Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Luận văn thạc sĩ - Nghiên cứu khả năng trồng bằng hạt loài cỏ Xoan Halophila ovalis trong phòng thí nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 58 trang )

1
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học, tôi đã nhận được sự hướng dẫn và
góp ý nhiệt tình của quí thầy cô thuộc Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật
(thuộc Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) và trường Đại học
Thái Nguyên.
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Đàm Đức Tiến đã dành rất
nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn khoa học và giúp tôi hoàn thành luận
văn tốt nghiệp.
Đồng thời, tôi xin cảm ơn quí anh, chị đồng nghiệp và ban lãnh đạo
Viện Tài nguyên và Môi trường biển (thuộc Viện Hàn Lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam) nơi tôi công tác, đã tạo điều kiện thời gian và cơ sở vật
chất để hoàn thành những nội dung nghiên cứu.
Xin gửi lời cảm ơn đến đề tài cơ sở: “Nghiên cứu khả năng trồng bằng
hạt loài cỏ Xoan (Halophila ovalis (R. Br.) Hooker, 1858) ở phòng thí
nghiệm”; đề tài: “Nghiên cứu hiện trạng môi trường, biến động nguồn lợi, đa
dạng sinh học hệ sinh thái vùng triều ven biển miền Bắc Việt Nam (từ Quảng
Bình trở ra), đề xuất mô hình khai thác, nuôi trồng, bảo tồn và quản lý bền
vững” và dự án: “Điều tra các loài thực vật thủy sinh biển có khả năng hấp
thụ CO
2
giảm hiệu ứng nhà kính, chống biến đổi khí hậu” đã tạo điều kiện
công tác và tài trợ kinh phí cho tôi khảo sát để có dữ liệu viết luận văn.
Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự nhiệt
tình và năng lực của mình, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong nhận được những đóng góp quí báu của quí thầy cô và các bạn.
Hà Nội, tháng 12 năm 2013
Học viên
LỜI CAM KẾT
2
Tôi xin cam kết đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,


kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa được các tác giả khác công
bố trong bất kỳ công trình nào.
Tôi xin cam kết mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ nguồn
gốc.
Học viên thực hiện Luận văn


















3
MỤC LỤC
trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam kết

Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các hình
MỞ ĐẦU 1
Chương I – TỔNG QUAN 4
1.1. Tình hình nghiên cứu cỏ biển trên thế giới 4
1.2. Tình hình nghiên cứu cỏ biển ở Việt Nam 13
1.3. Khái niệm và đặc điểm hình thái của cỏ biển 16
1.4. Vai trò của cỏ biển 18
1.5. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, môi trường sống của Cỏ biển 18
1.5.1. Chất đáy 18
1.5.2. Độ muối 20
1.5.3. Nhiệt độ 20
1.5.4. Độ đục 20
1.5.5. Ánh sáng 21
1.6. Một số đặc điểm tự nhiên vùng nghiên cứu 21
Chương II – ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 23
2.1. Đối tượng nghiên cứu 23
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 24
2.3. Tài liệu nghiên cứu 25
2.4. Phương pháp nghiên cứu 25
2.4.1. Nghiên cứu thực địa 25
4
2.4.1.1. Thu mẫu sinh học cỏ biển 25
2.4.1.2. Thu hạt cỏ biển 26
2.4.2. Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm 27
2.4.2.1. Phương pháp định loại 27
2.4.2.2. Ươm hạt cỏ biển 27
2.4.2.3. Trồng cỏ biển 28
2.4.2.4. Phân tích trầm tích 29

2.4.2.5. Quan trắc một số yếu tố môi trường 29
2.4.2.6. Xử lý số liệu 29
Chương III – KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 30
3.1. Đặc điểm hình thái của loài cỏ Xoan trong đầm nuôi thủy sản 30
3.1.1. Thân 30
3.1.2. Rễ 30
3.1.3. Lá, phiến lá 31
3.1.4. Vảy lá 31
3.1.5. Hoa 32
3.1.6. Quả và hạt 32
3.2. Một số đặc điểm sinh thái của loài cỏ Xoan 33
3.2.1. Một số thông số môi trường trong đầm nuôi 33
3.2.1.1. Nhiệt độ nước 34
3.2.1.2. Cường độ ánh sáng 34
3.2.1.3. Nồng độ muối 34
3.2.1.4. Nền đáy 35
3.2.2. Sự biến động theo mùa của cỏ biển trong đầm nuôi 36
3.2.2.1. Phân bố và diện tích 36
3.2.2.2. Biến động các chỉ tiêu sinh lượng 37
3.2.3. Mùa ra hoa của cỏ Xoan 42
5
3.3. Khả năng nảy mầm của hạt cỏ Xoan 43
3.3.1 Kết quả thu hạt 43
3.3.1.1. Thu trực tiếp trên cây 43
3.3.1.2. Thu trong trầm tích 43
3.3.2. Kết quả ươm hạt 44
3.3.3. Kết quả gieo trồng 45
3.3.3.1. Hình thái 45
3.3.3.2. Tỷ lệ sống 46
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 47

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO 50
PHỤ LỤC 57












6
DANH MỤC BẢNG
trang
Bảng 1.1. Phân bố cỏ biển với đặc điểm chất đáy 19
Bảng 3.1. Một số so sánh về kích thước thân cỏ Xoan
33
Bảng 3.2. Kết quả phân tích chất đáy
35
Bảng 3.3. Các thông số điển hình về sinh lượng cỏ Xoan
37
Bảng 3.4. Kết quả thu hạt trực tiếp
43
Bảng 3.5. Kết quả thu hạt trong trầm tích
44
Bảng 3.6. Tỷ lệ sống của hạt mầm ở các giai đoạn

46















7
DANH MỤC CÁC HÌNH
trang
Hình 1.1. Hình thái chung của cỏ biển
17
Hình 2.1. Hình thái cỏ Halophila ovalis (R. Br.) Hooker, 1858
23
Hình 2.2. Sơ đồ vùng nghiên cứu
24
Hình 2.3: Cách đo kích thước chồi cỏ
27
Hình 2.4. Bố trí thí nghiệm ươm hạt
28
Hình 3.1. Hình thái chung của thân cỏ Xoan

