Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

nâng cao chất lượng đào tạo tại trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (963.92 KB, 114 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
=====o0o=====


NGUYỄN THỊ THU HỒNG

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ
VÀ KINH TẾ CÔNG NGHIỆP THÁI NGUYÊN

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ
MÃ SỐ: 60.34.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ MINH THỌ



THÁI NGUYÊN -2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
=====o0o=====

NGUYỄN THỊ THU HỒNG




NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ
VÀ KINH TẾ CÔNG NGHIỆP THÁI NGUYÊN



LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ





THÁI NGUYÊN -2011

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kỳ hội nhập thế giới hiện nay, nền kinh tế và xã hội việt nam
đang đứng trước những thử thách đầy cam go. Nguyên nhân cơ bản là do trình
độ quản lý yếu kém và sự thiếu thốn nghiêm trọng nguồn nhân lực có trình độ ở
nhiều lĩnh vực. So sánh với các nước trong khu vực, một điều rõ ràng là chúng ta
đã không chuẩn bị tốt về vốn người cho sự phát triển. Trách nhiệm đó, một phần
rất lớn là thuộc về giáo dục đại học, mũi nhọn xung kích. Xu thế “xã hội hóa”
giáo dục, mở rộng số lượng đầu vào để tăng lợi nhuận, đang là xu thế chủ đạo.
Ngày nay, khi tri thức và sáng tạo đã trở thành yếu tố quan trọng nhất
để tăng trưởng và phát triển thì sự thành bại của công cuộc hội nhập trong một

thế giới đang cạnh tranh quyết liệt tùy thuộc rất nhiều vào giáo dục - đào tạo.
Đối với Việt Nam , vai trò của giáo dục được xác định rõ trong điều
35, hiến pháp 1992: [9, t 148]
“ Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhà nước phát triển
giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và
năng lực của công dân; đào tạo những người lao động có nghề, năng động
và sáng tạo, Có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp
phần làm cho dân giầu nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc.”
Hiện nay Đảng và nhà nước ta khẳng định giáo dục và đào tạo là một
trong ba lĩnh vực then chốt cần phải đột phá đề làm chuyển động tình hình
kinh tế - xã hội, tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực. Trong
những năm qua nền giáo dục nước nhà đã có những chuyển biến tích cự, đa
dạng hoá về mục tiêu đào tạo, loại hình đào tạo, loại trường về mô hình và sở
hữu. Giáo dục nước nhà đã thu hẹp được khoảng cách với nền giáo dục của
các nước trong khu vực và trên thế giới.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
Bên cạnh những thành tựu đó, giáo dục nước ta vẫn bộc lộ một số yếu
kém. Trong đó yếu kém lớn nhất là sự bất cập về khả năng đáp ứng của hệ
thống giáo dục đối với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho Công nghiệp hoá,
Hiện đại hoá đất nước. Chính vì vậy mục tiêu phát triển giáo dục đến năm
2020 ở nước ta là cần tạo ra bước chuyển cơ bản về chất lượng giáo dục, đào
tạo nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nâng cao chất lượng đào tạo là yếu tố quan trọng góp phần giúp cho
các trường đại học và cao đẳng khẳng định uy tín và thương hiệu của nhà
trường. Chính vì vậy để tồn tại và phát triển trên thị trường giống như các

ngành kinh tế thì các trường phải nâng cao chất lượng đào tạo, từ đó nâng cao
được năng lực cạnh tranh.
Hơn lúc nào hết, trường Cao Đẳng Công Nghệ và Kinh Tế Công
Nghiệp đang đứng trước vận hội mới và trách nhiệm hết sức nặng nề, cần
phải phát huy vai trò, vị trí đã và đang có nhằm góp phần tích cực, hiệu quả
vào sự nghiệp Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước.
Những yêu cầu cấp bách trên đòi hỏi trường Cao đẳng Công Nghệ và
Kinh Tế Công Nghiệp không những phải năng động trong việc phát huy tiềm
lực hiện có mà phải nâng cao chất lượng đào tạo để đào tạo ra đội ngũ cán bộ,
nhân viên, kinh tế, kỹ thuật và công nhân có tay nghề cao có khả năng đáp
ứng yêu cầu công việc tại các doanh nghiệp trong thời kỳ Công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay.
Với mong muốn đóng góp một phần sức lực nhỏ bé của mình vào sự
nghiệp phát triển của nhà trường, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Nâng cao
chất lượng đào tạo tại trường Cao đẳng Công Nghệ và Kinh Tế Công
Nghiệp Thái Nguyên” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
2.Mục tiêu nghiên cứu
2.1.Mục tiêu chung
Hệ thống hoá lý luận và thực tiễn về chất lượng đào tạo nói chung và
chất lượng đào tạo trong các trường Cao đẳng nói riêng. Vận dụng để đánh
giá chất lượng đào tạo của trường Cao đẳng Công Nghệ và Kinh Tế Công
Nghiệp từ đó để xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đào
tạo tại trường Cao đẳng Công Nghệ và Kinh Tế Công Nghiệp.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về chất lượng đào tạo.
- Phân tích thực trạng chất lượng đào tạo cao đẳng tại trường Cao đẳng

Công Nghệ và Kinh Tế Công nghiệp.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
tại trường Cao đẳng Công Nghệ và Kinh tế Công nghiệp.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Nghiên cứu hệ thống đào tạo tại trường Cao đẳng Công Nghệ và Kinh
Tế Công Nghiệp.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu tại trường Cao đẳng Công Nghệ và
Kinh Tế Công Nghiệp Thái Nguyên.
- Phạm vi nội dung:
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận về chất lượng đào tạo.
+ Phân tích thực trạng chất lượng đào tạo cao đẳng tại trường Cao đẳng
Công Nghệ và Kinh Tế Công nghiệp.
+ Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
tại trường Cao đẳng Công Nghệ và Kinh tế Công nghiệp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
- Phạm vi thời gian:
Phân tích thực trạng chất lượng đào tạo tại trường Cao đẳng Công Nghệ
và Kinh Tế Công Nghiệp từ năm 2007 đến năm 2010
Thời gian nghiên cứu từ tháng 7/2010 đến tháng 9/2011.
4. Ý nghĩa khoa học của đề tài.
Đối với nhà trường có ý nghĩa thiết thực trong việc giám sát, đánh giá,
đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo góp phần phát triển thương hiệu của
nhà trường.
Giúp cho các phòng ban chức năng, các khoa khác có các tiêu chí đánh
giá chất lượng đào tạo phụ hợp.

