Tải bản đầy đủ (.doc) (175 trang)

VẤN ĐỀ MÂU THUẪN DÂN TỘC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VÙNG TÂY NAM BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 175 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VẤN ĐỀ MÂU THUẪN DÂN TỘC
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Ở VÙNG TÂY NAM BỘ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số: 62 22 03 02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
tư liệu được sử dụng trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng; những
phát hiện đưa ra trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
MỤC LỤC
NỘI DUNG Trang
Lời cam đoan
Mục lục
1
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
3
Danh mục các bảng
4
MỞ ĐẦU
5
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
5
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án


9
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
9
4. Phương pháp nghiên cứu của luận án
10
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
11
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
11
7. Kết cấu của luận án
12
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
MÂU THUẪN DÂN TỘC Ở VÙNG TÂY NAM BỘ HIỆN NAY
13
1.1. Một số công trình nghiên cứu mâu thuẫn, xung đột xã hội 14
1.2. Một số công trình nghiên cứu thực trạng mâu thuẫn dân tộc ở
Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH
21
1.3. Một số công trình nghiên cứu phương thức giải quyết mâu thuẫn
dân tộc ở Tây Nam Bộ trong quá trình CNH, HĐH
28
Chương 2: MÂU THUẪN DÂN TỘC TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA - MỘT
SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
39
2.1. Lý luận về mâu thuẫn và mâu thuẫn dân tộc 39
2.2. Vấn đề dân tộc và mâu thuẫn dân tộc ở Việt Nam hiện nay 61
2.3. Tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến mâu thuẫn dân
tộc ở Việt Nam hiện nay
74

1
Chương 3: THỰC TRẠNG MÂU THUẪN DÂN TỘC TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Ở VÙNG TÂY NAM BỘ
88
3.1. Một số nét đặc thù của vùng Tây Nam Bộ 88
3.2. Một số mâu thuẫn chủ yếu ở vùng Tây Nam Bộ thời kỳ CNH, HĐH 99
Chương 4: GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ MÂU
THUẪN DÂN TỘC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VÙNG TÂY NAM BỘ
120
4.1. Giải quyết các vấn đề về kinh tế - xã hội đối với đồng bào dân tộc
Khmer ở vùng Tây Tây Nam Bộ
120
4.2. Khắc phục một số bất cập về cơ chế, chính sách đối với đồng bào dân
tộc Khmer ở vùng Tây Tây Nam Bộ
135
4.3. Khắc phục một số bất cập về phương thức hoạt động của hệ thống
chính trị, năng lực của đội ngũ cán bộ ở vùng Tây Nam Bộ
140
KẾT LUẬN
152
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
154
TÀI LIỆU THAM KHẢO
155
PHỤ LỤC
2
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH Chủ nghĩa xã hội
MDPA
Phân tích hiện trạng nghèo, đói ở đồng
bằng sông Cửu Long
MTTQ Mặt trận Tổ quốc
UBND Ủy ban nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
WTO Tổ chức Thương mại thế giới
3
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang
Bảng 3.1
Tỷ lệ hộ nghèo phân theo thành thị, nông thôn và
phân theo vùng qua các năm (%)
89
Bảng 3.2
Tỷ lệ hộ nghèo của các tỉnh trong vùng qua các năm
(%)
89
Bảng 3.3
Tỷ lệ trẻ em nghèo ở đồng bằng sông Cửu Long chia
theo lĩnh vực qua các năm (%)
90
Bảng 3.4
Thu nhập bình quân nhân khẩu 1 tháng theo nhóm
thu nhập chủ hộ năm 2010 (Đơn vị tính: 1000VNĐ)
90
Bảng 3.5
Tỷ lệ đường ô tô và đường thủy tới xã và thôn/ấp,
tiếp cận các phương tiện giao thông ở đồng bằng sông

Cửu Long qua các năm (%)
90
Bảng 3.6
Dân số chung và dân số dân tộc Khmer tại 9 tỉnh,
thành vùng Tây Nam Bộ năm 2011
93
Bảng 3.7
Số xã đặc biệt khó khăn ở 9 tỉnh vùng đồng bằng
sông Cửu Long năm 2007
93
Bảng 3.8
Số liệu hộ nghèo dân tộc thiểu số năm 2011
94
Bảng 3.9
Bảng tổng hợp về Chùa và Phật tử ở 9 tỉnh, thành
vùng đồng bằng sông Cửu Long
94
Bảng 3.10
Số hộ nghèo dân tộc thiểu số và hộ nghèo dân tộc
Chăm tỉnh An Giang năm 2011
95
4
MỞ ĐẦU
Trong vài thập kỷ gần đây, vấn đề mâu thuẫn dân tộc ở nhiều quốc gia,
khu vực và thế giới ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp và được biểu hiện
trên nhiều lĩnh vực như: lãnh thổ, dân tộc, tôn giáo, lợi ích, kinh tế. Chẳng
hạn: mâu thuẫn và xung đột sắc tộc luôn luôn là vấn đề phức tạp, nhức nhối ở
nhiều nước châu Phi; tại các nước thuộc Liên Xô trước đây, vấn đề dân tộc,
sắc tộc cũng đang có những diễn biến phức tạp; mâu thuẫn giữa Ảrập và
Israel dẫn đến các cuộc xung đột căng thẳng về chính trị và bạo lực đẫm máu

