Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Rủi ro pháp lý trong thanh toán quốc tế và giải pháp hạn chế rủi ro đề xuất, nghiên cứu một số tình huống cụ thể

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.23 KB, 29 trang )

Trường đại học Ngoại Thương
Khoa: Kinh tế và kinh doanh Quốc tế
Bộ môn: Thanh toán Quốc tế
*****
TIỂU LUẬN NHÓM
Đề tài: Rủi ro pháp lý trong thanh toán quốc tế và giải pháp hạn chế
rủi ro đề xuất, nghiên cứu một số tình huống cụ thể
Tác giả: Nhóm 3
Giáo viên hướng dẫn: PGS. TS Đặng Thị Nhàn
MỤC LỤC
Lời mở đầu……………………………………………………………………….
Chương I: Cơ sở lý thuyết………………………………………………………
I Rủi ro trong thanh toán quốc tế ……………………………………………………
1 Khái niệm rủi ro trong thanh toán quốc tế ……………………………………
1.1 Rủi ro là gì…………………………………………………………………….
1.2 Rủi ro trong thanh toán quốc tế……………………………………………….
2 Các loại rủi ro thường gặp trong thanh toán quốc tế……………………………
3 Các bên chịu ảnh hưởng khi có rủi ro phát sinh………………………………
II Rủi ro pháp lý trong thanh toán quốc tế ……………………….…………….
1 Khái niệm – đặc điểm …………………………………………………………
1.1 Khái niệm …………………………………………………………………….
1.2 Đặc điểm ……………………………………………………………………
2 Nguyên nhân phát sinh………………………………………………………….
2.1 Nguyên nhân chủ quan………………………………………………………
2.2 Nguyên nhân khách quan……………………………………………………
Chương II: Nghiên cứu một số tình huống ví dụ thực tế về rủi ro
pháp lý trong thanh toán quốc tế
I Tóm tắt 1 số ví dụ điển hình về rủi ro pháp lý trong thanh toán quốc
tế…….
1. Tranh chấp do từ chối thanh toán trong hợp đồng mua bán cà phê giữa nguyên
đơn là người bán Singapore và bị đơn là người mua Việt Nam.


2. Hãng hàng không Vietnam Airlines thua kiện luật sư Maurizio Liberati và
phải trả 5,2 triệu Euro (chưa tính đến lãi suất từ tháng 11/2003 đến 2006) cho
luật sư này.
2
Trg
4
5
5
5
5
5
6
7
7
7
7
8
8
8
8
10
10
10
11
12
13
3 Vụ CENTRIMEX thiệt hại 1,5 triệu USD do không chịu thanh toán tiền mua
phân U-rê cho công ty HELM (Đức) mà cũng không chịu nhận hàng.
II Phân tích cụ thể 1 trường hợp về phán quyết của trọng tài trong
tranh chấp pháp lý liên quan tới hoạt động thanh toán quốc tế

1 Nội dung cơ
bản………………………………………………………………
2 Tóm tắt vụ
việc…………………………………………………………………
3 Phán quyết của trọng tài………………………………………………………
3.1 Về việc không mở L/C của Bị đơn……………………………………………
3.2 Về sai sót ngày tháng trong Telex gia hạn mở L/C của Nguyên đơn…………
3.3 Về số tiền phạt 18.544 USD…………………………………………………
4 Một số nhận xét của nhóm ……………………………………………………
4.1 Về thời hạn mở L/C………………………….………………………………
4.2 Về việc vi phạm hợp đồng……………………………………………………
4.3 Về cách giải quyết khi xảy ra vi phạm hợp đồng…………………………….
4.4 Về việc phạt do không thực hiện hợp đồng………………………………….
5 Ý kiến của nhóm về bài học rút ra cho doanh nghiệp Việt Nam………………
Chương III: Ý kiến đề xuất về việc hạn chế rủi ro pháp lý trong thanh toán
quốc tế
I.Kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước (NHNN) và các cơ quan quản lý vĩ

1. Hoàn thiện chính sách kinh tế của nhà nước, tạo môi trường pháp lý hoàn
chỉnh cho hoạt động thanh toán quốc tế
2. Hoàn thiện hệ thống thông tin ngân hàng………………………………………
3. Củng cố và phát triển quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài………….
4. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ nhân viên thanh toán quốc tế………
II Kiến nghị đối với Doanh Nghiệp……………………………………………………
1. Nâng cao nhận thức về pháp luật……………………………………………
3
13
13
15
15

16
16
17
17
17
18
19
20
22
22
22
22
23
24
24
24
25
26
26
27
28
2. Nâng cao năng lực đội ngũ doanh nghiệp Việt Nam………………………….
3. Tạo thói quen sử dụng chuyên gia pháp lý……………………………………
4. Tìm hiểu rõ đối tác…………………………………………………………….
5. Sử dụng dịch vụ thanh toán của những ngân hàng có uy tín…………………
Kết luận…………………………………………………………………………
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh hoạt động thương mại quốc tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ
với quy mô lớn và sức tăng trưởng nhanh chóng, hoạt động thanh toán quốc tế do
đó cũng phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, các bên khi tham gia vào thanh toán

quốc tế luôn phải đối mặt với những nguy cơ và rủi ro tiềm ẩn. Trong đó, rủi ro
pháp lý là điều mà những doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các ngân hàng tham gia
vào quá trình thanh toán xuyên biên giới lo ngại gặp phải nhất. Bởi một khi các bên
đã phải sử dụng tới các hành động pháp lý, kiện tụng thì chắc chắn sẽ rất mất thời
gian, tốn kém và đặc biệt là ảnh hưởng tới tên tuổi của mình.
Vậy rủi ro pháp lý trong thanh toán quốc tế là gì, phải làm sao để tránh và
khắc phục hậu quả của nó ra sao ? Những vấn đề này sẽ được nhóm tác giả đề cập
tới trong bài tiểu luận “ Rủi ro pháp lý trong thanh toán quốc tế và giải pháp đề
xuất, nghiên cứu một số tình huống cụ thể”
Bài tiểu luận của chúng tôi gồm 3 phần chính sau:
I Cơ sở lý thuyết
II Nghiên cứu một số tình huống ví dụ thực tế về rủi ro trong thanh toán quốc tế
III Ý kiến đề xuất việc hạn chế rủi ro pháp lý trong thanh toán quốc tế
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện tiểu luận, do còn nhiều hạn chế về
kiến thức cũng như hiểu biết thực tiễn, nhóm không thể tránh khỏi những sai sót cả
về mặt chuyên môn, cũng như sai sót kỹ thuật. Chúng tôi rất mong nhận được sự
4
đóng góp ý kiến từ phái người đọc để có thể hoàn thiện hơn nữa bài nghiên cứu của
nhóm.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
I Rủi ro trong thanh toán quốc tế
1 Khái niệm rủi ro trong thanh toán quốc tế
1.1 Rủi ro là gì
Từ khi con người sáng tạo, phát triển và làm phong phú các loại hình hoạt
động của mình thì khái niệm rủi ro và các ảnh hưởng của nó cũng bắt đầu xuất hiện
và cho tới nay, có nhiều quan điểm cùng tốn tại nhưng nhìn chung , các quan điểm
đều có sự thống nhất khi cho rằng rủi ro là sự không may mắn, tai nạn, tai họa hay
sự cố xảy ra một cách bất ngờ, ngẫu nhiên nằm ngoài sự kiểm soát của con người.
Hậu quả tất yếu của rủi ro là sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút lợi nhuận thực
tế so với lợi nhuận dự kiến. Đối với các doanh nghiệp, rủi ro còn được hiểu là

những bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong quá trình kinh doanh, sản xuất, tác động
xấu đến sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp.
Rủi ro xuất hiện trong gần như mọi trường hợp của cuộc sống cũng như trên
mọi khía cạnh của quá trình giao lưu buôn bán quốc tế
1.2 Rủi ro trong thanh toán quốc tế
Với sự phát triển ngày càng nhanh của xu thế toàn cầu hóa kinh tế quốc tế,
khối lượng hàng hóa được mua bán giữa các quốc gia cũng đang trên đà tăng mạnh,
thanh toán quốc tế (thanh toán quốc tế) ra đời và phát triển không ngừng như là một
tất yếu khách quan. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động của mình, thanh toán
5
quốc tế không chỉ đơn thuần mang lại những lợi ích kinh tế mà còn phát sinh những
nguy cơ có thể gây ra rủi ro, tổn thất trực tiếp cho nền kinh tế quốc gia, cho ngân
hàng tham gia và đặc biệt là cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu.
Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế là vấn đề bất lợi, bất trắc xảy ra
ngoài ý muốn của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, trong quá trình tiến hành hoạt
động thanh toán quốc tế và ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện các điều khoản khác
của hợp đồng, kết quả làm giảm lợi nhuận và xấu hơn là làm thất thoát tiền và hàng
hóa của các bên tham gia. Trong quá trình tiến hành hoạt động thanh toán quốc tế,
rủi ro là lớn hơn so với thanh toán giữa các doanh nghiệp hoạt động trong cùng một
quốc gia do khoảng cách về địa lí, khác biệt về các chính sách vĩ mô, văn hóa, luật
điều chỉnh …
2 Các loại rủi ro thường gặp trong thanh toán quốc tế
Rủi ro trong thanh toán quốc tế được chia thành 2 loại chính: Rủi ro thương
mại và Rủi ro thanh toán. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sẽ tập
trung vào loại thứ 2 (Rủi ro thanh toán). Đó là những bất ngờ, gây hậu quả tổn thất
cho các bên tham gia thanh toán, đặc biệt đối với các ngân hàng khi thực hiện cung
ứng dịch vụ thanh toán cho các bên tham gia kinh doanh, giao dịch quốc tế.
Rủi ro thanh toán được chia thành 6 loại chính như sau:
+ Rủi ro tín dụng: là rủi ro mất khả năng thanh toán của 1 trong các bên tham

gia vào thanh toán đặc biệt trong phương thức tín dụng chứng từ.
+ Rủi ro đạo đức: là những rủi ro xảy ra khi một bên tham gia cố tình không
thực hiện đúng nghĩa vụ của mình gây thiệt hại lớn tới quyền lợi người khác.
+ Rủi ro quốc gia: là những rủi ro liên quan đến sự thay đổi về chính trị, kinh
tế, về chính sách quản lý ngoại hối - ngoại thương của một quốc gia.
+ Rủi ro pháp lý: là rủi ro xảy ra trong trường hợp có tranh chấp, hay khiếu
kiện giữa các bên tham gia thanh toán.
6
+ Rủi ro ngoại hối: là rủi ro xảy ra khi việc thanh toán được ấn định bằng
một ngoại tệ nào đó. Khi tỷ giá biến động sẽ gây nên tổn thất cho một trong hai
phía đối tác tham gia thanh toán.
+ Rủi ro tác nghiệp: là những rủi ro sai sót kĩ thuật do chính các bên tham gia
gây nên. Đặc biêt xảy ra nhiều trong phương thức tín dụng chứng từ.
Trong quá trình thương lượng và đàm phán dự thảo hợp đồng, trong đó có
điều khoản thanh toán, những rủi ro pháp lý luôn tiềm ẩn và có sự ảnh hưởng đáng
kể đến các bên tham gia, không chỉ đối với Ngân hàng mà còn cả người xuất, nhập
khẩu. Chính vì vậy, trong phạm vi bài tiểu luận này, chúng tôi sẽ tập trung phân
tích những rủi ro pháp lý điển hình trong thanh toán quốc tế.
3 Các bên chịu ảnh hưởng khi có rủi ro phát sinh
Khi rủi ro trong thanh toán quốc tế phát sinh, nó sẽ ảnh hưởng tới các bên có
liên quan tới quá trình mua bán hàng hóa dịch vụ quốc tế :
- Bên xuất khẩu : rủi ro xảy ra khi bán hàng không thu được tiền hoặc chậm
thu được tiền, rủi ro về thị trường, rủi ro không nhận hàng, rủi ro không thanh
toán…
- Bên nhập khẩu : rủi ro xảy ra khi người bán giao hàng không đúng với các
điều kiện của hợp đồng (không đúng số lượng, chủng loại…), rủi ro không giao
hàng, rủi ro trong quá trình vận chuyển hàng hoá…
- Các ngân hàng tham gia vào quá trình thanh toán quốc tế: tùy vào vai trò
của ngân hàng khi tham gia vào hoạt động thanh toán quốc tế mà ngân hàng có thể
phải đối mặt với nhiều loại rủi ro khác nhau. Ví dụ như ngân hàng bảo lãnh gặp rủi

ro khi đối tượng được bảo lãnh không đủ khả năng chi trả và ngân hàng phải đứng
ra trả hộ, hoặc ngân hàng thông báo không thông báo đủ lỗi của L/C dẫn tới người
mua bị thiệt hại và ngân hàng phải bổi thường…
II Rủi ro pháp lý trong thanh toán quốc tế
1 Khái niệm – đặc điểm
7
1.1 Khái niệm
Trên phương diện chung, rủi ro pháp lý là khả năng khách quan xảy ra sự sai
lệch bất lợi so với dự tính liên quan tới các quy định của pháp luật.
Rủi ro pháp lý xét trên góc độ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu là những sự
kiện pháp lý bất lợi xảy ra một cách bất ngờ, gây nên thiệt hại vật chất hoặc phi vật
chất đối với doanh nghiệp trong quá trình hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế.
1.2 Đặc điểm
Là khả năng xảy ra sự sai lệch bất lợi so với dự tính của doanh nghiệp và xảy
ra trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp
Rủi ro liên quan tới các vấn đề pháp lý, thường dẫn tới việc kiện tụng và
tranh chấp tại tòa án.
Là loại rủi ro mà các doanh nghiệp không muốn gặp phải nhất do việc theo
đuổi các vụ kiện pháp lý thường mát rất nhiều thời gian, chi phí và dễ gây ảnh
hưởng tới uy tín của doanh nghiệp.
2 Nguyên nhân phát sinh
2.1 Nguyên nhân chủ quan
Do chưa có thói quen tuân thủ và thượng tôn pháp luật và coi nhẹ yếu tố
pháp lý trong kinh doanh. Ở nhiều nước chưa phát triển, trong đó có Việt Nam, đây
là một điều khá phổ biến. Các doanh nghiệp tham gia thương mại quốc tế nhưng lại
thiếu ý thúc tuân thủ pháp luật của quốc tế dẫn tới dễ vi phạm và bị kiện ra tòa.
Do không hiểu biết pháp luật của nước ngoài, pháp luật và thông lệ quốc tế.
Do không có sự chuẩn bị kỹ càng cần thiết hoặc thiếu kinh nghiệm trong việc
lựa chọn đối tác và thương thảo hợp đồng. Điều này rất dễ xảy ra đối với bất cứ bên
tham gia nào của hoạt động thanh toán quốc tế. Nếu như lựa chọn người nhập khẩu