5. Bố cục của luận văn
Nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng giáo dục đào tạo.
Chương 2: Đánh giá chất lượng đào tạo tại trường Cao Đẳng Công
Nghệ và Kinh Tế Công Nghiệp.
Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
tại trường Cao đằng Công Nghệ và Kinh Tế Công Nghiệp




\






Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO

1.1. Một số vấn đề lý luận về chất lƣợng giáo dục đào tạo
1.1.1. Khái niệm về đào tạo
Đại hội Đảng toàn quốc lần IX đã nhấn mạnh: “Giáo dục là quốc sách hàng
đầu”. Thật vậy, ngày nay đào tạo nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản quyết định sự
phát triển của mỗi quốc gia. Vậy đào tạo là gì? Xung quanh vấn đề này có nhiều
khái niệm khác nhau như:

- Đào tạo là một quá trình có mục đích, có tổ chức nhằm hình thành và phát
triển có hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ …để hoàn thiện nhân cách
cho mỗi cá nhân người học, tạo tiền đề cho họ có thể vào đời hành nghề một cách
có năng suất và hiệu quả [7, tr11]
- Đào tạo là cung cấp cho người học những kỹ năng cần thiết để thực hiện tất cả
các nhiệm vụ liên quan tới công việc, nghề nghiệp được giao (Tổ chức lao động quốc tế)
- Đào tạo là một quá trình học tập lý luận và kinh nghiệm để tìm kiếm một sự
biến đổi về chất tương đối lâu dài của một cá nhân, giúp cá nhân có thêm năng lực
thực hiện công việc [6, tr314]
Như vậy có nhiều quan niệm khác nhau về đào tạo nhưng nhìn chung các quan
niệm này đều có điểm chung là đào tạo là một quá trình cung cấp cho người học những
kiến thức, kỹ năng để họ có thể hoàn thành công việc của mình.
1.1.2. Quan niệm về chất lượng
Chất lượng là một khái niệm đa chiều, được nhiều tác giả đề cập đến theo
các cách tiếp cận khác nhau, sau đây là một vài định nghĩa về chất lượng:
- Theo tiêu chuẩn của nhà nước Liên Xô: Chất lượng là tổng thể những
thuộc tính của nó quy định tính thích dụng của sản phẩm để thỏa mãn những nhu
cầu phù hợp với công dụng của nó [1,tr20]. Như vậy, theo quan niệm này thì chất
lượng được xuất phát từ các thuộc tính đặc trưng của sản phẩm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
Ngày nay trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải bán
thứ mà thị trường cần nên có một số quan niệm khác về chất lượng trên góc độ
người tiêu dùng như:
- Tổ chức kiểm tra chất lượng Châu Âu (European Organization for Quanlity
Control) cho rằng: Chất lượng là sự phù hợp của sản phẩm với yêu cầu của người
tiêu dùng [1, tr20]
- Gs .Philip B. Gosby (người Mỹ) cho rằng chất lượng là sự phù hợp với

những yêu cầu hay đặc tính nhất định [6, tr21]
- Theo ISO 8402 :1994 thì chất lượng là một tập hợp các đặc tính của một thực thể
tạo cho thực thể đó khả năng làm thỏa mãn nhu cầu đã xác định hoặc tiềm ẩn [8, tr257]
- Theo ANSI (American National Stands Institute và ASQ (American Society
for Quanlity) thì chất lượng là tổng hợp những đặc tính và đặc điểm của một sản phẩm
hay dịch vụ có khả năng làm thỏa mãn nhu cầu khách hàng.
Như vậy chất lượng là một khái niệm phức tạp. Có nhiều quan niệm khác nhau
về chất lượng tùy theo góc độ của người quan sát nhưng các quan niệm đều có chung ý
tưởng: Chất lượng là sự thỏa mãn một yêu cầu nào đó của người sử dụng (khách hàng).
Từ đó chúng ta thấy chất lượng phải có những đặc điểm cơ bản sau đây [1, tr24]:
 Chất lượng có thể áp dụng cho mọi thực thể, có thể là sản phẩm, một hoạt
động, một quá trình, một doanh nghiệp hay một con người.
 Chất lượng là tập hợp các đặc tính của thực thể để thỏa mãn nhu cầu. vì
vậy khi đánh giá chất lượng ta phải xét đến đặc điểm của thực thể liên quan đến sự
thỏa mãn những nhu cầu cụ thể.
 Chất lượng là sự phù hợp với nhu cầu. vì vậy, nếu thực thể đáp ứng được
các tiêu chuẩn nhưng không phù hợp với nhu cầu, không được thị trường chấp nhận
thì vẫn coi là không chất lượng.
 Chất lượng phải gắn với điều kiện cụ thể của nhu cầu, của thị trường về các
mặt kinh tế, kỹ thuật, xã hội, phong tục, tập quán.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
 Chất lượng phải được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu trên các phương diện:
tính năng của sản phẩm, giá thỏa mãn, thời điểm cung cấp, dịch vụ, an toàn…
1.1.3. Quan niệm về chất lượng đào tạo
Chất lượng đào tạo là một vấn đề được các trường quan tâm, xung quanh vấn
đề này cũng có nhiều quan niệm khác nhau:
1.1.3.1. Quan niệm chất lượng đào tạo được đánh giá bằng “đầu vào”

Theo quan điểm của một số nước phương tây thì chất lượng của một trường
học phụ thuộc vào chất lượng hay số lượng đầu vào của trường đó. Theo quan điểm
này thì nguồn lực chính là chất lượng, nghĩa là các trường được xem là có chất
lượng cao nếu tuyển sinh được sinh viên giỏi, cán bộ giảng dạy có uy tín, có nguồn
tài chính để trang bị các phòng thí nghiệm, giảng đường.
Vậy quan điểm này đã bỏ qua quá trình đào tạo diễn ra trong thời gian dài
trong nhà trường. Đây là quan điểm xem quá trình đào tạo là “hộp đen”, chỉ dựa vào
đánh giá “đầu vào”, không quan tâm đến chất lượng “đầu ra”. Quan điểm này sẽ
khó giải thích được tại sao một nhà trường có đầu vào cao nhưng hoạt động đào tạo
hạn chế, sinh viên tốt nghiệp chưa chắc đã xuất sắc và một trường có đầu vào khiêm
tốn nhưng sinh viên được cung cấp một chương trình đào tạo hiệu quả, sinh viên tốt
nghiệp xuất sắc [2, tr254].
1.1.3.2. Quan niệm chất lượng đào tạo được đánh giá bằng “đầu ra”
Theo quan điểm này chất lượng đào tạo được đánh giá bằng “đầu ra” của quá
trình đào tạo, được thể hiện thông qua năng lực của sinh viên tốt nghiệp.
Xung quanh quan niệm này vẫn nảy sinh hai vấn đề: một là không xem xét
mối liên hệ giữa “đầu vào” với “đầu ra”. Thực tế thì mối liên hệ này là có thực, tuy
không phải là quan hệ nhân quả. Thứ hai là cách đánh giá “đầu ra” của các trường
cũng rất khác nhau. [2, tr254]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
1.1.3.3. Quan niệm chất lượng đào tạo được đánh giá bằng “giá trị gia tăng”
Quan điểm này cho rằng một trường có tác động tích cực tới sinh viên nếu tạo ra
sự khác biệt trong sự phát triển trí tuệ và cá nhân của sinh viên. “ Giá trị gia tăng” xác
định bằng cách lấy giá trị “đầu ra” trừ đi giá trị “đầu vào”.
Nhưng nếu đánh giá chất lượng theo quan điểm này thì nảy sinh vấn đề là
phải có thước đo thống nhất để đánh giá chất lượng “đầu vào”, “đầu ra” cho các
trường vì hệ thống giáo dục của các trường rất đa dạng. Hơn nữa nếu thiết lập được

