Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

BÀI SỐ 3 tìm hiểu về vấn đề thực hiện pháp luật,vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.49 KB, 15 trang )

Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
LỜI MỞ ĐẦU
Nhà nước và pháp luật là những bộ phận của thượng tầng kiến trúc có quan
hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau, tồn tại không thể thiếu nhau. Vấn đề
nhà nước và pháp luật được rất nhiều nghành khoa học xã hội nghiên cứu như triết
học, kinh tế chính trị chủ nghĩa xã hội học sử học, hành chính học … ngoài ra còn
là các đối tượng nguyên cứu cơ bản của các nghành khoa học pháp lý như lịch sử
nhà nước và pháp luật, các khoa học pháp lý chuyên nghành, các khoa học pháp lý
ứng dụng.
Chúng ta đã biết vai trò quan trọng đặc biệt của pháp luật đối với sự duy trì kỉ
cương của nhà nước và trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng
cường vai trò của pháp luật được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều đó
không chỉ nhằm mục đích xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà
còn hướng đến bảo vệ và phát triển các giá trị chân chính, trong đó có ý thức đạo
đức. Để nâng cao vai trò và phát triển ý thức đạo đức, ngoài các biện pháp tích cực
khác, thì không thể thiếu vai trò của pháp luật và ý thức pháp quyển. Pháp luật
càng chặt chẽ, càng đầy đủ và được thi hành nghiêm chỉnh thì đạo đức càng được
đề cao, khả năng điều chỉnh và giáo dục của đạo đức càng được mở rộng và ảnh
hưởng một cách toàn diện, tích cực đến mọi hành vi, mọi mối quan hệ giữa con
người với con người, giữa con người với xã hội.
Để giúp mọi người hiểu thêm về pháp luật chúng tôi sẽ giúp mọi người tìm
hiểu về các hành vi vi phạm pháp luật qua bài tiểu luận : “tìm hiểu về vấn đề thực
hiện pháp luật, vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý”. Rất mong qua bài
tiểu luận này mọi người sẽ thêm phần hiểu biết về pháp luật và sẽ sống tốt hơn
trong cuộc sống.
1
Sinh viên : Lê Văn Lượng Lớp : CDDI12TH
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
NỘI DUNG
I. Tìm hiểu về pháp luật
1. Khái niệm


Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự, là công cụ điều chỉnh các quan hệ
xã hội do Nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền và được thực
hiện bằng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước.
Pháp luật còn là một bộ phận quan trọng của cấu trúc thượng tầng xã hội. Nó do
cơ sở hạ tầng quyết định, nhưng có tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Nếu pháp
luật phản ánh đúng đắn các quy luật vận động và phát triển của xã hội, nhất là các
quy luật kinh tế thì pháp luật sẽ có tác động tích cực đối với phát triển kinh tế - xã
hội. Ngược lại, pháp luật sẽ kìm hãm sự phát triển đó.
Theo Lênin, “một đạo luật là một biện pháp chính trị”. Trong lịch sử, bất cứ
giai cấp cầm quyền nào cũng dựa vào pháp luật để thể hiện và thực hiện chính trị
của giai cấp mình. Pháp luật trở thành hình thức thể hiện tập trung, trực tiếp chính
trị của giai cấp cầm quyền, là một công cụ sắc bén thể hiện quyền lực của Nhà
nước thực hiện những yêu cầu, mục đích, nội dung chính trị của nó. Do đó, Nhà
nước nào, pháp luật ấy. Những thuộc tính cơ bản của pháp luật là tính quy phạm,
tính cưỡng chế, tính khách quan, tính Nhà nước, tính hệ thống và tương đối ổn
định.
2. Nguồn gốc và bản chất của pháp luật
a. Nguồn gốc
Theo học thuyết Mác-Lênin, nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng lịch sử
2
Sinh viên : Lê Văn Lượng Lớp : CDDI12TH
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
cơ bản nhất của đời sống chính trị xã hội, là hai người bạn đồng hành có số phận
lịch sử như nhau cùng xuất hiện, cùng tồn tại và phát triển và cùng tiêu vong khi
nhân loại đã tiến tới chủ nghĩa cộng sản.
Những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước cũng chính là những
nguyên nhân làm xuất hiện pháp luật: một là sự phát triển của nền kinh tế trong xã
hội nguyênthủy từ chỗ vô cùng thấp kém, lạc hậu và chế độ sở hữu chung đến chỗ
dần dần có của cải dư thừa và xuất hiện chế độ chiếm hữu tư nhân (tư hữu) về tư
liệu sản xuất và của cải làm ra; hai là, sự phân hóa xã hội thành những tầng lớp,

