công nghệ được liên tục, hợp lý.
c. Vốn lưu động trong quá trình lưu thông:
- Vốn thành phẩm gồm những thành phẩm đã sản xuất xong, đạt tiêu chuẩn
kỹ thuật được nhập kho để dự trữ cho quá trình tiêu thụ.
- Vốn bằng tiền: bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng và tiền đang
chuyển. Tiền là một loại tài sản của doanh nghiệp mà có thể dễ dàng chuyển đổi
thành các loại tài sản khác hoặc để trả nợ. Do vậy, trong hoạt động kinh doanh đòi
hỏi mỗi doanh nghiệp phải có một lượng tiền nhất định.
- Các khoản đầu tư ngắn hạn: Đầu tư chứng khoán ngắn hạn, cho vay ngắn
hạn…đây là những khoản đầu tư nhằm một mặt đảm bảo khả năng thanh toán (do
tính thanh khoản của các tài sản tài chính ngắn hạn được đầu tư), mặt khác tận dụng
khả năng sinh lời của các tài sản tài chính ngắn hạn nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn lưu động.
- Các khoản vốn trong thanh toán: như các khoản phải thu, các khoản tạm
ứng,…Chủ yếu trong khoản mục vốn này là các khoản phải thu của khách hàng, thể
hiện số tiền mà khách hàng nợ doanh nghiệp phát sinh trong quá trình bán hàng hóa,
dịch vụ dưới hình thức bán trước, trả sau. Khoản mục vốn này liên quan chặt chẽ
đến chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp, một trong những chiến lược
quan trọng của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, trong một số
trường hợp mua sắm vật tư, hàng hóa doanh nghiệp còn phải ứng trước tiền cho
người cung cấp từ đó hình thành khoản tạm ứng.
Loại vốn này dùng để dự trữ sản phẩm, bảo đảm cho tiêu thụ thường xuyên,
đều đặn theo nhu cầu của khách hàng.
Việc phân loại vốn lưu động theo phương pháp này giúp cho việc xem xét
đánh giá tình hình phân bổ của vốn lưu động trong từng khâu của quá trình chu
chuyển vốn lưu động. Thông qua đó, nhà quản lý sẽ có những biện pháp thích hợp
- 13 -
nhằm tạo ra một kết cấu vốn lưu động hợp lý, tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu
động, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
1.2.3.2 Căn cứ vào hình thái biểu hiện của vốn: vốn lưu động bao gồm 4 loại:
a. Vốn bằng tiền và các tài sản tương đương tiền gồm các khoản đầu tư tài chính
ngắn hạn.
Việc tách riêng khoản mục này giúp cho doanh nghiệp dễ dàng theo dõi khả
năng thanh toán của mình đồng thời có những biện pháp linh hoạt để vừa đảm bảo
khả năng thanh toán vừa nâng cao khả năng sinh lời của vốn lưu động.
b.Các khoản phải thu: bao gồm các khoản mà doanh nghiệp phải thu của khách
hàng và các khoản phải thu khác.
Nghiên cứu các khoản phải thu giúp doanh nghiệp nắm bắt chặt chẽ và đưa
ra những chính sách tín dụng thương mại hợp lý, đáp ứng được nhu cầu của khách
hàng, nâng cao doanh số bán cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
c. Hàng tồn kho: là các khoản vốn lưu động có hình thái biểu hiện bằng hiện vật cụ
thể bao gồm:
- Vốn nguyên, nhiên, vật liệu:
+ Vốn nguyên vật liệu chính
+ Vốn vật liệu phụ
+ Vốn nhiên liệu
- Công cụ, dụng cụ trong kho
- Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
- Thành phẩm tồn kho
- Hàng gửi bán
- Hàng mua đang đi trên đường.