giữa người Palestine và Israel vẫn không ngừng leo thang trong nhiều thập
niên qua…
Mâu thuẫn dân tộc căng thẳng cũng có thể chỉ bắt nguồn từ một bài
viết, một bức tranh trên báo hoặc thậm chí một lời phát biểu. Khi nó đã bùng
phát thì hậu quả không nhỏ và việc giải quyết những mâu thuẫn kiểu này cũng
không đơn giản. Có thể kể trường hợp: bức tranh biếm họa về nhà tiên tri
Mohammed trên báo Jyllands-Posten ở Đan Mạch hồi tháng 9 năm 2005; lời
bình luận của Đức Giáo Hoàng Benedict XVI về Đấng Tiên tri Mohammed.
vào tháng 9 năm 2006.
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tây Nam Bộ, vùng đất có nhiều tộc người cùng sinh sống với dân số
17.325.167 người, vùng đất có những nét đặc thù về kinh tế, chính trị, xã hội
so với các vùng khác của đất nước: Thứ nhất, đây là vùng cực Nam của Tổ
quốc, có biên giới trên bộ giáp với Campuchia, có lãnh hải giáp với các nước
trong khu vực Nam Á. Thứ hai, cư dân là một cộng đồng nhiều tộc người (Việt,
Khmer, Hoa, Chăm…), đa tôn giáo (Phật giáo Bắc Tông, Phật giáo Nam Tông,
Phật giáo Hòa Hảo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, đạo Cao Đài…). Thứ ba, là
vùng đất có lịch sử khá đặc biệt về văn hóa - xã hội…
Trong số các tộc người sống ở vùng Tây Nam Bộ, ngoài người Kinh,
người Khmer chiếm tỉ lệ cao nhất. Theo số liệu điều tra biến động dân số,
5
ngày 01/4/2011: đồng bào Khmer có 1.201.691 (chiếm tỷ lệ là 6,93%), tổng
số người Chăm là 14.982 (chiếm tỷ lệ là 0,09%). Đây là hai tộc người có
những đặc điểm riêng, ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết) riêng, có bản sắc văn
hóa riêng, sinh kế cũng rất phong phú, đa dạng. Song, do những điều kiện
khách quan và chủ quan nên đời sống kinh tế - xã hội của người Khmer và
Chăm thường không ổn định. Trong các tỉnh ở vùng Tây Nam Bộ, tình trạng
số hộ nghèo là người dân tộc Khmer, Chăm do không có đất và thiếu đất,
không có vốn và thiếu vốn sản xuất là khá phổ biến. Mặt khác, trình độ dân trí
và tay nghề thấp, chủ yếu là lao động giản đơn, chưa qua đào tạo, chưa đáp

ứng được yêu cầu của thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Điều này
khiến cho tỷ lệ hộ nghèo của đồng bào hai dân tộc này còn cao. Theo số liệu
Báo cáo của Vụ Tôn giáo - Dân tộc thuộc Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, tính đến
02/2011: số hộ nghèo là người Khmer là 72.084 chiếm 18,39% và số hộ
nghèo người Chăm là 251 chiếm 0,77% tổng số hộ nghèo toàn vùng [2, 12].
Ở khu vực Tây Nam Bộ, nghèo đói vẫn là vấn đề nghiêm trọng và thách thức
lớn. Mặc dù, từ năm 1998 đến nay, số người nghèo đã giảm đáng kể, nhưng
còn khoảng 4 triệu người, đây là vùng có số lượng người nghèo cao nhất của
cả nước. Bên cạnh đó, Tây Nam Bộ cũng là vùng có tỉ lệ cao nhất về số lượng
người dễ lâm vào tình trạng tái nghèo khi có những biến động bất lợi về
kinh tế hay thiên tai xảy ra.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều chủ
trương, chính sách, giải pháp xóa đói, giảm nghèo đối với vùng Tây Nam Bộ
nói chung, và đồng bào dân tộc Khmer, Chăm nói riêng. Công tác xóa đói,
giảm nghèo đã thu được những kết quả quan trọng, tạo được sự chuyển biến
tích cực về nhiều mặt, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết
những vấn đề xã hội bức xúc. Các chương trình mục tiêu, chính sách hỗ trợ
người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo đạt được những thành tựu đáng kể. Về kết
cấu hạ tầng giao thông nông thôn, y tế, giáo dục, dạy nghề, giải quyết việc
làm, chuyển giao những tiến bộ khoa học kỹ thuật, hỗ trợ vốn được các cấp
6
ủy Đảng và chính quyền, các ban ngành, đoàn thể quan tâm, tích cực triển
khai tổ chức thực hiện. Các cơ chế, chính sách, dự án được phối hợp lồng
ghép tạo động lực thúc đẩy việc thực hiện Chương trình mục tiêu giảm nghèo
đạt kết quả đáng kể; từng bước nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của
đồng bào Chăm, Khmer, giảm tỷ lệ hộ nghèo, củng cố niềm tin của đồng bào
đối với Đảng và Nhà nước ta.
Tuy nhiên, kết quả xóa đói, giảm nghèo nói chung và đối với đồng bào
dân tộc Khmer, Chăm ở khu vực Tây Nam Bộ nói riêng chưa bền vững; tỷ lệ hộ
tái nghèo và phát sinh nghèo hàng năm còn cao; chênh lệch giàu nghèo giữa hai

dân tộc này với đồng bào các dân tộc khác trong vùng chưa được thu hẹp đáng
kể. Riêng vấn đề tôn giáo, trước đây, người dân tộc Khmer chủ yếu theo Phật
giáo Nam tông; hiện nay, ở khu vực Tây Nam Bộ, người Khmer là tín đồ đạo
Công giáo là 2850 và là tín đồ đạo Tin lành lên đến 2740. Thực tế, vấn đề xóa
đói, giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc Khmer, Chăm không chỉ là vấn đề
kinh tế mà còn là vấn đề chính trị, xã hội sâu sắc [2, 15].
Mâu thuẫn dân tộc ở Tây Nam Bộ nhìn chung tuy chưa bùng phát thành
nhiều điểm nóng như Tây Bắc, Tây Nguyên, nhưng đã hình thành những điểm
phức tạp. Ở đây, trong quá trình CNH, HĐH vừa có sự chênh lệch về mức
sống giữa các tộc người ngày càng lớn, vừa có những hạn chế nhất định trong
tổ chức và quản lý xã hội. Mặt khác, các thế lực thù địch bằng nhiều thủ đoạn
kích động chia rẻ, ly khai dân tộc, móc nối, cài cắm lực lượng chờ cơ hội, khi
có điều kiện tổ chức bạo loạn, lật đổ chính quyền;
Mâu thẫn dân tộc ở Tây Nam Bộ không chỉ là sự đấu tranh đòi công
bằng dân chủ của nhân dân như ở đồng bằng sông Hồng, mà còn chứa dựng
những yếu tố của mâu thuẫn đối kháng, mang tính chất dân tộc và tôn giáo,
diễn ra rất phức tạp và rất khó giải quyết, đang có nguy cơ bùng phát và ở một
vài nơi có khả năng tái phát. Do vậy, việc giải quyết mâu thuẫn dân tộc ở đây
đang đặt ra nhiều vấn đề không đơn giản.
7
Đối với vùng Tây Nam Bộ, quá trình CNH, HĐH bên cạnh những
thành tựu to lớn là không ít những vấn đề vướng mắc đã và đang tạo ra nhiều
yếu tố dẫn đến mâu thuẫn xã hội, trong đó có những yếu tố có khả năng tạo ra
mâu thuẫn liên quan đến các cộng đồng tộc người. Trong khi đó, các Cấp ủy
Đảng và Chính quyền nhà nước địa phương đang còn không ít lúng túng,
thậm chí bế tắc trong việc giải quyết các vấn đề này. Do vậy, việc nghiên cứu
và giải quyết mâu thuẫn dân tộc trong quá trình CNH, HĐH ở vùng đất giàu
tiềm năng và lắm phức tạp này đã trở thành vấn đề quan trọng hàng đầu trong
chiến lược phát triển đất nước trước xu thế hội nhập hiện nay.
Ổn định là điều kiện của sự phát triển và phát triển để đảm bảo cho sự