thiếu uy tín, bên xuất khẩu có thể xuất hàng mà không nhận được tiền dẫn tới phải
tranh chấp pháp lý. Hoặc khi ký hợp đồng mà không ghi rõ luật điều chỉnh có thể
dẫn tới việc vi phạm pháp luật các bên mà không biết…
8
2.2 Nguyên nhân khách quan
Bên cạnh các nguyên nhân chủ quan, việc phát sinh các rủi ro pháp lý trong
hoạt động thanh toán quốc tế còn bắt nguồn từ nguyên nhân khách quan, đó là sự
xung đột pháp luật giữa các hệ thống pháp lý điều chỉnh hoạt động thanh toán quốc
tế.
Đầu tiên, nguyên nhân sâu sa của rủi ro pháp lý chính là môi trường pháp lý
và luật pháp quốc gia của các bên tham gia có sự khác biệt. Trong quan hệ thanh
toán quốc tế, luôn có sự tồn tại của ít nhất 2 hệ thống pháp luật quốc gia, điều chỉnh
các mối quan hệ về trao đổi buôn bán cũng như việc thực hiện thanh toán. Trong
khi đó, luật pháp của mỗi quốc gia thì có nét đặc trưng riêng biệt của quốc gia, việc
có những sự khác biệt là điều rất dễ xảy ra. Sự khác biệt đó dù ít hay nhiều cũng có
thể dẫn tới những sự vi phạm của 1 trong các bên tham gia thanh toán quốc tế, tạo
ra rủi ro pháp lý.
Không chỉ vậy, sự xung đột pháp luật trong thanh toán quốc tế còn thể hiện ở
sự khác biệt trong pháp luật quốc gia với hệ thống pháp lý quốc tế. Luật quốc gia
thông thường tôn trọng và ít khi đối đầu với thông lệ quốc tế nhưng không phải là
hoàn toàn không có mâu thuẫn. Khi điều đó xảy ra mà hợp đồng không ghi rõ sử
dụng luật nào để điều chỉnh, thì luật quốc gia sẽ là luật có hiệu lực cao hơn. Như
đối với việc thanh toán qua thư tín dụng chứng từ, quan điểm của ICC (phòng
Thương mại quốc tế), là UCP không thể làm thay đổi luật quốc gia, những tranh
chấp nếu có tốt nhất là để cho tòa án xem xét và phán quyết.
Có thể lấy một ví dụ cho sự xung đột pháp luật ở đây là trong UPC 600 thì
quy định, nếu như L/C mở mà không có ghi chú gì thì đó sẽ được coi là L/C không
thể hủy ngang. Tuy nhiên, luật của Nga lại quy định ngược lại, rằng nếu không có
ghi chú cụ thể thì L/C sẽ được coi là L/C có thể hủy ngang. Như vậy các doanh
nghiệp quốc tế buôn bán thanh toán L/C với các doanh nghiệp Nga có thể gặp phải

rắc rối nếu như ký hợp đồng mà không ghi rõ nguồn luật điều chỉnh.
9
CHƯƠNG II: NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG VÍ DỤ
THỰC TẾ VỀ RỦI RO PHÁP LÝ TRONG THANH TOÁN
QUỐC TẾ
I Tóm tắt 1 số ví dụ điển hình về rủi ro pháp lý trong thanh
toán quốc tế
1. Tranh chấp do từ chối thanh toán trong hợp đồng mua bán cà phê giữa
nguyên đơn là người bán Singapore và bị đơn là người mua Việt Nam.
Ngày 10 tháng 6 năm 1997 giữa Nguyên đơn và Bị đơn ký hợp đồng
9623/INUT.97, theo đó Nguyên đơn bán cho Bị đơn 9.937 Kg cà phê và bột kem
theo điều kiện CIF HCMC, thanh toán bằng TTR trong vòng bảy ngày sau khi
người mua nhận được chứng từ vận tải gốc, người hưởng lợi là người bán (Nguyên
đơn).
Thực hiện hợp đồng, Nguyên đơn đã giao hàng cho Bị đơn ngày 21 tháng 6
năm 1997. Sau khi giao hàng, Nguyên đơn đã chuyển cho Bị đơn Vận đơn gốc và
Hoá đơn thương mại số 059/97 đề ngày 21 tháng 6 năm 1997 đòi tiền hàng, nhưng
cuối cùng Nguyên đơn vẫn không nhận được tiền hàng. Việc Bị đơn không thanh
toán tiền hàng cho Nguyên đơn làm cho Nguyên đơn phải chịu nhiều thiệt hại.
Qua nhiều lần đòi mà không được trả tiền, Nguyên đơn đã khởi kiện Bị đơn
ra trọng tài đòi Bị đơn phải trả các khoản tiền sau: Tiền hàng, tiền lãi của tiền hàng,
phí tư vấn pháp lý, phí dịch thuật, phí liên lạc điện thoại và fax.
Sau khi xem xét, trọng tài đã ra phán quyết bị đơn phải thanh toán toàn bộ
tiền hàng và tiền lãi của tiền hàng cho Nguyên đơn. Còn về phí tư vấn pháp lý, phí
10
dịch thuật, phí liên lạc điện thoại và fax thì do Nguyên đơn chỉ liệt kê nhưng không
cung cấp được các bằng chứng hợp lệ chứng minh nên Bị đơn không phải bồi
thường.
2. Hãng hàng không Vietnam Airlines thua kiện luật sư Maurizio Liberati và
phải trả 5,2 triệu Euro (chưa tính đến lãi suất từ tháng 11/2003 đến 2006) cho

