TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
LỜI MỞ ĐẦU
Xuất phát từ quan niệm về bản chất của con người và về phương thức xác
định bản chất của sự "tồn tại người" của triết học Mác, chúng ta có thể đi tới
một kết luận rằng nếu tự nhiên là cái nôi đầu tiên của sự hình thành và phát
triển con người thì văn hóa là cái nôi thứ hai. Nếu tự nhiên là cái quy định sự
tồn tại của con người với tư cách là một thực thể sinh vật, thì văn hóa là
phương thức bộc lộ, phát huy những năng lực bản chất người gắn liền với các
hoạt động sống của con người. Nói cách khác, văn hóa là sự kết tinh năng lực
bản chất người trong thế giới các sản phẩm do chính hoạt động con người tạo
ra, là cái quy định bản chất con người với tư cách là một "sinh vật có tính
loài" - là "một thực thể xã hội".
Chúng ta đang sống trong thập kỷ thế giới về văn hóa và phát triển
do UNESCO phát động. Vấn đề văn hóa trở thành trung tâm chú ý của giới
nghiên cứu trên thế giới. Ở nước ta, mấy năm gần đây, đặc biệt là từ khi bước
vào thời kỳ đổi mới, vấn đề văn hóa cũng được tập trung đề cập. Mặc dù góc
độ nghiên cứu, phương pháp tiếp cận có thể khác nhau nhưng người ta đều
nhất trí rằng văn hóa là một cái gì đó giúp cho con người "không bị đứt đoạn
với quá khứ", "không bị hẫng hụt trước tương lai", và là sự chuẩn bị đầy đủ
"hành trang của con người để bước vào thế kỷ XXI. Với ý nghĩa đó, sẽ không
thỏ đáng nếu những người nghiên cứu mácxít chúng ta lại không hình thành
được cho mình một phương hướng nghiên cứu (tiếp cận) vấn đề văn hóa theo
quan điểm triết học Mác. Đây là vấn đề có ý nghĩa thời sự về lý luận và thực
tiễn. Dưới đây là sự trình bày một vài suy nghĩ của tác giả với mong muốn
góp một phần nhỏ vào mối quan tâm chung đó.
Chính vì tầm quan trọng của văn hóa trong xã hội hiện nay, chúng em
đã chọn đề tài “ quan điểm của Mác Lênin về văn hóa, vận dụng quan
điểm của Mac để xây dựng tư tưởng lối sống trong sinh viên”
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Văn Tuấn MSSV: 11010703
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
NỘI DUNG
I. Sự ra đời của chủ nghĩa Mac - Lenin
Triết học Mác - Lênin ra đời từ nửa cuối thế kỷ XIX và phát triển cho đến
ngày nay. Từ khi ra đời, triết học Mác - Lênin đã tạo ra một cuộc cách mạng
trong lịch sử triết học và trở thành thế giới quan, phương pháp luận của hoạt
động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của con người.
- Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác. Nhìn chung, có hai
nguồn gốc ra đời của triết học là nguồn gốc tri thức và nguồn gốc xã hội. Đối
với triết học Mác thì nguồn gốc ra đời biểu hiện thành các điều kiện sau:
- Điều kiện kinh tế - xã hội.
+ Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
trong điều kiện cách mạng công nghiệp
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX do tác động của cuộc cách mạng trong
công nghiệp làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố vững chắc và trở thành xu thế phát
triển của nền sản xuất xã hội. Nước Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công
nghiệp và trở thành cường quốc công nghiệp. Ở Pháp, cuộc cách mạng công
nghiệp đang đi vào giai đoạn hoàn thành. Sự phát triển của lực lượng sản
xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản được củng cố tạo ra cơ sở kinh tế để
cho xã hội tư bản phát triển kèm theo đó mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt
và bộc lộ ngày càng rõ rệt; sự phân hóa giàu nghèo tăng lên, bất công xã hội
tăng. Những xung đột giữa giai cấp vô sản với tư sản đã phát triển thành
những cuộc đấu tranh giai cấp.
+ Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành
và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khi chế độ tư bản
chủ nghĩa được xác lập, giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội,
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Văn Tuấn MSSV: 11010703
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
giai cấp vô sản trở thành bị trị thì mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản vốn mang
tính đối kháng phát triển trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc khởi
nghĩa của thợ dệt ở thành phố Liông (Pháp) năm 1831 tuy bị đàn áp nhưng
lại bùng nổ tiếp vào năm 1834. Ở Anh có phong trào Hiến chương vào cuối
những năm 30 của thế kỷ XIX, là phong trào cách mạng to lớn có tính chất
quần chúng và có hình thức chính trị. Nước Đức nổi lên phong trào đấu tranh
của thợ dệt ở Xilêdi đã mang tính giai cấp.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai
cấp cách mạng. Ở Anh, Pháp giai cấp tư sản tuy nắm quyền thống trị, lại
hoảng sợ trước cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nên không còn là vị trí tiên
phong trong quá trình cải tạo dân chủ như trước. Còn giai cấp tư sản Đức
đang lớn lên trong lòng xã hội phong kiến, vốn đã khiếp sợ bạo lực cách
mạng khi nhìn vào tấm gương Cách mạng tư sản Pháp 1789, nay lại thêm sợ
hãi trước sự phát triển của phong trào công nhân Đức. Vì vậy, giai cấp vô sản
xuất hiện trên vũ đài lịch sử với sứ mệnh xoá bỏ xã hội tư bản và trở thành
lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và tiến bộ xã hội.