Đối với doanh nghiệp sản xuất, hàng tồn kho có vai trò như một tấm đệm an
toàn giữa các giai đoạn khác nhau trong chu kỳ kinh doanh như dự trữ- sản xuất-
lưu thông khi mà giữa các giai đoạn này các hoạt động không phải lúc nào cũng
được diễn ra đồng bộ. Hàng tồn kho mang lại cho bộ phận sản xuất và bộ phận
marketing của doanh nghiệp sự linh hoạt trong hoạt động sản xuất kinh doanh như
- 14 -
lựa chọn thời điểm mua nguyên vật liệu, lập kế hoạch sản xuất và tiêu thụ. Ngoài ra,
hàng tồn kho còn giúp cho doanh nghiệp tự bảo vệ trước những biến động về giá cả
đầu vào cũng như sự không chắc chắn về nhu cầu đối với các sản phẩm đầu ra của
doanh nghiệp.
d. Vốn lưu động khác: bao gồm các khoản tạm ứng, chi phí trả trước, chi phí chờ kết
chuyển, cầm cố, ký quỹ, ký cược ngắn hạn.
Cách phân loại này giúp cho các doanh nghiệp xem xét, đánh giá mức tồn
kho dự trữ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
1.2.3.3 Căn cứ vào quan hệ sở hữu về vốn:
Tài sản lưu động sẽ được tài trợ bởi hai nguồn vốn đó là vốn chủ sở hữu và
các khoản nợ. Trong đó, các khoản nợ tài trợ cơ bản cho nguồn vốn lưu động của
doanh nghiệp. Còn nguồn vốn chủ sở hữu chỉ tài trợ một phần cho nguồn vốn lưu
động của doanh nghiệp mà thôi bởi nguồn vốn chủ sở hữu tài trợ cơ bản cho tài sản
cố định.
a.Vốn chủ sở hữu: là số vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, doanh nghiệp có
đầy đủ các quyền chiếm hữu, sử dụng, chi phối và định đoạt. Tùy theo từng loại
hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau mà vốn chủ sở hữu có
nội dụng cụ thể riêng, như: vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, vốn do chủ doanh
nghiệp tư nhân bỏ ra, vốn góp cổ phần trong Công ty cổ phần, vốn góp từ các thành
viên trong doanh nghiệp liên doanh, vốn tự bổ sung từ lợi nhuận doanh nghiệp,…
b.Các khoản nợ: là các khoản được hình thành từ vốn vay các ngân hàng thương
mại hoặc các tổ chức tài chính khác, vốn vay thông qua phát hành trái phiếu, các
khoản nợ khách hàng chưa thanh toán. Doanh nghiệp chỉ có quyền sử dụng các
khoản nợ này trong một thời hạn nhất định.
Cách phân loại này cho thấy kết cấu vốn lưu động của doanh nghiệp được
hình thành bằng vốn của bản thân doanh nghiệp hay từ các khoản nợ. Từ đó có các
quyết định trong huy động và quản lý, sử dụng vốn lưu động hợp lý hơn, đảm bảo
an ninh tài chính trong sử dụng vốn của doanh nghiệp.
1.2.3.4 Căn cứ vào nguồn hình thành vốn lưu động:
- 15 -
Nếu xét theo nguồn hình thành thì tài sản lưu động sẽ được tài trợ bởi các
nguồn vốn sau:
a. Nguồn vốn chủ sở hữu: là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp,
doanh nghiệp có đầy đủ các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền chi phối và
định đoạt. Tùy theo loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
nhau mà vốn chủ sở hữu có nội dụng cụ thể riêng: Số vốn lưu động được ngân
sách Nhà nước cấp hoặc có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước (đối với các doanh
nghiệp Nhà nước); số vốn do các thành viên (đối với loại hình doanh nghiệp công
ty) hoặc do chủ doanh nghiệp tư nhân bỏ ra; số vốn lưu động huy động được qua
phát hành cổ phiếu.
b. Nợ phải trả:
- Nguồn vốn đi vay: là các khoản vốn lưu động được hình thành từ vốn vay
các ngân hàng thương mại hoặc các tổ chưc tài chính khác; vốn thông qua phát hành
trái phiếu.
- Nguồn vốn trong thanh toán: đó là các khoản nợ khách hàng, doanh nghiệp
khác trong quá trình thanh toán.
Việc phân chia vốn lưu động theo nguồn hình thành giúp cho doanh nghiệp
thấy được cơ cấu nguồn vốn tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động trong kinh doanh của
mình. Từ góc độ quản lý tài chính, mọi nguồn tài trợ đều có chi phí sử dụng của nó.