luật sư này.
Vụ kiện với ông Liberati bắt nguồn từ 20 năm trước (1991). VNA ký hợp
đồng thuê Công ty Falcomar (Italy) làm đại lý hàng không tại nước này. Từ tháng
9/1991 đến tháng 12/1992, Falcomar thuê ông Maurizio Liberati thực hiện một số
công việc với tư cách đại diện cho VNA. Người này sau đó kiện ra tòa yêu cầu
Falcomar và VNA thanh toán chi phí cho những công việc ông đã thực hiện. Vụ
việc được tòa án Roma xét xử ngày 30/11/1995, nhưng VNA không cử đại diện
tham dự, dù ngày 1/11/1994 đã được đại sứ quán Italy tại Việt Nam chuyển giấy
thông báo về phiên xử. Trước phán quyết của tòa án Roma, ngày 2/5/2002, VNA
nhận được yêu cầu phải trả hơn 4,3 triệu euro trong 30 ngày (chưa kể lãi), theo án
quyết ngày 7/3/2000.
Thời điểm đó, luật sư tư vấn rằng, nhiều khả năng sẽ đảo ngược được tình
thế tại phiên phúc thẩm, vì thế VNA không thi hành phán quyết trên mà xin hoãn
thi hành án. Luật sư nhận định, nếu trả tiền rồi, sau này không thể đòi lại được với
bất kỳ lý do nào. Đầu năm 2005, một số quan chức của VNA cũng lạc quan rằng
khả năng thắng kiện của phía Việt Nam là lớn. Ông Lê Đức Tứ (Ủy viên hội đồng
quản trị VNA, giữ chức tổng giám đốc từ tháng 4/1993 đến tháng 4/1998) đánh giá
vụ việc không liên quan VNA. Bởi việc ký hợp đồng đại lý với Falcomar được thực
hiện từ tháng 11/1992 với Tổng công ty Hàng không VN cũ. Sau đó, đơn vị này
giải thể. Năm 1995, Tổng công ty Hàng không VN mới được thành lập. Hợp đồng
với Falcomar thanh lý từ năm 1995. Luận điểm chính mà VNA muốn sử dụng ở
11
đây là hãng Hàng không Việt Nam cũ và VNA hiện nay là 2 pháp nhân khác biệt,
theo đó VNA và luật sư Liberati không có liên hệ gì với nhau.
Tuy nhiên, sau đó, tại phiên tòa phúc thẩm ngày 9/3/2006, tóa án tai Paris đã
bác đơn kháng cáo của VNA và tuyên ý y án của tòa sơ thẩm, buộc VN trả cho luật
sư Liberati 1 khoản 5,3 triệu USD. Sau đó VNA vẫn tiếp tục việc kháng cảo của
mình và vụ việc vẫn còn đang tiếp diễn nhưng chưa có nhiều dấu hiệu khả quan
vào cho phía VNA.
3 Vụ CENTRIMEX thiệt hại 1,5 triệu USD do không chịu thanh toán tiền mua

phân U-rê cho công ty HELM (Đức) mà cũng không chịu nhận hàng.
Tháng 6 năm 2007, Cty xuất nhập khẩu tổng hợp 3 (CENTRIMEX) đã ký
hợp đồng nhập khẩu 10.000 tấn phân U-rê của Cty HELM (Đức) với giá 145
USD/tấn, tổng giá trị hợp đồng khoảng 1.500.000 USD. Nếu có vấn đề tranh chấp
sẽ nhờ trọng tài Singapore hoặc Việt Nam giải quyết. CENTRIMEX tìm được ngay
đối tác nhận mua toàn bộ số hàng trên, đó là Công ty Vật tư Nông sản Hà Nội với
giá trị 1.610.616,6 USD. Như vậy, CENTRIMEX thu vào hơn 2 tỷ đồng nhờ phần
chênh lệch sau khi giao dịch của thương vụ này. Trong khi hàng trên đường đến
Việt Nam (vào tháng 09/2007), lũ lụt chưa từng có đã xảy ra tại đồng bằng sông
Cửu Long, nhu cầu về phần U-rê xuống rất thấp, giá phần U-rê ở thị trường Việt
Nam giảm tới 40 USD/tấn so với lúc nhập khẩu. CENTRIMEX đối mặt với nguy
cơ lỗ vốn gần 6 tỷ đồng (400.000 USD), do đó công ty này không còn mong muốn
nhận lô hàng từ phía Đức nữa.
Khi bộ hồ sơ chứng từ được gửi tới ngân hàng phát hành L/C của
CENTRIMEX là Sở giao dịch 1 (Ngân hàng Nhà nước và Phát triển nông thôn –
NHNN & PTNT), phía CENTRIMEX đã yêu cầu SGD1 không thanh toán do phát
hiện bộ chứng từ này có một số lỗi sai. Tuy nhiên lý do từ chối thanh toán của
CENTRIMEX đã không được ngân hàng NHF phía Đức chấp nhận, và họ yêu cầu
phải thực hiện thanh toán. Sau đó, phía NHF đã trừ vào tài khoản của Agribank gửi
12
tại NHF để trả cho khách hàng của mình, đồng thời bắt phía Việt Nam phải chịu
phạt lãi trả chậm số tiền còn thiếu 10.162 USD. Về sau Agribank đã chấp nhận việc
thanh toán này, và trừ tiền vào tài khoản của CENTRIMEX.
Còn số hàng 10.000 tấn phân U-rê trên tàu sau nhiều tháng chờ người dỡ
hàng mà không thấy, không thể chờ đợi thêm nên đã rời cảng Sài Gòn và trở về
nước chủ tàu. Khi hãng tàu xin tòa án cho phép bán lô hàng để bù vào chi phí, thì
tòa án phía nước chủ tàu đã thiện chí cho phép phía Việt Nam chở lại hàng về nước
để giải quyết. Tuy nhiên, khi đoàn đại diện của Việt Nam gồm dại diện Agribank
và CENTRIMEX sang tiến hành thỏa thuận với hãng tàu, thì do không phía nào
chịu trả chi phí tiền thuê tàu quay lại Việt Nam nên đã bỏ lô hàng và ra về tay