ổn định bền vững. Để ổn định và phát triển cần phải có sự đồng thuận trong
đời sống xã hội; phải giải quyết những mâu thuẫn xã hội, đặc biệt là những
mâu thuẫn mang tính dân tộc trên tinh thần phù hợp với yêu cầu của quy luật
khách quan; đảm bảo đầy đủ bản chất nhân văn và tiến bộ của một nền chính trị
trọng pháp, trọng dân; được chỉ đạo và thực thi bằng những giải pháp chính trị
thực sự khoa học
Việc đi sâu nghiên cứu vấn đề mâu thuẫn dân tộc ở vùng Tây Nam Bộ
chủ yếu dưới góc độ triết học vẫn còn mang tính cấp thiết và lâu dài nhằm
góp phần vừa thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc tạo
tiền đề chính trị, xã hội bền vững cho hội nhập và phát triển, trên cơ sở giải
quyết một cách đúng đắn và có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc nảy
sinh từ quá trình CNH, HĐH, hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn với
tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển bền vững và giữ vững sự ổn định chính
trị, trật tự an toàn xã hội, đặc biệt là góp phần tìm ra lời giải cho bài toán hóc
búa hiện nay: giải quyết mâu thuẫn dân tộc hoặc những yếu tố tạo nên mâu
thuẫn dân tộc dân tộc ở vùng Tây Nam Bộ hiện nay. Do vậy, chúng tôi chọn:
Vấn đề mâu thuẫn dân tộc trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
vùng Tây Nam Bộ làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ. Từ đó, chúng tôi có
hướng nghiên cứu tiếp theo là nhận diện tính chất và nguyên nhân; đề xuất
8
những quan điểm, phương thức giải quyết và rút ra những vấn đề lý luận từ
thực tiễn mâu thuẫn dân tộc ở vùng Tây Nam Bộ trong giai đoạn phát triển
đất nước hiện nay.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
Thông qua phân tích, nghiên cứu thực tiễn mâu thuẫn dân tộc ở vùng Tây
Nam Bộ, luận án làm rõ tính chất, nguyên nhân đồng thời đề xuất những yêu
cầu, nhiệm vụ cảnh báo và phương thức giải quyết mâu thuẫn dân tộc hoặc
những yếu tố có khả năng tạo ra mâu thuẫn dân tộc ở vùng Tây Nam Bộ trong
quá trình CNH, HĐH.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án:
- Tổng hợp tình hình nghiên cứu lý luận về xung đột và mâu thuẫn xã hội
nói chung, ở Việt Nam và Tây Nam Bộ nói riêng trong thời kỳ đổi mới;
- Làm rõ khái niệm mâu thuẫn dân tộc, phân tích đặc điểm, nguyên nhân
của mâu thuẫn dân tộc ở vùng Tây Nam Bộ trong quá trình CNH, HĐH;
- Khái quát các yêu cầu, nhiệm vụ và phương thức giải quyết vấn đề mâu
thuẫn dân tộc ở vùng Tây Nam Bộ trong quá trình CNH, HĐH;
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Luận án nghiên cứu vấn đề mâu thuẫn dân tộc mang tính điển hình, chủ
yếu giữa dân tộc Kinh - Khmer ở vùng Tây Nam Bộ trong quá trình CNH,
HĐH. Thông qua diện mạo, quy mô, tính chất, nguyên nhân và mức độ của
mâu thuẫn dân tộc trong điều kiện môi trường kinh tế - xã hội đặc thù của
vùng Tây Nam Bộ, trước những tác động của quá trình hội nhập quốc tế…,
luận án đề xuất những giải pháp cơ bản, kiến nghị những vấn đề chủ yếu
nhằm góp phần ổn định chính trị -xã hội, phát triển bền vùng Tây Nam Bộ.
9
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Mâu thuẫn dân tộc ở vùng Tây Nam Bộ trong thời kỳ CNH, HĐH là vấn
đề mới, phức tạp và rất nhạy cảm, do đó việc thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu
vấn đề này là không dễ dàng. Để phân tích tương đối sâu sắc và có được cái
nhìn tương đối đầy đủ về diện mạo, quy mô, tính chất, mức độ và nguyên
nhân của vấn đề mâu thuẫn dân tộc vùng Tây Nam Bộ trong thời kỳ CNH,
HĐH, luận án chỉ nghiên cứu trong giới hạn: những mâu thuẫn dân tộc mang
tính điển hình, chủ yếu giữa dân tộc Kinh - Khmer ở vùng Tây Nam Bộ trong
giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH từ Đại hội VIII của Đảng đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1 Cơ sở lý luận
Xuyên suốt quá trình nghiên cứu đề tài này, tác giả sử dụng phương