Như vậy, thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn của phong trào đấu tranh của
giai cấp vô sản đòi hỏi phải được soi sáng bởi một hệ thống lý luận, một học
thuyết triết học mới. Học thuyết đó phải xuất hiện để định hướng phong trào
đấu tranh nhanh chóng đạt được thắng lợi. Sự xuất hiện của giai cấp vô sản
trên vũ đài lịch sử và phong trào đấu tranh của họ đã tạo ra nguồn tư liệu quý
báu về thực tiễn xã hội để Các Mác và Ph. Ăngghen khái quát xây dựng
những quan điểm triết học.
-Nguồn gốc lí luận và tiền đề khoa học tự nhiên
Để xây dựng học thuyết của mình ngang tầm với trí tuệ nhân loại, Các
Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng nhân
loại. Triết học Đức với hai nhà triết học tiêu biểu Hêghen và Phoiơbắc là
nguồn gốc trực tiếp của triết học Mác. Các Mác và Ph.Ăngghen đã từng là
những người theo học triết học Hêghen và nghiên cứu triết học Phoiơbắc.
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Văn Tuấn MSSV: 11010703
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
Qua đó, hai ông đã nhận thấy: Tuy học thuyết triết học của Hêghen mang
quan điểm của chủ nghĩa duy tâm nhưng chứa đựng cái “hạt nhân hợp lý”
của phép biện chứng. Còn học thuyết triết học Phoiơbắc tuy còn mang nặng
quan niệm siêu hình nhưng nội dung lại thấm nhuần quan điểm duy vật. Các
Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa “hạt nhân hợp lý” của Hêghen và cải tạo, lột
bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng nên lí luận mới của phép biện chứng. Hai ông
đã kế thừa chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính siêu hình và
những hạn chế lịch sử khác của nó để xây dựng nên lí luận mới của chủ nghĩa
duy vật. Từ đó tạo ra cơ sở để hai ông xây dựng nên học thuyết triết học mới,
trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất một cách hữu
cơ.Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học với những đại biểu xuất sắc là
A.Smít và Đ.Ricácđô không những là nguồn gốc để xây dựng học thuyết
kinh tế mà còn là tiền đề lý luận để hình thành quan điểm triết học.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như
Xanh Ximông và S.Phuriê là một trong ba nguồn gốc lí luận của triết học
Mác. Các Mác và Ph.Ăng ghen đã kế thừa những quan điểm tiến bộ của chủ
nghĩa xã hội không tưởng.
II. Quan điểm của Mac – Lenin về văn hóa
Trong toàn bộ các tác phẩm kinh điển đồ sộ của mình, Mác không để lại
một tác phẩm nào với tư cách là sự trình bày hệ thống các quan điểm của
mình về văn hóa. Văn hóa không được Mác đề cập như một lĩnh vực nghiên
cứu chuyên biệt, độc lập. Nhưng toàn bộ tư tưởng của Mác về vấn đề này tự
nó lại được khái quát lên và thể hiện ra trong hệ thống các quan điểm duy vật
biện chứng của Mác về con người và xã hội. Trong triết học Mác, bản chất
của văn hóa được thể hiện trong mối quan hệ biện chứng với bản chất của
con người và xã hội.
Trong lịch sử phát triển lâu dài của triết học, bất kỳ trường phái, hệ
thống triết học nào, "nhất là của triết học hiện đại" (nói như Engen) cũng đều
phải giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề "mối quan hệ giữa tư
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Văn Tuấn MSSV: 11010703
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
duy và tồn tại". Điều đó cũng có nghĩa là bất kỳ triết học nào cũng đều phải
trả lời bằng cách này hay bằng cách khác câu hỏi tổng quát về vai trò của con
người đối với thế giới. Triết học Mác cũng xuất phát từ con người và trở lại
với con người. Con người trong triết học Mác là "cái xã hội". Con người
trước hết phải là một "thực thể tự nhiên", là con người "sinh học" với tư cách
là một bộ phận của giới tự nhiên, gắn bó chặt chẽ với tự nhiên và chịu sự quy
định của những quy luật tự nhiên. Mác nói "tự nhiên là thân thể vô cơ của
con người". Nhưng cái quy định bản chất của con người, cái tạo nên sự khác
biệt về chất có "tính tộc loại" để phân biệt con người với tư cách là một "thực
thể xã hội". Trong "Luận cương về Phoiơbắc (1845) Mác viết: " bản chất
con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội".
Trong nhiều tác phẩm của mình, Mác đã bàn đến "tính xã hội" của con người
(của bản chất con người) trong các hoạt động sống của họ như là những tiền
đề đầu tiên của sự tồn tại và sáng tạo. Như vậy, cái làm nên bản chất người,
cái tạo nên sự khác biệt giữa con người với bất kỳ giống loài nào của tự
nhiên, không có gì khác chính là những "hoạt động sống" của con người.