30
Hình 3.2. Hình thái rễ
31
Hình 3.3. Hình thái lá
31
Hình 3.4. Hính thái vảy lá
32
Hình 3.5. Hình thái hoa
32
Hình 3.6. Hình thái quả và hạt cỏ Xoan
33
Hình 3.7. Diễn biến của một số thông số môi trường
34
Hình 3.8. Phân bố của cỏ Xoan
36
Hình 3.8. Biểu đồ diễn biến giữa độ phủ và diện tích phiến lá
39
Hình 3.9. Mối tương quan giữa mật độ chồi và sinh lượng cỏ Xoan
40
Hình 3.10. Biến động tỷ lệ sinh khối trên và sinh khối dưới
40
Hình 3.11. Mối tương quan giữa tỷ lệ skt/skd mặt đất với mật độ chồi
41
Hình 3.12. Biến động số lượng chồi hoa
43
Hình 3.13. Biểu đồ tỷ lệ nảy mầm ở các độ muối
45
Hình 3.14. Giai đoạn phát triển khác nhau của hạt mầm
46




8
MỞ ĐẦU
Cỏ biển (Seagrass) là nhóm thực vật bậc cao (ngành Anthophyta, lớp
Monocotyledons, bộ Helobiae), sống trong môi trường nước mặn và lợ. Hệ
sinh thái cỏ biển (Seagrass ecosystem) là một trong những hệ sinh thái điển
hình của vùng biển nhiệt đới (cùng với san hô và rừng ngập mặn), có năng
suất sơ cấp cao, khả năng ổn định nền đáy, tổng hợp các chất hữu cơ từ vô cơ,
tham gia vào chuỗi thức ăn, chu trình dinh dưỡng và là nơi sống cho nhiều
loài sinh vật có giá trị kinh tế cao. Ngoài ra, trên các thảm cỏ biển, con người
thu được nhiều lợi ích trực tiếp và gián tiếp khác nữa [6].
Cho đến nay, tại các vùng ven biển Việt Nam đã phát hiện được khoảng
14 loài cỏ biển, trong đó có loài cỏ Xoan - Halophila ovalis (R. Br) Hook. f.
(thuộc chi Halophila, họ Hydrocharitaceae). Về hình thái, loài cỏ Xoan tương
đối giống rong biển (các loài thuộc chi Caulerpa) nhưng thực chất lại hoàn
toàn khác ở chỗ cỏ biển là thực vật bậc cao có thân, rễ, lá, hoa và quả [8], [9],
[11].
Chi Halophila là một trong số ít các chi có liên quan tới nguồn gốc xuất
hiện sớm nhất của cỏ biển trong quá trình tiến hóa [19]. Halophila có khả
năng tồn tại ở những vùng luôn bị tác động, ánh sáng yếu và độ đục cao.
Halophila có vùng phân bố rộng và giữ vai trò “tiên phong” trong khả năng
mở rộng những vùng biển sâu hơn với các loài khác [62]. Ở Việt Nam, chi
Halophila có 4 loài, phân bố tương đối rộng và cỏ Xoan Halophila ovalis là
một loài cỏ biển nhiệt đới phân bố ở các vùng triều và cả vùng nước sâu [19],
[38], [62] có sinh khối thấp so với các loài khác [17], nhưng lại có chu kỳ sinh
trưởng nhanh hơn các loài các bởi kích thước nhỏ bé của chúng [22], [62].
Chịu nhiều tác động (nơi có nhiều hoạt động của con người (như đổ thải, khai
hoang lấn biển, xây dựng, v.v) và các tác động bất lợi từ thiên nhiên (như
sóng, dòng chảy, phù sa, v.v) nên diện tích phân bố ngày càng bị thu hẹp. Tại

một số vùng trước kia có cỏ Xoan thì đến nay hầu như không còn nữa [9].
9
Ở các vùng ven biển Đông Nam Á, các nghiên cứu cho thấy các thảm cỏ
biển đang dần biến mất. Ở Indonesia khoảng 30 - 40% các thảm cỏ biển bị
mất trong khoảng 50 năm qua, trong đó riêng ở Java bị mất khoảng 60% [58].
Ở Philippin các thảm cỏ biển bị mất khoảng 30 – 50%, còn ở Thái Lan, con số
này khoảng 20 – 30%. Việt Nam cũng không nằm ngoài tình trạng trên với
50% tổng diện tích cỏ biển đã biến mất trên khắp các vùng ven biển cả nước
[6].
Cát Hải là một huyện đảo thuộc thành phố Hải Phòng. Trong những
năm trước đây (trước 1995), có thể thu được mẫu cỏ Xoan tại nhiều nơi (trong
và ngoài đầm nuôi trồng hải sản) nhưng đến nay, cỏ Xoan chỉ còn thấy trong
một số đầm nuôi. Kết quả nghiên cứu về cỏ biển (nói chung) và cỏ Xoan (nói
riêng) ở nước ta chưa nhiều và tại Cát Hải thì hầu như chưa có. Một vài công
trình về cỏ biển tại Cát Hải chủ yếu nghiên cứu về thành phần loài, phân bố
chưa nghiên cứu về đặc điểm sinh học, mùa vụ, sinh sản, [1], [10].
Việc phục hồi các hệ sinh thái trên cạn đã được nghiên cứu từ lâu và
đang có một số kết quả khá tốt, nhưng phục hồi các hệ sinh thái dưới nước,
nhất là ở biển mới chỉ được bắt đầu trong vài thập niên gần đây. Phục hồi hệ
sinh thái cỏ biển còn gặp khó khăn hơn nhiều do cỏ biển thường phân bố tại
các vùng nước nông ven bờ, nơi có nhiều hoạt động của con người (như đổ
thải, khai hoang lấn biển, xây dựng, v.v) và các tác động bất lợi từ thiên nhiên
(như sóng, dòng chảy, phù sa, v.v). Một khó khăn nữa khi trồng phục hồi cỏ
biển bằng chồi là kinh phí rất tốn kém, khó thực hiện trên diện rộng vì không
đủ nguồn giống cung cấp và hiệu quả thấp. Hơn nữa, phương pháp trên còn
làm ảnh hưởng không nhỏ tới bãi cỏ biển hiện có. Việc trồng bằng hạt các
loài cỏ biển có rất nhiều ưu thế và có thể trồng được trên diện tích rộng,
nhưng việc trồng phục hồi các thảm cỏ biển bằng hạt chưa được nghiên cứu
nhiều hoặc mới ở mức ý tưởng.
Kết quả nghiên cứu về một số đặc điểm sinh học, sinh thái, biến động

10
theo mùa, khả năng cho nảy mầm hạt loài cỏ Xoan sẽ góp phần quan trọng
không những trong việc bổ sung những hiểu biết chung về hệ sinh thái cỏ biển
mà còn có ý nghĩa rất lớn trong việc trồng phục hồi loài này ngoài tự nhiên.
Chính vì thế, chúng tôi đã chọn đề tài: “Đặc điểm sinh học loài cỏ Xoan -
Halophila ovalis (R.Br.) Hook. f. trong đầm nuôi thủy sản huyện Cát Hải -
Hải Phòng và khả năng nảy mầm của hạt trong phòng thí nghiệm” làm báo
cáo cho luận văn tốt nghiệp cao học.




