Do đó doanh nghiệp cần xem xét cơ cấu nguồn tài trợ tối ưu để giảm thấp chi
phí sử dụng vốn của mình.
1.2.4 Vai trò của vốn lưu động đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp:
Vốn lưu động là một chỉ số tài chính dùng để đo lường hiệu quả hoạt động
cũng như năng lực tài chính trong ngắn hạn của một Công ty. Vốn lưu động của
một Công ty thường được tính toán theo công thức sau:
Vốn lưu động = Vốn dài hạn – Tài sản cố định
Hoặc:
Vốn lưu động = Tài sản lưu động – Nợ ngắn hạn
Vốn lưu động dương nghĩa là Công ty có khả năng chi trả được các nghĩa vụ
- 16 -
nợ ngắn hạn của mình. Ngược lại, nếu vốn lưu động là một số âm tức là hiện tại
Công ty không có khả năng thanh toán các khoản nợ bằng tài sản hiện có của mình
(bao gồm tiền mặt, khoản phải thu, tồn kho).
Nếu như lượng tài sản ngắn hạn của một Công ty không lớn hơn tổng các
khoản nợ ngắn hạn thì Công ty này có thể sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán
cho các chủ nợ trong ngắn hạn. Trường hợp xấu nhất là Công ty có thể bị phá sản.
Một sự sụt giảm trong tỷ lệ vốn hoạt động của Công ty trong một khoảng thời gian
tương đối dài có thể là một dấu hiệu xấu.
Vốn lưu động cũng là chỉ số giúp cho các nhà đầu tư có các nhận định về
hiệu quả hoạt động của Công ty. Lượng tiền bị đọng trong hàng tồn kho hoặc lượng
tiền mà khách hàng còn đang nợ đều không thể sử dụng để chi trả bất cứ khoản nợ
nào của Công ty cho dù đó vẫn là các tài sản thuộc quyền sở hữu của Công ty. Vì
vậy nếu một Công ty không hoạt động ở mức hiệu quả cao nhất, thì điều này sẽ biểu
hiện ra ngoài bằng một sự gia tăng trong vốn hoạt động.
Tiền chính là máu, là nhựa sống của một Công ty. Nếu dòng tiền bị ảnh
hưởng thì khả năng duy trì hoạt động, tái đầu tư và đáp ứng các yêu cầu về vốn
cũng bị đẩy vào tình trang xấu. Nắm rõ được tình hình nguồn tiền của Công ty là
điều tối quan trọng để tiến hành ra quyết định. Trong đó, đánh giá tình hình nguồn
tiền của doanh nghiệp dựa trên việc quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp đó là
một trong các biện pháp tốt nhất.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn lưu động được chuyển qua nhiều
hình thái khác nhau qua từng giai đoạn. Các giai đoạn của vòng tuần hoàn đó luôn
đan xen với nhau mà không tách biệt riêng rẽ. Vì vậy, trong doanh nghiệp vấn đề tổ
chức và quản lý vốn lưu động có một vai trò quan trọng. Có thể nói, quản lý vốn lưu
động là bộ phận trọng yếu trong công tác quản lý hoạt động tài chính của doanh
nghiệp. Quản lý vốn lưu động đòi hỏi phải thường xuyên nắm sát tình hình luân
chuyển vốn, kịp thời khắc phục nhưng ách tắc sản xuất nhằm đảm bảo đồng vốn
được lưu chuyển liên tục và nhịp nhàng, sử dụng vốn lưu động hợp lý, tiết kiệm và
có hiệu quả. Trong cơ chế tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính, sự vận động
- 17 -
của vốn lưu động được gắn chặt với lợi ích của doanh nghiệp và người lao động.
Vòng quay của vốn càng nhanh thì doanh thu càng cao và càng tiết kiệm được vốn.
Giảm chi phí sử dụng vốn một cách hợp lý làm tăng thu nhập của doanh nghiệp,
doanh nghiệp có điều kiện tích tụ vốn để mở rộng sản xuất, không ngừng cải thiện
đời sống của cán bộ nhân viên.