giai cấp có lợi ích đối kháng nhau và mâu thuẫn giai cấp, đấu tranh giai cấp phát
triển đến mức không thể điều hòa được.
b. Bản chất
Cũng giống như bản chất của nhà nước, bản chất của pháp luật thể hiện trước
hết ở tính giai cấp. Tính giai cấp của pháp luật phản ánh ý chí nhà nước của giai
cấp thống trị trong xã hội, nội dung ý chí đó được quy định bởi điều kiện sinh hoạt
vật chất của giai cấp thống trị. Ý chí của giai cấp thống trị được cụ thể hóa trong
các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Tính giai cấp
của pháp luật còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật là
yếu tố điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội nhằm định hướng cho các
quan hệ xã hội phát triển theo một mục tiêu, một trật tự phù hợp với ý chí của giai
cấp thống trị, bảo vệ và củng cố địa vị của giai cấp thống trị. Với ý nghĩa đó pháp
luật chính là công cụ thể hiện sự thống trị của giai cấp.
Bên cạnh tính giai cấp, không thể coi nhẹ giá trị xã hội to lớn của pháp luật
vì trong cuộc sống hàng ngày các cá nhân và tổ chức có mối quan hệ với nhau rất
đa dạng được thể hiện qua những hành vi xử sự khác nhau. Xã hội thông qua nhà
nước ghi nhận những cách xử sự hợp lý, khách quan được số đông chấp nhận phù
hợp với lợi ích của số đông trong xã hội, cách xử sự này được nhà nước thể chế
hóa thành những quy phạm pháp luật. Giá trị xã hội của pháp luật còn được thể
3
Sinh viên : Lê Văn Lượng Lớp : CDDI12TH
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
hiện ở chỗ một quy phạm pháp luật vừa là thước đo của hành vi con người vừa là
công cụ kiểm nghiệm các quá trình, các hiện tượng xã hội, là công cụ để nhận thức
xã hội và điều chỉnh các quá trình xã hội.Ngoài ra pháp luật còn có tính dân tộc,
tính mở.
3. Vai trò của pháp luật
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là
phương tiện không thể thiếu bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã
hội nói chung và của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là một công cụ

quản lý Nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của
ý thức đạo đức, làm lành mạnh hoá đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những
giá trị mới.
- Là công cụ quản lý của nhà nước
- Là phương tiện bảo vệ quyền lợi của công dân
- Là cơ sở hoàn thiện bộ máy nhà nước
- Là cơ sở hoàn thiện quan hệ đối ngoại
II. Tìm hiểu về thực hiện pháp luật
1. Khái niệm
Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những
quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi hợp pháp của
các cá nhân, tổ chức.
Thực hiện pháp luật đối tượng là tất cả tổ chức và công dân có nghĩa vụ
phải thực hiện pháp luật. Cơ quan công quyền là người thực thi pháp luật ( Pháp
chế), Thực thi pháp luật là thực hiện và thi hành pháp luật nó có mối liên hệ hữu
cơ vớ i nhau. Có thi hành pháp luật nghiêm minh là mọi đối tượng điều chỉnh của
pháp luật nếu vi phạm đều phải chịu sự chế tài của cơ quan có thẩm quyền.
Thực hiện pháp luật là đưa pháp luật đến với mọi công dân, công dân có nghĩa
vụ chấp hành luật pháp của nhà nước ban hành, các cơ quan tư pháp , hành pháp
4
Sinh viên : Lê Văn Lượng Lớp : CDDI12TH
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
kể cả lập pháp có trách nhiệm tuyên truyền và thực thi pháp luật, xét xử người vi
phạm đúng đối tượng, đúng luật định.
2. Các hình thức thực hiện pháp luật:
Các hình thức thực hiện pháp luật là: tuân thủ pháp luật,thi hành pháp luật,sử
dụng pháp luật,áp dụng pháp luật.
- Tuân thủ pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật,trong đó chủ thể
pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật ngăn
cấm.Vd:không buôn bán chất ma túy.