Trong "Bản thảo kinh tế - triết học" (1844) Mác viết: "Súc vật cố nhiên cũng
sản xuất nhưng súc vật chỉ sản xuất cái mà bản thân nó cần đến, sản xuất
một chiều; còn con người thì sản xuất một cách phổ biến; súc vật chỉ sản xuất
dưới sự thống trị của nhu cầu vật chất trực tiếp, trong khi đó con người sản
xuất ngay cả khi thoát khỏi nhu cầu vật chất, và chỉ khi thoát khỏi nhu cầu đó
thì mới sản xuất theo ý nghĩa chân chính của chữ đó; súc vật chỉ tái sản xuất
ra bản thân mình, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ tự nhiên". Như
vậy, nếu nói "hoạt động" thì con vật cũng hoạt động theo một nghĩa nào đó.
Nhưng sự khác biệt về chất giữa hoạt động của con người với hoạt
động của con vật là ở chỗ, con vật chỉ hoạt động theo thước đo và nhu cầu
giống loài của nó như là phương thức của tồn tại vật còn con người thì có thể
sản xuất theo thước đo của bất kỳ giống loài nào và ở đâu cũng có thể áp
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Văn Tuấn MSSV: 11010703
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
dụng thước đo thích dụng cho đối tượng, tạo nên sự khác biệt bản chất của
phương thức tồn tại người. Mác gọi những hoạt động sống của con người
(trong đó Mác nhấn mạnh "hoạt động sản xuất vật chất") là những hoạt động
có tính tộc loại của con người trong sự tồn tại phổ biến của nó, làm mở ra
những lực lượng bản chất của con người. Và do đó, bản chất hoạt động của
con người là "nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp"1. "Nhào nặn vật
chất theo quy luật của cái đẹp" - đó chính là năng lực bản chất đặc thù chỉ có
ở con người, gắn với mọi hoạt động của con người. Bởi vậy, có thể nói, sự
thể hiện, phát huy những năng lực bản chất người" - đó chính là văn hóa.
Trong đời sống hiện thực, con người bằng hoạt động "nhào nặn
vật chất theo quy luật của cái đẹp" đã chuyển bản chất của mình vào những
đối tượng do chính mình tạo ra, tạo nên một "thiên nhiên thứ hai" với tư cách
là "sự đối tượng hóa", "khách thể hóa" chính bản chất con người, mà trong
đó con người có thể "đối lập một cách tự do vứi sản phẩm của mình". Nhờ sự
sản xuất đó, giới tự nhiên biểu hiện ra là tác phẩm của nó (con người) và thực
tại của nó. "Thiên nhiên thứ hai" do con người sáng tạo bằng lao động sáng
tạo và tri thức của mình, kết tinh những giá trị tinh thần của nó - đó cũng
chính là văn hóa.
Xuất phát từ quan niệm về bản chất của con người và về phương thức xác
định bản chất của sự "tồn tại người" của triết học Mác (như đã trình bày ở
trên), chúng ta có thể đi tới một kết luận rằng nếu tự nhiên là cái nôi đầu tiên
của sự hình thành và phát triển con người thì văn hóa là cái nôi thứ hai. Nếu
tự nhiên là cái quy định sự tồn tại của con người với tư cách là một thực thể
sinh vật, thì văn hóa là phương thức bộc lộ, phát huy những năng lực bản
chất người gắn liền với các hoạt động sống của con người. Nói cách khác,
văn hóa là sự kết tinh năng lực bản chất người trong thế giới các sản phẩm do
chính hoạt động con người tạo ra, là cái quy định bản chất con người với tư
cách là một "sinh vật có tính loài" - là "một thực thể xã hội".
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Văn Tuấn MSSV: 11010703
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
Như vậy, văn hóa là khái niệm phản ánh tổng thể sự thể hiện
ra và sự phát huy những năng lực bản chất người trong tất cả các dạng thứ
tồn tại hoạt động của con người và là sự phản ánh tổng thể các hệ thống giá
trị do con người sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn - lịch sử - xã hội của
mình.
Khái niệm văn hóa được xác định trên hai phương diện:
- Phương diện thứ nhất: Văn hóa gắn với sự biểu hiện của phương
thức tồn tại người, là sự thể hiện đầy đủ nhất bản chất con người trong tất cả
mọi dạng hoạt động của con người như hoạt động thực tiễn, hoạt động nhận
thức, hoạt động giao tiếp, và cả những hoạt động có tính chất thể chất của
con người, v.v Như vậy là văn hóa có mặt trong mọi lĩnh vực: kinh tế,
chính trị, xã hội, quan hệ giao tiếp, ứng xử, đạo đức, lối sống và cả ở trong
mọi khía cạnh, mọi sự tồn tại tinh thần vô cùng đa dạng, phong phú của lĩnh
vực tư duy của con người. Nếu văn hóa là cái gắn với phương thức của sự tồn
tại người thì có thể nói một cách bao quát: Tất cả những gì có quan hệ với
con người (con người với tư cách là con người cá nhân và xã hội) và mọi
cách thức tồn tại của nó đều có liên quan với văn hóa. Không thể có sự tồn tại
các khái niệm "văn hóa tiêu cực", "sản phẩm văn hóa độc hại", "giá trị văn
hóa tiêu cực", v.v Đó chỉ có thể là những hiện tượng giả núp dưới hình thức
những ấn phẩm văn hóa hay các hoạt động văn hóa. Về thực chất, chúng xa
lạ đối với con người, và do vậy cũng xa lạ đối với văn hóa. Chúng tồn tại như
là những phạm trù đối lập dùng để chỉ những hình thức "tha hóa" của văn
hóa, như là cái "phản văn hóa", "phản giá trị".