pháp luận duy vật biện chúng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh cùng với các lý thuyết về mâu thuẫn dân tộc; các kết quả
của các công trình nghiên cứu khoa học đã được các nhà khoa học công bố trong
thời gian gần đây về dân tộc, mâu thuẫn dân tộc… làm cơ sở lý luận.
4.2. Các phương pháp thử nghiệm cho từng phần của luận án
Trên cơ sở thực tiễn văn hóa - lịch sử đặc thù của vùng Tây Nam Bộ, luận
án sử dụng phương pháp thống nhất logíc - lịch sử bên cạnh một số phương pháp
nghiên cứu phổ biến khác như: phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương
pháp khảo sát, điều tra, phương pháp phân tích - tổng hợp… để khái quát những
vấn đề mâu thuẫn dân tộc trên cơ sở thực tiễn chính trị - xã hội phong phú, đa
dạng, sinh động và phức tạp của vùng Tây Nam Bộ.
Tóm lại, với các nhóm phương pháp cơ bản mang tính chủ đạo trên, luận
án có thể tiếp cận thực tiễn các hình thái mâu thuẫn dân tộc đặc thù của vùng
Tây Nam Bộ trong tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH và xây dựng nông thôn mới
hiện nay để làm cơ sở cho những kết luận có giá trị khoa học (dù ở mực độ
khiêm nhường); tạo cho luận án đạt được mục tiêu cần thiết.
10
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án góp phần làm rõ về cả lý luận và thực tiễn mâu thuẫn dân tộc
trong quá trình thực hiện CNH, HĐH vùng Tây Nam Bộ nhằm đề xuất một số
giải pháp chủ yếu giải quyết mâu thuẫn dân tộc ở vùng này trong xu thế hội
nhập hiện nay.
Trên cơ sở thực tiễn kinh tế - xã hội vùng Tây Nam Bộ trong quá trình
thực hiện CNH, HĐH và lý luận về mâu thuẫn dân tộc, luận án chỉ ra được tính
chất, đặc điểm, nguyên nhân của mâu thuẫn dân tộc ở vùng Tây Nam Bộ:
- Mâu thuẫn dân tộc ở vùng Tây Nam Bộ trong quá trình thực hiện
CNH, HĐH mang nhiều nét đặc thù, đa dạng và phức tạp, vừa có yếu tố
chung vừa có yếu tố đơn nhất, là mâu thuẫn không mang tính chất đối kháng
diễn ra với quy mô nhỏ lẻ, cục bộ.
- Nguyên nhân có tính tổng hợp của mâu thuẫn dân tộc ở vùng Tây Nam

Bộ trong quá trình thực hiện CNH, HĐH là sự đối lập giữa các lợi ích.
- Luận án đã phân tích được một chừng mực nhất định những tác động
của quá trình thực hiện CNH,HĐH (cả tích cực lẫn tiêu cực) đến mâu thuẫn
dân tộc ở vùng Tây Nam Bộ.
- Luận án đã đề xuất đổi mới phương thức giải quyết các vấn đề kinh tế -
xã hội; khắc phục một số bất cập về cơ chế, chính sách đối với đồng bào dân tộc
Khmer ở vùng Tây Tây Nam Bộ.
Nhìn chung, luận án đã có một số điểm mới góp phần cho quá trình nhận
thức về vấn đề mâu thuẫn dân tộc ở vùng Tây Nam Bộ trong xu thế hội nhập và
phát triển hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và khảo sát, tổng kết thực tiễn,
luận án có những ý nghĩa sau:
- Góp phần nghiên cứu vấn đề mâu thuẫn dân tộc ở nước ta nói chung.
- Phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy chuyên ngành Chủ nghĩa
Duy vật biện chứng và Chủ nghĩa Duy vật lịch sử.
11
- Góp phần nâng cao trình độ lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về giải
quyết mâu thuẫn dân tộc cho đội ngũ cán bộ, quản lý ở nước ta hiện nay, nhất
là ở khu vực Tây Nam Bộ.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm có bốn chương, mười 11 tiết.
12
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VẤN ĐỀ MÂU THUẪN DÂN TỘC Ở VÙNG TÂY NAM BỘ HIỆN NAY
Mâu thuẫn dân tộc là một tất yếu khách quan của quá trình vận động và
phát triển của các dân tộc. Do vậy, điều tiết và giải quyết các tình huống mâu
thuẫn mang tính dân tộc hoặc chứa đựng những yếu tố dân tộc là vấn đề đã và

đang được giới khoa học xã hội rất quan tâm.
Những thành tựu nghiên cứu về vấn đề mâu thuẫn dân tộc trong thời
gian gần đây đã và đang được ứng dụng khá rộng rãi. Có lẽ bởi nó đề cập đến
những lợi ích thực tế, những nhu cầu trực tiếp của cộng đồng, dân tộc hơn là
những lý luận trừu tượng chung chung. Nói cách khác, Triết học ngày nay
chuyển trọng tâm chú ý vào nghiên cứu điều tiết, giải quyết các tình huống
mâu thuẫn cụ thể bằng những giải pháp thiết thực và hiệu quả.
Thực tiễn những năm gần đây, vấn đề mâu thuẫn và xung đột xã hội, mâu
thuẫn dân tộc và giải quyết những xung đột, mâu thuẫn dân tộc đã được nhiều
nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm và đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu khoa học có giá trị, được công bố rộng rãi dưới dạng sách tham khảo, luận
án, bài báo khoa học Để đảm bảo tính kế thừa và khẳng định những đóng góp
của luận án, tác giả tạm chia các công trình nghiên cứu khoa học theo 3 nhóm
vấn đề: (1) các công trình nghiên cứu lý luận về mâu thuẫn, xung đột xã hội và
về CNH, HĐH; (2) các công trình nghiên cứu về thực trạng kinh tế - xã hội, mâu
thuẫn và xung đột xã hội ở Tây Nam bộ và ở Việt Nam thời kỳ đổi mới; (3) và
các công trình nghiên cứu về phương thức giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam
và ở vùng Tây Nam Bộ trong thời kỳ CNH, HĐH.
Trên cơ sở sự phân định đó, luận án tiến hành chọn lọc và thực hiện tổng
quan những công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề tài của luận
án như sau:
13
1.1. Một số công trình nghiên cứu về mâu thuẫn, xung đột xã hội
1.1.1. Một số công trình nghiên cứu về mâu thuẫn, xung đột xã hội
của các nhà khoa học nước ngoài
Vấn đề mâu thuẫn, xung đột đã được con người biết đến từ rất sớm.
Những tiền đề của thuyết xung đột được xác lập bởi Nicolo Machiavelli ( nhà tư
tưởng Ý, 14-69-15270), Thomas Hobbs (nhà triết học Anh, 1588-1679) và
Charles Darwin (nhà sinh học Anh, 1809-1882). Thế nhưng , những người được
coi là đã tạo nên nền tảng cho thuyết xung đột chính là Các Mác (nhà sáng lập