thước đo chung thì “giá trị gia tăng” cũng không cung cấp thông tin để cải tiến quá
trình đào tạo trong các nhà trường. [2, tr254].
1.1.3.4. Quan niệm chất lượng đào tạo được đánh giá bằng “giá trị học thuật”
Quan điểm này đánh giá chất lượng đào tạo chủ yếu dựa vào năng lực học
thuật của đội ngũ cán bộ giảng viên. tức là nếu một trường có nhiều giáo sư, tiến sĩ,
có uy tín khoa học thì được coi là có chất lượng cao.Nhưng liệu chúng ta sẽ đánh
giá năng lực học thuật của đội ngũ cán bộ giảng viên như thế nào khi xu hướng
chuyên ngành hóa ngày càng sâu, phương pháp luận ngày càng đa dạng [2, tr255].
1.1.3.5. Quan niệm chất lượng đào tạo được đánh giá bằng “văn hóa tổ chức riêng”
Quan điểm này cho rằng chất lượng của một trường được đánh giá thông qua
“văn hóa tổ chức riêng” là không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo. Quan điểm này
khó áp dụng trong giáo dục vì nó có nguồn gốc từ lĩnh vực công nghiệp và thương mại.
1.1.3.6. Quan niệm chất lượng đào tạo được đánh giá bằng “kiểm toán”
Đây là quan điểm coi trọng nguồn thông tin cung cấp cho việc ra quyết định.
theo họ, một cá nhân có đủ thông tin cần thiết để đưa ra các quyết định về chất
lượng chính xác thì sẽ có chất lượng.
Nhưng thực tế, không phải nhà trường nào có đầy đủ phương tiện thu thập
thông tin cũng đưa ra quyết định tối ưu [2, 255].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
1.1.3.7. Một số quan niệm khác về chất lượng đào tạo
- Theo tổ chức đảm bảo chất lượng giáo dục đại học quốc tế (INQAHE-
International Network of Quality Assurance in Higher Education) thì: chất lượng là
sự trùng khớp với mục đích [2, tr256]
Theo quan điểm này chất lượng đào tạo được đánh giá thông qua mức độ đạt
được mục tiêu đào tạo đã được đề ra cho một chương trình đào tạo đã thiết kế. Khái
niệm này được nhiều nhà phân tích và hoạch định chính sách giáo dục chấp nhận.
- Theo Trần Khánh Đức (thuộc viện nghiên cứu phát triển giáo dục): chất

lượng đào tạo là kết quả của cả quá trình đào tạo, phản ánh ở các đặc trưng về
nhân cách, phẩm chất, năng lực hành nghề mà người tốt nghiệp đạt được phù hợp
với mục tiêu, chương trình đào tạo của từng ngành nghề cụ thể [8, tr259]
- Theo quyết định 65/2007/QĐ - BGDĐT ngày 01/11/2007: chất lượng giáo
dục là sự đáp ứng mục tiêu do nhà trường đề ra, đảm bảo các yêu cầu về mục tiêu
giáo dục của luật giáo dục, phù hợp với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát
triển kinh tế xã hội của địa phương và cả nước.
Như vậy xung quanh vấn đề chất lượng đào tạo có rất nhiều quan điểm khác
nhau. chất lượng đào tạo là một khái niệm mang tính tương đối. Mỗi đối tượng khác
nhau sẽ có những quan tâm khác nhau về chất lượng đào tạo phù hợp với lợi ích của
họ. Với vị trí là sinh viên, giảng viên có thể quan tâm đến quá trình đào tạo như thế
nào, còn các doanh nghiệp có thể quan tâm đến đầu ra của quá trình đào tạo. Vấn đề
khi đánh giá chất lượng đào tạo chúng ta cần đưa ra các tiêu chí làm thước đo để
đánh giá. Các tiêu chí này phải kết hợp hài hòa lợi ích của các đối tượng, sao cho
phù hợp với mục tiêu đào tạo của nhà trường, đồng thời cũng phải thỏa mãn được
nhu cầu của thị trường lao động và xã hội.
1.1.4. Quản lý chất lƣợng đào tạo
1.1.4.1. Quản lý chất lượng và các công cụ quản lý chất lượng cơ bản
Theo ISO 9000:2000: quản lý chất lượng là các hoạt động nhằm điêu chỉnh
và kiểm soát một cơ quan, tổ chức về vấn đề chất lượng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
Như vậy, quản lý chất lượng có phạm vi rất rộng, nó không chỉ dành cho các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hóa và dịch vụ, mà còn cho tất cả các tổ
chức khác như nhà trường, bệnh viện, viện nghiên cứu, các cơ quan hành chính nhà
nước, các tổ chức chính trị.
Để quản lý chất lượng, các tổ chức thường dùng các công cụ cơ bản[1, tr 55-59]:
- Kiểm tra chất lượng (Quality Inspecstion) với mục tiêu để sàng lọc các sản