không. Sau đó, phía Việt Nam mất trằng lô hàng này mà vẫn phải trả tiền hơn 1,54
triệu USD.
Bên cạnh các ví dụ trên, chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều ví dụ khác về rủi
ro pháp lý trong thanh toán quốc tế, điều đó cho thấy hoạt động thanh toán quốc tế
tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho cả phía ngân hàng lẫn công ty xuất nhập khẩu.
II Phân tích cụ thể 1 trường hợp về phán quyết của trọng tài
trong tranh chấp pháp lý liên quan tới hoạt động thanh toán.
1 Nội dung cơ bản
- Các bên:
+ Nguyên đơn: Người bán Áo
+ Bị đơn: Người mua Việt Nam
- Các vấn đề được đề cập:
+ Về việc không mở L/C của Bị đơn
+ Về sai sót ngày tháng trong Telex gia hạn của Nguyên đơn
+ Về tiền phạt
2 Tóm tắt vụ việc
13
Ngày 26 tháng 6 năm 1999 giữa Nguyên đơn và Bị đơn đã ký Hợp đồng mua
bán số 06/99 theo đó Nguyên đơn bán cho Bị đơn 1500 MT thép tấm cán nóng theo
điều kiện C.I.F FO cảng Hải Phòng với tổng trị giá hợp đồng là 370.880 USD, giao
hàng vào tháng 7 năm 1999, thanh toán bằng L/C không huỷ ngang có xác nhận,
ngày mở chậm nhất là ngày 30 tháng 6 năm 1999. Điều 7 Hợp đồng quy định rằng
trong trường hợp chậm trễ giao hàng hoặc nhận được L/C chậm hơn 15 ngày so với
ngày hợp đồng quy định thì bên bán/bên mua có quyền huỷ hợp đồng, bên vi phạm
phải trả một khoản tiền phạt là 5% tổng trị giá hợp đồng cho bên kia.
Ngày 30 tháng 6 năm 1999 là ngày cuối cùng để mở L/C, do sợ không thu
xếp kịp việc mở L/C đúng hạn theo quy định của hợp đồng nên Bị đơn đã gửi văn
thư cho Nguyên đơn trình bày khó khăn khách quan của Bị đơn và đề nghị xin huỷ
Hợp đồng số 06/99 đã được ký giữa hai bên. Khó khăn khách quan được Bị đơn
trình bày là Bị đơn chưa trả hết tiền nợ cho ngân hàng nên ngân hàng không mở

L/C theo đề nghị của Bị đơn.
Ngày 3 tháng 7 năm 1999, tức ba ngày sau khi hết thời hạn mở L/C, Nguyên
đơn đã telex cho Bị đơn, theo đó, Nguyên đơn đồng ý gia hạn ngày mở L/C đến
ngày 7 tháng 6 năm 1999 (until June 7
th
1999). Nếu Nguyên đơn không nhận được
L/C trong thời gian đó, có nghĩa là Bị đơn đã không thực hiện Hợp đồng. Trong
trường hợp này Bị đơn phải nộp cho Nguyên đơn tiền phạt là 18.544 USD theo qui
định của Điều 7 Hợp đồng. Bị đơn đã nhận được bản Telex này. 20 phút sau khi
Telex cho Bị đơn, Nguyên đơn phát hiện ra có sự sai sót về ngày tháng, nên đã sửa
tháng 6 (June) thành tháng 7 (July) và telex lại ngay cho Bị đơn. Nhưng sau này Bị
đơn nói là không nhận được bản Telex sửa đổi này của Nguyên đơn.
Đến ngày 9 tháng 8 năm 1999, Nguyên đơn vẫn không nhận được L/C cũng
như không nhận được tiền phạt từ phía Bị đơn. Do vậy, Nguyên đơn đã kiện Bị đơn
ra trọng tài đòi nộp phạt 18.544 USD.
Phản bác lại đơn kiện, Bị đơn trình bày như sau:
14
+ Ngày 30 tháng 6 năm 1999 Bị đơn đã trình bày khó khăn khách quan và đề
nghị xin huỷ hợp đồng. Ngày 3 tháng 7 năm 1999 Nguyên đơn không trả lời về
việc huỷ Hợp đồng mà lại thông báo đồng ý gia hạn thêm thời gian cho việc mở
L/C, nhưng lại ghi đến ngày 7 tháng 6 năm 1999 (until June 7
th
1999) tức gia hạn
lùi về quá khứ, như vậy Nguyên đơn có ý đồ thúc ép Bị đơn.
+ Việc Bị đơn xin huỷ hợp đồng đã được thông báo cho Nguyên đơn trong
một thời hạn hợp lý, cho nên việc làm này không gây thiệt hại nào cho Nguyên
đơn. Mặt khác lô hàng này đã có sẵn và đã chào bán cho các công ty khác sau đó
mới chào bán cho Bị đơn, cho nên việc Bị đơn không kịp mở L/C trong thời hạn
quy định của Hợp đồng và xin huỷ hợp đồng trong thời hạn này không cấu thành
một sự vi phạm chủ yếu đối với Hợp đồng đã ký.

3 Phán quyết của trọng tài
3.1 Về việc không mở L/C của Bị đơn
Hợp đồng số 06/99 giữa Nguyên đơn và Bị đơn đã có hiệu lực cho nên Bị
đơn phải có nghĩa vụ mở L/C chậm nhất ngày 30 tháng 6 năm 1999. Đến ngày 9
tháng 8 năm 1999 Bị đơn vẫn chưa mở L/C và theo quy định của Điều 7 Hợp đồng
Bị đơn bị coi là không mở L/C, tức là Bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.
Bị đơn nêu lý do của việc không mở L/C là vì Bị đơn gặp khó khăn về tài
chính, chưa trả hết nợ cho Ngân hàng nên Ngân hàng không cho mở L/C. Lý do
này không được Uỷ ban trọng tài công nhận là chính đáng, không phải là căn cứ
miễn trách cho việc không mở L/C, bởi vì Điều 8 của Hợp đồng cũng như Luật
Thương mại Việt Nam, luật hợp đồng của các nước đều không qui định việc gặp
khó khăn về tài chính là một căn cứ miễn trách cho việc không thực hiện hợp đồng.
Ngày 30 tháng 6 năm 1999 Bị đơn gửi văn thư cho Nguyên đơn đề nghị xin
hủy hợp đồng vì khó khăn về tài chính, nhưng Nguyên đơn không có trả lời gì về
vấn đề này. Sự im lặng của Nguyên đơn không phải là đồng ý huỷ hợp đồng, do
vậy Bị đơn cũng như Nguyên đơn phải tiếp tục thực hiện hợp đồng. Sau khi hợp
15
đồng đã được ký và có hiệu lực, các bên không thống nhất huỷ hợp đồng mà Bị đơn
không mở L/C thì rõ ràng Bị đơn đã vi phạm hợp đồng (không thực hiện hợp
đồng).
Vi phạm hợp đồng nhưng không có căn cứ miễn trách nhiệm thì Bị đơn phải
chịu trách nhiệm trước Nguyên đơn.
3.2 Về sai sót ngày tháng trong Telex gia hạn mở L/C của Nguyên đơn
Ngày 3 tháng 7 năm 1999 Nguyên đơn telex thông báo cho Bị đơn chấp nhận
gia hạn ngày mở L/C, nhưng lại ghi là đến ngày 7 tháng 6 năm 1999 (until June 7
th
1999). Về vấn đề này Uỷ ban trọng tài xác định rằng:
Khi nhận được Telex ngày 3 tháng 7 năm 1999 của Nguyên đơn thông báo
gia hạn ngày mở L/C đến trước ngày 7 tháng 6 năm 1999, tức gia hạn lùi về quá
khứ, nhưng Bị đơn không hề có phản ứng gì, không điện hỏi Nguyên đơn tại sao lại