11
Chương I - TỔNG QUAN

1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Vào đầu thế kỷ 20, với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học sinh
học, lần đầu tiên cỏ biển đã được các nhà khoa học nghiên cứu tại trạm Sinh
thái học Copenhagen, Đan Mạch. Ngay sau đó, đã đạt được những thành tựu
đáng kể. Trong đó, Ostenfeld (1905) và Pertersen và Boyer - Jensen (1905) là
những người đã bước đầu mở rộng việc nghiên cứu sinh thái trên cỏ lươn
[52], [53]. Những đặc điểm sinh học và sinh thái của cỏ biển đã sự quan tâm
của các nhà khoa học ngay từ khi đối tượng này được biết đến. Đến nay, công
việc điều tra nguồn lợi biển này đã được mở rộng trên phạm vi toàn thế giới,
số lượng các công trình nghiên cứu đã và đang tăng lên một cách nhanh
chóng.
Công việc định loại của cỏ biển chủ yếu dựa vào đặc điểm hình thái của
các cơ quan trên cây, nhất là cơ quan sinh sản bởi ngay trong một chi các loài
thường có hoa khác nhau. Để làm được điều đó, phải kể đến Den Hartog
(1970), Phillips và Meñez (1988) là những nhà phân loại học cỏ biển. Họ đã
có những đóng góp to lớn trong việc nghiên cứu về sinh thái học cỏ biển.
Điều đó thể hiện ở hai cuốn sách về hệ thống phân loại: “Cỏ biển thế giới -
The seagrass of the world” của Den Hartog (1970) và “Cỏ biển - Seagrass”
của Phillips và Meñez (1988). Các nhà phân loại học đã đưa ra được những
đặc điểm cơ bản để phân loại cỏ. Hệ thống phân loại cỏ biển chủ yếu dựa trên
các đặc điểm chung giống như với thực vật có hoa khác như: cụm hoa, hoa,
quả, hạt, hệ gân lá, chất tanin, răng cưa ở mép lá và đỉnh lá [15], [53].
Xác định hệ thống phân loại cỏ biển là rất cần thiết, nó là tiền đề cho các
hướng nghiên cứu về cỏ biển ở các khía cạnh khác nhau của hệ thực vật biển
này. Do đó không thể chỉ dựa trên việc giải phẫu hình thái mà ngày nay người
ta còn dựa trên di truyền học, phân tích phân tử [29]. Đó là bước tiến mới
trong khoa học sinh học nói chung và trong nghiên cứu cỏ biển nói riêng.
12
Nhiều tác giả cũng đã có những bất đồng về số loài thuộc ba chi Halophila,
Zostera và Posidonia [29]. Quả thật, khi sử dụng phương pháp đánh dấu phân

tử Les và cộng sự (1997) nhận thấy sự khác biệt về di truyền giữa
Heterozostera và Zostera giống với các loài thuộc chi Zostera, điều đó cho
thấy 2 chi này nên xác định trong cùng 1 chi [36]. Nhưng cho đến nay, điều
này vẫn đang tiếp tục bàn luận và cần tiếp tục nghiên cứu. Cũng có thể do sự
phân bố của cỏ biển rộng khắp trên địa cầu, nên nó chịu tác động rất lớn của
điều kiện địa lý và có thể do điều kiện tự nhiên đã tác động đến hình thái
ngoài của cỏ biển. Vì vậy, nghiên cứu đặc điểm di truyền bộ nhiễm sắc thể
của chúng để phân loại là rất cần thiết. Và cần có sự kết hợp giữa hình thái
học và di truyền học để giải quyết các vấn đề còn tồn tại trong định loại cỏ
biển.
Năm 1950, đã có sự thay đổi trong hướng nghiên cứu về cỏ biển với
một báo cáo hoàn thiện về sự phân bố và sinh thái của cỏ biển ở bang Florida
(Mỹ). Sau bài báo này, nhiều nhà nghiên cứu bước đầu tập trung nghiên cứu
các thành phần trong hệ sinh thái cỏ biển nhiệt đới. Từ năm 1960 đến năm
1970 nghiên cứu cỏ biển đã rộng hơn về mô tả định tính và các nghiên cứu về
định lượng. Các quan niệm về hệ sinh thái cỏ biển đã được hoàn chỉnh và đẩy
đủ hơn. Một nghiên cứu đồ sộ về cỏ Lươn ở Alaska đã được hoàn thiện vào
năm 1966 bởi McRoy [53].
Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học cỏ biển, thì cần phải có sự
phối hợp, trao đổi kinh nghiệm và kiến thức giữa các nhà khoa học nghiên
cứu về cỏ biển. Do vậy, lần đầu tiên một cuộc hội thảo quốc tế được tổ chức
vào năm 1973 tại Leiden, Hà Lan, do Viện Khoa học Quốc gia Hà Lan tài trợ,
bao gồm 38 nhà khoa học từ 11 nước trên thế giới. Hội thảo này chủ yếu đưa
ra những kết quả và thảo luận về những nghiên cứu đã được thực hiện và
những ý kiến đóng góp về những vấn đề sẽ làm trong tương lai. Từ sau hội
13
thảo quốc tế này, số lượng các công trình nghiên cứu cỏ biển đã tăng lên
nhanh chóng ở nhiều nơi trên thế giới đặc biệt ở Nhật, Úc, Pháp, Hà Lan, Ấn
Độ, Canada, Papua New Guinea và Phillipine. Và cho đến năm 1978, các nhà
khoa học đã liệt kê được một thư mục sách tham khảo về nghiên cứu sinh thái