-Thi hành pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật,trong đó chủ thể pháp
luật phải thực hiện những hành vi nhất định nhằm thi hành các nghĩa vụ pháp lý
của mình bằng hành động tích cực.vd:người kinh doanh phải có nghĩa vụ đóng
thuế cho nhà nước.
-Sử dụng pháp luật ,là hình thức thực hiện pháp luật trong đó chủ thể pháp
luật phải thực hiện quyền chủ thể của mình.Vd:cán bộ có thẩm quyền cấp đất sai
đối tượng khi phát hiện cần phải thực hiện quyền khiếu nại tố cáo để người có
thẩm quyền cấp đất sai ấy phải thực hiện đúng nghĩa vụ của họ.
-Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật,trong đó nhà nước thông
qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp
luật thực hiện những qui định của pháp luật.Vd: cơ quan có thẩm quyền ra quyết
định xử phạt vi phạm hành chính đối với chủ thể đã có hành vi vi phạm hành
chính.
III. Tìm hiểu về các hành vi vi phạm pháp luật
1. Khái niệm
5
Sinh viên : Lê Văn Lượng Lớp : CDDI12TH
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
Vi phạm pháp luạt là hành vi trái pháp luật và có lỗi, do chủ thể có năng lực
trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo
vệ.
2. Các dấu hiệu của vi phạm pháp luật
-Vi phạm pháp luật phải là hành vi xác định của con người, tức là xử sự thực
tế, cụ thể của cá nhân hoặc tổ chức nhất định, bởi vì pháp luật được ban hành để
điều chỉnh hành vi của các chủ thể mà không điều chỉnh suy nghĩ của họ. Mác đã
từng nói: ngoài hành vi của tôi ra, tôi khòng tồn tại đối với pháp luật, không phải là
đối tượng của nó. Vì vậy, phải căn cứ vào hành vi thực tế của các chủ thể mới có
thể xác định được là họ thực hiện pháp luật hay vi phạm pháp luật. Hành vi xác
định này có thể được thực hiện bằng hành động (ví dụ: đi xe máy vượt đèn đỏ khi
tham gia giao thông) hoặc bằng không hành động (ví dụ: trốn tránh nghĩa vụ nộp

thuế).
- Vi phạm pháp luật phải là hành vi trái pháp luật, tức là xử sự trái với các
yêu cầu của pháp luật. Hành vi này được thể hiện dưới các hình thức sau:
+ Chủ thể thực hiện những hành vi bị pháp luật cấm. Ví dụ: đi xe máy vào
đường ngược chiều…
+ Chủ thể không thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật bắt buộc phải thực
hiện. Ví dụ: trốn tránh nghĩa vụ phụng dưỡng ông bà, cha mẹ…
+ Chủ thể sử dụng quyền hạn vượt quá giới hạn cho phép. Ví dụ: trưởng
thôn bán đất công cho một số cá nhân nhất định…
- Vi phạm pháp luật phải là hành vi của chủ thể có năng lực trách nhiệm
pháp lý, vì hành vi có tính chất trái pháp luật nhưng của chủ thể không có năng lực
6
Sinh viên : Lê Văn Lượng Lớp : CDDI12TH
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
trách nhiệm pháp lý thì không bị coi là vi phạm pháp luật. Năng lực trách nhiệm
pháp lý của chủ thể là khả năng mà pháp luật quy định cho chủ thể phải chịu trách
nhiệm về hành vi của mình. Theo quy định của pháp luật, chủ thể là cá nhân sẽ có
năng lực này khi đạt đến một độ tuổi nhất định và trí tuệ phát triển bình thường. Đó
là độ tuổi mà sự phát triển về trí lực và thể lực đã cho phép chủ thể nhận thức được
hành vi của mình và hậu quả của hành vi đó gây ra cho xã hội nên phải chịu trách
nhiệm về hành vi của mình. Chủ thể là tổ chức sẽ có khả năng này khi được thành
lập hoặc được công nhận.
- Vi phạm pháp luật phải là hành vi có lỗi của chủ thể, tức là khi thực hiện
hành vi trái pháp luật, chủ thể có thể nhận thức được hành vi của mình và hậu quả
của hành vi đó, đồng thời điều khiển được hành vi của mình. Như vậy, chỉ những
hành vi trái pháp luật mà có lỗi của chủ thể thì mới bị coi là vi phạm pháp luật.
Còn trong trường hợp chủ thể thực hiện một xử sự có tính chất trái pháp luật nhưng
chủ thể không nhận thức được hành vi của mình và hậu quả của hành vi đó gây ra
cho xã hội hoặc nhận thức được hành vi và hậu quả của hành vi của mình nhưng
không điều khiển được hành vi của mình thì không bị coi là có lỗi và không phải là