Từ phương diện này có thể đi đến các khái niệm phát sinh như: văn
hóa chính trị, văn hóa pháp luật, văn hóa giao tiếp, văn hóa thẩm mỹ, trình độ
phát triển văn hóa, nhân cách văn hóa v.v
- Phương diện thứ hai của văn hóa bao gồm thế giới các giá trị
được kết tinh trong "thiên nhiên thứ hai" - với tư cách là sản phẩm của hoạt
động "mang tính tộc loại" của con người. Đây là một phương diện quan trọng
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Văn Tuấn MSSV: 11010703
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
và cơ bản quy định đặc điểm về nội dung và quy luật của sự phát triển có tính
đặc thù của văn hóa. Đó là đặc điểm về sự bảo tồn, duy trì, tích lũy các giá
trị; là sự phát triển trên cơ sở kế thừa, v.v Nói tới giá trị là nói tới mối liên
hệ không thể chia cắt được của văn hóa đối với con người. Trong mối quan
hệ này, con người tồn tại với tư cách vừa là chủ thể của thế giới văn hóa, vừa
là khách thể - sản phẩm của thế giới văn hóa, lại vừa là đại biểu mang giá trị
văn hóa do chính mình tạo ra. Cho nên, xét theo phương diện rộng (về mặt
chức năng), khái niệm "văn hóa" và "giá trị" là gần như trùng hợp. Có thể nói
rằng "giá trị", đó là sự thật của văn hóa và thực chất nó mang tính xã hội.
Giá trị có thể hiểu là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo ra và được tích lũy trong quá trình hoạt động thực
tiễn trong sự tương tác giữa con người và môi trường tự nhiên - xã hội. Văn
hóa, với cả hai phương diện: tổng hòa các giá trị và phương thức tạo ra các
giá trị, có thể được phân chia ra hai lĩnh vực là văn hóa vật chất và văn hóa
tinh thần. Sự phân chi này là nhằm mục đích phân biệt các sản phẩm có sự
tồn tại dưới hình thức vật thể(vật chất) như các công trình điêu khắc, kiến
trúc, hội họa các di tích văn hóa, các khu bảo tồn, bảo tàng, danh lam, thắng
cảnh, v.v với những sản phẩm văn hóa có sự tồn tại thuần túy tinh thần như
trình độ học vấn, trình độ nhận thức, trình độ phát triển khoa học, sự phát
triển tư tưởng, tình cảm, năng lực thẩm mỹ, năng lực thụ cảm (tiêu dùng) các
giá trị văn hóa và sáng tạo nghệ thuật, trình độ phát triển của ý chí, niềm tin,
lý tưởng, v.v Về thực chất, sự phân chia đó chỉ có ý nghĩa tương đối. Cái
gọi là "văn hóa vật chất" thực ra cũng chỉ là sự "vật chất hóa" các giá trị tinh
thần và bản thân các giá trị tinh thần thì không phải bao giờ cũng tồn tại
thuần túy tinh thần mà thường được "vật thể hóa" trong các dạng tồn tại vật
chất. Đó là cha kể đến những giá trị văn hóa tinh thần tồn tại tiềm tàng dưới
dạng "phi vật thể" nhưng vẫn mang tính tồn tại vật chất khách quan như văn
hóa trong các lĩnh vực quan hệ đạo đức, giao tiếp, ứng xử, trong phong cách
lối sống, phong tục tập quán, v.v
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Văn Tuấn MSSV: 11010703
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
Từ phương hướng tiếp cận vấn đề bản chất của văn hóa theo
quan điểm triết học Mác như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể có cách xác
định rõ hơn về nhiều vấn đề khác trong lĩnh vực văn hóa, như các vấn đề:
chức năng của văn hóa; văn hóa và phát triển; giao tiếp văn hóa; và sự hình
thành nhân cách; tiêu chí của phân loại văn hóa; phân biệt khái niệm "văn
hóa" với khái niệm "văn minh"; những vấn đề về bảng giá trị, về bản sắc văn
hóa, v.v
Về chức năng của văn hóa: Trong nhiều tài liệu nghiên cứu văn
hóa ở nước ta hiện nay có nói đến "chức năng nhận thức", "chức năng giáo
dục", "chức năng thẩm mỹ", "chức năng dự báo", v.v của văn hóa. Cũng có
người có cách đề cập khác về chức năng của văn hóa, như đưa ra chức năng
"hành lang an toàn" (với nghĩa tạo môi trường văn hóa thuận lợi cho sự tồn
tại và hoạt động của con người), chức năng "kìm hãm" (của yếu tố nội sinh
đối với yếu tố ngoại sinh trong sự "giao thoa" giữa các nền văn hóa), hay
chức năng "kẻ báo thù" (với nghĩa văn hóa tồn tại trong mối quan hệ biện