cỏ biển bao gồm hơn 1400 bài trên toàn thế giới [64]. Vào năm 1982, một
phân tích về cỏ biển ở Nam Florida đã bao gồm hơn 550 tài liệu tham khảo
[53]. Điều đó chứng tỏ rằng số lượng các nghiên cứu về cỏ biển đã tăng lên
nhanh chóng. Và từ cuộc hội thảo về hệ sinh thái cỏ biển lần thứ I ở Leiden,
Hà Lan cho đến nay, thì các cuộc hội thảo quốc tế về cỏ biển lần thứ II, III và
thứ IV nữa đã lần lượt được diễn ra. Vào năm 1998 - năm quốc tế đại dương,
hơn 100 nhà khoa học đã tập trung tại cuộc hội thảo cỏ biển lần thứ III được
tổ chức tại Philippine. Hội thảo về cỏ biển vào năm quốc tế đại dương đã
phản ánh được sự trưởng thành của khoa học cỏ biển và những tiền đề cho
việc quản lý hệ sinh thái quan trọng này và những việc cần làm trong tương
lai. Sự hợp tác chặt chẽ giữa các nhà khoa học trên thế giới, sự tạo lập một
mạng lưới nghiên cứu trên toàn cầu là mục tiêu của cuộc hội thảo quốc tế lần
thứ IV vào năm 2000 tại đảo Corsica, Pháp. Những cuộc hội thảo như vậy đã
thu hút được sự quan tâm của các nhà khoa học, nhất là các nhà khoa học trẻ
muốn đi sâu nghiên cứu hơn nữa.
Kiến thức về cỏ biển ngày càng được mở rộng và nâng cao thể hiện ở số
lượng các bài báo về cỏ biển được công bố ngày càng nhiều trên các tạp trí
lớn trên thế giới [20]. Trong những năm gần đây, mỗi năm đã có khoảng 100
bài báo được xuất bản, nhưng chủ yếu tập trung ở một số tạp trí lớn như:
Thuỷ sinh học (Aquatic Botany), Sinh thái học Biển (Marine Ecology
Progress Series) và Tạp chí Sinh học và Sinh thái Biển (Journal of
Experimental Marine Biology and Ecology). Tuy số lượng các công trình
nghiên cứu tăng lên nhưng chưa đồng đều. Các nghiên cứu chủ yếu tập trung
ở các nước phát triển, nhất là Châu Âu còn ở các nước đang phát triển thì cỏ
14
biển thực sự là một đối tượng mới mẻ, chưa được sự quan tâm đúng đắn của
các tổ chức chính phủ và phi chính phủ [20]. Vì vậy, trong những năm gần
đây, đã có nhiều dự án phối hợp giữa các nước có nền khoa học cỏ biển phát
triển với những nước đang phát triển nhằm đào tạo các nhà nghiên cứu trẻ cho
các nước này để tạo khả năng bảo vệ và quản lý nguồn lợi thực vật biển và để

có được một mạng lưới nghiên cứu hệ sinh thái cỏ biển hoàn thiện hơn trên
toàn cầu. Trong đó, Việt Nam cũng là một trong những nước Đông Nam Á
bước đầu đã có sự trao đổi sinh viên trong đào tạo về sinh thái cỏ biển với các
nước trong cộng đồng Châu Âu và các nước trong vùng có hệ sinh thái thực
vật biển này.
Trong các nghiên cứu về cỏ biển, các nhà khoa học đã nhận thấy ý nghĩa
sinh thái của sự biến động cấu trúc thân, rễ, tốc độ sinh trưởng và sự phân
nhánh của thân cỏ và các cơ quan khác. Vì vậy, đã có nhiều nghiên cứu tập
trung điều tra tỷ lệ sinh khối trên mặt đất (chồi lá và chồi hoa) và sinh khối
dưới mặt đất (rễ và thân) của cỏ biển. Trong đó, Verhagen và Nienhuis
(1983), đã mô tả sự thay đổi có tính mùa vụ của sinh khối trên mặt đất và sinh
khối dưới mặt đất của ở cỏ lươn bởi kỹ thuật đánh dấu trên lá [62]. Xác định
sinh khối (sinh khối trên và dưới mặt đất) của cỏ biển và đánh giá vai trò của
chúng trong hệ sinh thái là rất quan trọng [17], [51]. Trong đó hệ thân, rễ cỏ là
cơ quan giúp cây sinh sản vô tính, một thành phần quan trọng của hệ sinh thái
này. Tuy nhiên, Nelsson (1997) cho rằng sinh khối trên và tổng sinh khối có
mối liên quan chặt chẽ với nhau, nhưng sinh khối dưới thì không [48]. Kiểm
tra sinh khối dưới được coi như sự đánh giá khả năng đâm sâu vào trong nền
đáy của cỏ biển và điều đó cũng có thể được giải thích rằng các chồi mới sinh
ra cần năng lượng từ thân hơn là những chồi đã trưởng thành [17], [64]. Các
cơ quan bên dưới mặt đất giữ vai trò quan trọng trong dinh dưỡng, cố định và
phát triển của cỏ biển. Sự sinh trưởng và sự phân nhánh của thân ảnh hưởng
đến biến động, sinh trưởng và tồn tại của quần thể sinh sản vô tính [51]. Điều
15
đó rất cần thiết trong môi trường biển, nơi có nhiều tác động đến những biến
động của hệ thực vật là vô cùng quan trọng.
Bên cạnh sự duy trì và phát triển quần thể bằng cách sinh sản vô tính
bằng thân chồi, cỏ biển còn sinh sản bằng hạt. Cách đánh giá khả năng sinh
sản của cỏ biển là số lượng các cây con được nảy mầm từ hạt vào mùa ra hoa,
hay số lượng hạt từ cây mẹ. Những hạt ở trạng thái ngủ dài bị chôn vùi trong