phẩm không phù hợp, không đáp ứng yêu cầu, có chất lượng kém ra khỏi các sản
phẩm phù hợp, đáp ứng yêu cầu, có chất lượng tốt. Mục đích là chỉ có sản phẩm
đảm bảo yêu cầu đến tay khách hàng.
- Kiểm soát chất lượng (Quality Control - QC với mục tiêu ngăn ngừa việc
tạo ra, sản xuất ra các sản phẩm khuyết tật. Để làm được điều này, phải kiểm soát
các yếu tố như con người, phương pháp sản xuất, tạo ra sản phẩm (như dây truyền
công nghệ), các đầu vào (như nguyên, nhiên vật liệu…), công cụ sản xuất (như
trang thiết bị công nghệ) và yếu tố môi trường (như địa điểm sản xuất).
- Kiểm soát chất lượng toàn diện (Total Quality Control – TQC) với mục tiêu
kiểm soát tất cả các quá trình tác động đến chất lượng kể cả các quá trình xảy ra
trước và sau quá trình sản xuất sản phẩm, như khảo sát thị trường, nghiên cứu, lập
kế hoạch, phát triển, thiết kế và mua hàng; và lưu kho, vận chuyển, phân phối, bán
hàng và dịch vụ sau khi bán hàng.
- Quản lý chất lượng toàn diện (Total Quality Management – TQM) với mục
tiêu của TQM là cải tiến chất lượng sản phẩm và thỏa mãn khách hàng ở mức tốt
nhất có thể. Phương pháp này cung cấp một hệ thống toàn diện cho hoạt động quản
lý và cải tiến mọi khía cạnh có liên quan đến chất lượng và huy động sự tham gia
của tất cả các cấp, của mọi người nhằm đạt được mục tiêu chất lượng đó đặt ra.
1.1.4.2. Các mô hình quản lý chất lượng đào tạo
a. Mô hình BS 5750/ISO 9000
Mô hình BS 5750/ISO 9000 là một mô hình quản lý chất lượng giáo dục đại
học được đưa ra vào đầu thập kỷ 90. Mô hình này dựa theo tiêu chuẩn quản lý chất
lượng của Anh BS 5750 và tương đương với tiêu chuẩn ISO 9000.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Bản chất của mô hình này là một hệ thống các văn bản quy định tiêu chuẩn
và quy trình chi tiết, nghiêm ngặt ở mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất đảm bảo
mọi sản phẩm hay dịch vụ phải phù hợp với mẫu mã, quy cách, các thông số kỹ

thuật quy định trước đó với mục tiêu là tạo ra một đầu ra “phù hợp với mục đích”.
Mô hình BS 5750/ISO 9000 đưa ra một kỷ luật nghiêm ngặt với những người sử
dụng, đồng thời đòi hỏi sự đầu tư về nhân lực tài lực và thời gian.
Do mô hình này có nguồn gốc từ lĩnh vực sản xuất hàng hóa nên ngôn ngữ trong
bộ tiêu chuẩn này vẫn xa lạ với giáo dục chẳng hạn mô hình gọi người học là sản phẩm,
hơn nữa trong giáo dục khó tạo ra được các sản phẩm có chất lượng như nhau [2, tr269].
b. Mô hình chất lƣợng quản lý chất lƣợng tổng thể (Total Quality
Management - TQM)
TQM là mô hình quản lý chất lượng tập trung vào năm lĩnh vực:
- Sứ mạng và chú trọng đến khách hàng
- Tiếp cận các hoạt động có hệ thống
- Phát triển mạnh mẽ nguồn nhân lực
- Các tư tưởng dài hạn
- Sự phục vụ hết mực
Theo Sherr và Lozier (1991), có năm thành phần ảnh hưởng đến việc cải tiến chất
lượng trong giáo dục: Sự trung thực; chia sẻ quan điểm; kiên nhẫn; hết lòng làm việc; và lý
thuyết TQM. Trong năm thành tố trên thì lý thuyết TQM có thể dạy và học được.
Mặc dù mô hình TQM cũng xuất xứ từ thương mại và công nghiệp nhưng tỏ
ra phù hợp hơn với giáo dục. Mô hình này không áp dụng một hệ thống cứng nhắc
cho bất kỳ một cơ sở đào tạo nào, nó tạo ra một nền văn hóa chất lượng bao trùm
toàn bộ quá trình đào tạo. Triết lý của TQM là tất cả mọi người dù ở cương vị nào,
vào bất kỳ thời điểm nào cũng đều là người quản lý chất lượng của phần việc mình
được giao và hoàn thành một cách tốt nhất, với mục đích tối cao là thỏa mãn nhu
cầu của khách hàng [2, tr269].
Thực chất của TQM là:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
- Cải tiến liên tục: triết lý quan trọng nhất của tqm là cải tiến không ngừng và

có thể đạt được do quần chúng, thông qua quần chúng. sự cải tiến liên tục này thể
hiện trong kế hoạch của các trường bằng các chu kỳ cải tiến, nâng cao dần theo
vòng xoáy trôn ốc từ lợi ích trước mắt đến lợi ích lâu dài, từ trình độ xuất phát ở
một thời điểm nhất định vươn không ngừng tới một trình độ cao hơn.
Trong công tác đảm bảo chất lượng trong các ngành dịch vụ như giáo dục,
chúng ta không thể cố định được một sản phẩm “không mắc lỗi” mà không làm
giảm đi nhiều khả năng có thể đạt được mức độ hoàn hảo. Vì vậy quá trình đảm bảo
chất lượng phải cải tiến liên tục. Khái niệm một sinh viên tốt nghiệp đạt chất lượng
“không mắc lỗi” được xét theo phương diện hạn chế đó là những bằng cấp tối thiểu
[2, tr270].
- Cải tiến từng bước: Quản lý chất lượng tổng thể được thực hiện bằng một
loạt các dự án quy mô nhỏ có mức độ tăng dần. Về tổng thể quản lý chất lượng có
quy mô rộng, bao quát hết hoạt động của cơ sở đào tạo, song việc thực hiện nhiệm
vụ đó thực tế lại có quy mô hẹp, khả thi, thiết thực và có mức độ tăng dần. Sự can
thiệp mạnh không phải là phương sách tốt để tạo ra sự chuyển biến lớn trong quản
lý chất lượng tổng thể. Các dự án đồ sộ nhiều khi không phải là con đường tốt nhất
vì thiếu kinh phí và nếu thất bạo sẽ dẫn tới sự thờ ơ, bất bình. Các dự án nhỏ sẽ dễ
thành công, tạo ra sự tự tin và làm cơ sở cho các dự án lớn sau này. [2, tr270].
- Hệ thống tổ chức phải hướng tới khách hàng: chìa khóa để tạo ra thành
công trong quản lý chất lượng tổng thể là tạo ra sự gắn bó hữu cơ giữa cung và cầu,
giữa các bộ phận trong trường với nhau và với xã hội.
Trong hệ thống tổ chức của nhà trường vai trò của các cán bộ quản lý là hộ
trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ giáo chức, sinh viên, chứ không phải là chỉ
lãnh đạo, kiểm tra họ. Trong quản lý chất lượng tổng thể mô hình cấp bậc trong hệ
thống tổ chức quản lý nhà trường phải là mô hình đảo ngược (hình 1.1).