như vậy, cũng không đề xuất thời gian cụ thể cho việc gia hạn mở L/C. Như vậy
việc gia hạn mở L/C của Nguyên đơn không làm cho Bị đơn quan tâm. Từ đó sự sai
sót về ngày tháng trong Telex gia hạn mở L/C của Nguyên đơn hoặc là ý đồ gia hạn
L/C lùi về quá khứ của Nguyên đơn không hề ảnh hưởng đến ý chí thực của Bị đơn
về việc xin huỷ hợp đồng, bởi vì Bị đơn đã đề nghị xin huỷ hợp đồng vào ngày 30
tháng 6 năm 1999. Mặt khác sự sai sót về ngày tháng trong Telex gia hạn mở L/C
hoặc ý đồ gia hạn lùi về quá khứ của Nguyên đơn không phải là nguyên nhân của
việc không mở L/C, mà nguyên nhân đích thực của việc không mở L/C là do Bị
đơn gặp khó khăn về tài chính, như đã đề cập ở mục 1 nêu trên. Vì vậy Bị đơn
không được miễn trách nhiệm do không mở L/C.
3.3 Về số tiền phạt 18.544 USD
Theo Điều 7 Hợp đồng Bị đơn có trách nhiệm nộp phạt 5% trị giá hợp đồng
cho Nguyên đơn, cụ thể là: 5% x 370.880 USD = 18.544 USD
Bị đơn lập luận rằng việc Bị đơn xin huỷ hợp đồng, không mở L/C không hề
gây thiệt hại nào cho Nguyên đơn. Lập luận này không được Uỷ ban trọng tài công
16
nhận, bởi vì Nguyên đơn chỉ đòi tiền phạt theo quy định của hợp đồng chứ không
đòi bồi thường thiệt hại. Hơn nữa, khi đã qui định tiền phạt do không thực hiện hợp
đồng thì bên không thực hiện phải nộp tiền phạt đó, cho dù không gây thiệt hại cho
bên kia. Từ đó Uỷ ban trọng tài quyết định Bị đơn phải nộp cho Nguyên đơn
18.544 USD tiền phạt.
4 Một số nhận xét của nhóm
4.1 Về thời hạn mở L/C
Hợp đồng ký ngày 26 tháng 6 năm 1999 mà thời hạn mở L/C chậm nhất
ngày 30 tháng 6 năm 1999, như vậy chỉ có bốn ngày để mở L/C, rõ ràng thời hạn
này là quá ngắn đối với người mua. Nếu Bị đơn có sẵn tiền, có uy tín với ngân hàng
thì mới có thể thực hiện được. Nếu không thì dễ rơi vào tình trạng mở L/C chậm,
hoặc không mở được L/C và phải chịu trách nhiệm. Do đó khi thoả thuận về thời
hạn mở L/C người mua phải cân nhắc kỹ, tính toán cho phù hợp.
4.2 Về việc vi phạm hợp đồng

Thời điểm của vụ án là năm 1999, ta xem xét theo Luật thương mại Việt
Nam năm 1997. Theo Điều 77 Luật thương mại năm 1997. Các trường hợp miễn
trách nhiệm về việc không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng
1- Các bên được miễn trách nhiệm về việc không thực hiện một phần hay toàn bộ
nghĩa vụ hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận về các trường hợp miễn trách
nhiệm đó.
2- Các bên được miễn trách nhiệm về việc không thực hiện một phần hay toàn bộ
nghĩa vụ hợp đồng nếu việc không thực hiện này do trường hợp bất khả kháng gây
ra.
Trường hợp bất khả kháng là trường hợp xảy ra sau khi ký kết hợp đồng, do
những sự kiện có tính chất bất thường xảy ra mà các bên không thể lường trước
được và không thể khắc phục được.
3- Bên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng có trách
nhiệm chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm.
17
Còn nếu căn theo theo Luật Thương mại Việt Nam 2005, quy định như sau:
Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm:
a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đó thoả thuận;
b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;
c) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;
d) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết
hợp đồng.
Thêm vào đó, dù áp dụng nguồn luật nào cũng đều không có qui định việc
gặp khó khăn về tài chính là một căn cứ miễn trách cho việc không thực hiện hợp
đồng. Cho nên lý do khách quan về tài chính là hoàn toàn không được chấp nhận.
4.3 Về cách giải quyết khi xảy ra vi phạm hợp đồng
- Đề nghị hủy hợp đồng
Ngày 30 tháng 6 năm 1999 Bị đơn đã trình bày khó khăn khách quan và đề
nghị xin huỷ hợp đồng. Tuy nhiên, ngày 3 tháng 7 năm 1999 Nguyên đơn không trả

lời về việc huỷ Hợp đồng mà lại thông báo đồng ý gia hạn thêm thời gian cho việc
mở L/C.
Sau khi hợp đồng đã được ký, một bên muốn huỷ hợp đồng thì phải đề nghị
với bên kia và bên kia trả lời đồng ý thì đề nghị huỷ hợp đồng mới có giá trị và bên
đề nghị huỷ mới không phải thực hiện hợp đồng nữa. Trong trường hợp này bên
được đề nghị im lặng, không phát biểu gì thì đề nghị huỷ hợp đồng không có hiệu
lực (Điều 18 của CISG 1980; Điều 2.1.6 PICC; Điều 396 BLDS và luật nhiều quốc
gia khác đều có quy định về hành vi im lặng trong giao kết hợp đồng không được
coi là thể hiện sự đồng ý ) và bên đề nghị huỷ vẫn phải tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Không có luật nào quy định khi gửi đề nghị huỷ hợp đồng cho bên kia trong thời
hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thì đó là đề nghị hợp lý, bắt bên kia phải tuân theo
và bên đề nghị không phải thực hiện hợp đồng nữa.
- Hai bên trên nguyên tắc trung thực và thiện chí cùng giải quyết khó khăn:
18
Ngày 30 tháng 6 năm 1999 là ngày cuối cùng để mở L/C, do sợ không thu
xếp kịp việc mở L/C đúng hạn theo quy định của hợp đồng nên Bị đơn đã gửi văn
thư cho Nguyên đơn trình bày khó khăn khách quan của Bị đơn và đề nghị xin huỷ
Hợp đồng số 06/99 đã được ký giữa hai bên. Ngày 3 tháng 7 năm 1999, tức ba ngày
sau khi hết thời hạn mở L/C, Nguyên đơn đã telex cho Bị đơn, theo đó, Nguyên
đơn đồng ý gia hạn ngày mở L/C đến ngày 7 tháng 6 năm 1999 (until June 7
th
1999). 20 phút ngay sau khi Telex cho Bị đơn, Nguyên đơn phát hiện ra có sự sai
sót về ngày tháng, nên đã sửa tháng 6 (June) thành tháng 7 (July) và telex lại ngay
cho Bị đơn.
ĐIỀU 1.7 PICC quy định về Nguyên tắc Thiện chí và trung thực như sau:
1. Các bên trong hợp đồng phải tuân theo những yêu cầu về thiện chí và
trung thực trong thương mại quốc tế.
2. Các bên trong hợp đồng không được loại trừ hay hạn chế nghĩa vụ này.
Như vậy, Nguyên đơn đã bày tỏ thiện chí khi gia hạn cho Bị đơn thêm 7
ngày để có thể tiếp tục hực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, Bị đơn lại không hề có phản