vi phạm pháp luật.
3. Cấu thành của vi phạm pháp luật
Cấu thành vi phạm pháp luật là những dấu hiệu đặc trưng của một vi phạm
pháp luật cụ thể. Vi phạm pháp luật bao gồm 4 yếu tố cấu thành là mặt khách quan,
mặt chủ quan, chủ thể và khách thể.
a. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật: là những dấu hiệu biểu hiện ra bên
ngoài thế giới khách quan của vi phạm pháp luật. Nó bao gồm các yếu tố: hành vi
7
Sinh viên : Lê Văn Lượng Lớp : CDDI12TH
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
trái pháp luật, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
và hậu quả nguy hiểm cho xã hội, thời gian, địa điểm, phương tiện vi phạm.
- Hành vi trái pháp luật hay còn gọi là hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi
trái với các yêu cầu của pháp luật, nó gây ra hoặc đe doạ gây ra những hậu quả
nguy hiểm cho xã hội.
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội: là những thiệt hại về người và của hoặc những
thiệt hại phi vật chất khác do hành vi trái pháp luật gây ra cho xã hội.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội tức là
giữa chúng phải có mối quan hệ nội tại và tất yếu với nhau. Hành vi đã chứa đựng
mầm mống gây ra hậu quả hoặc là nguyên nhân trực tiếp của hậu quả nên nó phải
xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian; còn hậu quả phải là kết quả tất yếu của
chính hành vi đó mà không phải là của một nguyên nhân khác.
- Thời gian vi phạm pháp luật là giờ, ngày, tháng, năm xảy ra vi phạm pháp
luật.
- Địa điểm vi phạm pháp luật là nơi xảy ra vi phạm pháp luật.
- Phương tiện vi phạm pháp luật là công cụ mà chủ thể sử dụng để thực hiện
hành vi trái pháp luật của mình.
Khi xem xét mặt khách quan của vi phạm pháp luật thì hành vi trái pháp luật
luôn luôn là yếu tố bắt buộc phải xác định trong cấu thành của mọi vi phạm pháp
luật, còn các yếu tố khác có bắt buộc phải xác định hay không là tuỳ từng trường

hợp vi phạm. Có trường hợp hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng là yếu tố bắt buộc phải xác
định, có trường hợp địa điểm vi phạm cũng là yếu tố bắt buộc phải xác định.
8
Sinh viên : Lê Văn Lượng Lớp : CDDI12TH
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
b. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là: trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể
khi thực hiện hành vi trái pháp luật. Nó bao gồm các yếu tố: lỗi, động cơ, mục đích
vi phạm pháp luật.
- Lỗi là trạng thái tâm lý hay thái độ của chủ thể đối với hành vi của mình và đối
với hậu quả của hành vi đó gây ra cho xã hội được thể hiện dưới hai hình thức: cố
ý hoặc vô ý.
Lỗi gồm 2 loại: cố ý và vô ý.
Lỗi cố ý lại gồm 2 loại: cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp.
+ Cố ý trực tiếp là lỗi của một chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật nhận
thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó
và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.
+ Cố ý gián tiếp là lỗi của một chủ thể khi thực hiện một hành vi trái pháp luật
nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành
vi đó, tuy không mong muốn song có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
Lỗi vô ý cũng gồm 2 loại: vô ý vì cẩu thả và vô ý vì quá tự tin.
+ Vô ý vì cẩu thả là lỗi của một chủ thể đã gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội
nhưng do cẩu thả nên không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả đó,
mặc dù có thể thấy trước và phải thấy trước hậu quả này.
+ Vô ý vì quá tự tin là lỗi của một chủ thể tuy thấy trước hành vi của mình có thể
gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội song tin chắc rằng hậu quả đó sẽ không xảy
ra hoặc cỏ thể ngăn ngừa được nên mới thực hiện và có thể gây ra hậu quả nguy
hiểm cho xã hội.
9
Sinh viên : Lê Văn Lượng Lớp : CDDI12TH

Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
1. Động cơ vi phạm pháp luật là động lực tâm lý bên trong thúc đẩy chủ thể
thực hiện hành vi trái pháp luật.
2. Mục đích vi phạm pháp luật là cái đích trong tâm lý hay kết quả cuối cùng
mà chủ thể mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi trái pháp luật.
Chủ thể của vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp
lý và đã thực hiện hành vi trái pháp luật.
Khách thể của vi phạm pháp luật là quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng
bị hành vi trái pháp luật xâm hại tới.
III. Tìm hiểu về trách nhiệm pháp lý
1. Khái niệm
Trách nhiệm pháp lý là hậu quả pháp lý bất lợi đối với chủ thể phải gánh chịu
thể hiện qua việc họ phải gánh chịu những biện pháp cưỡng chế nhà nước được
quy định trong phần chế tài của các quy phạm pháp luật khi họ vi phạm pháp luật
hoặc khi có thiệt hại xảy ra do những nguyên nhân khác được pháp luật quy định.
2. Đặc điểm
Trách nhiệm pháp lý là loại trách nhiệm do pháp luật quy định. Đây là điểm
khác biệt cơ bản giữa trách nhiệm pháp lý với các loại trách nhiệm xã hội khác
như trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm tôn giáo, trách nhiệm chính trị…
Trách nhiệm pháp lý luôn gắn liền với các biện pháp cưỡng chế nhà nước được
quy định trong phần chế tài của các quy phạm pháp luật. Đây là điểm khác biệt
giữa trách nhiệm pháp lý với các biện pháp cưỡng chế khác của nhà nước như bắt
buộc chữa bệnh, giải phóng mặt bằng…
10
Sinh viên : Lê Văn Lượng Lớp : CDDI12TH
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
Trách nhiệm pháp lý luôn là hậu quả pháp lý bất lợi đối với chủ thể phải
gánh chịu thể hiện qua việc chủ thể phải chịu những sự thiệt hại nhất định về tài
sản, về nhân thân, về tự do… mà phần chế tài của các quy phạm pháp luật đã quy
định.

Trách nhiệm pháp lý phát sinh khi có vi phạm pháp luật hoặc có thiệt hại
xảy ra do những nguyên nhân khác được pháp luật quy định.
3. Trách nhiệm pháp lý của chủ thể vi phạm pháp luật
Trách nhiệm pháp lý của chủ thể vi phạm pháp luật là hậu quả pháp lý bất lợi
đối với chủ thể vi phạm pháp luật thể hiện qua việc họ phải gánh chịu những biện
pháp cưỡng chế nhà nước đã được quy định trong phần chế tài của các quy phạm
pháp luật vì sự vi phạm pháp luật của họ.
4. Phân loại trách nhiệm pháp lý
Dựa vào tính chất của trách nhiệm pháp lý có thể chia chúng thành các loại
sau:
-Trách nhiệm hình sự: là trách nhiệm của một người đã thực hiện một tội phạm,
phải chịu một biện pháp cưỡng chế nhà nước là hình phạt vì việc phạm tội của họ.
Hình phạt này do toà án quyết định trên cơ sở của luật hình, nó thể hiện sự lên án,
sự trừng phạt của nhà nước đối với người phạm tội và là một trong những biện
pháp để bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh. Đây là loại trách
nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất.
- Trách nhiệm hành chính: là trách nhiệm của một cơ quan, tổ chức hoặc cá
nhân đã thực hiện một vi phạm hành chính, phải gánh chịu một biện pháp cưỡng
chế hành chính tuỳ theo mức độ vi phạm của họ. Biện pháp cưỡng chế này do một
11
Sinh viên : Lê Văn Lượng Lớp : CDDI12TH
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền quyết định trên cơ sở pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính.
- Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm của một chủ thể phải gánh chịu những biện
pháp cưỡng chế nhà nước nhất định khi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể
khác hoặc khi vi phạm nghĩa vụ dân sự đối với bên có quyền. Biện pháp cưỡng chế
phổ biến đi kèm trách nhiệm này là bồi thường thiệt hại.
- Trách nhiệm kỷ luật là trách nhiệm của một chủ thể (cá nhân hoặc tập thể) đã