chủ nghĩa Mác – Lênin, 1818-1883), Max Weber (nhà xã hội học Đức, 1864-
1920) và Georg Simmel (nhà xã hội học Đức, 1858-1818). Trên nền tảng đó, với
sự đóng góp lớn của ba nhà xã hội học đương đại: Ralph Gustav Dahrendrof
(Đức), Lewis Coser (Mỹ) và Anatol Rapoport (Nga), lý thuyết xung đột được
hoàn thiện, trở thành một trong những hình mẫu xã hội học hiện đại.
- Từ những năm 50 của thế kỷ XX, ở phương Tây đã có nhiều tác phẩm
nổi tiếng về xung đột ra đời như:
+ Trong tác phẩm Các chức năng của xung đột xã hội, Lewis Coser (Mỹ)
đã tập trung phân tích, lý giải nguồn gốc, nguyên nhân phát sinh xung đột xã hội
từ tâm trạng căng thẳng giữa các cá nhân. Ông cho rằng, xung đột là “sự đấu
tranh vì những giá trị, và những nỗ lực (cố gắng và hy vọng) đạt được một sự
thừa nhận về vị trí xã hội, quyên lực hoặc nguồn lợi. Trong cuộc đấu tranh đó,
người ta cố trung lập hóa, gây thiệt hại hoặc tiêu diệt đối thủ của mình”. Cũng
theo ông, xung đột chính là sự căng thẳng giữa cái đang có và cái cần phải có,
tương ứng với sự cảm nhận của những nhóm và cá nhân nhất định.
+ Trong tác phẩm Mô hình xung đột xã hội, Ralph Gustav Dahrendrof
(Đức) chủ yếu đưa ra mô hình và sự cần thiết phải quản lý, giải tỏa xung đột xã
hội. Ông nhấn mạnh vai trò của xung đột, thừa nhận xung đột tồn tại khách
quan, dưới mọi cấp độ, nhất là xung đột giữa các cá nhân, các nhóm xã hội, các
giai cấp; cho rằng xung đột xã hội có chức năng tăng cường tính thích ứng của tổ
chức xã hội, chính là bảo đảo tính liên tục của của xã hội; thừa nhận vai trò lịch
14
sử của mâu thuẫn và xung đột: đời sống xã hội dựa trên cơ sở các quyền lợi, do
đó thường nảy sinh sự mâu thuẫn, đối lập vì lợi ích, từ đó dẫn tới xung đột giữa
các nhóm. Mâu thuẫn và xung đột cũng làm cho các hệ thống xã hội bị phân hóa
và luôn có xu hướng hướng tới sự thay đổi.
+ Tác phẩm Lý luận chung về xung đột của Kenneth Boulding (Mỹ) đã
tổng hợp thực tiễn để đưa ra lý luận chung về xung đột. Ông cho rằng xung đột
và sự leo thang của bạo lực bắt nguồn từ bản chất xã hội của con người.
+ Georg Simmel là một trong những nhà xã hội học thuộc thế hệ đầu tiên

của nước Đức. Ông cho rằng, về nguyên tắc, ý nghĩa xã hội học của xung đột là
vấn đề hiển nhiên, không cần bàn cãi [114, 13-17]. Theo ông, xung đột là những
quan hệ, hành vi biểu hiện các mâu thuẫn, vừa thông qua đó để giải quyết các
mâu thuẫn khác nhau. Nhờ đó mà quá trình tương tác đạt được một số kiểu
thống nhất, thậm chí có thể đạt được thống nhất thông qua sự biến đổi hoặc phá
hủy một trong các bên xung đột.
+ Các nhà khoa học mácxit khi nghiên cứu xung đột, đặc biệt nhấn mạnh
bản chất kinh tế khách quan và bản chất giai cấp của xung đột, nguyên nhân của
xung đột, suy cho cùng là vị trí của các tập đoàn người trong hệ thống sản xuất
xã hội, là lợi ích kinh tế. Chính chúng quy định những hoạt động chính trị - xã
hội của con người của các nhóm xã hội. Đây là nguyên nhân gốc rễ của xung
đột, của những đối kháng xã hội.
Có thể tìm thấy cơ sở lý luận rất căn bản và rõ ràng về xung đột xã hội
trong các tác phẩm của C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin… Quan điểm
mácxit về xung đột nằm trong hệ thống các quan điểm về phát triển xã hội nói
chung và thực sự đặt cơ sở lý luận cho các luận điểm về chiến lược, sách lược
về đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, về giải quyết các mâu thuẫn
trong đời sống xã hội.
- Ngoài ra, từ cuối thế kỷ XX trở lại đây, ở phương Tây cũng có những
công trình nghiên cứu về vấn đề mâu thuẫn và xung đột xã hội:
+ Trước nhất xin kể đến công trình Conflict: Resolution and provention
15
(1990) của nhóm tác giả Burton, John, and Dukes, Frank. Trong tác phẩm này
các tác giả đã phân tích khá sâu sắc và đưa ra những phương sách dung giải,
ngăn ngừa sự mâu thuẫn và xung đột xã hội nói chung, trên cơ sở những
nguyên tắc giải quyết, giải tỏa những mâu thuẫn một cách căn cơ, bền vững.
+ Trong tác phẩm Handbook of Conflict Resolution: the Analytical
Problem - Solving Approach (1998), Mitchell, Christopher R. and Banks,
Michael đã tập hợp khá nhiều kinh nghiệm thực tiễn về cách tiếp cận và giải
quyết những mâu thuẫn, xung đột xã hội. Từ những vấn đề mâu thuẫn, xung