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


13













Hình 1.1: Mô hình TQM đảo ngƣợc
Sự đảo ngược về thứ tự trong hệ thống tổ chức quản lý của nhà trường theo
mô hình quản lý chất lượng tổng thể không làm phương hại đến cơ cấu quyền lực
của nhà trường, cũng không làm giảm sút vai trò lãnh đạo của các cán bộ lãnh đạo
trường, khoa. trong thực tế sự lãnh đạo của cán bộ quản lý vẫn giữ vai trò quyết
định của quản lý chất lượng tổng thể. đảo ngược thứ bậc chỉ nhấn mạnh mối tương
quan trong quá trình đào tạo hướng tới sinh viên như nhân vật trung tâm [2, tr271].
c. Mô hình các yếu tố tổ chức
Mô hình này đưa ra 5 yếu tố để đánh giá như sau:
1 - Đầu vào: Sinh viên, cán bộ trong trường, cơ sở vật chất, chương trình đào
tạo, quy chế, luật định, tài chính,…
2 - Quá trình đào tạo: Phương pháp và quy trình đào tạo, quản lý đào tạo,…
3 - Kết quả đào tạo: Mức độ hoàn thành khóa học, năng lực đạt được và khả
năng thích ứng của sinh viên.
4 - Đầu ra: Sinh viên tốt nghiệp, kết quả nghiên cứu và các dịch vụ đáp ứng

nhu cầu kinh tế xã hội.
Cán bộ giảng dạy và phục vụ
Cán bộ lãnh đạo
trường, khoa
Sinh viên
Cán bộ phục vụ
Cán bộ lãnh
đạo cấp trường
Cán bộ quản lý cấp khoa
Cán bộ giảng dạy
Quản lý chất lượng tổng thể trong GDĐH

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
5 - Hiệu quả: Kết quả của giáo dục và ảnh hưởng của nó đối với xã hội
Dựa vào 5 yếu tố đánh giá trên các học giả đã đưa ra 5 khái niệm về chất
lượng giáo dục như sau:
1. Chất lượng đầu vào : trình độ đầu vào thỏa mãn các tiêu chí, mục tiêu đề ra.
2. Chất lượng quá trình đào tạo: mức độ đáp ứng yêu cầu của quá trình dạy
và học và các quá trình đào tạo khác.
3. Chất lượng đầu ra: mức độ đạt được của đầu ra (sinh viên tốt nghiệp, kết
quả nghiên cứu khoa học và các dịch vụ khác so với bộ tiêu chí hoặc mục tiêu đã
định sẵn.
4. Chất lượng sản phẩm: mức độ đạt các yêu cầu công tác của sinh viên tốt
nghiệp qua đánh giá của chính bản thân sinh viên, của cha mẹ, của cơ quan công tác
và của xã hội.
5. Chất lượng giá trị gia tăng: mức độ năng lực của sinh viên tốt nghiệp (kiến
thức, kỹ năng, quan điểm) đóng góp cho xã hội và đặc biệt là hệ thống giáo dục [2, tr272].
Trong ba mô hình quản lý chất lượng giáo dục nêu trên, nếu xem chất lượng

giáo dục là sự trùng khớp với mục tiêu thì sử dụng mô hình TQM là phù hợp hơn cả.
mô hình cho phép nghiên cứu đề ra các mục tiêu chiến lược của giáo dục trong từng
thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và các chính sách lớn của chính phủ
đối với giáo dục. Và tùy thuộc vào nguồn lực hiện có, các nhà quản lý chất lượng
giáo dục có thể chủ động tác động đến những khâu, lĩnh vực quan trọng có ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng từ đó nâng cao dần chất lượng giáo dục theo kế hoạch đã đề
ra [2, tr 272].
1.1.5. Đánh giá chất lượng đào tạo
Chất lượng đào tạo là một khái niệm động, đa chiều. Vì vậy ta không thể dùng
một phép đo đơn giản để đo lường và đánh giá chất lượng trong giáo dục đào tạo. Để
đánh giá chất lượng trong giáo dục đào tạo người ta thường dùng một bộ thước đo bao
gồm các tiêu chí và các chỉ số tương ứng với các lĩnh vực trong quá trình đào tạo,
nghiên cứu khoa học và dịch vụ cộng đồng của các trường. Các chỉ số này có thể là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
định tính nghĩa là đánh giá bằng nhận xét chủ quan của người đánh giá. hoặc chỉ số
cũng có thể là định lượng, tức là đánh giá và đo lường bằng điểm số [2, tr 268].
Vậy tại sao chúng ta phải đánh giá chất lượng đào tạo, mục đích, nội dung và
phương pháp đánh giá là gì?
1.1.5.1. Sự cần thiết phải đánh giá chất lượng đào tạo
Trong những năm gần đây, hệ thống giáo dục của việt nam phát triển mạnh
mẽ. Một mạng lưới giáo dục bao gồm các học viện, các trường đại học, cao đẳng,
trung cấp đa dạng về loại hình, phương thức đào tạo đã được hình thành khắp cả
nước. Quy mô đào tạo nước ta đang tăng nhanh nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của xã
hội. Cùng với sự tăng nhanh của quy mô đào tạo thì một vấn đề ngày càng được quan
tâm đó là chất lượng đào tạo. Mặc dù chất lượng đào tạo ở nước ta trong vài năm gần
đây đã có chuyển biến tốt, nhưng vẫn còn hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được yêu
cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, và chưa tiếp cận được với trình độ tiên tiến

của khu vực cũng như thế giới. gần đây các hoạt động đánh giá, kiểm định chất lượng
đào tạo đã được chú ý nhưng còn thiếu đồng bộ và chưa thành hệ thống. Vì vậy, đánh
giá, kiểm định chất lượng đào tạo cần phải được các cấp, các ngành và xã hội quan
tâm.[2, tr279].
1.1.5.2. Mục đích đánh giá
Đánh giá chất lượng đào tạo trước tiên là để làm rõ quy mô, chất lượng và
hiệu quả các hoạt động đào tạo, nghiên cứu và các dịch vụ xã hội theo các chức
năng, nhiệm vụ của nhà trường.
Mặt khác, đánh giá chất lượng đào tạo còn nhằm mục đích xác định và so
sánh theo các tiêu chuẩn kiểm định của nhà nước đã công bố xem đạt đến mức độ
nào. từ đó, nhà trường xác định các điểm mạnh, điểm yếu, thời cơ và thách thức để
đề ra các chiến lược, kế hoạch và các biện pháp nâng cao chất lượng đào tạo của
trường. đồng thời, nhà trường có thể đưa ra các kiến nghị với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền có biện pháp hộ trợ cho nhà trường trong việc nâng cao chất lượng và
hiệu quả đào tạo của mình.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
1.1.5.3. Nội dung đánh giá
Trên cơ sở các tiêu chuẩn kiểm định và các quy định cụ thể về các chuẩn
mực do nhà nước hoặc hiệp hội ban hành công tác đánh giá chất lượng đào tạo của
nhà trường gồm một số nội dung sau đây [1, tr275]:
- Thu thập, tổng hợp và phân tích các thông tin, tư liệu, số liệu thống kê theo
yêu cầu của các tiêu chí và tiêu chuẩn kiểm định đề ra.
- Tổ chức thẩm tra, khảo sát ý kiến của cán bộ, giáo viên, giảng viên, sinh
viên của nhà trường. điều tra tình hình việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp và
ý kiến nhận xét, đánh giá của các cơ sở sử dụng nhân lực do nhà trường đào tạo, bồi
dưỡng.
- Tổng hợp các thông tin thu thập được theo các tiêu chuẩn, tiêu chí kiểm