Vốn lưu động có khả năng quyết định đến quy mô hoạt động của doanh
nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp hoàn toàn tự chủ trong việc sử
dụng vốn nên khi muốn mở rộng quy mô của mình, doanh nghiệp phải huy động
một lượng vốn nhất định để đầu tư, ít nhất là đủ để dự trũ vật tư, hàng hóa. Vốn lưu
động còn giúp doanh nghiệp chớp được thời cơ kinh doanh và tạo lợi thế cạnh tranh
trên thương trường.
Ngoài ra, vốn lưu động còn là một bộ phận chủ yếu cấu thành nên giá thành
sản phẩn do đặc điểm luân chuyển toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm, giá trị của
hàng hóa bán ra được tính toán trên cơ sở bù đắp được giá thành sản phẩm cộng
thêm một phần lợi nhuận. Do đó, vốn lưu động đóng vai trò quyết định trong việc
tính toán giá cả hàng hóa bán ra.
1.3 Hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp
1.3.1 Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
Hiệu quả là một khái niệm luôn được đề cập trong nền kinh tế thị trường: các
doanh nghiệp luôn hướng tới hiệu quả kinh tế, chính phủ nỗ lực đạt được hiệu quả
kinh tế- xã hội.
Theo nghĩa chung nhất, hiệu quả là một khái niệm phản ánh trình độ sử dụng
các yếu tố cần thiết để tham gia vào một hoạt động nào đó với những mục đích xác
định do con người đặt ra.
Kết quả
Hiệu quả = (1.1)
Chi phí
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn
lực xã hội để đạt được kết quả cao nhất với chi phí nguồn lực thấp nhất. Xuất phát
từ những nguyên lý chung như vậy, trong lĩnh vực vốn kinh doanh định ra hiệu quả
- 18 -
sử dụng vốn kinh doanh.
Có thể hiểu hiệu quả sử dụng vốn lưu động là phạm trù kinh tế đánh giá trình
độ khai thác, sử dụng các tài sản lưu động, nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp
để làm cho đồng vốn đó sinh lợi tối đa trong quá trình sản xuất kinh doanh nhằm
mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hóa giá trị tài sản của chủ sở hữu
với tổng chi phí sử dụng vốn thấp nhất.
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng mang tính thường xuyên và bắt buộc
đối với các doanh nghiệp.
1.3.2 Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Để đem lại hiệu quả cao trong SXKD, đòi hỏi các doanh nghệp phải sử dụng
có hiệu quả các yếu tố của quá trình SXKD trong đó có vốn lưu động. Hiệu quả sử
dụng vốn lưu động được lượng hóa thông qua hệ thống các chỉ tiêu về khả năng
sinh lợi, vòng quay vốn lưu động, tốc độ luân chuyển vốn, vòng quay hàng tồn
kho, Nó chính là những đại lượng phản ánh mối quan hệ giữa đầu ra và đầu vào
của quá trình kinh doanh hay mối quan hệ giữa toàn bộ kết quả kinh doanh với toàn
bộ chi phí của quá trình kinh doanh đó được xác định bằng thước đo tiền tệ.
Quan niệm về tính hiệu quả của việc sử dụng vốn lưu động phải được hiểu trên
hai khía cạnh:
- Một là, với số vốn hiện có có thể cung cấp thêm một số lượng sản phẩm với
chất lượng tốt, chi phí hạ nhằm tăng thêm lợi nhuận doanh nghiệp.
- Hai là, đầu tư thêm vốn một cách hợp lý nhằm mở rộng quy mô sản xuất
kinh doanh nhằm tăng doanh số tiêu thụ với yêu cầu bảo đảm tốc độ tăng lợi nhuận
phải lớn hơn tốc độ tăng vốn.
Hai khía cạnh đó cũng là mục tiêu cần đạt tới trong công tác quản lý và sử
dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và vốn lưu động nói riêng.
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là
đảm bảo với số vốn hiện có, bằng các biện pháp quản lý và tổng hợp nhằm khai
- 19 -
thác để có thể mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn lưu động là điều kiện cơ bản để có được một nguồn vốn lưu động
mạnh, có thể đảm bảo cho quá trình SXKD được tiến hành bình thường, mở rộng
quy mô sản xuất, đầu tư cải tiến công nghệ, kỹ thuật trong kinh doanh và quản lý
kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường.
Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động nhằm mục đích nhận thức và đánh
giá tình hình biến động tăng, giảm của các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động,
qua đó tìm hiểu, phân tích những nguyên nhân làm tăng, giảm. Từ đó đưa ra các
biện pháp quản lý, sử dụng vốn lưu động thích hợp cho doanh nghiệp, đem lại hiệu
quả cao trong SXKD. Khả năng quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp càng tốt thì
nhu cầu vay nợ của doanh nghiệp càng giảm. Ngay cả khi doanh nghiệp có tiền
nhàn rỗi thì việc quản lý vốn lưu động cũng rất cần thiết vì nó đảm bảo rằng lượng
vốn nhàn rỗi này sử được đầu tư một cách có hiệu quả nhất cho nhà đầu tư.
Lợi ích kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng một cách hợp lý,
hiệu quả từng đồng vốn lưu động nhằm làm cho vốn lưu động được thu hồi sau mỗi
chu kỳ sản xuất. Việc tăng tốc độ luân chuyển vốn cho phép rút ngắn thời gian chu
chuyển của vốn, qua đó, vốn được thu hồi nhanh hơn, có thể giảm bớt được số vốn
lưu động cần thiết mà vẫn hoàn thành được khối lượng sản phẩm hàng hóa bằng
hoặc lớn hơn trước. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động còn có ý nghĩa quan
trọng trong việc giảm chi phí sản xuất, chí phí lưu thông và hạ giá thành sản phẩm.
Mỗi doanh nghiệp như một tế bào của nền kinh tế, vì vậy nền kinh tế muốn phát
triển thì doanh nghiệp hoạt động phải có hiệu quả. Như đã phân tích ở trên, sử dụng
hiệu quả vốn lưu động là một nhân tố tích cực nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, không thể phủ nhận vai trò của việc nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn lưu động đối với sự phát triển của từng doanh nghiệp nói
riêng và của cả nền kinh tế nói chung.
Từ những lý do trên, cho thấy sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác
quản lý và sử dụng vốn lưu động trong các doanh nghiệp. Đó là một trong những
nhân tố quyết định cho sự thành công của một doanh nghiệp, xa hơn là sự tăng
- 20 -
trưởng và phát triển của nền kinh tế.
1.3.3 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
1.3.3.1 Tốc độ luân chuyển vốn lưu động:
Tốc độ chu chuyển là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh tình hình quản lý và sử
dụng vốn của doanh nghiêp.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động, chúng ta có thể sử dụng nhiều chỉ
tiêu khác nhau nhưng tốc độ luân chuyển vốn lưu động là chỉ tiêu cơ bản và tổng
hợp nhất phản ánh trình độ sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
Tốc độ chu chuyển vốn lưu động là thời gian trung bình cần thiết để vốn lưu
động thực hiện được một vòng chu chuyển hoặc số vòng chu chuyển mà vốn lưu
động quay được trong một thời kỳ nhất định.
Tốc độ luân chuyển vốn lưu động nhanh hay chậm nói lên tình hình tổ chức các
mặt: mua sắm, dự trữ sản xuất, tiêu thụ của doanh nghiệp có hợp lý hay không, các
khoản vật tư dự trữ sử dụng tốt hay không, các khoản phí tổn trong quá trình SXKD
cao hay thấp. Thông qua phân tích chỉ tiêu tốc độ luân chuyển vốn lưu động có thể
giúp cho doanh nghiệp đẩy nhanh được tốc độ luân chuyển, nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn lưu động. Tốc độ chu chyển vốn lưu động được tính bằng hai chỉ tiêu sau:
a. Số lần luân chuyển vốn lưu động trong kỳ (L)
V
bq
M
L =
(1.2)
Trong đó:
M: Tổng mức luân chuyển vốn lưu động trong kỳ. Trong năm, tổng mức luân
chuyển vốn lưu động được xác định bằng doanh thu thuần của doanh nghiệp.