chứng với con người. Phá vỡ văn hóa cũng có nghĩa là phá vỡ chính bản thân
con người)v.v Có thể còn có rất nhiều cách đề cập khác nhau, các tên gọi
khác nhau về chức năng của văn hóa. Nhưng xuất phát từ cơ sở lý luận về
bản chất văn hóa của Mác ta có thể nêu lên luận điểm có tính chất khái quát
về chức năng của văn hóa: Chức năng của văn hóa là nhằm tạo ra được
những khả năng, những điều kiện và môi trường tối ưu nhất, phù hợp nhất
cho sự bộc lộ và phát huy (giải phóng) những năng lực bản chất người, làm
cho con người trở thành tốt hơn, đẹp hơn, hoàn thiện hơn, trở thành "người"
hơn trong mỗi giai đoạn phát triển lịch sử của mình. Chức năng của văn hóa
đã được Mác và Ăngghen khái quát trong luận điểm: Mỗi bước mà con người
tiến đến văn hóa là mỗi bước con người tiến đến tự do. Cách tiếp cận chức
năng văn hóa như vậy đồng thời cũng đã mở ra những vấn đề phương pháp
luận về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển xã hội và nhân cách.
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Văn Tuấn MSSV: 11010703
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
Nói văn hóa là nói tới con người, nói tới việc phát huy "những năng lực
bản chất" của con người nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Do
đó, khái niệm văn hóa hàm chứa trong nó tính chất nhân văn. Quan điểm của
Mác về văn hóa vì thế cũng đồng thời bao hàm cơ sở lý luận của sự hình
thành những chuẩn mực đánh giá các giá trị văn hóa. Cơ sở của mọi hoạt
động văn hóa là khát vọng hướng tới cái "Chân" - "Thiện" - "Mỹ" như là
chuẩn mực để đánh giá các thành tựu của sự phát triển văn hóa nhân loại, là
cái khung cơ bản, phổ biến trong các thang bậc giá trị. Bản chất con người là
biết hoạt động "theo quy luật của cái đẹp". Quy luật của cái đẹp theo quan
điểm của các nhà duy vật cổ đại, đó là "quy luật của sự hài hòa". "Sự hài
hòa" theo quan điểm triết học Mác cũng có nghĩa là "mâu thuẫn", nhưng là
mâu thuẫn thể hiện ở mức độ "cân bằng", "phù hợp", "ngang nhau" giữa các
mặt đối lập. Phá vỡ sự phù hợp, cân bằng ấy, cũng có nghĩa là phá vỡ sự hài
hòa, và do vậy cũng sẽ không còn là đẹp. Vận dụng quan điểm duy vật biện
chứng vào lý giải vấn đề văn hóa, lý giải hoạt động sản xuất ra các giá trị tinh
thần của con người là vấn đề mà chúng ta sẽ vẫn còn tiếp tục phải dầy công
nghiên cứu. Trong lĩnh vực văn hóa, quy luật của "sự hài hòa" bộc lộ trong
mối quan hệ biện chứng giữa Con người - Tự nhiên - Xã hội. Mối quan hệ đó
luôn có sự thể hiện ra một cách khác nhau trong quá trình phát triển cụ thể.
Vì thế, sự thống nhất "Chân - Thiện - Mỹ" với tư cách là cơ sở cho sự thống
nhất biện chứng đó cũng luôn luôn có sự thay đổi. Giá trị là có tính khách
quan, nó là sự thống nhất giữa cái khách quan và cái chủ quan. Chính vì thế,
sự thay đổi hệ thống các chuẩn mực đánh giá giá trị là sự thay đổi hoàn toàn
phù hợp quy luật. Quan điểm của Mác đã giúp ta nhìn nhận một cách tỉnh táo
về vấn đề này và thật sự cần phải có sự nghiên cứu toàn diện, nghiêm túc về
sự thay đổi các thang bậc giá trị trong điều kiện những biến đổi về kinh tế -
xã hội trong thời kỳ đổi mới.
Suy cho cùng, nếu xét sự thống nhất "Chân - Thiện - Mỹ" với tư
cách là chuẩn mực của mọi hoạt động văn hóa (trong đó có hoạt động đánh
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Văn Tuấn MSSV: 11010703
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
giá), thì về mặt ý nghĩa của nội dung là hoàn toàn phù hợp, đúng đắn. Nhưng
sự tồn tại của bản thân những phạm trù ấy vẫn không hoàn toàn thoát khỏi
"những trừu tượng chủ quan". Cái gốc (chuẩn mực) của sự đánh giá giá trị
văn hóa, dù được trình bày dưới các phạm trù nào, hay dưới hình thức nào,
thì nó vẫn phải được xác định bởi sự phù hợp của nó với những mục đích vì
con người, nhằm phát triển con người và vì tiến bộ xã hội trong mỗi một giai
đoạn và vì tiến bộ xã hội trong mỗi một giai đoạn phát triển lịch sử cụ thể.