định, đánh giá chất lượng đào tạo.
1.1.5.4. Một số nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo
Chất lượng giáo dục là một khái niệm động, nhiều chiều, khó định nghĩa
một cách chính xác. Vì vậy, để đánh giá chất lượng đào tạo ta cần xem xét các yếu
tố tác động đến chất lượng đào tạo. Vậy những yếu tố nào có thể tác động tới chất
lượng đào tạo? Có nhiều nhân tố tác động đến chất lượng đào tạo, tuy nhiên trong
luận văn này, tác giả chỉ xem xét một số nhân tố cơ bản sau đây:
Mục tiêu và chƣơng trình đào tạo
Mục tiêu đào tạo là đích mà nhà trường mong muốn đạt được sau một quá
trình đào tạo. Như chúng ta đã biết, chất lượng đào tạo là sự đáp ứng mục tiêu đào
tạo đề ra. Vậy mục tiêu đào tạo là một căn cứ để đánh giá chất lượng của quá trình
đào tạo. Mối quan hệ giữa mục tiêu đào tạo và chất lượng đào tạo được thể hiện
trong hình 1.2 dưới đây [11, tr307].
Điều 33 luật giáo dục năm 2005 có ghi:” Đào tạo người lao động có kiến
thức, kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau, có đạo đức, có lương tâm nghề
nghiệp, ý thức kỷ luật, có sức khỏe nhằm tạo điều kiện cho người lao động có khả
năng tìm việc làm”.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17











Hình 1.2: Quan hệ giữa mục tiêu đào tạo và chất lượng đào tạo
Mục tiêu đào tạo cần phải được cụ thể hóa cho từng ngành nghề trên cơ sở bám
sát các yêu cầu của thị trường lao động, của xã hội về kiến thức, kỹ năng và thái độ
giúp người tốt nghiệp sau khi ra trường có thể làm việc với hiệu quả cao nhất.
Bên cạnh mục tiêu đào tạo thì chương trình đào tạo cũng ảnh hưởng lớn đến
chất lượng đào tạo. Chương trình đào tạo là điều kiện cơ bản, điều kiện tiên quyết
bảo đảm chất lượng GD – ĐT của một trường đại học. Một chương trình tốt, phù
hợp sẽ tạo ra được sản phẩm tốt. Ngược lại, một chương trình đào tạo lạc hậu,
chậm đổi mới sẽ tạo ra sản phẩm lao động không phù hợp.
Chương trình đào tạo là bản cụ thể hóa của mục tiêu đào tạo, nó quy định các
chuẩn kiến thức, kỹ năng, phương pháp và hình thức đào tạo, cũng như cách thức
đánh giá kết quả của mỗi môn học. Muốn có chất lượng đào tạo tốt thì chương trình
đào tạo phải cụ thể, cấu trúc hợp lý, giúp người học thu nhận được các kiến thức, kỹ
năng đồng thời cũng phải đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động trong từng thời
kỳ. Muốn vậy, chương trình đào tạo cần phải được chỉnh sửa, bổ sung trên cơ sở các
tiêu chuẩn của bộ giáo dục và đào tạo, ý kiến của người học, người sử dụng lao
động và các tổ chức khác.
thái độ
người tốt nghiệp
mục tiêu đào tạo
chất lượng đào tạo
quá trình đào tạo
kiến thức
kỹ năng
- đặc trưng, giá trị, nhân cách,
xã hội, nghề nghiệp
- giá trị sức lao động, năng lực
hành nghề, trình độ chuyên môn

- năng lực thích ứng với thị
trường lao động
- năng lực phát triển nghề
nghiệp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
Cơ sở vật chất, phƣơng tiện trang thiết bị dạy học
Để thực hiện được quá trình đào tạo, mỗi cơ sở đào tạo cần được trang bị
những điều kiện nhất định về cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ cho hoạt
động giảng dạy, học tập. Nói đến cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học là muốn
nói tới hệ thống phòng học, thực hành, thư viện, giáo trình, giáo án, đèn chiếu,
máy chiếu…
Cơ sở vật chất, phương tiện trang thiết bị dạy học là nhân tố quan trọng có
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo. Nó có vai trò hỗ trợ cho giáo viên và
học sinh trong quá trình dạy và học. Thật vậy, chúng ta không thể đảm bảo chất
lượng giáo dục nếu hệ thống các phòng học, phòng thực hành, thí nghiệm không
đầy đủ không đáp ứng được các yêu cầu của việc dạy và học. Ngạn ngữ Việt Nam
có câu: “Trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không bằng một làm”, hay
ngạn ngữ nước ngoài có câu:”Nghe thì quên, nhìn mới nhớ, làm thì hiểu”. Đúng
vậy, các phương tiện và thiết bị dạy học giúp tối đa hóa thời gian mà việc học
tập thực sự diễn ra, tối thiểu hóa các lao động cấp thấp, tạo thuận lợi cho mối
tương tác giữa thầy và trò [2, tr239]. Nhờ các phương tiện và thiết bị dạy học ,
người học hứng thú với việc học, dễ nhớ, dễ hiểu hơn từ đó hình thành những
kỹ năng nhất định.
Đội ngũ giáo viên
Bên cạnh mục tiêu, chương trình đào tạo và cơ sở vật chất trang thiết bị dạy
học thì một yếu tố khác quan trọng có ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo đó là đội
ngũ giáo viên. Nếu có chương trình, sách giáo khoa tốt, thiết bị đầy đủ, thời lượng