đột cụ thể, điển hình trong thực tiễn, các tác giả đã đưa ra những phân tích sâu
sắc và những phương sách giải quyết sát hợp.
+ Tác giả Manes Pierre có công trình: What are some of the causes of
conflict between whites and blacks in the US (2005). Ở đây vấn đề mâu thuẫn,
xung đột sắc tộc được nhìn từ góc độ lịch sử và tâm lý học. Tác giả đã đặc
biệt phân tích sâu nguyên nhân của những mâu thuẫn, xung đột giữa hai sắc
người da trắng và da đen ở Mỹ.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu của các tác giả trên đã phân
tích sâu sắc và lý giải nhiều khía cạnh của vấn đề mâu thuẫn, xung đột xã hội
và trong chừng mực nhất định có chỉ ra mối quan hệ giữa mâu thuẫn xã hội và
xung đột xã hội. Chẳng hạn: (1) về khái niệm xung đột xã hội: xung đột chính là
sự căng thẳng giữa cái đang có và cái cần phải có, tương ứng với sự cảm nhận
của những nhóm và cá nhân nhất định (Lewis Coser); xung đột là những quan
hệ, hành vi biểu hiện các mâu thuẫn, vừa thông qua đó để giải quyết các mâu
thuẫn khác nhau (Georg Simmel). (2) về nguồn gốc, căn nguyên của xung đột
xã hội: xung đột xã hội phát sinh từ tâm trạng căng thẳng giữa các cá nhân
(Lewis Coser); đời sống xã hội dựa trên cơ sở các quyền lợi, do đó thường nảy
sinh sự mâu thuẫn, đối lập vì lợi ích, từ đó dẫn tới xung đột giữa các nhóm (theo
Ralph Gustav Dahrendrof ); xung đột và sự leo thang của bạo lực bắt nguồn từ
bản chất xã hội của con người (Kenneth Boulding); xung đột là “sai lệch bệnh
hoạn”; xung đột xã hội là bệnh hoạn của một xã hội lành mạnh (Talcott
16
Parsons); vị trí của các tập đoàn người trong hệ thống sản xuất xã hội, lợi ích
kinh tế là nguyên nhân gốc rễ của xung đột, của những đối kháng xã hội (các nhà
khoa học mácxit). (3) về vai trò lịch sử của mâu thuẫn, xung đột xã hội: mâu
thuẫn và xung đột cũng làm cho các hệ thống xã hội bị phân hóa và luôn có xu
hướng hướng tới sự thay đổi tiến bộ, có thể đem lại những kết quả có lợi cho xã
hội (Ralph Gustav Dahrendrof). (4) về sự cần thiết phải quản lý, giải tỏa xung
đột xã hội: xung đột bị nén lại không giải tỏa là khối u ác tính nguy hiểm trong
cơ thể xã hội (Ralph Gustav Dahrendrof)…

Tuy nhiên, các công trình này chưa đề cập sâu đến vấn đề mâu thuẫn xã
hội và mâu thuẫn dân tộc nẩy sinh hoặc biến đổi ở một số quốc gia cụ thể
hoặc có những điều kiện đặc thù như Việt Nam.
1.1.2. Một số công trình nghiên cứu mâu thuẫn, xung đột xã hội của
các nhà khoa học trong nước
Nghiên cứu lý luận về mâu thuẫn xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới,
trước tiên có thể kể đến công trình nghiên cứu của PGS.TS. Nguyễn Tấn
Hùng (1995), Mấy suy nghĩ về hai cấp độ của mâu thuẫn: mâu thuẫn bản
chất và mâu thuẫn hiện tượng, Tạp chí Triết học số 3 (9-1995). Ở công trình
này, tác giả đã đề cập đến cơ sở phương pháp luận của việc phân biệt hai cấp
độ của mâu thuẫn biện chứng: mâu thuẫn bản chất và mâu thuẫn hiện tượng;
nhấn mạnh đến ý nghĩa của việc phân tích mâu thuẫn ở hai cấp độ - bản chất
và hiện tượng, đặc biệt lưu ý đến sự khác nhau giữa khái niệm mâu thuẫn với
tính chất là phạm trù triết học với khái niệm thông thường thường về mâu
thuẫn. Theo tác giả, việc phân biệt hai cấp độ của mâu thuẫn biện chứng là cơ
sở vô cùng quan trọng giúp ta nhận thức và giải quyết những mâu thuẫn của
đời sống hiện thực trước yêu cầu đổi mới của đất nước.
+ Nghiên cứu lý luận về xung đột sắc tộc và tôn giáo có quyển sách:
Một số vấn đề về xung đột sắc tộc và tôn giáo ở Đông Nam Á, do Phạm Thị
Vinh (Chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, 2007. Các tác giả của công trình này
đã chỉ ra những bài học lịch sử về cách giải quyết mâu thuẫn, xung đột sắc tộc
17
và tôn giáo bằng con đường hòa bình với giải pháp: muốn xây dựng một xã
hội ổn định và phát triển trước hết các nước phải thực hiện các biện pháp để
phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, thừa nhận
sự đa dạng văn hóa, tôn giáo và tôn trọng bản sắc của mỗi tộc người trong
mỗi quốc gia,
+ Lý luận về xung đột xã hội có công trình nghiên cứu của PGS. TS.
Phan Xuân Sơn (chủ biên), Các chuyên đề bài giảng Chính trị học (dành cho
cao học chuyên Chính trị học), Tập II, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội,

2010. Trong đó có chuyên đề về Xung đột xã hội, quản lý và giải tỏa xung đột
xã hội. Ở chuyên đề này, tác giả đã làm rõ, phân tích sâu sắc, cụ thể nhiều vấn
đề về xung đột xã hội: Thứ nhất, xung đột là trạng thái bất ổn định gây ra bởi
sự đối lập thực tế hoặc do nhận thức về các nhu cầu, giá trị, lợi ích. Theo ông,
xung đột thường định nghĩa là: “Khi hai hay nhiều bên có mục tiêu đối lập do
nhận thức, tìm cách phá hoại khả năng đạt được mục tiêu của nhau”. Xung
đột xã hội là hình thức đấu tranh giữa các lực lượng xã hội đối lập nhau
(những tập hợp cộng đồng người hình thành một cách tự phát như dòng họ,
tộc người, địa phương, giai cấp hoặc được tổ chức một cách có ý thức như các
đảng phái, hội đoàn). Xung đột xã hội kịch liệt hơn tranh chấp, ganh đua,
cạnh tranh hòa bình, có thể kịch liệt đến mức phá hủy mọi quy tắc, pháp luật
như bạo loạn, chiến tranh…Thứ hai, xung đột xã hội bắt nguồn từ những mâu
thuẫn không đối kháng có thể được hạn chế hoặc điều chỉnh trong khuôn khổ
một trật tự xã hội nhất định. Xung đột xã hội bắt nguồn từ những mâu thuẫn
đối kháng đe dọa sự ổn định cơ sở kinh tế của hệ thống xã hội, tất yếu dẫn đến
cách mạng làm thay đổi trật tự xã hội theo hướng tiến bộ. Thứ ba, xung đột xã
hội là một tất yếu khách quan của quá trình vận động và phát triển xã hội. Đó
là một trong những trạng thái thường xuyên của cuộc sống con người, tồn tại
ở mọi cấp độ. Theo ông, nhận thức đúng sự tồn tại và vai trò của mâu thuẫn,
xung đột, có cách ứng xử thích hợp, thì chắc chắn đó cũng là những tác nhân
làm cho xã hội lành mạnh, ổn định, gắn kết và phát triển.
18
Ngoài những quan niệm chung về xung đột xã hội, đánh giá vai trò, phân
tích nguyên nhân và chỉ ra các giai đoạn phát triển của xung đột xã hội, PGS.
TS. Phan Xuân Sơn còn đề ra nhiều phương pháp cảnh báo, quản lý và giải
tỏa xung đột xã hội. Chẳng hạn: đối với loại “xung đột chỉ liên quan đến vấn
đề nội bộ quốc gia (thường gọi là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân) như quản
lý yếu kém, tranh giành quyền lực, đời sống khó khăn, nghèo đói, bất công xã
hội, quan liêu, tham nhũng… thì cần quản lý, giải tỏa, điều tiết để xung đột
không trầm trọng thêm” [79, 510]. Tuy nhiên, ở công trình này, tác giả chưa