Vbq : Vốn lưu động bình quân trong kỳ (số dư bình quân về vốn lưu động)
Vốn lưu động bình quân trong kỳ (Vbq) được tính như sau:
2
V
ck
dk
ba
V
V
+
=
(1.3)
Trong đó:
Vdk: Vốn lưu động đầu kỳ
Vck: Vốn lưu động cuối kỳ
Đây là chỉ tiêu nói lên số lần quay (vòng quay) của vốn lưu động trong một
- 21 -
thời kỳ nhất định (thường là một năm), chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
lưu động trên mối quan hệ so sánh giữa kết quả sản xuất (tổng doanh thu thuần) và
số vốn lưu động bình quân bỏ ra trong kỳ. Số lần chu chuyển vốn càng cao nghĩa là
vốn được sử dụng tốt, tốc độ chu chuyển nhanh.
b. Thời gian luân chuyển vốn lưu động (K)
M
x
L
K
NVN
kbqk
==
(1.4)
Trong đó:
Nk: Số ngày trong kỳ phân tích (1 năm là 360 ngày, 1 quý là 90 ngày, 1
tháng là 30 ngày)
Chỉ tiêu này nói lên độ dài bình quân của một lần luân chuyển của vốn lưu
động hay số ngày bình quân cần thiết để vốn lưu động thực hiện một vòng quay
trong kỳ. Ngược với chỉ tiêu số lần chu chuyển vốn lưu động trong kỳ, thời gian
luân chuyển vốn lưu động càng ngắn chứng tỏ vốn lưu động càng được sử dụng có
hiệu quả.
Tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động có ý nghĩa rất lớn đối với
doanh nghiệp vì nó là điều kiện quan trọng mở rộng quy mô kinh doanh mà không
cần tăng vốn. Nó cũng là điều kiện để giảm chi phí sử dụng vốn, hạ giá thành và giá
bán sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Để đánh giá, so sánh giữa kỳ này với kỳ trước, trong hạch toán nội bộ của doanh
nghiệp ngoài việc xác định hiệu suất luân chuyển vốn lưu động (tổng hiệu suất), còn
có thể xác định hiệu suất luân chuyển vốn lưu động qua từng khâu dự trữ, sản xuất
và lưu thông.
* Tốc độ luân chuyển vốn lưu động trong khâu dự trữ::
-Số lần luân chuyển vốn lưu động trong dự trữ:
V
dt
dt
M
L
dt
=
(1.5)
- Thời gian luân chuyển của vốn lưu động trong dự trữ:
- 22 -
dt
dt
M
K
NV
kdt
×
=
(1.6)
* Tốc độ luân chuyển của vốn lưu động trong khâu sản xuất:
- Số lần luân chuyển của vốn lưu động trong sản xuất
sx
sx
sx
V
M
L =
(1.7)
- Thời gian luân chuyển của vốn lưu động trong sản xuất
sx
sx
M
K
NV
ksx
×
=
(1.8)
* Tốc độ luân chuyển của vốn lưu động trong khâu lưu thông:
- Số lần luân chuyển của vốn lưu động trong lưu thông
V
lt
lt
lt
M
L =
(1.9)
- Thời gian luân chuyển của vốn lưu động trong lưu thông
(1.10)
Trong đó:
Ldt, Lsx, Llt: là số lần luân chuyển của vốn lưu động trong khâu dự trữ, sản
xuất và lưu thông trong năm.
Kdt, Ksx, Klt: là số ngày luân chuyển bình quân của vốn lưu động khâu dự
trữ, sản xuất và lưu thông trong năm.