học hợp lý, nhưng giáo viên yếu năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức kém thì
không thể dạy tốt và sẽ không có chất lượng tốt.
Trong thời đại mới, nhà giáo không còn là người truyền thụ kiến thức, mà là
người hỗ trợ, hướng dẫn cho người học tìm chọn và xử lý thông tin. Vậy thì vai trò của
nhà giáo trong thời đại mới sẽ như thế nào? Câu ngạn ngữ: “không thầy đố mày làm
nên” còn đúng không? Trong thời đại hiện nay, vai trò của nhà giáo thay đổi nhưng vị trí
của nhà giáo hoặc là không đổi hoặc là được nâng cao hơn so với trước nếu nhà giáo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
thỏa mãn được những đòi hỏi của thời đại mới. Thật vậy, hội nghị Pari về giáo dục học
đại học cho rằng phương thức giáo dục mặt đối mặt vẫn chiếm vị trí hàng đầu, tác dụng
của sự tương tác giữa thầy và trò vẫn luôn được nhấn mạnh. Trong mối tương tác đó, nếu
nhà giáo có bề dày kinh nghiệm, trình độ sẽ đóng góp lớn cho quá trình học [2, tr85].
Ngoài trình độ chuyên môn và kinh nghiệm giảng dạy thì phương pháp giảng
dạy của người thầy cũng rất quan trọng. Người thầy có kiến thức chuyên môn sâu rộng,
kinh nghiệp lâu năm nhưng phương pháp giảng dạy không phù hợp thì học trò cũng
khó lĩnh hội được những kiến thức đó, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. Như
vậy, trong thời đại ngày nay nhà giáo cần phải thường xuyên trau dồi kiến thức, kinh
nghiệm, đạo đức đồng thời phải thường xuyên thay đổi phương pháp dạy học.
Đội ngũ học sinh, sinh viên
Học sinh, sinh viên- người học là trung tâm của quá trình đào tạo, vì vậy
người học cũng là yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. để hoạt động học thật
sự được diễn ra và nâng cao hiệu quả quá trình đào tạo thì sự vận động của người
học là yếu tố quan trọng. Muốn nâng cao chất lượng đào tạo thì người học cần phải
chủ động trong quá trình học để có thể thu nhận các kiến thức, hình thành các kỹ
năng, nhân cách phục vụ cho nghề nghiệp của mình.
Bên cạnh đó, khi nói về đội ngũ học sinh, sinh viên với tư cách là một nhân
tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo ta cũng phải quan tâm đến chất lượng đầu vào

của học sinh, sinh viên. Bởi người học chỉ có thể tiếp thu tốt các kiến thức chuyên
môn thì các em phải nắm được các kiến thức cơ bản khi còn học phổ thông. Mà
muốn có được chất lượng đầu vào thì chúng ta cần nâng cao chất lượng công tác
tuyển sinh, tuyển sinh đầu vào cần phải có sàn chung tối thiểu, tránh vì chạy theo số
lượng mà quên đi chất lượng .
Ngoài ra do hoạt động học tập của học sinh, sinh viên chịu sự tác động của
môi trường học tập nên môi trường học tập cũng có ảnh hưởng đến chất lượng đào
tạo. Nói đến môi trường học tập trước tiên phải nói tới điều kiện học tập sinh hoạt:
dịch vụ nhà ở, điện nước sinh hoạt, trật tự trị an trong nhà trường, phòng học, trang
thiết bị. Sinh viên không thể yên tâm học tập nếu như những điều kiện trên không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
được đảm bảo. ngoài các điều kiện trên, thì cảnh quan trong nhà trường, khu vui
chới, thể thao sinh hoạt văn nghệ, quan hệ giao tiếp bạn bè…cũng có ảnh hưởng tới
tâm lý, tình cảm, sức khỏe để các em có thể học tập tốt.
Quy mô đào tạo
Quy mô đào tạo của chúng ta trong những năm gần đây tăng rõ rệt do nhiều
nguyên nhân: Do nhu cầu của thị trường lao động, do nhu cầu của người học, do
chính sách của các trường. quy mô đào tạo tăng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo.
Bởi một khi số lương học sinh, sinh viên đầu vào tăng thì sẽ làm cho quy mô lớp học
lớn. Mỗi giáo viên khi lên lớp chỉ có thể bao quát được một số lượng học sinh, sinh
viên nhất định. Nếu quy mô lớp học quá lớn sẽ thì giáo viên không thể quan tâm đến
tất cả các thành viên trong lớp, đồng thời việc đánh giá kết quả học tập cũng sẽ gặp
khó khăn. mặt khác nếu quy mô đào tạo lớn trong khi đó đội ngũ giáo viên ít sẽ dẫn
đến tình trạng một giáo viên sẽ phải dạy quá nhiều giờ, nhiều lớp, nhiều ca. Khi đó
giáo viên không có thời gian để trau dồi kiến thức chuyên môn, phương pháp giảng
dạy và nghiên cứu khoa học thì không thể nâng cao chất lượng giảng dạy được. Quy
mô đào tạo chuẩn được đưa ra là tỷ lệ sinh viên/giảng viên không quá 20; Đối với các

ngành khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ không quá 15; Các ngành kinh tế,
khoa học xã hội và nhân văn không quá 25 [4, tr 38].
Công tác tổ chức quản lý của nhà trƣờng
Công tác tổ chức quản lý có nhiệm vụ hình thành nên các bộ phận, phân
công công việc và phối hợp hoạt động giữa các bộ phận trong tổ chức nói chung
trong đó có nhà trường. Chính điều này sẽ ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. Theo
mô hình quản lý chất lượng TQM, muốn có chất lượng thì cần phải có sự hợp tác,
nỗ lực của tất cả các thành viên trong tổ chức. Vì vậy việc phân công đúng nhiệm
vụ, công việc cho các thành viên có ảnh hưởng tới hiệu quả và chất lượng công
việc. Đó còn là cơ sở để người quản lý đánh giá chính xác khối lượng, chất lượng
công việc làm căn cứ để phân phối thu nhập, thưởng phạt chính xác.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
Muốn có được chất lượng đào tạo thì tổ chức nói chung cũng như nhà trường
cần tổ chức bộ máy sao cho đơn giản hóa các thủ tục giúp giải quyết công việc một
cách nhanh nhất.
Ngoài ra trong nhà trường thì công tác quản lý còn có nhiệm vụ tổ chức các kế
hoạch đào tạo cho từng năm học, từng học kỳ, từng tháng, từng tuần nhằm giúp học
sinh có đủ khối lượng kiến thức khi tốt nghiệp; Tổ chức các buổi giao lưu sinh hoạt
cho học sinh sinh vên; xây dựng, triển khai và kiểm tra việc thực hiện các nội quy,
quy chế, giải quyết các khúc mắc cho học sinh sinh viên nhằm tạo nên những kỹ năng
giao tiếp, ứng xử và có kỷ luật, nề nếp, tác phong, phẩm chất phục vụ cho quá trình
làm việc sau này. những công việc này đều có ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo của
nhà trường.
Quan hệ giữa nhà trƣờng với các doanh nghiệp
Nếu chỉ được đào tạo ở trong nhà trường thì người học mới chỉ lĩnh hội được
các kiến thức về lý luận. mặc dù hiện nay, các trường đã có các phòng thực hành,
nhưng điều đó vẫn còn nhiều hạn chế. Sản phẩm của quá trình đào tạo là người học.