Có thể hiểu vấn đề đó trong luận điểm của Mác" Mỗi con người đều mang
trong mình bản chất của một Raphaen Và bản chất của một Raphaen đó
"cần phải được tự do phát triển".
Tóm lại, văn hóa là một hiện tượng vô cùng phong phú và phức
tạp. Nó luôn mở ra một phạm vi rộng lớn và ở rất nhiều tầng bậc cho sự
nghiên cứu. Có thể nói như cách nói của một nhà triết học phương Tây hiện
đại (J. Đeriđa): "Văn hóa là bí ẩn tận cùng của con". Nắm vững được quan
điểm của Mác về bản chất của con người và xã hội, và do đó, tiếp cận được
quan điểm của Mác về vấn đề văn hóa sẽ cho ta chìa khóa khám phá thế giới
văn hóa đầy bí ẩn.
III. VẬN DỤNG XÂY DỰNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC – LÊ NIN VÀO NỀN VĂN HOÁ TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC
DÂN TỘC VIỆT NAM
"Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát
triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân
văn, dân chủ tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn
bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển” là
một trong những định hướng lớn trong phát triển kinh tế-xã hội của đất nước,
được đề cập trong các dự thảo văn kiện trình Đại hội XI của Đảng.
Góp ý cụ thể vào dự thảo Cương lĩnh 1991 (Bổ sung và phát triển), phó
giáo sư-tiến sỹ Phạm Duy Đức, Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, đề nghị tách văn hóa thành một phần độc lập trong hệ thống các
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Văn Tuấn MSSV: 11010703
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối
ngoại.
Phần văn hóa trong Cương lĩnh mới cần chú ý các nội dung dưới đây.
Xác định rõ phương hướng lớn của chính sách văn hóa Việt Nam là phát
huy truyền thống yêu nước và cách mạng, truyền thống đại đoàn kết dân tộc,
tinh thần độc lập, tự chủ tự cường trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nâng cao chất lượng toàn diện xây dựng và phát triển nền văn hóa với
đặc trưng tiêu biểu là dân tộc, khoa học, hiện đại, dân chủ và nhân văn sâu
sắc.
Đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung
tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn
hóa - nền tảng tinh thần xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ và toàn diện
của ba lĩnh vực trên là điều kiện quyết định đảm bảo cho sự phát triển bền
vững của đất nước. Kế thừa và phát triển những truyền thống văn hóa tốt
đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tích cực và chủ động tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Xác định rõ những nhiệm vụ của văn hóa, toàn bộ các hoạt động văn hóa
phải tập trung vào xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh.
Nâng cao chất lượng cuộc sống của con người là trung tâm của chiến lược
phát triển kinh tế-xã hội. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền
con người với quyền và lợi ích của dân tộc, của nhân dân. Xây dựng con
người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có lý tưởng xã hội và trách nhiệm công
dân, có tri thức, thể lực, thẩm mỹ ngày càng cao, có kỹ năng lao động và đạo
đức nghề nghiệp, trung thực và sáng tạo, có ý chí và bản lĩnh trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Phát huy vai trò của văn học, nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tư tưởng
tình cảm và khát vọng vươn tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp của con người Việt
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Văn Tuấn MSSV: 11010703
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế. Phấn đấu có nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng
và nghệ thuật cao, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, có tác dụng giáo
dục xây dựng con người. Đấu tranh chống các hiện tượng phản văn hóa,
phản thẩm mỹ trên lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Đảm bảo quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân. Phát
triển hệ thống thông tin đại chúng hiện đại, đồng bộ, đa dạng, đáp ứng nhu
cầu thông tin ngày càng cao của nhân dân. Phát triển đi đôi với quản lý tốt
hệ thống thông tin trên mạng.
Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa vật thể và
phi vật thể của đất nước ở các vùng, các miền, các dân tộc thiểu số, kết hợp
hài hoà việc bảo vệ và phát huy di sản với các hoạt động phát triển kinh tế,
du lịch, chú trọng việc giáo dục truyền thống lịch sử và truyền thống cách
mạng cho các thế hệ công dân.
Nâng cao hiệu qủa hoạt động của các thiết chế văn hóa, thể thao hiện có,
đồng thời đầu tư xây dựng một số công trình văn hóa, thể thao trọng điểm,
tiêu biểu ở các khu đô thị lớn. Chú trọng xây dựng các thiết chế văn hóa, thể
thao mới ở khu công nhân công nghiệp tập trung và vùng đồng bào các dân
tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Chăm lo đời sống
văn hóa của nông dân gắn với việc xây dựng nông thôn mới.
Nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật và đạo đức công dân trong hệ
thống giáo dục quốc dân, phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, các đoàn thể,
gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động và cộng đồng dân cư trong việc
chăm lo xây dựng con người, bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên,
học sinh, sinh viên, đặc biệt là xây dựng lý tưởng sống, lối sống, nếp sống,
nâng cao trí tuệ, tình cảm, đạo đức, bản lĩnh, nhân cách văn hóa, thể lực của
con người Việt Nam.