nền đáy và có khả năng hình thành nguồn dự trữ mà cho phép nó nảy mầm
trong điều kiện thích hợp được gọi là ngân hàng hạt. Theo nghiên cứu của
Hootsmans và cộng sự (1987), hạt thường nảy mầm ở nhiệt độ cao và nồng độ
muối thấp, và sự nảy mầm sẽ giảm ở nhiệt độ thấp và nồng độ muối cao. Vì
vậy, có hiện tượng ngủ đông của hạt [30].
Việc thí nghiệm di trồng cỏ biển trong phòng thí nghiệm được tiến hành
từ rất lâu. Trước tiên là những thí nghiệm để tìm hiểu khả năng phát triển của
cỏ biển trong điều kiện môi trường được kiểm soát và sau đó là trồng cỏ trong
phòng thí nghiệm cho mục đích tìm hiểu khả năng ra hoa, tạo quả và lấy hạt.
Có thể nói Setchell (1924) [56] là người đầu tiên đã trồng cỏ Kim
(Ruppia maritima) trong các bể sinh cảnh. Sau đó, từ thập niên 60 trở đi, có
nhiều công trình nuôi cỏ biển như Fuss và Kelley (1969) và Kirkman (1989)
nghiên cứu trồng cỏ Thalassia testudium được 12 tháng trong bể nuôi có nước
biển chảy lưu thông [26], [32]. Họ đã lưu ý rằng thân ngầm của cỏ biển phát
triển chậm và đề nghị chỉ dùng phần nhỏ còn non ở đầu ngọn của thân ngầm
(có thân đứng) để trồng và họ cũng cho rằng nuôi cỏ ngoài trời, dưới ánh sáng
tự nhiên thành công hơn là nuôi trong điều kiện ánh sáng đèn. Các thí nghiệm
trồng cỏ biển ở quy mô trong phòng thí nghiệm được thực hiện bởi
McMillan[ 39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46] đã dùng bể nhựa dung
tích 500 lít. Kết quả là họ đã nuôi cỏ biển được 2 năm, họ đã nuôi thử nghiệm
các loài cỏ biển thường có hoa thuộc 10 chi cỏ biển khác nhau là: Thalassia,
Thalassodendron, Syringodium, Halodule, Halophila, Enhalus, Zostera,
16
Amphibolis, Posidonia và Cymodocea. Các thí nghiệm này được nuôi ngoài
trời và cả trong bể sinh cảnh (ánh sáng đèn điện), nhằm mục đích xem xét khả
năng phát triển thân ngầm, thân đứng, các sự biển đổi về hình thái và khả
năng ra hoa, quả. Các loại cỏ này được trồng từ cơ quan sinh sản sinh dưỡng
(thân đứng, thân ngầm) thu hái trong các thảm cỏ ngoài tự nhiên. Yếu tố chất
đáy rất quan trọng. Các thử nghiệm đã dùng nhiều loại chất đáy khác nhau.
Thí nghiệm có kết quả tốt nhất đối với chất đáy là cát mịn có nguồn gốc đá

vôi lục địa của bang Texas, cách vịnh Mexico khoảng 300 km. Sử dụng nước
biển nhân tạo có độ mặn 35‰ và ánh sáng nhân tạo được duy trì ở mức 8.000
– 40.000 lux. Nhiệt độ được điều chỉnh giống như điều kiện nơi lấy giống (18
- 30
0
C).
Orth và Moore (1983) đã kiểm tra sự nảy mầm của hạt thông qua số
lượng cây con thu được trong năm. Tại cùng Thái Bình Dương, số lượng hạt
nảy mầm cao nhất trong thời điểm từ tháng 4 đến tháng 7, trong khi ở vùng
biển Đại Tây Dương có hai giai đoạn hạt nảy mầm. Giai đoạn thứ nhất hạt
nảy mầm vào cuối thu, giai đoạn hai có khoảng 66% hạt nảy mầm từ tháng 12
đến tháng 3 năm sau. Các cây con rất dễ bị tổn thương, tỷ lệ sống là rất thấp
(xấp xỉ 2%) và cỏ biển có tỷ lệ sống dạng cổ chai trong suốt vòng đời của nó.
Nghĩa là có khoảng 10% cây trưởng thành ra hoa, 10% số hoa trên sẽ hình
thành quả, 1% - 10% số quả ấy có hạt hình thành và 1% - 10% số hạt trên sẽ
nảy mầm, 1% - 10% hạt nảy mầm phát triển thành cây con, cuối cùng chỉ có
10% số cây con trên phát triển trưởng thành và ra hoa [49].
Các yếu tố về hình dạng ngoài và các đặc điểm sinh thái, sinh lý của
từng loài quyết định phương pháp trồng chúng. Có 5 mục tiêu chính được đặt
ra cho việc nghiên cứu di trồng và trồng phục hồi thảm cỏ biển đó là:
- Độ phủ của các thảm thực vật biển
- Cân bằng diện tích bao phủ của các thảm thực vật và các diện tích phân
bố của chúng đã bị suy giảm hoặc mất đi
17
- Gia tăng diện tích của các thảm thực vật này nếu có thể
- Thay thế đúng loài chúng ta mong muốn vào các khu vực cỏ biển bị
mất đi
- Sau cùng là để bảo đảm sự đa dạng sinh học và phát triển các quần xã
động vật sống trong hệ sinh thái.
Có nhiều phương pháp di trồng cỏ biển nhưng tổng quát có thể tập hợp

thành 3 phương pháp chính [16]:
- Đào bứng thân đứng cùng với nguyên rễ và phần trầm tích còn dính với
rễ (phương pháp 1)
- Dùng hạt (phương pháp 2)
- Dùng thân đứng, thân ngầm không có rễ (phương pháp 3)
Ở phương pháp 1, có nhiều cách để lấy phần thân đứng với cùng nguyên
bộ rễ. Đối với những loài cỏ nhỏ có thể dùng ống nhựa hoặc ống kim loại cắm
xuống bùn để lấy, sau đó vận chuyển nguyên cả khối này đặt vào các hốc đã
đào sẵn ở nơi định di trồng. Thuận lợi của phương pháp này là một lượng lớn
thân ngầm còn nguyên rễ và trầm tích được di chuyển đến nơi trồng mới làm
cho cỏ biển dễ thích nghi và phát triển, tuy nhiên sự bất lợi của phương pháp
này là phải đào hố, làm đục nước, xáo trộn nơi cư trú sinh vật, có thể gây xói
lở, thêm vào đó rất tốn công.
Phương pháp 2, dùng hạt dễ dàng hơn nhờ việc thu thập các cây đã có
quả đã gần chín từ các bãi cỏ ngoài tự nhiên rồi giữ các cây này trong nước
biển cho đến khi hạt được phóng thích. Thuận lợi của phương pháp này là
một số lượng lớn hạt thu được, kiểm soát được nguồn giống, không gây xáo
trộn và việc trồng được dễ dàng, nhanh chóng trên một diện tích lớn. Tuy
nhiên bất lợi của phương pháp này là tác động cơ học của nước biển có thể
làm cho hạt cỏ bị vùi lấp, di chuyển.
Phương pháp 3, dùng thân đứng và phần thân ngầm không có rễ với các
đoạn ngắn từ 2 – 20 cm tuỳ loài. Các đoạn thân này có thể được trồng riêng lẻ
18
hay ghép thành nhóm. Có thể dùng một đoạn thép để cắm xuống nền đáy như
là một cái neo cài. Hoặc 5 - 6 cây có thể được buộc chung rồi neo cắm xuống
đáy bằng một đoạn thép.
Là thực bậc cao trong môi trường biển, khả năng sinh sản bằng hạt là
cách ưu việt trong việc bảo tồn giống cũng như việc phát tán và lan truyền các
thảm cỏ. Sự tạo hoa và quả của các loài cỏ biển phụ thuộc vào nhiều điều kiện
môi trường, chủ yếu là các yếu tố ánh sáng, nhiệt độ và độ mặn. Mc Millan