đào tạo chỉ có chất lượng khi người học có được các kiến thức, kỹ năng đáp ứng
được nhu cầu của xã hội. Vì vậy nhà trường cần phải tạo được mối quan hệ với các
doanh nghiệp. Đó là cơ sở để sinh viên tốt nghiệp thực hành những kiến thức lĩnh
hội được từ nhà trường. doanh nghiệp không chỉ là nơi để sinh viên thăm quan, thực
tập mà nó còn có vai trò quan trọng trong việc thiết kế, điều chỉnh chương trình đào
tạo phù hợp. Qua việc sinh viên thăm quan thực tập tại doanh nghiệp, nhà trường có
thể lấy ý kiến của các doanh nghiệp về chương trình, nội dung đào tạo làm cho
chương trình đào tạo phù hợp hơn với thực tiễn sử dụng lao động góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo.
Trên đây là các nhân tố cơ bản có ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. Mỗi
nhân tố có tác động đến chất lượng đào tạo theo các mức độ khác nhau. Để nâng
cao chất lượng đào tạo chúng ta cần có biện pháp tác động vào các yếu tố này, để
hoàn thiện chúng theo các tiêu chuẩn phù hợp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
1.1.6. Cơ sở thực tiễn
1.1.6.1. Thực trạng giáo dục đại học, cao đẳng tại việt nam
Giáo dục đại học, cao đằng đó được nhà nước quan tâm đặc biệt trong những năm
gần đây, ngân hàng thế giới đó đầu tư cho giáo dục việt nam qua nhiều dự án lên đến
hàng trăm triệu USD nhưng tình hình giáo dục việt nam hiện nay cũng nhiều bất cập, 3
trong số những bất cập đó liên quan đến: mục tiêu, chương trình và phương pháp.
* Mục tiêu: [15]
Cho tới thời điểm hiện nay, các trường Đại Học Việt Nam vẫn chưa xác định
được mục tiêu cụ thể để đào tạo sinh viên. GS.TSKH Vũ Minh Giang - Phó giám
đốc ĐHQG Hà Nội (2006) lập luận rằng các trường đại học trên thế giới thường
hướng đến 3 mục tiêu chính sau để đào tạo sinh viên: Trang bị kiến thức nghề
nghiệp chuyên môn; Hướng dẫn sinh viên ứng dụng chuyên môn đó học vào công
việc thực tế; Nâng cao trình độ nhận thức văn hóa cho sinh viên trong khi đó các

trường Đại học ở Việt Nam lại hướng đến những mục tiêu to lớn, không cụ thể như:
Trung thành với tổ quốc, xây dựng xã hội chủ nghĩa …nên nhiều lúc chính cả thầy
và trò cũng mơ hồ về mục tiêu dạy và học của mình.
Theo GS.TSKH Vũ Minh Giang, nếu lấy 3 mục tiêu của các trường đại học
trên thế giới áp dụng cho các trường Đại học Việt Nam thì sẽ thấy:
Mục tiêu 1: Giảng viên Việt Nam thường dạy cho sinh viên những kiến thức
cụ thể, những hiểu biết mà mình tích luỹ được trong kinh nghiệm giảng dạy mà
không chú trọng đến việc dạy nghề cho sinh viên.
Mục tiêu 2: Các giảng viên Việt Nam thường ít cập nhật kiến thức chuyên
môn liên quan đến nhu cầu thực tế. Bài giảng của thầy đôi khi không còn phù hợp
với tình hình xã hội hiện tại. Nếu sinh viên chỉ học ở trường, không có điều kiện va
chạm với cuộc sống bên ngoài thì khả năng thích ứng với nhu cầu xã hội là thấp vỡ
khoảng cách giữa lý thuyết và thực tế là khá xa.
Mục tiêu 3: Sinh viên đại học đương nhiên phải có trình độ nhận thức văn
hoá cao, cụ thể là phải có những phẩm chất đặc biệt. Các trường Đại học Việt Nam
cho rằng việc giáo dục phẩm chất cho sinh viên thuộc về trách nhiệm của các bậc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23
học phổ thông trước đó hoặc thuộc về chính bản thân sinh viên nên đó không chú
trọng rèn luyện khía cạnh này.
Từ phân tích trên cho thầy giáo dục đại học việt nam chưa có giải pháp để
đào tạo theo nghĩa toàn diện vì chúng ta chưa có mục tiêu cụ thể.
* Chương trình: [15]
Hiện nay, chương trình giáo dục Đại học tại Việt Nam vẫn còn kém hiệu quả.
Nguyên nhân do bộ khống chế quá chặt chẽ về chương trình khung và yêu cầu các
trường phải tuân thủ một cách cứng nhắc.
Thầy Ngô Đăng Thành, giảng viên trường Đại Học Kinh Tế TP Hồ Chí Minh
đã có ý kiến: “Kiến thức chuyên ngành sinh viên được học quá ít. Ví dụ, một

chương trình cử nhân, bao gồm 125-130 tín chỉ tất cả các môn, trong đó có khoảng
80-90 tín chỉ là môn chung. Các môn chung củ ngành cũng khoảng 20 tín chỉ. Nên
những kiến thức sẽ học để sau này sinh viên đi làm thực tế chỉ còn khoảng 20 tín
chỉ nữa, tương đương với 4-5 môn”.
GS TSKH Đỗ Trần Cát, Tổng thư ký Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước
cho rằng Bộ phải xem xét và phân bổ lại chương trình học . Ví dụ đối với môn
chung như Triết học, kinh tế chính trị trong các trường đại học nên phân bổ số tiết ít
hơn, để dành thời gian giảng dạy các môn chuyên ngành sẽ thiết thực hơn.
Theo Th.S Đào Đức Tuyên, Phó trưởng khoa Ngoại ngữ (trường Đại Học
Nông Lâm TPHCM) thì môn giáo dục thể chất được quy định trong trương trình
khung của Bộ nên chăng đổi lại thành môn tự chọn vì như vậy sinh viên có thể lựa
chọn những môn thể thao phục hợp với điều kiện sức khoẻ và thể lực của mình.
Môn giáo dục quốc phòng cũng vậy, nên chuyển sang thành môn tự chọn vì một
tháng học ròng rã cả lý thuyết lẫn thực hành như hiện nay không cần thiết đối với
sinh viên, đặc biệt là sinh viên nữ.
Thiết nghĩ, Bộ giáo dục và Đào tạo không nên quy định các trường đại học
phải tuân theo chương trình khung một cách cứng nhắc mà hãy để các trường đại
học chủ động biên soạn chương trình. Chương trình khung của Bộ là chương trình
chuẩn để các trường dựa vào đó tự thiết kế chương trình cho mình, như thế mỗi

×