Đổi mới cơ chế quản lý văn hóa, thể thao, du lịch phù hợp với quản lý đa
ngành, đa lĩnh vực. Tăng nhanh mức đầu tư của Nhà nước và xã hội cho văn
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Văn Tuấn MSSV: 11010703
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
hóa. Coi đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho phát triển. Nâng cao chất lượng và
hiệu quả của các chương trình, mục tiêu quốc gia về văn hóa, thể thao, du
lịch. Quản lý tốt thị trường văn hóa phẩm và xây dựng chiến lược phát triển
ngành công nghiệp văn hóa. Đẩy mạnh hoạt động văn hóa đối ngoại và coi
trọng ngoại giao văn hóa để quảng bá, giới thiệu hình ảnh con người và đất
nước Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế. Nâng cao chất lượng đào tạo đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ chuyên môn cho các lĩnh vực hoạt
động văn hóa, thể thao, du lịch trong thời kỳ mới. Nâng cao chất lượng toàn
diện các hoạt động thể dục - thể thao, nâng cao thể lực và sức khỏe của con
người Việt Nam.
Góp ý vào Báo cáo Chính trị Đại hội XI và Chiến lược phát triển kinh tế-
xã hội 10 năm 2011-2020, phó giáo sư-tiến sỹ Phạm Duy Đức đề nghị
những định hướng lớn về văn hóa cần được trình bày trong Báo cáo Chính
trị của Đại hội XI tập trung vào sáu vấn đề sau:
Thứ nhất, cần tập trung xây dựng con người Việt Nam phát triển về thể
lực, trí lực và tình cảm, có lý tưởng và nhiệt tình cách mạng, trung thành với
sự nghiệp đổi mới, có kỹ năng lao động và sáng tạo, có ý chí và bản lĩnh
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đáp ứng được yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế,
phấn đấu vì xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Các phẩm chất cơ bản của con người cần xây dựng là con người công
dân, con người khoa học và con người nhân văn. Đề cao việc xây dựng ý
thức công dân, tinh thần tôn trọng và làm theo Hiến pháp và pháp luật; nâng
cao trình độ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; đề cao các giá trị nhân văn,
hướng tới cái đúng, cái tốt và cái đẹp trong hoạt động thực tiễn của mọi
người. Tăng cường giáo dục lý tưởng chính trị, đạo đức xã hội và bản lĩnh
văn hóa cho thanh niên, học sinh, sinh viên. Thực hiện tốt cuộc vận động
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Văn Tuấn MSSV: 11010703
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
Thứ hai, cần nâng cao chất lượng toàn diện của việc xây dựng đời sống
văn hóa và môi trường văn hóa thông qua đẩy mạnh phong trào thi đua yêu
nước và cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Đẩy
mạnh việc xây dựng môi trường văn hóa trong tổ chức đảng và cơ quan nhà
nước, các đoàn thể chính trị xã hội, trong các doanh nghiệp, trong gia đình
và trong cộng đồng dân cư Xây dựng nếp sống văn minh trong xã hội, nhất
là nơi công cộng.
Thứ ba, cần mở rộng và phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ văn
hóa, gắn kết chặt chẽ văn hóa với nhiệm vụ phát triển kinh tế, khai thác tài
nguyên văn hóa một cách hợp lý để phát triển du lịch dịch vụ. Đa dạng hóa
các ngành nghề sáng tạo và sản xuất các sản phẩm văn hóa, nâng cao sức
cạnh tranh của các sản phẩm văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc
trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Thứ tư là đảm bảo tự do và dân chủ trong hoạt động sáng tạo văn học,
nghệ thuật, báo chí xuất bản, phát huy vai trò tích cực của các lĩnh vực này
trong việc xây dựng môi trường văn hóa tinh thần lành mạnh. Đồng thời
nâng cao trách nhiệm của đội ngũ văn nghệ sĩ, đội ngũ những người làm báo
đối với nhân dân, dân tộc và thời đại, nâng cao chất lượng đào tạo ở các
trường, các viện về văn học, nghệ thuật, báo chí, xuất bản. Phát huy vai trò
của các hội văn học, nghệ thuật và báo chí từ trung ương đến địa phương.
Thứ năm, bên cạnh việc tiếp tục đầu tư, tôn tạo, bảo tồn và phát huy các
di tích lịch sử văn hóa, cần chú trọng xây dựng các công trình văn hóa trọng
điểm quốc gia và khu vực. Đặc biệt, Nhà nước quan tâm tới đầu tư xây dựng
đời sống văn hóa ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng miền núi, biên
giới và hải đảo, xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn, ở các khu công
nghiệp, khu chế xuất tập trung đông công nhân.
Thứ sáu, cần nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa - thể thao - du lịch. Xây dựng cơ chế,
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Văn Tuấn MSSV: 11010703
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
chính sách chế tài ổn định phù hợp với yêu cầu quản lý văn hóa trong thời
kỳ mới. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về văn hóa.