(1982), đã nghiên cứu thực nghiệm ở Taxas trong các điều kiện để cho các
loài cỏ biển phân bố ở miền Tây Đại Tây Dương và ấn Độ - Thái Bình Dương
có thể tạo hoa và quả. Các chi Halodule, Thalassia, Syringodium và
Halophila xuất hiện cơ quan sinh sản trong điều kiện chiếu sáng liên tục và
nhiệt độ từ 20 - 26
0
C. Một vài loài của chi Halophila chỉ ra hoa ở nhiệt độ
26
0
C [43].
Cỏ biển có tuổi thọ trung bình từ vài tuần đến hang chục năm, phụ thuộc
vào kích thước của từng loài. Những loài cỏ có kích thước lớn với thân dày, lá
rộng và rễ dày có thể sống rất lâu trong nhiều năm, nhưng những loài có kích
thước nhỏ thì thời gian sống ngắn hơn chỉ dưới một tháng. Do chu kỳ sống
của chúng rất ngắn, nên những loài cỏ có kích thước nhỏ thường có khả năng
tái sinh chồi rất nhanh, ví dụ kích thước cỏ Halophila ovalis nhỏ nhưng chu
kỳ sống của chúng chỉ khoảng vài tháng, còn Posidonia oceanica có thể sống
tới 11 năm [16].
Cấu trúc của cỏ biển còn phụ thuộc vào đặc điểm vùng phân bố. Các loài
có kích thước nhỏ thường mọc trên các vùng triều, còn cỏ có kích thước lớn
thường thấy ở vùng thấp triều và dưới triều. Thêm vào đó, cỏ trên nền đáy
nhiều cát có lá hẹp hơn cỏ trên nền đáy nhiều bùn. Hơn nữa, vùng nước nông
là nơi chịu ảnh hưởng của sự thay đổi môi trường nhiều hơn vùng nước sâu.
Thực vật sống ở vùng nước nông thường bị ảnh hưởng của ánh nắng mặt trời
nhiều, trong khi thực vật vùng nước sâu chỉ nhận được rất ít [38]. Nhưng khả
19
năng chịu tác động và khả năng phục hồi của thảm cỏ biển ở vùng nước sâu
rất khác với các quần xã cỏ biển ở vùng nước nông, chúng có khả năng chống
chịu trước những cơn bão nhưng khả năng phục hồi thì chậm chạp. Đây là
một đặc trưng rất điển hình đối với cỏ biển vùng nhiệt đới [63].

Cỏ biển là thực vật hạt kín sống hoàn toàn trong môi trường biển. Những
nhu cầu về sinh trưởng cũng giống với thực vật hạt kín trên cạn. Tuy nhiên,
trong môi trường biển cỏ biển vẫn có những khác biệt về một số đặc điểm đối
với thực vật sống trên cạn. Các nhà khoa học đều nhất trí rằng sự phân bố và
sự phát triển của cỏ biển bị tác động bởi các yếu tố môi trường. Tất cả những
biến đổi đó đều rất quan trọng đối với cỏ biển. Các yếu tố môi trường quan
trọng tác động lên các thảm cỏ biển như ánh sáng, độ đục, trầm tích Trong
đó, cỏ biển bị tác động mạnh bởi hai nhât tố chính là: ánh sáng và sự lắng
đọng trầm tích. Sự sinh trưởng và phát triển của cỏ biển chịu sự chi phối của
ánh sáng, một nhân tố quan trọng cho khả năng quang hợp của cỏ biển. Sự
phân bố theo độ sâu của cỏ biển chủ yếu phụ thuộc vào thời gian chiếu sáng
ngày. Vào thập kỷ trước, các nhà nghiên cứu cỏ biển đã tìm hiểu về khả năng
quang hợp của cỏ biển trong môi trường nước biển bị hạn chế ánh sáng. Các
tác giả đã đi sâu nghiên cứu sản lượng và sinh khối của cỏ và vai trò của chế
độ ánh sáng lên sự sinh trưởng của cỏ [38].
Khả năng quang hợp của cỏ biển đã được nghiên cứu trong phòng thí
nghiệm đối với các mức ánh sáng khác nhau [15]. Ánh sáng không chỉ bị chi
phối bởi độ cao triều và độ đục của nước, mà nó còn chịu ảnh hưởng bởi mật
độ thực vật biểu sinh sống bám trên bề mặt của phiến lá cỏ. Hiện tượng phì
dinh dưỡng ở vùng bờ biển Hà Lan đã phá huỷ các thảm cỏ biển Z. marina và
Z. noltii. Hiện tượng phì dinh dưỡng kết hợp với sự lắng đọng bùn làm giảm
ánh sáng khuyếch tán tới các thảm cỏ biển. Hạn chế sự phát triển của cỏ biển
cũng chính làm giảm các yếu tố bảo vệ cho nền đáy hay tăng sự xáo trộn nền
đáy vì vậy giảm ánh sáng là làm hạn chế sự phát triển của các thảm cỏ. Trong
20
giai đoạn từ năm 1968 đến 1981, hàm lượng chlorophyll tăng lên gấp đôi ở
vùng biển phía tây Hà Lan, và điều đó cũng ảnh hưởng đến thực vật biểu sinh
tăng nhanh. Tất cả những điều đó đã tác động tiêu cực đến sự quang hợp và
sự sinh trưởng của cỏ biển gây ra sự cạnh tranh về các-bon và nguồn dinh
dưỡng làm giảm sút chất lượng nguồn lợi cỏ biển [29].