vi phạm kỷ luật lao động, học tập, công tác hoặc phục vụ được đề ra trong nội bộ
cơ quan, tổ chức và phải chịu một hình thức kỷ kuật nhất định theo quy định của
pháp luật.
- Trách nhiệm vật chất là trách nhiệm mà người lao động phải gánh chịu khi
gây ra thiệt hại cho tài sản của doanh nghiệp (như làm hư hỏng hoặc làm mất dụng
cụ, thiết bị, các tài sản khác do doanh nghiệp, giao cho hoặc tiêu hao vật tư quá
định mức cho phép) hoặc công chức phải gánh chịu vì trong khi thi hành công vụ
gây ra thiệt hại cho tài sản của nhà nước hoặc của chủ thể khác. Người lao động
hoặc công chức phải bồi thường một phần hoặc toàn bộ thiệt hại theo thời giá thị
trường và có thể được bồi thường bằng cách trừ dần vào lương hàng tháng.
12
Sinh viên : Lê Văn Lượng Lớp : CDDI12TH
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
KẾT LUẬN
Trong xã hội cộng sản không còn đối kháng giai cấp, Nhà nước là người đại
điện cho nhân dân lao động. Cho nên, hoạt động của Nhà nước và hệ thống pháp
luật tự thân đã bao hàm trong đó ý nghĩa đạo đức. Trên phương diện lý luận cũng
như thực tiễn, pháp luật luôn có vai trò bảo vệ các giá trị chân chính, bảo vệ các
quyền lợi chính đáng của con người, đồng thời, tạo điều kiện cho con người phát
huy những năng lực thực tiễn của mình. Việc thực thi pháp luật cũng đồng nghĩa
với việc đảm bảo trên thực tế các quyền thiêng liêng của con người, sự tôn trọng
các giá trị xã hội. Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thể hiện đúng đắn ý chí và
nguyện vọng của số đông, phù hợp với xu thế vận động của lịch sử sẽ góp phần
thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Do đó, pháp luật cũng đóng vai trò vô
cùng quan trọng trong việc bảo vệ nền đạo đức của xã hội. Có thể nói, pháp luật là
phương tiện không thể thiếu được cho sự tồn tái bình thường của xã hội nói chung
và nền đạo đức nói riêng. Bởi lẽ, "pháp luật bao giờ cũng là một trong những biện
pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức và biến nó thành thói quen. Chuẩn
mực càng khó khẳng định bao nhiêu thì vai trò của pháp luật càng quan trọng bấy
nhiêu. Vì vậy, không thể buông lỏng pháp luật nếu việc này chưa được chuẩn bị

bằng sự tiến bộ đạo đức của xã hội".
Bài tiểu luận sẽ giúp mọi người có cách nhìn tổng quan hơn về pháp luật, hiểu
thêm về các hành vi vi phạm pháp luật, tạo cho mình một cách sống lành mạnh
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo bộ môn đã nhiệt tình giúp đỡ chúng
tôi hoàn thành bài tiểu luận này.
Xin chân thành cảm ơn !
13
Sinh viên : Lê Văn Lượng Lớp : CDDI12TH
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
NHẬN XÉT CỦA GVHD
……………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
I. Tìm hiểu về pháp luật 2
II. Tìm hiểu về thực hiện pháp luật 4
III. Tìm hiểu về các hành vi vi phạm pháp luật 5
IV. Tìm hiểu về trách nhiệm pháp lý 10
KẾT LUẬN 13
14
Sinh viên : Lê Văn Lượng Lớp : CDDI12TH
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình pháp luật đại cương
2. Bài giảng pháp luật đại cương trường đại học luật Hà Nội
3. Treng web tailieu.vn
4. Diễn đàn sinh viên trường luật
15
Sinh viên : Lê Văn Lượng Lớp : CDDI12TH

×