Về chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, phó giáo sư-tiến sỹ
Phạm Duy Đức kiến nghị về vấn đề văn hóa đưa vào Chiến lược phát triển
kinh tế-xã hội 10 năm nên tập trung vào một số nội dung sau:
Phát triển đồng bộ, toàn diện các lĩnh vực văn hóa. Xây dựng và hoàn
thiện các chính sách đảm bảo găn kết chặt chẽ văn hóa với phát triển kinh tế
và chính trị, đảm bảo phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hóa, thực hiện
công bằng và tiến bộ xã hội. Nâng cao chất lượng của việc xây dựng văn hóa
chính trị, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong tổ chức Đảng và cơ
quan nhà nước. Coi trọng văn hóa lãnh đạo và văn hóa quản lý. Đẩy mạnh
việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc. Tổ chức thực hiện tốt
luật sở hữu trí tuệ.
Phát triển mạnh mẽ các ngành nghề sáng tạo và sản xuất các sản phẩm
văn hóa. Đầu tư phát triển ngành công nghiệp văn hóa, nhất là điện ảnh, báo
chí, phát thanh và truyền hình, quảng cáo và trình diễn nghệ thuật Đẩy
mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa. Nâng cao sức cạnh tranh của các
sản phẩm văn hóa trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sĩ ở các
trường văn hóa, nghệ thuật, khuyến khích tài năng, tăng cường công tác đào
tạo ở nước ngoài. Có chính sách thu hút và khuyến khích đội ngũ văn nghệ
sĩ tập trung sáng tạo về những chủ đề lớn có ý nghĩa tích cực trong việc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đổi mới chính sách đãi ngộ và tôn vinh những trí
thức, văn nghệ sĩ tiêu biểu. Đẩy mạnh việc xuất bản, tái bản và quảng bá
những công trình văn hóa, lịch sử, nghệ thuật tiêu biểu của dân tộc. Khuyến
khích văn hóa đọc trong xã hội.
Nâng cao chất lượng toàn diện của các hoạt động thông tin, báo chí, phát
thanh và truyền hình, xuất bản và phát hành sách, tuyên truyền miệng ở tất
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Văn Tuấn MSSV: 11010703
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
cả các vùng, các miền. Phát triển đi đôi với quản lý tốt mạng Internet. Đẩy
mạnh công tác thông tin và văn hóa đối ngoại.
Nâng cao chất lượng của phong trào thi đua yêu nước và cuộc vận động
toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, nhất là ở khu dân cư, ưu tiên
đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và chăm lo các hoạt động văn hóa ở vùng
đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi, vùng biên giới, hải đảo; xây dựng đời
sống văn hóa ở nông thôn và trong các khu công nghiệp, khu chế xuất tập
trung đông công nhân. Xây dựng nếp sống văn minh trong giao thông đô thị,
trong tổ chức đám cưới, đám tang và lễ hội, đấu tranh kiên quyết loại bỏ
những hủ tục và những tệ nạn xã hội trong sinh hoạt cộng đồng.
Mở rộng hoạt động giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa. Đa dạng hóa
các hình thức trao đổi và hợp tác văn hóa, văn học, nghệ thuật với nước
ngoài. Khuyến khích cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài giữ gìn và quảng bá
văn hóa Việt Nam, tham gia tích cực vào xây dựng và phát triển văn hóa của
đất nước.
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Văn Tuấn MSSV: 11010703
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
KẾT LUẬN
Hiện nay, trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế, các nước đang bị đẩy vào
cuộc chạy đua về tăng trưởng kinh tế, chiếm lĩnh thị trường. Nhưng ít ai nghĩ
rằng, đằng sau cuộc chạy đua dồn dập đó, đang có một cuộc chạy đua lặng lẽ,
âm thầm, nhằm đạt vị trí cao trong việc xây dựng một quốc gia, một thành
phố có đời sống đẹp, quan hệ xã hội lành mạnh, môi trường trong sạch. Đã có
một số tổ chức thế giới chuyên trách theo dõi vấn đề này. Và thực tế đã
chứng minh rằng không phải quốc gia nào có đời sống kinh tế cao thì hiển
nhiên có đời sống xã hội đẹp. Những tín hiệu đó là gì nếu không phải là
những dự báo quan trọng về vai trò to lớn của văn hóa ở thời đại chúng ta.
Không phải không có lý do khi có người gọi thế kỷ 21 là thế kỷ của văn hóa.
Qua bài tiểu luận này chúng ta đã hiểu thêm về vấn đề văn hóa theo quan
điểm của Mác – Lenin và vận dụng quan điểm này vào xây dựng đời sống
sinh viên hiện nay.
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Văn Tuấn MSSV: 11010703
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 1
I. Sự ra đời của chủ nghĩa Mac – Lenin 2
II. Quan điểm của Mac – Lenin về văn hóa 4
III. VẬN DỤNG XÂY DỰNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC – LÊ NIN VÀO NỀN VĂN HOÁ TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN
SẮC DÂN TỘC VIỆT NAM 11
KẾT LUẬN 18
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTH13TH
SVTH: Nguyễn Văn Tuấn MSSV: 11010703