đề cấp nhiều đến vấn đề xung đột, mâu thuẫn xã hội trong điều kiện kinh tế -
xã hội của Việt Nam nhất là thời kỳ đổi mới.
+ Đề cập đến vai trò của các chủ thể trong mâu thuẫn giữa người với
người đối với sự phát triển xã hội, có công trình nghiên cứu của PGS, TS.
Nguyễn Ngọc Hà: Mâu thuẫn giữa người với người: Một số nội dung cơ bản,
Tạp chí Triết học, số , 2010. Theo tác giả, mặc dù mâu thuẫn giữa người với
người là hiện tượng bình thường trong xã hội, song đó là một hiện tượng cần
được quan tâm nghiên cứu, bởi nó không chỉ giúp chúng ta xác định đúng
mâu thuẫn, mà còn giúp chúng ta nhận thức đúng nhiều hiện tượng xã hội
khác; lựa chọn đúng đắn phương thức giải quyết mâu thuẫn vì lợi ích con
người và xã hội.
1.1.3. Một số công trình nghiên cứu sự tác động của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đến mâu thuẫn, xung đột xã hội ở Việt Nam hiện nay
+ Đề cập đến thực trạng và nhiệm vụ kinh tế - xã hội của thời kỳ CNH,
HĐH ở Việt Nam hiện nay, PGS, TS Vũ Văn Phúc có bài viết: Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn - nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Tạp chí Lý luận chính
trị, số 10-2011. Từ những những tác động tích cực của quá trình CNH, HĐH
hơn hai mươi lăm năm đổi mới ở nước ta, sự nghiệp xây dựng, phát triển
nông nghiệp, nông thôn nước ta đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào.
Tuy nhiên, bên cạnh những phát triển tiến bộ đó, nông nghiệp, nông thôn
19
nước ta vẫn là khu vực chậm phát triển, đang còn không ít khó khăn như sức
ép về việc làm ở nông thôn vẫn rất lớn, nông nghiệp, nông thôn có nguy cơ
tụt hậu xa hơn so với thành thị… Vì vậy, Theo PGS, TS Vũ Văn Phúc, CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn cần có những tác động tích cực hơn nữa để đưa
nông nghiệp, nông thôn nước ta thoát khỏi tình trạng khó khăn hiện nay mà
cơ bản và lâu dài là: giải quyết các vướng mắc về chính sách và thể chế để tạo
động lực mới thúc đẩy kinh tế, xã hội nông thôn phát triển mạnh mẽ, vững
chắc; cho phép tích tụ ruộng đất lành mạnh, nhưng không làm bần cùng hóa

một bộ phận nông dân; tạo được sự đồng thuận và sức mạnh tổng hợp của cả
hệ thống chính trị…
+ Bài viết Bảy nỗi khổ của người nông dân của Giáo sư, Viện sĩ Đào
Thế Tuấn đăng trên báo Nông thôn ngày nay, tháng 5/2009 đã khái quát một
số khía cạnh của sự tác động của quá trình CNH, HĐH đối với người nông
dân ở nước ta hiện nay: việc giải quyết giảm nghèo chưa gắn liền với việc
phát triển kinh tế nông thôn nên chưa bền vững, vẫn còn có thể tái nghèo;
thương nghiệp giữa nông thôn và đô thị hiện nay nói chung chưa được công
bằng, nông dân bị các doanh nghiệp và tư thương bóc lột và là những người ít
được hưởng lợi của quá trình Đổi mới; giá đầu vào tăng nhanh mà giá đầu ra
lại giảm làm cho nông dân càng chịu thiệt nặng; nhân khẩu nông nghiệp thừa
gây ra tình trạng di cư ra thành thị để tìm thu nhập cao hơn; đền bù cho nông
dân với một giá không đáng kể so với giá sau khi chuyển mục đích sử dụng,
môi trường nông thôn hiện nay đang bị ô nhiễm nặng nề gây nhiều nguy hiểm
cho nông dân và nhiều vấn đề xã hội khác ở nông thông chưa được giải quyết
một cách cơ bản… Nhìn chung, theo Giáo sư, Viện sĩ, quá trình CNH, HĐH ở
nước ta hiện nay còn không ít vấn đề rất cần được quan tâm về nông nghiêp,
nông dân và nông thôn.
+ PGS, TS. Nguyễn Hữu Khiển có bài viết: Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, đô thị hóa và vấn đề an ninh lương thực quốc gia, Tạp chí Tổ chức Nhà
nước, số 10/2008. Từ những khái quát về vấn đề an ninh lương thực ở tầm vĩ
20
mô, tác giả đã đưa ra những cảnh báo nguy cơ thiếu lương thực và nạn đói có
thể “rình rập” ở nhiều nơi vì nhiều lý do, trong đó nguyên nhân hàng đầu là
diện tích đất trồng ngày càng bị thu hẹp vì quá trình CNH, HĐH và đô thị
hóa. Theo tác giả, hiện nay, rất nhiều dự án, khu công nghiêp đều được chọn
đúng vào những khu vực “bờ xôi ruộng mật” của những vùng nông nghiệp trù
phú. Và cũng theo ông, “bất kỳ một lý do nào mà có sự khủng hoảng thiếu
lương thực ở đâu đó sẽ ảnh hưởng ngay đến uy tín, thậm chí là sinh mạng
chính trị của một chính phủ hay một đảng cầm quyền” [54, 16].