Các loài cỏ biển có kích thước nhỏ thường rất dễ bị tổn thương dưới sức
ép của nước và sự lắng đọng trầm tích. Đó cũng là một trong những nguyên
nhân làm giảm khả năng phát triển diện tích một cách nhanh chóng của các
thảm cỏ biển ở vùng biển đông nam Châu Á [24]. Sự nhiễu loạn ở các vùng
biển cũng dẫn đến các thảm cỏ biển có hệ số đa dạng Shanon - Weaver thấp
hơn so với các tổ chức thực vật biển khác. Các thảm cỏ biển thường là đơn
loài, với hệ số đa dạng thấp nhất là 0. Chỉ số đa dạng Shanon - Weaver cao
(1,56) là thảm cỏ biển gồm 7 loài ở vùng biển Bolinao (Philippines), và chỉ số
lớn hơn 1 là vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương [29].
1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Việt Nam là một nước có vùng bờ biển dài hơn 3000 km thuộc vùng
biển Đông Nam Á, là nơi có sự đa dạng sinh học cao trên thế giới. Trong
những năm gần đây, Đông Nam Á được coi là vùng có khả năng phát triển
nền khoa học về cỏ biển nhanh bởi sự đa dạng về thành phần loài (nhất là
Philippines, có chỉ số đang dạng thuộc loại cao 1,56) [9]. Cũng như các vùng
bờ biển khác, Việt Nam cũng có các hệ sinh thái thực vật biển phong phú,
trong đó có hệ sinh thái cỏ biển. Tuy nhiên, những hiểu biết về hệ sinh thái
này vẫn còn hạn chế và chưa được sự quan tâm nhiều.
Việc phát hiện và nghiên cứu cỏ biển trước năm 1960 hoàn toàn do
người nước ngoài thực hiện. Năm 1885, Halophila ovalis đã được một người
nước ngoài tên là Balansa phát hiện thấy ở gần Quảng Yên. Năm 1939, Tsang
đã thu được một loài có phiến lá dài và mỏng ở Hà Cối - Quảng Ninh, đó là
phát hiện đầu tiên về loài Zostera japonica ở Việt Nam; hai loài Thalassia
21
hemprichii và Halodule pinifolia được tìm thấy ở Cửa Bé - Khánh Hoà vào
năm 1949 bởi chuyên gia cỏ biển tên là Deroux [9].
Từ những phát hiện bước đầu về sự có mặt của một số loài cỏ biển ở
vùng biển nước ta, những nhà khoa học trong nước cũng bắt đầu nghiên cứu
cỏ biển từ năm 1960 trở về đây. Phạm Hoàng Hộ đã ghi lại những phát hiện
về cỏ biển ở Qui Nhơn (1960) và ở Phú Quốc (1985) [9]. Tổng số 15 loài cỏ

biển được phát hiện từ trước đến nay, nhưng số lượng loài thay đổi giữa 3
miền (miền Bắc 5 loài, miền Trung 7 loài và nhiều nhất là ở miền Nam có 11
loài). Thành phần loài giữa các miền cũng khác nhau, có nhiều loài chỉ xuất
hiện tại một miền mà không có ở nơi khác.
Ở Việt Nam, các hoạt động gây mất hay suy giảm các thảm cỏ biển xảy
ra mạnh khoảng hai thập niên gần đây. Theo thống kê, diện tích các thảm cỏ
biển của nước ta đã giảm đi 40 – 60% (riêng ở vùng biển Hải Phòng, nơi mà
các hoạt động nuôi thủy sản, du lịch và xây dựng xảy ra mạnh mẽ, các thảm
cỏ biển này gần như đã biến mất) [1], [2], [3], [6], [9], [10].
Các loài cỏ biển đều có thể sinh sản bằng hạt (sinh sản hữu tính) và bằng
chồi (sinh sản sinh dưỡng). Cho đến nay, tại Việt Nam đã có nghiên cứu về
trồng phục hồi cỏ biển (trồng bằng chồi) và kết quả bước đầu đạt được còn
hạn chế, vì phần lớn các bãi cỏ biển được trồng phục hồi đều đã bị tàn phá bởi
con người và tự nhiên [1], [8].
Việc di trồng cỏ biển lần đầu tiên thực hiện với loài cỏ lá Dừa Enhalus
acoroides. Loài này đã được di trồng trong tự nhiên vùng Đầm Già, Hòn Tre,
vịnh Nha Trang về khu vực gần cảng Cầu Đá, Nha Trang, trong khuôn khổ
thử nghiệm nhỏ [1]. Khoảng 300 thân đứng cỏ Lá dừa được di trồng (Phương
pháp 2). Sau 2 năm chúng phát triển gần như tự nhiên với mật độ tăng gấp 3
lần, có nơi bao phủ đến 60%.
Việc thu quả đã già của cỏ lá Dừa (140 hạt) và cỏ Vích (180 hạt) ở Sông
Lô (vịnh Nha Trang) cho vào các bể thí nghiệm, sau 2 – 4 ngày hạt được giải
22
phóng. Số hạt trên được gieo trong các bể kính có kích thước 40 x 80 x 60
cm, đáy phủ một lớp bùn pha cát dày khoảng 20 cm có tỷ lệ bùn và cát là 1: 3
(bùn nhuyễn ở biển và cát mịn). Nước biển được để lắng trong và cho chảy
tràn liên tục qua bể từ 8 giờ sang đến 4 giờ chiều hằng ngày với khả năng có
thể thay được khoảng 200 lít/giờ (100% nước trong bể/ngày). Dùng ánh sáng
tự nhiên, có che lưới đen, mỏng để giảm bớt cường độ ánh sáng và nhất là
bức xạ nhiệt. Kết quả sau 10 ngày, hạt cỏ Vích nảy mầm với tỷ lệ 98,4% và

97,2% với cỏ Lá Dừa, các cây mầm khi được 15 ngày tuổi đều xuất hiện rễ và
có từ một đến ba lá. Sau ba tháng ươm nuôi ở điều kiện phòng thí nghiệm,
mật độ các cây mầm cỏ Vích là 927 cây/m
2
, cỏ lá Dừa là 708 cây/m
2
[1].
Tại Phân viện Hải dương học tại Hải Phòng (nay là Viện Tài nguyên và
Môi trường biển), Nguyễn Văn Tiến và cộng sự (1998) [7] đã có những
nghiên cứu về các loài cỏ biển ven bờ biển Việt Nam và ông đã đưa ra được
một bức tranh tổng quát về sự phân bố và thành phần cỏ biển nước ta, đặc biệt
là nghiên cứu cỏ biển ở vùng biển phía Bắc Việt Nam. Năm 2002, Nguyễn
Văn Tiến và cộng sự đã thử nghiệm trong việc trồng một số loài cỏ biển mang
từ miền Nam ra trồng tại miền Bắc, và đã thu được một số kết quả nhất định.
Đó cũng là những bước khởi đầu cho các nghiên cứu về hệ sinh thái quan
trọng này ở vùng biển Việt Nam. Tuy nhiên, do còn có những hạn chế nên
mới chỉ ở một số bài báo công bố. Vì vậy, những hiểu biết đầy đầy đủ về đặc
điểm sinh học và sinh thái của cỏ biển ở Việt Nam, nhất là những nghiên cứu
về sinh sản phục hồi vẫn còn những giới hạn nhất định.
1.3. Khái niệm và đặc điểm hình thái của cỏ biển
Cỏ biển là những thực vật bậc cao, có thân, rễ, lá, hoa, quả và phân bố
chủ yếu ở vùng biển ven bờ. Cỏ biển bao gồm khoảng 60 loài thuộc ngành
Anthophyta, lớp Monocotyledoneae, bộ Hydrocharitales, 2 họ
Potamogetonaceae và Hydrocharitaceae, chia thành 12 chi sống hoàn toàn
trong môi trường nước biển với nồng độ muối trung bình [60]. Các loài cỏ
23
biển có khả năng chịu được tác động của sóng và thuỷ triều bởi khả năng bám
chắc vào nền đáy hệ thống rễ phát triển và khả năng thụ phấn trong nước.
Do có hệ rễ phát triển và bám chặt trên nền đáy nên cỏ biển có khả năng
năng chịu được những tác động của dòng chảy và sóng biển. Vì sống ở vùng