ứng gì, không điện hỏi Nguyên đơn, không đề xuất thời gian cụ thể cho việc gia
hạn mở LC. Rõ rang Bị đơn đã đi ngược lại với những yêu cầu về thiện chí và trung
thực.
4.4 Về việc phạt do không thực hiện hợp đồng
Bị đơn lấy lý do rằng Bị đơn xin huỷ hợp đồng đã được thông báo cho
Nguyên đơn trong một thời hạn hợp lý, cho nên việc làm này không gây thiệt hại
nào cho Nguyên đơn và việc Bị đơn không kịp mở L/C trong thời hạn quy định của
Hợp đồng và xin huỷ hợp đồng trong thời hạn này không cấu thành một sự vi phạm
chủ yếu đối với Hợp đồng đã ký nên Bị đơn không có nghĩa vụ phải bồi thường là
không thể chấp nhận.
Bởi khi hợp đồng có quy định tiền phạt cho việc không thực hiện hợp đồng
và không có quy định thêm gì khác thì bên không thực hiện hợp đồng phải nộp tiền
19
phạt cho bên kia, không phụ thuộc vào việc bên kia có bị thiệt hại hay không, bị
thiệt hại nhiều hay ít. Nếu muốn căn cứ vào việc có thiệt hại mới nộp phạt thì phải
qui định trong hợp đồng. Vì trong hợp đồng giữa Nguyên đơn và Bị đơn chỉ quy
định phạt 5% do không thực hiện hợp đồng nên trọng tài không xét tới bên Nguyên
có bị thiệt hại hay không và buộc Bị đơn thanh toán cho Nguyên đơn 18.544 USD
tiền phạt.
5 Ý kiến của nhóm về bài học rút ra cho doanh nghiệp Việt Nam
Khi đàm phán và thống nhất điều khoản thanh toán, các doanh nghiệp không
vì vội vàng ký kết, thực hiện hợp đồng mà chấp nhận các điều kiện có thể không có
lợi cho mình về khả năng thanh toán ( như các điều kiện về thời hạn, phương thức
thanh toán…). Trên thực tế, rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam khi mở L/C thường
có thói quen “nước đến chân mới nhảy”, do đó dẫn tới rủi ro không kịp mở L/C
theo đúng thời hạn yêu cầu của đối tác. Đây là một điều cần phải thay đổi.
Khi gặp các điều kiện khó khăn dẫn tới không thể thực hiện hợp đồng, cần
thiện chí và trung thực hợp tác với bên đối tác để giải quyết vấn đề, có thể xin gia
hạn thời gian thanh toán để kịp khắc phục sự cố hoặc trường hợp xấu nhất là xin
hủy hợp đồng và chấp nhận nộp đầy đủ mức phạt quy định trong hợp đồng nhằm

tránh các thiệt hại về uy tín và chi phí phát sinh khi bị khiếu nại. Như ở trường hợp
trên, rõ ràng phía bị đơn đã không tỏ rõ thiện chí trong việc thực hiện cũng như xin
hủy hợp đồng. Phía bị đơn đã căn cứ vào tư duy không hợp lý của mình cho rằng
hành động của mình là hợp pháp (như việc cho rằng phía Nguyên đơn ghi sai ngày
tức là họ làm sai, mình không phản hồi gì thì mình vẫn đúng; hay việc nói rằng
phía mình không nhận được fax sửa ngày ( không xác định được tính chân thực) thì
sẽ được chấp nhận là lý do chính đáng….) để rồi tự ý không thực hiện hợp đồng.
Việc làm thiếu thiện chí hợp tác đó đã khiến cho doanh nghiệp phía Việt Nam bị
thua thiệt khi ra tòa, cũng với đó là uy tín sẽ bị giảm sút. Không chỉ vậy, nếu như
20
những vụ việc như thế tiếp tục xỷ ra sẽ ảnh hưởng tới tất cả các doanh nghiệp Việt
Nam khác khi tham gia vào thanh toán quốc tế.
Các doanh nghiệp tham gia vào quan hệ thương mại quốc tế cần nắm rõ các
luật quy định, cần thỏa thuận và nêu rõ luật áp dụng điều chỉnh quan hệ hợp
đồng .Giả sử, trong tranh chấp trên, nếu trong hợp đồng thỏa thuận áp dụng luật
Anh Mĩ hoặc ủy ban trọng tài chọn áp dụng thì sự im lặng của bên Nguyên đơn
được coi là đồng ý và Bị đơn vẫn có quyền hủy hợp đồng. Trong bản án nêu trên,
không thấy nói rõ về phần quy định luật điều chỉnh, tuy nhiên ta có thể thấy việc
nêu nguồn luật điều chỉnh trong hợp đồng là vô cùng quan trọng giúp doanh nghiệp
nắm rõ hơn vị thế của mình khi tham gia thực hiện hợp đồng cũng như khi tranh
tụng.
21
CHƯƠNG III: Ý KIẾN ĐỀ XUẤT VỀ VIỆC HẠN CHẾ RỦI
RO PHÁP LÝ TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ
I.Kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước (NHNN) và các cơ quan
quản lý vĩ mô
1. Hoàn thiện chính sách kinh tế của nhà nước, tạo môi trường pháp lý hoàn
chỉnh cho hoạt động thanh toán quốc tế
Nhà nước cần tạo sự ổn định về môi trường kinh tế vĩ mô, tiếp tục hoàn thiện
các chính sách, pháp luật nhằm tạo dựng môi trường kinh tế thông thoáng, ổn định

và thuận lợi, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển phù hợp với yêu cầu của
các tổ chức kinh tế, các quy ước, định chế thương mại quốc tế mà Việt Nam tham
gia hoặc chuẩn bị tham gia.
Củng cố, phát triển và hoàn thiện môi trường pháp luật cho hoạt động thanh
toán quốc tế. Sớm hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật trong nghiệp vụ thanh
toán quốc tế của NHTM đáp ứng các yêu cầu mới của nền kinh tế. Các quy định
này cần được tiến hành từng bước phù hợp với tiến trình vận động của nền kinh tế,
đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo tính độc lập, đặc thù của nước
ta.
Hoàn thiện hoạt động thông tin phòng ngừa rủi ro trong hoạt động thanh
toán quốc tế cho toàn bộ hệ thống NHTM. Xây dựng một hệ thống công nghệ đảm
bảo thu thập được những thông tin quản trị cần thiết cho NH kịp thời để làm cơ sở
cho những quyết định kinh doanh NH.
22
2. Hoàn thiện hệ thống thông tin ngân hàng
Các NH của Việt Nam bắt đầu làm thanh toán quốc tế khi thanh toán quốc tế
đã phát triển rất mạnh mẽ trên thế giới, đặc biệt tại các quốc gia phát triển,vì vậy
việc xảy ra rủi ro pháp lý trong thanh toán quốc tế với doanh nghiệp kinh doanh
xuất nhập khẩu ở Việt Nam không hiếm gặp. Do vậy, NHNN cần lập kế hoạch cho
việc hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin của ngân hàng để theo kịp với tiêu
chuẩn quốc tế, nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán quốc tế, từ đó giảm thiểu rủi
ro khi thực hiện thanh toán quốc tế. Hiện nay, công nghệ thanh toán của các ngân
hàng thương mại Việt Nam còn chưa cao, tính đồng bộ còn thấp , chưa được cập
nhật thường xuyên, độ mở chưa được chú ý một cách đúng mực. Vì vậy vẫn chưa
đáp ứng được sự gia tăng của hoạt động ngoại thương trong nền kinh tế. Hệ
thống ngân hàng cần phải xem xét để thống nhất một hệ thống thông tin thanh toán
thống nhất, tạo điều kiện sử dụng dịch vụ ngân hàng chất lượng cao cho tất cả các
khách hàng của toàn hệ thống.
3. Củng cố và phát triển quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài
Hệ thống đại lý có vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng và phát triển