Nhìn chung những nghiên cứu của các tác giả trên đã cho thấy bức
tranh khá sinh động về ảnh hưởng, tác động của quá trình CNH, HĐH đến
thực trạng kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay. Trong đó, bên cạnh những
thành quả bước đầu là những tác động không mong muốn, nếu không tích cực
điều chỉnh, khắc phục thì những hệ quả của quá trình này sẽ rất có khả năng
tạo ra nguy cơ: nguồn gốc, nguyên nhân của mâu thuẫn xã hội.
1.2. Một số công trình nghiên cứu thực trạng mâu thuẫn dân tộc ở
Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.2.1. Một số công trình nghiên cứu thực trạng kinh tế - xã hội Việt
Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Xóa đói, giảm nghèo là vấn đề mang tính cấp thiết đã và đang được
Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm; là một trong những giải pháp cơ bản để
giải quyết mâu thuẫn xã hội ở Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH đất nước.
Trong những năm qua, thực trạng nghèo, đói ở nông thôn nước ta được giới
khoa học rất quan tâm và đã có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị lý luận và
thực tiễn cao về thực trạng này. Chẳng hạn:
+ Quyển sách: Vấn đề xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay
của Nguyễn Thị Hằng (Chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
+ Công trình nghiên cứu của GS,TSKH Lê Du Phong (chủ biên): “Thu
nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây dựng các khu
21
công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình công
cộng phục vụ lợi ích quốc gia”, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2007;
+ Công trình nghiên cứu của Nguyễn Văn Hồi: Tiếp tục thực hiện
chính sách xóa đói, giảm nghèo và an sinh xã hội vùng đặc biệt khó khăn,
Tạp chí Cộng sản, số 61 (01/2012);
Nhìn chung, từ các khía cạnh khác nhau, các tác giả trên đã tập trung
nghiên cứu điều tra khá công phu về thực trạng, nguyên nhân của đói, nghèo;
về thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo và an sinh xã hội vùng đặc biệt
khó khăn ở Việt Nam trong bước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN. Trên cơ sở đó, tác giả của các công trình này còn đề xuất một số phương
hướng và giải pháp chủ yếu để xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo đời sống, việc
làm của người dân bị thu hồi đất trong quá trình CNH, HĐH và đô thị hóa ở
nông thôn nước ta hiện nay. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của các tác giả
thuộc đề tài này khá rộng, nội dung nghiên cứu chỉ đề cập nhiều đến những
vấn đề kinh tế - xã hội trong phạm vị cả nước.
1.2.2. Một số công trình nghiên cứu thực trạng mâu thuẫn dân tộc
ở Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Ở Việt Nam, từ sau sự kiện tháng 2 năm 2001 và tháng 4 năm 2004 ở
Tây Nguyên, và đặc biệt là trong thời gian gần đây, vấn đề mâu thuẫn dân tộc
và giải quyết mâu thuẫn dân tộc càng trở nên quan trọng và bức bách đối với
giới khoa học Việt Nam. Đề cập đến thực trạng này, có thể kể đến một vài
công trình mang tính điển hình:
+ Lý luận về xử lý điểm nóng chính trị - xã hội và mâu thuẫn xã hội ở
Việt Nam thời kỳ đổi mới có các công trình của GS,TS Lê Hữu Nghĩa: Tổng
kết thực tiễn về xử lý điểm nóng chính trị - xã hội, Đề tài nghiên cứu khoa học
của Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội. 1998; quyển sách của GS, TS
Hoàng Chí Bảo: Xử lý tình huống chính trị (Dùng cho hệ cử nhân chính trị), Hà
Nội, 2002; bài viết của GS,TS Lưu Văn Sùng: Xử lý điểm nóng chính trị - xã
hội, tạp chí Thông tin Chính trị học, số 3(10) /2001; cuốn sách của TS. Nguyễn
22
Văn Cư: Ổn định chính trị - xã hội trong công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt
Nam, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004; của nhóm tác giả GS,TS Lưu Văn Sùng (chủ
biên): Một số điểm nóng chính trị - xã hội điển hình tại các vùng đa dân tộc
niềm núi trong những năm gần đây, hiện trạng, vấn đề, các bài học kinh
nghiệm trong xử lý tình huống (Sách chuyên khảo), Nxb CTQG, Hà Nội 2010;
của PGS,TS Nguyễn Văn Vĩnh (chủ biên): Góp phần đẩy lùi nguy cơ, bảo đảm
ổn định và phát triển đất nước của, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005.
Các nghiên cứu trên đều cho thấy: (1) mâu thuẫn, xung đột xã hội
thường bộc phát khi môi trường chính trị nẩy sinh nạn quan liêu, tham nhũng

trầm trọng. Lúc đó, mâu thuẫn, xung đột xã hội rất dễ diễn biến thành điểm
nóng xã hội hoặc điểm nóng chính trị - xã hội, tạo nên những bất ổn chính trị
- xã hội; (2) nghiên cứu thận trọng tình hình, xác định rõ các loại nguyên nhân
của mâu thuẫn, xung đột xã hội là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của các cấp
chính quyền trong việc xử lý, “rút ngòi nổ” điểm nóng xã hội hoặc điểm nóng
chính trị - xã hội; (3) giải tỏa mâu thuẫn, xung đột xã hội trên tinh thần trọng
pháp, trọng dân là giải pháp cơ bản để ổn định hoặc tái ổn định chính - xã hội;
(4) rút kinh nghiệm, dự báo tình hình và áp dụng những giải pháp để điểm
nóng xã hội không tái phát, trong đó, chính sách an dân được coi là giải pháp
cốt lõi, mang tính chiến lược, bền vững.
+ Đi sâu nghiên cứu lý luận về mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn
trong giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng XHCN, có
thể kể đến một số công trình nghiên cứu của GS. TS Nguyễn Tấn Hùng:
quyển sách Mâu Thuẫn - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn, Nxb Khoa
học - Xã hội, 2005. (chế bản điện tử, công bố trên mạng internet 9/2013, có
bổ sung những biện pháp giải quyết mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản
và một số mâu thuẫn quan trọng ở nước ta hiện nay); bài viết: Giải quyết mâu
thuẫn nhằm thực hiện tốt việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng
xã hội ở nước ta, được đăng trên Tạp chí Triết học, số 2006. Theo GS, TS
Nguyễn Tấn Hùng, vấn đề phát triển đất nước hiện nay đòi hỏi không chỉ cần
23

×