nước nông ven bờ nên cỏ biển thích nghi rộng với các điều kiện sinh học, lý
hóa học và có vai trò quan trọng đối với nguồn lợi cũng như môi trường ven
biển. Là thực vật một lá mầm có hai hình thức sinh sản: vô tính và hữu tính.
Các quần thể được duy trì và phát triển chủ yếu nhờ sự phát triển của chồi.
Đặc điểm hình thái của các loài cỏ biển đã được C. Den Hartog [15] và C.
Phillips and G. Menez [53] mô tả và so sánh. Hầu hết cỏ biển có hình thái
ngoài khá giống nhau, bao gồm thân bò phân đốt, thân đứng, rễ, chồi mang lá,
hoa và quả tùy thuộc vào từng thời điểm sinh trưởng (hình 1.1). Về cấu trúc,
cỏ biển gồm các phần chính như sau:

Hình 1.1. Hình thái chung của cỏ biển
Thân:
Thân gồm có phần thân bò (thân ngầm) và chồi đứng (thân đứng). Thân
thường có dạng hình trụ tròn hoặc dẹp; chia nhánh theo kiểu đơn trục hoặc
không có qui luật. Trên thân bò có nhiều đốt, khoảng cách giữa các đốt là
24
lóng (gióng). Tùy loài mà thân bò mọc ngầm dưới lớp bùn (cát) đáy hoặc bò
lan trên mặt nền đáy. Từ đốt mọc lên một hay nhiều chồi đứng, mang các lá.
Rễ:
Rễ thường mọc ra từ phần dưới của thân bò, rễ của mỗi loài đều có đặc
điểm riêng (rễ đơn, phân nhánh) và mang lông hút.
Lá - phiến lá:
Lá hình thành từ mô sinh trưởng ở các mấu thân; có hình dải dài, ô van
hay trụ tròn. Phiến lá hầu hết đều mỏng, bề mặt phẳng, diện tích lớn, trừ cỏ
Năn biển (Syringodium isetifolium) có lá trụ tròn, tất cả các loài khác đều có
lá dẹp. Ngoài chức năng quang hợp, phiến lá còn có khả năng hấp thụ dinh
dưỡng và trao đổi khí. Lá cỏ biển còn là nơi sống bám của nhiều loài rong và
động vật không xương sống.
Bẹ lá:
Bẹ lá là phần cuống lá phình ra ôm lấy chồi đứng (thân đứng) và bọc lấy

những lá non đang phát triển. Bẹ lá có dạng lưỡi nhỏ, màu trắng do không có
lục lạp nên không có chức năng quang hợp.
Hoa, quả và hạt:
Hoa, quả và hạt là cơ quan sinh sản hữu tính của cỏ biển. Ở cỏ biển, một
số có hoa đực và hoa cái trên cùng một cây (lưỡng tính), số khác có hoa đực
và hoa cái riêng biệt trên mỗi cây (đơn tính). Quả được hình thành từ sự phát
triển của bầu sau thụ tinh (giao phấn) và mang các hạt bên trong. Hạt được
hình thành từ sự phát triển của noãn. Hoa, quả và hạt của mỗi loài tùy vào
điều kiện sống mà chúng có cấu trúc và hình dạng khác nhau.
1.4. Vai trò của cỏ biển
Cỏ biển có vai trò rất quan trọng và là một hệ sinh thái biển điển hình
của vùng biển Nhiệt đới [4] và có những vai trò chính như sau:
Vai trò điều chỉnh: những thảm cỏ biển có thể làm thay đổi các quá trình
sinh thái thủy vực, đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định vùng đới bờ,
25
góp phần chống xói lở vùng bờ biển. Chúng còn là chỉ thị sinh học và tham
gia làm sạch nước thải công nghiệp và sinh hoạt.
Vai trò cung cấp: nơi nuôi trồng, khai thác, nơi cư trú, bãi đẻ, bãi ương
giống, nguồn thức ăn của nhiều loài sinh vật thủy sinh.
Vai trò sản xuất: vật chất hữu cơ, nguồn gen, thực phẩm, nguyên liệu
công nghiệp và năng lượng.
Vai trò thông tin: nghiên cứu học tập, du lịch và giải trí.
1.5. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, môi trường sống của Cỏ biển
1.5.1. Chất đáy
Các loài cỏ biển khác nhau có thể phân biệt bởi sự thích nghi của chúng
với các loại chất đáy (bảng 1.1). Zostera japonica thường xuất hiện ở vùng
triều kín, cửa sông hay đầm phá nước lợ trên nền đáy bùn sét bột và bùn nhão.
Halophila ovalis, H. beccarii và Ruppia maritima phổ biến ở vùng triều ven
sông, đầm nuôi thủy sản với trầm tích bùn sét và vùng có nền đáy là cát nhỏ.
Một số loài có thể sống trên nền đá, ví dụ loài Phyllospadix spp. có thể mọc

trên nền đá ở vùng bờ biển Thái Bình Dương [29] và một số loài khác như
Posidonia oceanica và Thalassodendron spp. [35]. Tất cả những loài sinh
trưởng trên đá cần có bộ rễ cứng cáp, chúng có thể xâm nhập và bám chắc vào
các kẻ hở trên đá. Tuy nhiên, hầu hết các loài cỏ biển đều sinh trưởng trên nền
đáy cát, bùn nơi bộ rễ của chúng rất dễ dàng bám giữ vào nền đáy và tạo điều
kiện cho hạt cỏ nảy mầm. Ở những vùng có dòng chảy và sóng hoạt động
mạnh làm xáo trộn nền đáy, gây ra sự xói mòn làm tổn thương cỏ biển.
Bảng 1.1. Phân bố cỏ biển với đặc điểm chất đáy
Loại nền
đáy
Dạng nền
đáy
Loài cỏ biển đặc
trưng
Địa điểm
Bùn Bùn bột nhỏ

Zostera japonica
Đầm Buôn (Quảng
Ninh)

×