Vdt, Vsx, Vlt: là vốn lưu động bình quân ở khâu dự trữ, sản xuất, lưu thông
Mdt: Là mức luân chuyển vốn lưu động dùng để tính tốc độ luân chuyển vốn
lưu động trong khâu dự trữ (thường lấy tổng phí tổn tiêu hao nguyên vật liệu chính
trong kỳ)
Msx: Là mức luân chuyển vốn lưu động dùng để tính tốc độ luân chuyển vốn
lưu động trong khâu sản xuất (thường lấy chỉ tiêu tổng giá thành sản xuất sản phẩm
hoàn thành trong kỳ)
Mlt: Là mức luân chuyển vốn lưu động dùng để tính tốc độ luân chuyển vốn
- 23 -
lt
lt
lt
M
V
K
N
k
×
=
lưu động trong khâu lưu thông (thường lấy chỉ tiêu tổng giá thành sản phẩm tiêu thụ
trong kỳ)
Khi tính hiệu suất luân chuyển của từng bộ phận vốn lưu động cần phải dựa
theo đặc điểm luân chuyển vốn của mỗi khâu để xác định mức luân chuyển cho
từng bộ phận vốn. Ở khâu dự trữ sản xuất, mỗi khi nguyên vật liệu được đưa vào
sản xuất thì vốn lưu động hoàn thành giai đoạn tuần hoàn của nó. Vì vậy, mức luân
chuyển để tính hiệu suất bộ phận vốn ở đây là tổng số phí tổn tiêu hao về nguyên
vật liệu trong kỳ. Tương tự như vậy, mức luân chuyển vốn lưu động dùng để tính
tốc độ luân chuyển bộ phận vốn lưu động sản xuất là tổng giá thành sản xuất sản
phẩm hoàn thành nhập kho (giá thành sản xuất sản phẩm), mức luân chuyển vốn lưu
động lưu thông là tổng giá thành sản phẩm tiêu thụ
1.3.3.2 Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động:
M
V
H
bq
v
=
(1.11)
Trong đó:
Hv: Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động
Vbq: Vốn lưu động bình quân
M: Doanh thu thuần
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động phản ánh số vốn lưu động cần có để đạt được
một đồng doanh thu thuần. Hệ số này càng nhỏ phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu
động của doanh nghiệp càng cao.
1.3.3.3 Hệ số sinh lợi vốn lưu động:
V
d
bq
v
LN
=
(1.12)
Trong đó:
dv: Hệ số sinh lợi vốn lưu động
LN: Lợi nhuận sau thuế
Vbq: Vốn lưu động bình quân
- 24 -
Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng vốn lưu động bình quân được sử dụng trong
kỳ đem lại cho doanh nghiệp mấy đồng lợi nhuận sau thuế. Hệ số sinh lợi của vốn
lưu động càng cao thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao.
1.3.3.4 Mức tiết kiệm vốn lưu động do tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động:
Mức tiết kiệm vốn là chỉ tiêu phản ánh số vốn lưu động có thể tiết kiệm được
do tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động ở kỳ này so với kỳ trước. Mức tiết kiệm vốn
lưu động do tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động được biểu hiện bằng hai chỉ tiêu:
a.Mức tiết kiệm tuyệt đối:
Do tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động nên doanh nghiệp có thể tiết kiệm
được một số vốn lưu động để sử dụng vào công việc khác. Nói cách khác, với mức
luân chuyển vốn không thay đổi hoặc lớn hơn kỳ báo cáo song do tăng tốc độ luân
chuyển vốn lưu động nên doanh nghiệp cần số vốn ít hơn cũng như có thể tiết kiệm
được một lượng vốn lưu động để có thể sử dụng vào việc khác. Lượng vốn ít hơn
đó chính là mức tiết kiệm tuyệt đối vốn lưu động.
Mức tiết kiệm tuyệt đối vốn lưu động được tính theo công thức sau:
V
tk
=
L
k
k
M
-
L
M
0
0
= V
k
– V
0
(1.13)
Trong đó:
V
tk
: Số vốn lưu động tiết kiệm tuyệt đối
M
k
: Tổng mức vốn luân chuyển năm kế hoạch (doanh thu thuần)
M
0:
Tổng mức vốn luân chuyển năm báo cáo (doanh thu thuần)
L
k
: Số lần luân chuyển vốn lưu động của năm kế hoạch
L
o
: Số lần luân chuyển vốn lưu động của năm báo cáo.
V
k
: Vốn lưu động bình quân năm kế hoạch
V
0
: Vốn lưu động bình quân năm báo cáo
Điều kiện để có VLĐ tiết kiệm tuyệt đối là tổng mức luân chuyển vốn kỳ kế
hoạch phải không nhỏ hơn tổng mức luân chuyển vốn kỳ báo cáo (M
k
≥ M
0
) và vốn
lưu động kỳ kế hoạch phải nhỏ hơn vốn lưu động kỳ báo cáo (V
k
< V
0
)
- 25 -