quan hệ đại lý, đưa ngân hàng ra khỏi phạm vi quốc gia hoà nhập với toàn thế giới.
Các ngân hàng Việt Nam hiện nay đặc biệt phải phát triển quan hệ đại lý đối với
các thị trường chiếm một tỷ trọng lớn trong hoạt động ngoại thương của Việt Nam
như: Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc và các nước ASEAN… và thị trường châu
Phi cũng cần được lưu ý tới. Thông qua ngân hàng đại lý, tìm hiểu thông tin về
khách hàng,xác thực khách hàng cũng như hiểu rõ hơn về tập quán thanh toán tại
khu vực đó để có thế thực hiệp chính xác nhất nghiệp vụ thanh toán quốc tế, hỗ trợ
cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam tránh được những rủi
ro pháp lý đáng tiếc .
Việc ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam- Vietinbank mở
chi nhánh tại thành phố Frankfurt – Đức vào ngày 6/9/2011 là một bước tiến lớn
23
trong quá trình cải thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán quốc tế của
Vietinbank nói riêng và của các ngân hàng thương mại của Việt Nam nói chung.
Đây có lẽ là chi nhánh đầu tiên của một ngân hàng thương mại của Việt Nam tại
khu vực châu Âu, việc khai trương chi nhánh này tạo điều kiện xây dựng niềm tin
của các khách hàng nước ngoài với các doanh nghiệp Việt Nam, từ đó hy vọng sẽ
góp phần giảm thiểu các rủi ro pháp lý cho doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia
vào thương mại quốc tế.
4. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ nhân viên thanh toán quốc tế
Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay có một đội ngũ cán bộ công nhân
viên trẻ tuổi, năng động và tài năng. Tuy nhiên do đặc thù của ngành ngân hàng yêu
cầu cao về trình độ công nghệ thông tin và ngoại ngữ nên đội ngũ của nghành ngân
hàng vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu hội nhập ngày càng cao của nền kinh tế.
Với lực lượng nhân viên thanh toán quốc tế tuy có những biến chuyển tích
cực trong thời gian gần đây nhưng vẫn cần phải được bổ sung liên tục cả về nghiệp
vụ, trình độ ngoại thương, kiến thứ pháp luật , đạo đức nghề nghiệp và ý thức
phòng tránh rủi ro cũng như cần phải có kế hoạch đào tạo nhân viên nâng cao năng
lực công nghệ và trình độ ngoại ngữ. Rủi ro pháp lý có thể được hạn chế một cách
hữu hiệu nếu NHNN có những cơ chế giúp đảm bảo về trình độ, năng lực và phẩm

chất của đội ngũ nhân viên thanh toán quốc tế- những người trực tiếp làm nghiệp
vụ thanh toán với đối tác ( doanh nghiệp hoặc ngân hàng) nước ngoài. Việc thường
xuyên tổ chức hội thảo hay các lớp đào tạo ngắn ngày về thanh toán quốc tế là một
trong những biện pháp NHNH có thể áp dụng để giúp nhân viên làm thanh toán
quốc tế được cập nhập những thông tin mới nhất về thanh toán quốc tế cũng như
có cơ hội để trao đổi kinh nghiệm về nghiệp vụ về cách xử lý tình huống thực tế
trong thanh toán quốc tế.
II Kiến nghị đối với Doanh Nghiệp
1. Nâng cao nhận thức về pháp luật
24
Điểm yếu của nhiều doanh nghiệp Việt Nam là thiếu kinh nghiệm giao dịch
trên thị trường quốc tế. Phần lớn không xem xét kỹ hoặc hiểu hết những rủi ro về
luật pháp có thể xảy ra từ những điểm chưa rõ ràng trong hợp đồng xuất nhập khẩu.
Nếu không biết rõ về tình hình kinh tế chính trị của những nước đối tác do chính
sách của họ thay đổi thường xuyên, doanh nghiệp xuất nhập khẩu vào thị trường đó
dễ bị rủi ro. Cũng còn nhiều quốc gia hiện có chính sách, luật lệ không rõ ràng.
Ngoài ra, còn không ít nghiệp vụ mới đang gây tranh cãi giữa các quốc gia về thanh
toán quốc tế.
Trong thương mại quốc tế, doanh nghiệp thường gặp các loại rủi ro pháp lí
cơ bản như: rủi ro liên quan đến quá trình đàm phám, giao kết và thực hiện hợp
đồng, rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế, rủi ro trong bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ, các vụ kiện chống bán phá giá Khi giao dịch, doanh nghiệp có hàng loạt
nguy cơ tiềm tàng như rủi ro liên quan đến các quy định về xác lập quyền và
chuyển dịch quyền sở hữu, quyền quản lý tài sản theo pháp luật nước ngoài, rủi ro
liên quan đến các vấn đề về sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu, thương hiệu, sáng chế, bí
quyết kỹ thuật, chuyển giao công nghệ Ngoài ra còn có các rào cản thương mại
và kỹ thuật, các thỏa thuận về thuế, đặc biệt là việc hiểu và áp dụng pháp luật và
thông lệ quốc tế cũng như các thỏa thuận song phương và đa phương giữa các quốc
gia Thực tế cho thấy sự đa dạng, khác nhau thậm chí là đối lập trong các quy định
pháp luật giữa các nước đã gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam.

Vì vậy các doanh nghiệp phải tự nâng cao nhận thức của mình về pháp luật
thương mại quốc tế, chủ động tìm hiểu về những quy định pháp lý liên quan đến
xuất nhập khẩu tại các thị trường lớn để đưa ra cho mình những đối sách hợp lí.
2. Nâng cao năng lực đội ngũ doanh nghiệp Việt Nam
Thực tế hoạt động giao thương trên thị trường quốc tế cho thấy những yếu
kém trầm trọng của đội ngũ doanh nghiệp Việt Nam. Trong khi đàm phán và thống
nhất các vấn đề liên quan đến điều khoản thanh toán, các doanh nghiệp vì nóng vội
25

×